Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

Đặc trưng Tết Trung Thu cổ truyền Việt Nam và Nhật Bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (513.13 KB, 37 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trung thu từ xưa đã thành đề tài cho các tao nhân mặc khách thả hồn theo
ngọn gió ánh trăng để phóng bút. Nói về tiết trời trung thu thi sĩ Đỗ Phủ đã từng
phác thảo nhẹ nhàng trong bài thơ “Trung thu”: “Thu cảnh kim tiêu bán / Thiên cao
nguyệt bôi minh” ( tạm dịch: Ðêm thu một nửa long lanh / Lưng trời treo ánh trăng
xanh sáng ngời). Có lẽ chính cái không khí thanh tao đến nhẹ nhàng, mong manh
của tiết trời thu; cái buồn vương vấn của cảnh vật trong sương thu mờ; cái sáng
trong, tinh khiết của ánh trăng thu đã khơi nguồn cho mọi cảm hứng.
Từ hiện thực đi vào thơ ca, thu vẫn như một người con gái đẹp mà gợi nỗi
buồn man mác khó phai như thế. Đón thu về, người xưa không chỉ uống rượu, ngắm
trăng mà còn tổ chức các lễ tết đón thu, Trung thu là một ngày tết tiêu biểu như thế.
Trung thu ra đời từ xa xưa ở Trung Quốc theo nghi thức nông nghiệp cổ truyền tế
thần trăng cầu cho mùa màng bội thu.Song khi vào Việt Nam, Tết Trung thu từ ngày
tết trông trăng tế thần đã dần trở thành ngày tết của thiếu nhi.Lớn lên trong không
khí trong lành của nông thôn Việt, có đứa trẻ nào mà không mong mỗi dịp xuân đến
thu về để được đón tết lì xì hay thả diều ngắm trăng. Tết xuân là tết của cả dân tộc,
là khởi điểm cho một bắt đầu mới, còn Trung thu Việt lại nghiêng về các hội chơi
rộn ràng dành cho trẻ em. Từ nhỏ, tôi đã tha thiết mong mỗi dịp thu về để lại được
rước đèn chơi trăng cùng chúng bạn, để được phá cỗ đêm rằm và nghe các câu
chuyện về Hằng Nga, vềchú Cuội trên trăng. Trung thu theo tuổi thơ tôi lớn lên ắp
đầy những kỉ niệm đẹp đẽ. Chính vì vậy, khi có điều kiện tìm hiểu, tôi mong muốn
được hiểu rõ hơn về ngày tết này.

1


Khi đặt vấn đề suy nghĩ một cách nghiêm túc và khoa học về đề tài có liên
quan đến Tết Trung thu, tôi băn khoăn mình nên bắt đầu từ đâu, viết như thế nào.
Một ý tưởng mới đã nảy ra trong đầu tôi khi ngồi trên lớp, nghe giáo viên giảng về
trung thu Nhật Bản. Cuối cùng, tôi quyết định tìm hiểu, nghiên cứu Tết trung thu


trong đối sánh giữa Việt Nam và Nhật Bản.Là một sinh viên chuyên ngành Nhật Bản
học, văn hóa Nhật trong tôi là một phần say mê tìm hiểu và cũng là một phần trách
nhiệm nghiên cứu của sinh viên. Chính vì thế, tìm hiểu về trung thu Việt là một dịp
tốt để tôi có cái nhìn đối sánh về ngày tết cổ truyền này ở Nhật Bản và Việt Nam.
Hiểu về trung thu góp thêm vào kiến thức văn hóa và mở rộng hiểu biết của một
sinh viên về giao lưu tiếp biến văn hóa giữa các dân tộc. Do đó, tôi đã chọn đề tài
nghiên cứu trong báo cáo này là : “Đặc trưng trung thu cổ truyền Việt Nam – Nhật
Bản”.
1. Lịch sử nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu

Trong khuôn khổ thời gian thực hiện vốn rất hạn hẹp của báo cáo, người viết
đã tìm được khá nhiều tài liệu viết về ngày Tết Trung thu. Tuy nhiên, khi xem xét
kỹ, đa phần các tài liệu xuất bản bằng tiếng Việt chỉ giới thiệu về Tết Trung thu
Trung Quốc tiêu biểu như các cuốn sách Lễ tết cổ truyền Trung Quốc (Nguyễn Văn
Căn, NXB Khoa học xã hội 2006), Đại Cương Lịch sử Văn hóa Trung Quốc (Ngô
Vinh Chính, NXB Văn hóa thông tin, 2004) Văn hóa Trung Quốc(NXB Văn hóa
thông tin, 2004).Trong các tài liệu này mặc dù đã giới thiệu được một số thông tin
thông tin về ngày Tết Trung thu của Trung Quốc, nhưng do bản thân các công trình
này không phải là chuyên luận về Tết Trung thu nên lượng thông tin đưa ra còn hết
sức hạn chế, trong một số trường hợp còn tạo ra một số hiểu lầm cho người đọc.
Liên quan đến ngày Tết Trung thu của Việt Nam, có thể kể đến các công trình
nghiên cứu như Nghi lễ thờ cúng truyền thống của người Việt (Hồ Đức Thọ, NXB
Văn hóa thông tin, 2005), Sổ tay văn hóa Việt Nam,(Đặng Đức Siêu, NXB Lao

2


Động,2006),Nếp cũ tín ngưỡng ViệtNam (nhà văn Toan Ánh, NXB TP.Hồ Chí
minh,1997)đã nêu rất chi tiết về Tết Trung thu của người Việt. Tuy nhiên như sẽ
phân tích trong phần nội dung chính, trong các công trình này có một số điểm nhầm

lẫn với tết Trung thu Trung Quốc, thêm nữa chỉ là sự mô tả đơn thuần mà chưa có so
sánh, đối chiếu giữa các nền văn hóa khác nhau. Liên quan đến Tết Trung thu Nhật
Bản, chúng tôi đã tìm thấy một số công trình đề cập đến như Một vòng quanh các
nước (Trần Vĩnh Bảo, NXB Văn hóa thông tin, 2010),Tết trung thu - mid autumn
festival(CB Hữu ngọc - Lady Borton NXB Thế giới, 2003) hay trong một số tạp chí
tin cậy như Tạp chí Nipponia (ににににに- tạp chí viết về Nhật Bản do Nhà xuất bản
Nhật Bản có tên Heibonsha phát hành).Tuy nhiên, bản thân tên gọi của các công
trình nghiên cứu hay các tạp chí nêu trên đã cho thấy đó chỉ đơn giản là các bài viết
mang tính giới thiệu nội dung một cách chung chung dành cho độc giả phổ thông,
lượng thông tin được cung còn rất hạn chế.
Với một lượng tài liệu đa dạng tuy nhiên chưa thuần nhất và chính xác cao,
người viết đã gặp một chút khó khăn khi tổng hợp, chọn lọc và phân tích để có thể
đưa ra thông tin đúng đắn nhất. Bên cạnh đó, khả năng dịch hiểu còn hạn chế nên
ảnh hưởng không nhỏ đến tiến trình hoàn thiện bài viết. Tuy vậy, đây cũng là lượng
thông tin quý giá để người viết tiến hành nghiên cứu đề tài này.
Như tên đề tài đã nêu, bài báo cáo này hướng tới tìm hiểu và khám phá vấn
đề trọng tâm nhất đó là đặc trưng ngày tết trung thu ở Việt Nam và Nhật Bản. Không
chỉ dừng lại ở đó, mục tiêu của người viết là nhằm từ những đặc điểm của trung thu
hai nước mà tìm ra những tương đồng và khác biệt trong quan niệm,nghi lễ, cách
thức tổ chức ngày tết này, từ đó có thể hiểu rõ thêm phần nào về một khía cạnh của
văn hóa Việt Nam, Nhật Bản. Với đối tượng nghiên cứu cụ thể trên, đặt trong giới
hạn của bài báo cáo, người viết không dám kì vọng có thể đi sâu vào mọi ngóc
ngách của vấn đề cũng như việc giải quyết mọi khía cạnh liên quan đến vấn đề đã
3


nêu, nên với đối tượng nghiên cứu như trên, người viết xin dừng lại ở tầm khái quát,
phân tích chung nhất và chỉ ra các đặc điểm nổi bật nhất về tết trung thu ở Việt Nam
và Nhật Bản trong cái nhìn đối sánh.
2. Phương pháp nghiên cứu


Trọng tâm của đề tài là nhằm tìm hiểu, giới thiệu về tết trung thu của Việt
Nam và Nhật Bản trong cái nhìn đối sánh để thấy được những tương đồng và khác
biệt, trên cơ sở đó hiểu rõ thêm về nét đặc trưng văn hóa ở mỗi quốc gia. Do đó,
người viết đã sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp, so sánh để có cái nhìn toàn
diện và đúng đắn về đặc trưng truyền thống văn hóa. Với năng lực còn rất hạn chế ,
trong khả năng của mình, người viết cố gắng làm rõ các vấn đề nêu trên thông qua
việc tham khảo một số tài liệu liên quan bằng tiếng Nhật, tiếng Anh và tiếng Việt.
Người viết đã tham khảo một số trang mạng một số trang mạng tiếng anh về văn
hóa, du lịch như japanese.joins.com, yawaran.net, hay các trang mạng tiếng Nhật
như moonstation.jp,tabitabi-taipei.com, Ni.cii.ac.jp,cùng một số từ điển lớn nhưtừ
điển Nhật Bản quốc ngữ đại tự điển (ににににににに - Shogakukan 2006)... Các bài
viết trên các trang báo,từ điển này đã nêu khá chi tiết về tết trung thu, có so sánh đối
chiếu, và có cả hình ảnh phong phú, tuy nhiên nó chỉ là thông tin mang tính tham
khảo không chính thống. Từ đó, người viết chọn lọc, tổng hợp và phân tích lại một
cách khoa học, hợp lí hơn.

4


CHƯƠNG 1
NGUỒN GỐC CỦA TRUNG THU
VÀ QUÁ TRÌNH DU NHẬP VÀO VIỆT NAM, NHẬT BẢN
1.1.

Nguồn gốc ra đời và tên gọi Tết Trung thu
Trung Quốc được coi là một trong những nền văn minh của nhân loại, nơi

phát dương nhiều tinh hoa của thế giới. Trong suốt chiều dài lịch sử, nhiều nét đẹp
văn hóabắt nguồn từ Trung Quốc đã được truyền bá rộng rãi tới nhiều quốc gia xung

quanh, tiêu biểu là việc ăn mừng các ngày lễ tết trong năm theo Âm lịch. Chữ “ Tết”
mà hiện nay vẫn được sử dụng phổ biến trong tiếng Việt được cho là biến âm của
chữ “ Tiết” trong chữ Hán. “Tiết” âm Hán Việt là đoạn, khúc, đốt,... hàm ý tinh thần,
khí tiết, tiết tháo. Trên dòng thời gian liên tục của một năm theo lịch cổ truyền,
người ta phân lập thành nhiều Tết- “tiết” bao gồm những sinh hoạt, lễ lạt văn hóa
đan xen sinh hoạt đời thường chẳng hạn như “ Đoan Ngọ tiết” là tết Đoan Ngọ
(mồng 5 tháng 5 âm lịch), “ Trung thu tiết” là tết trung thu (15 tháng 8 âm lịch).
[13,18]
Ở Trung Quốc có ba lễ tết - “tiết”được coi là quan trọng nhất là tết Nguyên
đán, tết Đoan Ngọ và tết Trung thu. Cũng xin nói thêm, các lễ tiết ra đời trong nền
văn minh nông nghiệp lúa nước của vùng văn minh Trung Hoa cổ đại, không phải
lãnh thổ Trung Quốc hiện nay. Đó là nền văn minh ở phía Nam sông Dương Tử (tên
gọi khác là Trường Giang) của cư dân Bách Việt ( Nam Trung Quốc và vùng văn
minh châu thổ sông Hồng – Việt Nam). Từ khoảng 3000 năm trước công nguyên, cư
dân Bách Việt đã xây dựng được một nền văn hóa lúa nước (Trung Quốc phía bắc
sông Dương Tử với lãnh thổ rộng lớn mà ta biết đến có nền văn hóa lúa nương – lúa
cạn chứ không phải lúa nước). Tại vùng này, cư dân có chế lịch mười hai con giáp
ứng với nghề nông trồng lúa cùng các nghi lễ nông nghiệp với các tết xoay quanh
5


hai tư tiết trong năm. Ở cùng này, nhà Chu (1122 – 249 TCN) cũng như các nước
chư hầu nước Sở (1030 TCN-223 TCN) ở trung lưu hayBa (?-316 TCN), Thục ( ?316 TCN) ở thượng lưu và Ngô (TK XII – 273 TCN), Việt (?- 334 TCN) ở hạ lưu
sông Trường Giangđều xuất phát từ nền tảng phi Hoa rồi dần dần mới Hoa hóa. Cụ
thể,thời Hán Vũ Đế (140- 87 TCN)bành chướng mạnh mẽ xuống phái nam, chiếm
hết đất Việt, lúa gạo dần trở thành nguồn lương thục chính của Trung Quốc, theo đó,
các lễ tết cũng thịnh hành [26,70]. Cho tới ngày nay, các lễ tết này vẫn phổ biến. Đối
với người Trung Quốc,Tết Trung thu không chỉ quan trọng với dân tộc Hán mà với
các dân tộc thiểu số khác như dân tộc Mãn, Hồi,...cũng rất được chú ý. Nguyên nhân
có nhiều các lý giải khác nhau nhưng có lẽ do tiến hành vào giữa tháng Tám mà

tháng Tám vốn là tháng được cư dân làm nông rất quan tâm. Điều này có thể lý giải
bởi tháng Tám còn được người dân Trung Quốc gọi bằng nhiều tên gọi khác : Quế
Nguyệt, Trọng thương, Trúc xuân, Chính thu, Trọng thu, Tráng nguyệt, Mạnh thu,
Trung thu, Quế thu... và Tết trung thu Trung Quốc cũng còn có các tên gọi là :
Nguyệt tịch, Nguyệt tiết, Thu tiết, Tháng tám tiết, Con gái tiết, Hoa quả tiết, Đoàn
viên tiết...Tết trung thu cho đến nay vẫn là một trong những tết lớn của Trung Quốc,
là dịp đoàn viên, gợi nhớ những kỷ niệm, là dịp để truyền nhau nghe các câu chuyện
cổ tích, để ngắm trăng tròn giữa mùa thu.Người Trung Quốc coi trăng là nữ, tượng
trưng cho tính âm, chịu sự cai quản của Thái Âm thần nữ, vợ của thần Thái Dương –
thần Mặt Trời. Nghiên cứu về nguồn gốc Tết Trung Thu, học giả P.Giran (trong
Magiet Religion, Paris, 1912) cũng có quan điểm, từ xa xưa, ở Á Đông người ta đã
coi Mặt Trăng và Mặt Trời như một cặp vợ chồng. Họ quan niệm Mặt Trăng chỉ sum
họp với Mặt Trời một lần mỗi tháng (vào cuối tuần trăng). Sau đó, từ ánh sáng của
mặt trời, trăng đi ra và dần dần nhận được ánh dương quang - trở thành trăng non,
trăng tròn,rồi lại đi sang một chu kỳ mới, do đó mới có lễ tế trăng tròn.

6


Ở Trung Quốc , Tết Trung Thu được tổ chức vào ngày trăng tròn ngày 15 của
tháng, các gia đình bày bánh và trái cây trên bàn trong sân , vừa ăn vừa ngắm mặt
trăng để cầu tuổi thọ và sự hài hòa của gia đình và một bội thu của cây trồng.
Tết trung thu có nguồn gốc ban đầu từ tết ngắm trăng từ thời Tam Đại ( thời
kì nhà Hạ - Thương – Chu khoảng 2205 TCN đến 249 TCN), các bậc đế vương bấy
giờ có tục ngày xuân tế trời, ngày thu tế trăng. Tục tế trăng gọi là “ Thu mộ tịch
nguyệt” nghĩa là tục ngắm trăng và tế lễ cúng thần trăng vào tối Trung Thu. Từ
“Trung thu” có lẽ ra đời từ thời Chu, được ghi lại trong Chu lễ (周礼)[26,69].Mùa
thu có 3 tháng, mỗi tháng có tên gọi lần lượt là Mạnh Thu (にに), Trọng Thu (にに),
Quí Thu (にに). Tháng tám là tháng trọng thu mà ngày 15 lại là giữa tháng Tám nên
tết này được gọi là Trung Thu ( に に )[1,1464]. Mùa thu là thời gian sau hạ trước

đông, thời tiết không còn nóng nhưng cũng chưa lạnh, trời cao trong xanh, trăng rất
tròn, rất sáng, rất đẹp. Có lẽ vì thế thời Chu mỗi khi đến Trung Thu đều tiến hành lễ
“ nghênh hàn” ( đón mùa đông về, “hàn” ở đây có nghĩa là lạnh ) và “tế trăng” ( còn
gọi là “ tịch nguyệt”, nghĩa là bái lạy thần Mặt trăng). Tịch nguyệt được quy định
vào 15 tháng 8 nhưng trước đây cũng có những thời người ta tiến hành trước hoặc
sau tiết Lập thu (ngày 7 hoặc 8 Dương lịch) một ngày. Các triều đại từ thời Tam Đại
cho đến nhà Tần (221 – 206 TCN) vẫn chỉ là “ nghênh Hàn tế trăng” nhưng đến Hán
thì bắt đầu hình thành tết trung thu.
Sang thời Tấn (265 – 420) thì xuất hiện thêm tập tục lập Thu thưởng trăng và
tục này nhanh chóng thịnh hành vào thời Đường (618- 907). Theo truyền thuyết, sau
khi dẹp xong An Lộc Sơn(ににに亂 – An Sử chi loạn 755- 763), Đường Minh Hoàng
nhớ thương Dương Quý phi không nguôi. Đêm rằm tháng tám, gió mát, trăng tròn
thật đẹp, một vị tiên xuất hiện tình nguyện đưa vua đi gặp quý phi. Vị tiên hóa phép
tạo một chiếc cầu vồng, một đầu giáp cung trăng, một đầu chấm mặt đất, nhà vua

7


trèo lên cầu vồng đi lên cung Quảng, nhìn thấy quý phi xưa trong đoàn vũ. Trở về
trần thế, vua luyến tiếc cảnh cung trăng đầy thơ mộng, đặt ra tết Trung thu. Trong
ngày tết này, lúc đầu chỉ uống rượu thưởng trăng nên còn gọi là “Tết ngắm
trăng”.Đây chỉ là một câu chuyện giả tưởng không có thật, được dân gian truyền lại.
Tuy nhiên, qua đó, có thể thấy rằng từ thời Đường, vua quan đã ngắm trăng và coi
trăng là chốn tiên cảnh, là đề tài cho thơ phú, chính Lý Bạch – nhà thơ nổi tiếng
Trung Quốc sống vào thời Đường 701 – 762) trong một đêm trăng thanh, khi đối
đạp với Đường Minh Hoàng – Đường Thái Tông đã viết ra những vẫn thơ : “Ví
chăng non Ngọc không nhìn thấy/ Dưới nguyệt đài Dao thử ngóng trông” ( Ngô Tất
Tố dịch). Trong Đường Thư Thái Tông Ký に书·太宗书 cũng nói "Ngày 15 tháng tám
là Tiết Trung Thu”. Đến thờiTống (960 – 1279) bắt đầu có qui định chính thức về tết
Trung thu.Trong cuốn Lịch sử phong tục xã hội Trung Quốc(ににににににに), tác giả

Tần Vĩnh Châu (ににに) đã viết trung thu thời Tống được xem là một ngày nghỉ lễ
giống với Lập Thu (にに), Thất tịch (にに), Thu phân(にに). Sang thời Minh (1368 –
1644), Thanh (1644- 1912) thì trung thu trở nên phổ biến và thịnh hành hơn cả.
Tết trung thu Trung Quốc còn có một tên gọi khác là “ Tết đoàn viên”. Trong
sáchĐế kinh cảnh vật lược( に に に に に ) của Lưu Minh Đồng và Vu Dực Chính có
ghi:Ngày15 tháng 8 là ngày phụ nữ qui ninh (quay về nhà cha mẹ), lễ vật mang biếu
tặng là hoa quả, bánh trung thu. Bánh trung thu có đường kính khoảng 60 cm.
Nhưng ngay trong ngày lại phải trở về nhà ăn cơm đoàn viên( đoàn là quấn quít,
viên là hình tròn), vì vậy mà tết này có tên là tết đòan viên (ににににに) [7,21].
Như vậy, Tết Trung Thu bắt nguồn từ lễ tế trăng ban đầu của vua , quan lại,
quý tộc. Tết Trung thu ra đời ở Trung Quốc từ khoảng đầu nhà Chu ( 1027 TCN –
221 TCN) và chính thức định hình vào thời Tống (907 – 1279), là tết tế mặt trăng,
8


thưởng trăng đẹp nhất trong năm. Đến thời Minh, Thanh, không chỉ các danh gia
vọng tộc mà tổ chức trung thu đã trở nên rất phổ biến trong dân chúng.
1.2. Các truyền thuyết liên quan đến Tết Trung thu ở Trung Quốc
Trung thu gắn với các câu chuyện cổ được lưu truyền trong dân gian.Ở Trung
Quốc có những truyền thuyết liên quan đến mặt trăng rất thú vị. Có người nói mặt
trăng là cung điện của Hằng Nga, vì Hằng nga rất đẹp nên gọi mặt trăng là cung điện
của “ Thiền Quyên”. Có truyền thuyết nói rằng Hằng Nga trên cung trăng rất thích
nuôi thỏ ngọc nên thi nhân xưa thường gọi mặt trăng là ngọc thố. Có truyền thuyết
lại kểtrên mặt trăng có một cây quế nên các thi nhân lại gọi mặt trăng là “ Quế cung
“ hay “Quế phách”.Các truyền thuyết này phản ánh sự yêu thích mặt trăng và đêm
trung thu của người dân Trung Quốc.Trong đó câu chuyện về Hằng Nga là phổ biến
hơn cả và cũng có nhiều dị bản được truyền lại .
Trong khuôn khổ bài viết,người viết xin nêu tóm tắt một truyền thuyết về
Hằng Nga được nhiều người biết đến nhất, và phổ biến hơn cả. Truyền thuyết kể
rằng, xưa có một người anh hùng tên là Hậu Nghệ đã trèo lên núi Côn Lôn bắn rơi

chín mặt trời chỉ để lại một mặt trời duy nhất chiếu sáng. Hậu Nghệ lấy một người
vợ xinh đẹp, tốt bụng, tên là Hằng Nga. Một lần, Hậu Nghệ đến núi Côn Lôn thăm
bạn, trên đường tình cờ gặp được Vương mẫu nương nương đi ngang qua, bèn xin
Vương mẫu thuốc trường sinh bất tử khi uống vào sẽ bay lên trời thành tiên,chàng
đưa thuốc bất tử cho Hằng Nga cất giữ. Một học trò của Hậu Nghệ là Bồng Mông
nhân lúc Hậu Nghệ không có nhà đã ép Hằng Nga đưa thuốc, Hằng Nga bèn lấy
thuốc bất tử ra và uống hết. Hằng Nga uống thuốc xong, thấy người bỗng nhẹ rời
khỏi mặt đất, hướng về cửa sổ và bay lên trời. Nhưng do Hằng Nga còn nhớ chồng,
nên chỉ bay đến mặt trăng là nơi gần với nhân gian nhất rồi trở thành tiên. Khi Hậu
Nghệ về đã không còn thấy vợ, trong lúc đau khổ, Hậu Nghệ đã ngửa cổ lên trời
đêm gọi tên vợ hiền. Khi đó, Hậu Nghệ phát hiện ra, trăng hôm nay đặc biệt sáng

9


ngời, mà còn có thêm một bóng người cử động trông giống Hằng Nga. Hậu Nghệ
vội sai người đến hậu hoa viên nơi Hằng Nga yêu thích, lập bàn hương án, đặt lên
đó những món ăn và trái cây mà bình thường Hằng Nga thích ăn nhất, để tế Hằng
Nga nơi cung trăng đang nhớ đến mình. Sau khi mọi người nghe tin Hằng Nga lên
cung trăng thành tiên nữ, đều đã lần lượt bày hương án dưới ánh trăng, cầu xin Hằng
Nga tốt bụng ban cho may mắn và bình an. Từ đó, phong tục “bái nguyệt” vào tết
trung thu được truyền đi trong dân gian.[21, 421]
1.3. Các phong tục, trò chơi trong đêm Trung thu Trung Quốc
H 1.1: Các
Hằngphong
Nga – Hậu
1.3.1
tục Nghệ
Trung thu cổ truyền Trung Quốc


Bắt nguồn từ lễ tế trăng xưa, Trung thu bao giờ cũng bắt đầu bằng lễ tế trăng.
Lễ tế bày bánh trung thu và nhiều loại hoa quả khác để cảm tạ thiên nhiên đã cho
mùa màng bội thu cũng như cầu bình an, may mắn trong năm.Tối đến, khi trăng lên
là lúc mọi người cùng xum vầy ngắm trăng, ăn bánh , uống trà.
Thời gian này, các quán rượu(tửu điếm) đều
bán rượu mới. Các nhà quyền quí thì chuẩn bị trang trí
nhà, lầu để thưởng trăng.Các nhà dân thường có thể
đến tửu lầu chơi trăng. Trong đêm trung thu trăng tròn,
người ta bày các loại hoa quả, bánh trái để tế trăng và
thường các đồ này đều là đồ lạnh. Khi đó người ta
mua các loại giấy ánh trăng ( に に に ) được bán ở các
quán giấy, để viết lên đó các điều ước tốt lành gửi tới vị Bồ tát trên trăng ( Thái Âm
thần nữ hay còn gọi làThái âm bồ tát trong quan niệm của người Trung Quốc), loại
giấy nhỏ dài khoảng 10cm còn loại lớn lên đến 3m, sau khi cúng bái sẽ được đốt
cháy để mong cầu điều ước thành hiện thực [6, 5]. Trong mâm cỗ tế trăng Trung
Quốc có bày đồ cúng như bánh trung thu, dưa hấu, trái táo, táo đỏ, quả mận, nho, ...
trong đó bánh Trung Thu và dưa hấu là vật phẩm tuyệt đối không thể thiếu. Quả dưa

10


phải cắt thành hình hoa sen, để hình Nguyệt Thần theo hướng ánh trăng, đốt nến đỏ,
sau đó, người trong gia đình lần lượt lạy trăng.
Tiệc thưởng trăng có múa, hát, sênh, ca vang lừng và vui chơi có thể kéo dài
đến sáng”. Thời Bắc Tống, vào đêm rằm Tháng Tám, bất kể mọi người lớn nhỏ, giàu
nghèo trong thành, đều ăn mặc đẹp, đốt nhang cúng trăng nói lên tâm nguyện, cầu
mong Nguyệt Thần phù hộ. Thời thắp hương, đốt nến. Trong tiệc rượu có khi có
thêm các trò chơi đố vui, thổi sáo trúc, múa hát...Từ thời Minh Thanh có thêm tục “
thưởng Trung thu” ở nhiều nơi còn hình thành các tục đốt dầu hương, đi thưởng
trăng sáng, phóng liên đăng, làm câu Trung thu, điểm tháp đăng, múa hỏa long, kéo

đá, quay bánh xe thu.Việc thắp đèn chơi trung thu này kéo dại cho tới tận khi trời
sáng.
1.3.2. Trò chơi truyền thống trong tết Trung thu Trung Quốc

11


Trong Tết Trung thu để cầu may mắn phúc lộc, thì với người Trung Quốc không thể
thiếu tượng “ông Thỏ”( còn gọi là “thỏ nhi gia- ににに”). Thỏ này được nghệ nhân
nặn từ

đất hoàng thổ, được mặc áo quan, cầm ô và cờ,ngồi trên một con

hổ[6,12].Nguồn gốc của Thỏ Nhi gia có khoảng vào cuối đời nhà Minh. Hoa Vương
Các Thừa Cảo ( に に 书 剩 稿 ) của Kỷ Khôn ( 书 坤 ) người đời Minh (khoảng năm
1636) có ghi chép: Lễ hội Trung Thu tại Bắc Kinh phần nhiều lấy bùn tô quanh hình
H1.2: Thỏ Nhi Gia

chú Thỏ, cho mặc quần áo ngồi xổm giống như người, con trai và con gái cúng tế
bái lạy", cho nên không gọi là con Thỏ mà phải cung kính gọi là cụ Thỏ. Đến đời
Thanh, chức năng của chú Thỏ từ tế nguyệt chuyển biến về sau trở thành công cụ
vui chơi của trẻ em trong lễ hội Trung Thu. Họ còn nặn cả hình con cóc( に ), việc
nặn hình con cóc này bắt nguồn từ truyền thuyết cho rằng Hằng Nga lên cung trăng
đã biến thành thiềm thừ - một giống cóc, đầu có sừng bằng thịt, bụng có vệ chữ bát
màu đỏ do Hằng Nga được Thái Âm thần nữ biến thành con thiềm thừ, đem giấu ở
một nơi kín đáo trong cung Quảng Hàn.[21,421]
Về các trò chơi đêm trung thu thì không thể không kể
tới múa lân hoặc múa sư tử.Về trò chơi này, truyền thuyết kể
lại rằng vào đêm trăng tròn, có một con sư tử xông vào bản
phá phách, chàng tiều phu gần đó thấy vậy liền đốn một cành

cây làm gậy, sau nhiều lần nỗ lực, đã hạ thủ sư tử. Dân làng
kính phục sức mạnh của chàng trai và xin chàng biểu diễn tại
cuộc đọ sức với chúa Sơn lâm. Từ đó thành lệ, cứ đến ngày rằm tháng tám hàng
năm, dân bản lại tổ chức múa sư tử. Một câu chuyện khác lại kể, đời nhà Đường, có
1 bà lão tuổi đã cao nhưng không có họ hàng con cái chỉ làm nghề may vá quần áo
đem ra chợ bán để nuôi thân. Một hôm vào rằm tháng Tám, khi đến đi nhận quần áo
về may,thấy dân làng thắp đèn hoa, bà cũng đi mua đồ về lễ tết nhưng trên đường về

12


bà gặp phải sư tử, bà xin nó cho bà về thưởng trăngsau đó sẽ nộp mạng cho nó.
Trong lúc sư tử sắp quay lại, quỷ thần sai còn rết tới trước mặt bà, con rết cắn chết ,
bà nói với bà con,sự việc đến tai vua vua ban thưởng cho bà, từ đó tổ chức múa sư
tử.[13, 26].Các câu chuyện khác nhau được truyền tụng theo người viết cho rằng là
dị bản ở các vùng khác nhau, đều chứng tỏ niềm yêu thích trò chơi này của dân xưa.
Tục múa lân gồm có đám riêng của người lớn , đám riêng của trẻ em. Người
lớn thường chỉ họp đoàn múa lân vào hai đêm 14 và rằm, trong các ngày này các tư
gia thường có treo giải để con lân lấy. Giải thưởng bằng tiền treo trên cao, đám
múa lân phải bắc thang lên mới lấy được. Các trẻ em múa lân sớm hơn, các trẻ em tổ
chức múa lân để cùng nhau mua vui, không có mục đích lấy giải tuy nhiên nếu có ai
yêu mến các em, gọi các em lại treo giải các em cũng xin lĩnh.Có trống đánh, có
thanh la, có não bạt, có đèn sặc sỡ, có cờ ngũ sắc. Có những người cầm côn đi hộ vệ
đầu lần lại có những ng vác chiếc thang đi theo để khi cần lĩnh giải thì người múa
lân sử dụng. Đám múa lân đi trước người lớn và trẻ em đi theo sau. Hội múa lân làm
cho đêm trung thu trở nên rộn rã. Múa sư tử thì khác múa lân ở điểm người múa núp
kín thân mình trong bụng sư và sư tử thì không có sừng. Một tiết mục múa sư của
người Hoa gồm 4 người : 2 người múa, 1 người đánh trống, 1 người cầm quả cầu.
Trống trong múa Sư được đánh theo nhịp khác với múa Lân, người ta gọi nhịp trống
trong múa Sư là nhịp trống Bắc Kinh.

1.4 Các món ăn trong Tết Trung thu Trung Quốc
Từ thời Nam Tống,trong các gia đình quý Trung Quốc chuẩn bị thưởng trăng
không chỉ là hoa quả mà các gia đình quý tộc, quan lại còn giết lợn, thui dê, chuẩn bị
tiệc rượu đoàn viên.
Đến thời Minh, bánh Trung thu chính thức ra đời.“Từ “Bánh trung thu” có
niên đại sớm nhất trong tác phẩmMộng lương lục ( に に に ) của Ngô Tự Mục thời
Nam Tống (1127- 1279). Trong bài này ông cũng chỉ miêu tả một thực phẩm có hình

13


dáng giống hoa củ ấu ( ににに)được gọi là bánh trung thu. Một tác giả khác là Chu
Mật Trước (ににに) thời Nam Tống trong cuốn Võ Lâm cựu sự (にににに) cũng nhắc
đến từ bánh trung thu(にに). Bánh Trung Thu thời Tống được dùng trong cung đình
hay các phủ quan lại còn được gọi là Cung bính (にに), trong dân thường gọi là Tiểu
bính (にに) hay Nguyệt đoàn (にに). Đến đời Minh trong tác phẩm Tây Hồdu lãm
ký(西湖遊礼記), danh nhân Điền Nhữ Thành (ににに ? - 1526)mới thấy ghi : Bát
nguyệt thập ngũ nhật vị chi trung thu dân gian dĩ nguyệt bính tương di, thủ đoàn
viên chi ý”. (tức:ngày 15 tháng Tám gọi là Trung Thu, dân gian còn truyền lại ăn
bánh trung thu với ý nghĩa đoàn viên)[17,360]. Lưu Đồng, Vu Dịch Chính trong tác
phẩm Đế kinh cảnh vậtlượccũng viết : “Ngày 15 tháng tám tế trăng, bánh để cúng
nhất thiết phải là hình tròn”. Như vậy, sớm nhất bánh trung thu cũng phải đời Tống
mới có và đến thời Minh trở nên phổ biến.Nguồn gốc bánh trung thu tương truyền,
xưa, tại một thành nọ có một người làm chức quan nhỏ tên là Cao Bưu Trương ngầm
liên kết nhân dân đứng lên chống lại bọn quý tộc thống trị. Bằng một kế hoạch khéo
léo, quân khởi nghĩa đã nhét những mẩu giấy có ghi ngày khởi nghĩa là ngày 15
tháng 8 (Âm lịch) vào trong nhân chiếc bánh để ăn trong ngày rằm mượn cớ tặng
bánh để phân phát cho người dân. Đêm trung thu năm đó, quân khởi nghĩa đã tiêu
diệt được quân Nguyên và giành chính quyền. Và sau đó là việc thành lập triều đại
nhà Minh(1368 – 1644), dưới sự thống lĩnh của hoàng đế Chu Nguyên Chương. Kể

từ đó, bánh Trung Thu không chỉ có giá trị ở khía cạnh văn hóa mà nó còn chứa

đựng trong nó lòng tự hào dân tộc của người Trung Quốc.
Cách thức làm bánh trung thu cũng khôngquá phức tạpbánh trung thu truyền
thống thường gồm có một lớp vỏ mỏng (bề dày không quá 1 cm), làm bằng bột mì,
ít hương vị, bao bọc khối nhân rất ngọt và hơi có dầu. Trong Nhật Bản Quốc ngữ

14


đại tự điển (ににににににに) cũng nói về bánh trung thu
như sau. “ Bánh Trung thu là một loại bánh ngọt của
Trung Quốc, bánh hình tròn bọc một lớp vỏ mỏng
được nướng bằng dầu vừngcó vỏ mỏng bằng bột mì
bọc nhân đậu đỏ, đặc biệt được ăn trong dịp trung thu”
[1,1368]. Ngoài ra nhân bánh có thể là lòng đỏ trứng,
nhân sen, trứng muối tượng trưng cho trăng rằm. Bánh
trung thu được đem nướng sau khi đã định hình bằng
khuôn. Trên mặt bánh trung thu có đóng đấu những chữ mang thông điệp tốt lành
H1.3: Bánh Trung thu
Trung Quốc

như “Trung thu tốt lành” (にににに – trung thu khoái lạc ). Ngoài ra, họ còn đóng dấu
vào đó một Mặt Trăng, hình vẽ Hằng Nga hay Thỏ ngọc, hay hoa lá để trang trí.
Ngoài bánh trung thu, người Trung Quốc còn gọt dưa hấu thành hình đài
sen,bởi người Trung Quốc quan niệm rằng có một vị Bồ Tát sống trên cung trăng
nên gọt dưa hình đài sen để thờ cúng mặt trăng. Cũng trong những ngày này, các gia
đình mang rượu đã ủ trong nhà ra bán. Rượu mới này là cầu những điều mới mẻ, tốt
lành sẽ đến.[6,15]
1.5. Quá trình du nhập của Tết Trung thu vào Việt Nam, Nhật Bản

1.5.1 Quá trình du nhập Tết Trung thu vào Việt Nam
Theo Lê Tắc trong An Nam chí lược viết vào đầu thế kỉ XIV có nhắc đến
Trung Thu : “ Trung thu và Trùng cửu là những ngày mà các nhà quý tộc uống rượu
ngâm thơ, đạo xem phong cảnh”. [17,16]. Có tác giả cho rằng Trung thu được nhắc
đến trong văn bia chùa Đọi – bia Sùng Thiện Diên Linh( chùa Long Đọi - Hà
Nam,niên đại năm 1121 do Thương thư bộ hình Nguyễn Công Bật soạn), từ đời nhà
Lý, Tết Trung Thu đã được chính thức tổ chức ở kinh thành Thăng Long với các hội
đua thuyền, múa rối nước và rước đèn. Tuy nhiên, qua nghiên cứu tài liệu, người
viết xin đính chính nội dung được khắc trên văn bia là hộiđèn Quảng Chiếu - một lễ

15


hội cung đình có từ thời Lý và tiếp tục kéo dài tới thời Trần; được tổ chức ở Long
Trì - Hoàng Thành Thăng Long vào dịp mùa xuân hàng năm có ý nghĩa đặc biệt lớn
là cầu trường thọ, cầu quốc thái dân an. Trong lễ hội này có rước đèn Quảng chiếu –
gần giống với đèn cù, có kích thước lớn, dùng lực quay đèn là quay tay, có lẽ vì vậy
mà khi nhìn qua dễ hiểu nhầm là rước đèn tết trung thu [18,16]. Vậy, nếu theo An
Nam chí lược, ta có thể biết được từ thời Lý (1009 – 1225) đã có tổ chức Trung thu,
song nó nghiêng về tết ngắm trăng nhiều hơn và chỉ phổ biết trong tầng lớp vua
quan, quý tộc.Nói về việc tổ chức Trung thu của vua quan, thời Lê - Trịnh (1633 –
1789),Tết Trung Thu đã được tổ chức cực kỳ xa hoa trong phủ Chúa. Trong
cuốnTang thương ngẫu lục (chữ Hán: にににに,tạm dịch:ghi chép tình cờ trong cuộc
bể dâu - tập ký bằng chữ Hán do hai người bạn thân là Phạm Đình Hổ và Nguyễn
Án cùng hợp soạn vào khoảng Lê Mạt-Nguyễn sơ, tức khoảng cuối thế kỷXVIII đến
đầu thế kỷXIX tại Việt Nam) có ghi lại: “Mỗi năm, trước tết trung thu độ vài tháng.
Chúa truyền lấy gấm ở trong kho ra, giao cho các cung nữ làm lồng đèn, hang trăm
nghìn chiếc rất tinh xảo, mỗi chiếc có thể đáng giá vài chục lạng bạc. Đúng hôm
rằm, Chúa ngự ra chơi Bắc cung. Cung này có cái ao gọi là Long-Trì rộng độ nửa
dặm, trồng nhiều hoa sen hoa súng… Bên bờ ao đắp đất, chồng đá làm núi, chỗ cao

chỗ thấp, đèn đặt mặt trước mặt sau trông đường nào cũng có thế đẹp. Bên phải để
riêng một chỗ ngồi dành cho các việc đàn hát. Trên bờ ao có trồng mấy trăm gốc
Phù dung, treo đèn ở trên, ánh sáng soi xuống nước lấp lánh như muôn vàn ngôi sao.
Các quan Nội Thị từ tam phẩm trở lên, chít khăn, mặc áo đàn bà ngồi bán hàng ở
bên lề đường, đủ thứ hàng hóa Nam-Bắc cho đến cả hoa, quả, rượu chè cùng các
món thực phẩm không thiếu thứ gì chồng chất cao như núi. Các cung nữ đi lại mua
bán, tha hồ tự do, vừa mua vừa tranh cướp bất cứ giá cả bao nhiêu. Lại bắt chước
những tiếng thường dùng ở nơi chợ búa thôn quê, để thách thức trêu cợt nhau, tiếng
nô đùa vang suốt cả ngày. Đến nửa đêm, Chúa ngự kiệu xuống thuyền rồng, các
quan hầu và các phi tần đều gõ ván thuyền, hát khúc đò đưa, thuyền chợt bơi qua bơi
16


lại, trôi theo làn sóng, bỗng nhiên tiếng đàn, tiếng sáo, lời ca bỗng hòa nhau thanh
âm lanh lảnh tựa như khúc nhạc trời trên cung Quảng. Chúa ngắm cảnh, long vui vẻ,
mãi khi có tiếng gà gáy mới trở về cung".
Như vậy, trung thu du nhập vào Việt Nam khoảng vào thời thời nhà Lý, như
một tục ngắm trăng, ngâm thơ xa hoa, tiêu giao và mãi sau này mới phổ biến trong
nhân dân.
1.5.2. Quá trình du nhập Tết Trung thu vào Nhật Bản
Trung thu Trung Quốc được du nhập vào Nhật Bản từ thời Heian. Trong Nhật
Bản Quốc ngữ đại tự điển cũng có định nghĩa về trung thu. Trong đó có nói: Trong
tác phẩm có tên Kankebunsho ( に に に に ) của Sugawara no Michizanenăm 900 đã
nhắc đến ngày lễ vào tháng 9 người ta ăn các đồ ăn lạnh, cắm hoa cúc trắng, đi
thưởng nguyệt, tránh các việc không tốt trong gia đình. Như vậy, có thể nói rằng,
Trung thu du nhập vào Nhật Bản khoảng trong thời kì Heian ( 794 – 1185).
Trung thu được biết đến như một lễ hội truyền thống của Nhật Bản nơi người
ta ăn mừng mùa gặt. Tục lệ này ban đầu được tổ chức bởi những quý tộc thời Heian,
họ tập trung lại và tổ chức ngâm thơ dưới ánh trăng rằm vào Tháng tám Âm lịch,
được biết đến như "Trăng giữa Thu".Từ cổ xưa, người Nhật miêu tả tháng tám Âm

lịch (khoảng giữa tháng 9 theo lịch dương) là thời khắc tuyệt vời nhất để ngắm
trăng, bởi vị trí của Trái đất, Mặt Trời và Mặt trăng khiến cho trăng vô cùng sáng.
Từ năm 862 cho đến năm 1683, lịch Nhật Bản đã được chỉnh sửa sao cho trăng rằm
rơi vào ngày 13 của mỗi tháng. Tuy nhiên ,vào năm 1684, lịch đã được thay đổi sao
cho trăng non rơi vào ngày thứ nhất của mỗi tháng, di chuyển trăng rằm hai ngày
sau, đến ngày 15 của tháng. Trong khi số người ở Edo (ngày nay là Tokyo) chuyển
lịch đón Tết Trung thu của họ đến ngày thứ 15 của tháng, những người khác tiếp tục
thực hiện lễ hội vào ngày 13. Hơn nữa, có một số vùng ở Nhật Bản cùng kỷ niệm
vào ngày 17 của tháng, cũng như kỷ niệm Phật giáo ngày 23 hoặc ngày 26, tất cả

17


đều được sử dụng như cái cớ cho các bữa tiệc suốt đêm trong mùa thu trong thời
Edo. Trung thu Nhật Bản ban đầu cũng là ngày dành cho các gia đình quý tộc. Các
thành viên thuộc dòng dõi quý tộc sẽ tổ chức sự kiện ngắm trăng trên thuyền để có
thể xem hình ảnh phản chiếu của mặt trăng trên mặt nước.
Như vậy, Trung thu ra đời đầu tiên ở Trung Quốc, theo quá trình giao lưu văn
hóa được truyền vào Việt Nam và Nhật Bản. Trung thu ban đầu là ngày lễ của các
danh gia vọng tộc, là nơi để các tao nhân mặc khách uống trà thưởng trăng, đàm đạo
thơ văn. Khi du nhập vào Việt Nam, Nhật Bản, đặc điểm này vẫn được giữ nguyên,
cho tới mãi sau này mới trở nên phổ biến trong dân gian và trở thành ngày lễ tết của
quốc gia.
Tiểu kết:
Trung thu là một ngày lễ lớn có nguồn gốc lâu đời ở Trung Quốc được tổ
chức theo nông lịch vào ngày 15 tháng 8 để cầu mùa màng tươi tốt. Trung thu Trung
Quốc bắt nguồn từ lễ tế trăng hàng năm, được định hình từ thời nhà Đường, đến thời
Minh – Thanh thịnh hành hơn cả trong dân gian. Trung thu Trung Quốc là ngày hội
của đèn lồng, múa lân, của bánh trung thu đoàn viên. Trong quá trình lịch sử, ngày
lễ này đã du nhập không chỉ vào Việt Nam, Nhật Bản mà hầu khắp các quốc gia nằm

ở vùng biên của văn hóa Trung Hoa có nền văn minh lúa nước như Triều Tiên, Hàn
Quốc đến cả Singapore, Lào, Thái Lan, Campuchia,... đều phổ biến ngày lễ trung
thu, nhưng tại mỗi quốc gia lại có những phong tục, tập quán, những món ăn và trò
chơi mang đặc trưng riêng.Tại Việt Nam, Nhật Bản, khi mới du nhập vào, trung thu
cũng là ngày lễ thưởng trăng uống rượu của vua quan quý tộc, theo thời gian, ở mỗi
quốc gia, trung thu được tổ chức với các quan niệm, phong tục phù hợp với tự nhiên,
tập quán sinh sốngvà ý nghĩa trung thu đã không còn chỉ trong tầng lớp thượng lưu.
Trung thu nơi đâu cũng mang nét văn hóa dân tộc với phong tục riêng và Việt Nam,
Nhật Bản là hai điển hình.

18


CHƯƠNG 2:

SO SÁNH SƠ BỘ VỀ LỄ TRUNG THU Ở VIỆT NAM VÀ NHẬT BẢN
2.1 Quan niệm vềTết Trung Thu ở Việt Nam và Nhật Bản
Tết trung thu vốn là một nghi lễ của nông nghiệp , là ngày lễ cảm tạ trời đất
đã cho một mùa màng tốt tươi. Ở Trung Quốc, Trung thu được coi là Đòan viên
tết.Vào dịp này, dù ở bất cứ nơi đâu, người Trung Quốc cũng trở về tề tựu dưới mái
ấm gia đình và tưởng nhớ miền quê cha đất tổ. Những người phải lưu lạc xa nhà,
vào dịp tết trung thu, đau đáu ngóng trông thư nhà. Đặc biệt những người phụ nữ lấy
chồng nhân dịp này cũng làm bánh trở về nhà cha mẹ đẻ để tỏ lòng hiếu thảo. Trung
thu là ngày tết theo nông lịch được truyền bá từ trung tâm văn hóa Trung Hoa vào
các vùng văn hóa biên như Hàn Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, tuy nhiên ở mỗi nền văn
hóa lại có những tiếp biến khác nhau. Ở Nhật, mỗi năm hai hội thưởng trăng (theo
Âm lịch) tạ ơn trời đất cho một vụ mùa tốt, đồng thời cũng cúng viếng phần mộ của
những người đã khuất. Hội đầu là Zyugoya ( にに に), gắn với phong tục cổ truyền
“Otsuki-mi”(ににに - có nghĩa là ngắm trăng vào ngày rằm giữa mùa thu)vào đúng
rằm tháng Tám Âm lịch, kế đến là hội Zuysanya(ににに) nhằm ngày 13 tháng 9 âm

lịch. Trong khuôn khổ bài viết, người viết xin tập trung nói về ngày lễ trung thu của
Nhật – Otsukimi ( hay còn gọi là Zuygoya).
Khi du nhập vào Việt Nam, ban đầu, Trung thu là ngày lễ ngắm trăng của các
gia đình quý tộc giàu có sau trở thành ngày tết của mọi người cảm tạ tự nhiên song
dần dần ngày lễ này đã trở thành ngày tết của thiếu nhi. Người Việt có cúng gia tiên
và coi đó là một cách thức tưởng nhớ thần linh tổ tiên tuy nhiên trung thu là ngày tết

19


đặc biệt, yếu tố lễ không còn quá đề cao mà chủ yếu là “ tết” và trung tâm của tết
chính là trẻ em.Ngoài ý nghĩa vui chơi cho trẻ em và người lớn, Tết Trung Thu còn
là dịp để người ta ngắm trăng tiên đoán mùa màng và vận mệnh quốc gia. Nếu trăng
thu màu vàng thì năm đó sẽ trúng mùa tằm tơ, nếu trăng thu màu xanh hay lục thì
năm đó sẽ có thiên tai, và nếu trăng thu màu cam trong sáng thì đất nước sẽ thịnh trị,
nếu trăng bị mây đen che kín, bầu trời u ám thì năm đó mất mùa. Dân gian còn
truyền nhau câu nói : “Muốn ăn lúa tháng Năm, trông trăng rằm tháng Tám. Tỏ
trăng 14 được tằm, “không nói tục”trăng hôm rằm thì được lúa chiêm”[23,203].
Quan điểm về trăng của người Việt cũng có thay đổi. Người Hoa coi trăng là
tiêu biểu cho âm, hay “ đàn bà”. Theo sách Thiên văn chí (thuộc Hán Thư địa chí,
quyển 6)của Trung Quốc thì mặt trăng là khí Thái âm kết tinh, ngược với mặt trời là
khí thái dương kết tinh, Thái Âm là hơi lạnh và thái dương là hơi nóng.Mặt trăng
thuộc quyền của nữ thần Thái âm vợ của thần Thái Dương tức là mặt trời.Thái Âm
thần nữ ở Quảng Hàn cung, toàn bằng ngọc lưu ly, trong suốt như pha lê, hào quang
chói lọi nhưng lúc nào cũng giá lạnh như băng. Thái Âm thần nữ cai quản một số
các tiên nữ và những linh vật[20,419]. Chính vì vậy, ở Trung Quốc mới có câu nói
“đàn ông không bái trăng đàn bà không tế bếp”[6,21]. Chịu ảnh hưởng của văn hóa
Hán nhiều nhà thơ nhà văn Việt Nam cũng gọi trăng là “ảNguyệt”, “ chị Hằng”. Thế
nhưng văn học dân gian Việt Nam lại coi trăng là “ đàn ông” , hay dương, nên mới
có cách gọi “ Ông trăng” hay “ Ông Giẳng ông Giăng” ( do trẻ con nói ngọng từ ông

trăng)[13,16].
Như vậy, trung thu vốn là một nghi thức nông nghiệp cổ đại từ trung quốc
truyền bá sang Nhật Bản và Việt Nam. Song cùng với quá trình du nhập ấy, quan
điểm về ý nghĩa ngày tết giữa hai nước đã có sự biết đổi. Người Nhật con trăng là
dịp sum vầy, này mang tính chất gia đình nhiều hơn. đến Việt Nam, Trung thu lại trờ
thành ngày tết của thiếu nhi và trở thành hoạt động của cộng đồng.

20


2.2. Các truyền thuyết liên quan đến TếtTrung thu ở Việt Nam và Nhật Bản
Trung thu là tết trông trăng, dù với quan niệm hay ý nghĩa nào thì trung thu
vẫn là tết ngắm trăng, thưởng trăng đẹp nhất trong năm. Trăng trở thành đề tài cho
thi ca, các thi nhân thả hồn theo trăng. Từ xa xưa đã có các truyền thuyết về trăng
được lưu truyền trong dân gian. Dân gian Việt Nam truyền tụng nhiều sự tích thú vị
về Hằng Nga song có lẽ phổ biến nhất và nhiều người biết đến nhất có lẽ là câu
chuyện chú cuội trông trăng. Nếu người Trung Quốc quan niệm trên trăng có chàng
Ngô Cương và cây Đan Quế, thì dân gian Việt Nam lại truyền nhau câu chuyện về
cây đa – chú cuội. Câu chuyện về chàng Ngô Cương của trung quốc cho rằngở cung
Quảng Hàn còn có một cây mà trần giới nhìn lên thấy hình đen trên mặt trăng là cây
đan quế ( tức là cây quế đỏ).Cây này cao một trăm linh năm thước, gốc lớn vô cùng,
đường kính ước vài ba trượng. Cây sống hàng ngàn vạn năm. Gỗ và vỏ rắn như thép.
Gốc cây có vết băm bỏ vì quanh năm lúc nào cũng có người cầm búa bổ vào gốc
cây,ấy là Ngô Cương. Ngô Cương đã tu tiên đắc đạo, nhưng sau vì làm nhiều điều
càn bậy trong chốn tiên cung, bị đức Ngọc Hoàng nổi giận bắt đày xuống cung
trăng, giao cho việc chặt và bóc vỏ cây đan quế nên cho tới ngày nay Ngô cương
vẫn cố chặt cây này và bóc vỏ để người trần chúng ta, mỗi đêm trông lên lại thấy
bóng chàng đang lúi húi ở gốc cây.[13,423].
Chú Cuội trong câu chuyện dân gian việt Nam có nét tương đồng với Ngô Cương,
cũng là một tiều phu, bị bay lên cung trăng ngồi gốc cây đa.Nhiều người vẫn nhầm

chuyện Chú Cuội cung trăng với một câu chuyện khác có tên Nói dối như Cuội, nên
các tích kể có nhiều dị bản và sai lệch với nhau. Truyện Nói dối như Cuội có nhiều
dị bản, nhưng phổ biến hơn cả là bản kể của Nguyễn Đổng Chi.Trong truyện, Cuội
vốn là đứa trẻ rất hay nói dối.Cuội lừa cả chú thím mình chui vào rọ để vứt xuống
sông, lừa một tên quan để lấy quần áo và ngựa, rồi còn lừa cả vua bay ra biển chết.
[22,60]Về cái tên Cuội, theo Lê Ngọc Trụ, chữ "Cuội" có gốc Hán-Việt là chữ

21


"Quải". Chữ "Quải" (từ điển Thiều Chửu) hoặc "Quảy"
(từ điển của Đào Duy Anh) có nghĩa là "lừa dối, dụ dỗ
người khác mua hàng", "bắt con nít đem bán (mẹ mìn)”.
Câu tục ngữ “nói dối như Cuội” có lẽ bắt nguồn từ tích
này. Còn câu chuyện Chú Cuội cung Trăng kể về một
chàng tiều phu tên Cuội.Một lần vào rừng đốn củi, gặp
Chú Cuội
ngayH2-1:
bốn con
hổ con. Cuội đang cầm rìu định đập chết cả bốn,nhưng từ xa có tiếng

hổ lớn đang rống . Biết hổ mẹ đang về, sợ quá, Cuội leo ngay lên cây cao nhìn
xuống. Hổ mẹ gầm gừ đau đớn trước cái chết của các con. Sau đó hổ mẹ đi về phía
bờ suối nhảy lên đớp một ít lá rừng. Hổ mẹ đưa lá về mớm cho con. Mấy phút sau
hổ con sống lại, và mẹ con kéo nhau đi.Cuội tụt xuống đi tìm ngay lá cây quí hóa
này. Cuội đào cây đưa về nhà trồng ở vườn sau, để cứu người đang hấp hối chết. Khi
Cuội đi làm, Cuội thường dặn vợ đừng tiểu gần gốc cây. Song một ngày vợ Cuội do
quên lời chồng dặn đã tưới nước tiểu cho cây, cây vì thế dông lên trời, Cuội bổ rừu
vào gốc cây toan giữ lại nhưng lại theo mất lên cung trăng vì thế mỗi đêm rằm hay
dịp trăng tròn, người ta lại trông trăng, thấy chú Cuội ngồi gốc cây đa. Tuy nhiên,

dân gian Việt Nam vẫn thường xem hai nhân vật này là một, nên cũng có tích nói
chú Cuội sau cùng lừa được một lão trượng mang cây đa thần về trồng [19,69]. Các
câu chuyện này được truyền miệng nên dị bản có khá nhiều song điều đó phản ánh
niềm yêu thích trăng của người Việt. Chú Cuội cung trăng vừa mang yếu tố hài
hước, tạo không khí vui vẻ đêm thu, vừa là bài học cho các em nhỏ về thói nói dối.
Ở Nhật, người ta lại cho rằng trên cung trăng có một chú thỏ sinh sống.
Truyền thuyết về thỏ cung trăng bắt nguồn từ tích cổ Trung Quốc.Trong văn hóa
Trung Hoa, thỏ là một linh vật thuộc mười hai con giáp, cũng giống như mèo trong
tín ngưỡng Việt vậy. Con Thỏ được coi là may mắn nhất trong số 12 con giáp, vì con
Thỏ có nguồn gốc từ cung trăng, là biểu tượng của sự trường thọ. Trong tranh dân
gian Trung Quốc, con Thỏ đứng gần một tảng đá dưới gốc cây và cầm tiên đan - linh
22


dược làm nên sự bất tử, bởi người Trung Quốc cho rằng
thỏ trên trăng giã thuốc trường sinh.
Truyền thuyết kể có một chú thỏ trắng siêng
năng, dũng cảm và nhân ái. Một đêm trăng sáng, Thỏ
H2-2: Thỏ giã thuốc
trường sinh

Trắng cùng bạn bè mở tiệc đón trăng trong rừng. Bỗng
nhiên, Thỏ Trắng nghe thấy một tiếng kêu thất thanh.
Chúng vội chạy ra xem chuyện gì xảy ra và gặp một ông
lão đang đói lả. Trong khi chúng đang tìm cách cứu ông
lão, con cáo ranh ma tham lam đã vơ vét thức ăn bày

trênH2-3:
bàn Thỏ
tiệc.Thỏ

trắng và các bạn tỏa đi kiếm thức ăn cho ông lão. Nhưng chúng
mặt trăng
Nhật
Bản thứ gì. Thỏ trắng dũng cảm liền nhảy vào đám lửa thiêu thân làm
chẳng tìm
thấy

thức ăn cho ông lão. Hóa ra, ông lão lại là tiên giả làm hành khất đi thử lòng trẻ nhỏ.
Cảm động trước đức hi sinh của Thỏ Trắng, tiên ông đưa thỏ trắng lên cung trăng.
Trong một câu chuyện khác cũng có nhắc đến chuyện thỏ được lên trời. [11, 24].
Một tích khác kể rằng có một thời trái đất lấm nạn, người và vật đều bị đói.Các loài
vật phải tàn sát lẫn nhau để sống. Bầy thỏ yếu đuối chỉ dám ngồi trong chỗ kín chờ
ngày chết. Có một bầy thỏ vây quanh một đống lửa nhìn nhau ứa lệ trước cảnh đói
khát. Bỗng một con thỏ thương tình đồng đội, tự nhảy vào lửa làm thức ăn cho bày
thỏ. Vừa lúc đó đức phật đi qua. Ngài động lòng thương hại và khen nghĩa khí con
thỏ, nên nhặt nắm xương tàn của nó, hóa phép thành chú thỏ hoàn toàn băng ngọc
thơm tho, lại xin với thái âm thần nữ cho ngọc thỏ ở cung Quảng Hàn tức cung trăng
[21, 422].
Ở Nhật không có xuất hiện nhân vật Hằng Nga mà chỉ tồn tại quan niệm về
chú thỏ mặt trăng. Ở Việt Nam, thỏ ngọc chỉ có trong truyền thuyết, người Nhật lại
tin rằng có thỏ ngọc sống trên mặt trăng vì thế khi ngắm trăng họ thường tưởng

23


tượng như đang thấy hình chú thỏ đang ăn bánh dango – một loại bánh bao Nhật
được làm từ bột nếp được người Nhật ăn trong Tết trung thu như là bánh trung thu.

2.3. Các tập tục trongTết trung thu ở Việt Nam và Nhật Bản
2.3.1.Tục tế trăng

Vào dịp Trung Thu, người Nhật chuẩn bị bánh Tsukimi
Dango (にににに), bình cỏ bông bạc susuki (ににに) bày
trên giá gỗ để trước hiên nhà hay của sổ- những nơi có
thể thấy trăng tốt nhất để cúng trăng. Bánh tsusiki dango
ở Nhật là thức bánh không thể thiểu vào dịp Trung thu
H2-4: Bày bánh Dango

cũng như bánh trung thu ở Trung Quốc và Việt Nam.

Dango hay là còn gọi là bánh bao, viên bánh tròn xoe màu trắng tượng trưng cho
vầng trăng, bánh được xếp thành hình hình tam giác trên những chiếc kệ gỗ cùng
với đóbình cỏ bông bạc. Người Nhật cho rằng trên mặt trăng chỉ có một loại cỏ là
susuki, vì vậy mà mọi gia đình đều dùng cỏ bông bạc để cắm thay hoa trong nhà.
Susukilà một loại thuộc họ nhà lúa mọc thành từng cụm, sống ở những vùng đất núi,
lá kim nhỏ dài 6cm đến 9cm, thân nhỏ 15cm đến 30cm. Vào dịp trung thu, các gia
đình Nhật Bản đều cắm cỏ này thay hoa.[3,2341]
Theo phong tục người Việt, cúng cỗ ngày rằm tháng tám chủ yếu là các loại
bánh hoa quả mía hương hoa nên việc chuẩn bị đỡ vất vả. Người ta mua sẵn bánh
kẹo ở hiệu làm bánh truyền thống các loại bánh nướng bánh dẻo. Mua bưởi chuối
hồng mía ở chợ. Có người còn mua cả cốm giã hoặc bánh cốm để thưởng thức
hương vị đầu mùa. Các gia đình khá giả chu đáo hơn còn nấu cả xôi chè.Cỗ được
bày biện trên bàn thờ vào lúc chập tối và ánh trăng rằm đã tỏa sáng khắp nơi. Gia
chủ thắp đèn hương khấn gia thần, gia tiên cùng về vui tết gia đình con cháu. Theo
quan niệm cho rằng trung thu là tết thiếu nhi nên các gia đình còn bày mâm cỗ trông

24


trăng thường là ngoài sân cho trẻ em “phá cỗ”. Mâm cỗ
mừng trung thu có ông tiến sĩ giấy bày ở vị trí cao nhất xung

quanh có bánh Trung Thu, kẹo, mía, bưởi, hồng và các thức
hoa quả khác đặc trưng của mùa thu.Cũng vì quan niệm trung
thu là tết cho trẻ em, ông tiến sĩ được bày trong mâm cỗ cũng
trăng để cầu mong cho con cháu trong nhà học hành thi cử
đều đỗ đạt, có công danh cao. Trần Tế Xương trong bài thơ
“Tiến sĩ trung thu” cũng có viết về ông tiến sĩ giấy : “Ông đỗ khoa nào ở xứ nào/
H2.5: Ông tiến sĩ

Thế mà hoa, hốt với trâm bào/ Mỗi năm mỗi tiết trung thu đến/ Tôi vẫn quen ông
chẳng muốn chào”.[24,12]
Về thức quả thì không thể thiếu được bánh trung thu.Người Trung Quốc
thường chỉ có bánh nướng, còn tại Việt Nam thì luôn có bánh nướng - bánh dẻo đi
thành cặp.Trong quan niệm của người Việt sự vật nào cũng có đôi có cặp, bánh
nướng, bánh dẻo cũng giống như bánh chưng bánh dầy, có chung một nét nghĩa là
vỏ bánh bọc lấy các loại nhân thể hiện tình cảm gắn bó, bao bọc lẫn nhau .
Như vậy, Trung thu là ngày lễ bắt nguồn từ nông nghiệp cổ truyền, do đó khi
tế trăng không chỉ ở Việt Nam, Nhật Bản mà cả các quốc gia khác đều có chung tục
dùng đồ cúng tế là các loại trái quả đặc trưng theo mùa ( mùa thu). Và vì là lễ tế thần
mặt trăng diễn ra vào dịp trăng tròn sáng nhất trong năm nên các loại bánh đều tròn
trịa như trăng rằm với mong muốn mùa màng bội thu, phúc lộc tròn đầy, viên mãn.
2.3.2. Tục thưởng trăng.
Ở Việt Nam, Trung thu là một trong nhữnglễ tiết lớn, chính bởi lẽ đó đêm
trăng trung thu diễn ra sôi nổi với nhiều trò chơi khác nhau như hát trống quân, múa
lân, rước đèn, hát trống quân, ...Trong khuôn khổ bài viết này, người viết xin được
nói rõ về tục hát trống quân- một trong những trò chơi truyền thống từ xa xưa rất
phổ biến. Tục hát trống quân tương truyền bắt đầu từ thời nhà Tống, dưới triều vua
25



×