Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

Giáo Trình Y Học Tư Pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (461.06 KB, 89 trang )

Bài 1

Giới thiệu môn học
Mục tiêu:
1. Hiểu rõ định nghĩa, khái niệm về môn học, về mối quan hệ qua lại chặt chẽ giữa y
học và pháp luật.
2. Bớc đầu hình thành ý thức tuân thủ pháp luật trong khi hành nghề y.
3. Nhận rõ ý nghĩa phục vụ công dân, phục vụ xã hội một cách thiết thực và chiều hớng
phát triển của môn học.

Nội dung:
1. Khái niệm Y học t pháp.
2. Lợc sử phát triển.
3. Chức năng, nhiệm vụ của chuyên ngành.
1. Khái niệm y học t pháp:

1.1.

Định nghĩa: Y học t pháp là một môn khoa học ứng dụng những kiến thức và phơng tiện y học, sinh học để bổ trợ cho hoạt động t pháp và đáp ứng những vấn đề
về sức khỏe của con ngời liên quan đến sự điều chỉnh của pháp luật. Đồng thời, y
học t pháp có chức năng xây dựng năng lực pháp lý cho các cán bộ và cơ sở y tế,
cung cấp những khái niệm, kiến thức y học cho việc chế định ra pháp luật và
pháp qui liên quan đến y học, y tế.

Khi nói y học t pháp là đề cập đến phạm vi các chuyên khoa, đa khoa rộng rãi trong
toàn ngành y, trong tất cả các hoạt động y tế liên quan đến chức năng phục vụ pháp
luật. Còn khi nói đến pháp y, là đề cập đến một chuyên ngành sâu có đặc tính là giao
thoa, lồng ghép giữa khoa học hình sự (Forensic science) và y học.
Trong quyển sách này, khi sử dụng thuật ngữ y học t pháp , các tác giả sẽ đề cập
đến những nội dung kiến thức chung cần cung cấp cho tất cả các thầy thuốc tơng lai;
còn khi sử dụng thuật ngữ pháp y là muốn nói đến kiến thức chuyên ngành pháp y


học với nội dung và yêu cầu ở mức độ một bác sĩ đa khoa hoặc chuyên khoa khác cần
biết.
1.2.

Y pháp và y học:

Với định nghĩa đã nêu trên, có thể thấy lĩnh vực rất rộng, rất chuyên sâu mà y học t pháp
giao thoa với tất cả các chuyên khoa bạn trong y học, sinh học và với các ngành khoa
học tự nhiên, khoa học xã hội khác.
1


Sức khỏe của con ngời, của cộng đồng đòi hỏi sự chăm sóc, chữa trị của đủ mọi chuyên
khoa về mặt y học. Nhng, theo định nghĩa về sức khỏe của Tổ chức sức khỏe Thế giới
(WHO) sức khỏe của con ngời không chỉ đơn thuần là không bị bệnh tật mà phải là trạng
thái lành mạnh về cả thể chất, tinh thần và xã hội.
Con ngời vừa là một thực thể sinh học lại vừa là một tiểu vũ trụ tổng hòa các mối quan
hệ xã hội. Do đó, y học t pháp tham gia vào các phần tinh thần và xã hội của việc chăm
sóc sức khỏe con ngời. Mọi ngời dân (kể cả ngời đã bị kết án) đều đợc hởng sự chăm sóc
sức khỏe cũng nh sự bảo hộ của pháp luật để có đợc trạng thái cân bằng, tin tởng và tích
cực trong tinh thần, trong mối quan hệ xã hội. Một ngời bệnh, khi cần phải đến cơ sở y
tế để khám chữa bệnh trên thực tế đã hình thành một quan hệ dân sự có tính pháp lý, mọi
giao dịch giữa ngời bệnh và nhân viên, cơ sở y tế khi cần thiết phải đợc điều chỉnh, xử lý
theo luật định. Hơn nữa, nếu việc khám chữa bệnh đó đợc tha kiện, thì tất cả hồ sơ bệnh
án, những chỉ định, y lệnh của thầy thuốc đơng nhiên trở thành chứng cứ của vụ việc.
Trong lĩnh vực nghiên cứu y học, việc nghiên cứu không chỉ dựa trên những lý thuyết,
phơng pháp và phơng tiện y học, sinh học thuần túy mà đối với con ngời, những nghiên
cứu đó phải tuân theo những chuẩn mực y đức, đạo lý và đặc biệt phải tuân theo pháp
luật để đảm bảo tính nhân văn, nhân đạo phù hợp với quan điểm của xã hội.
1.3.


Y học t pháp và pháp luật:

Các hoạt động t pháp hiểu theo nghĩa rộng hay chỉ nghĩa hẹp trong hoạt động điều tra, tố
tụng bao giờ cũng cần sự trợ giúp một cách đắc lực của các ngành khoa học tự nhiên và
xã hội khác để có thể tiếp cận đến mức gần nhất tới sự thật. Trong xã hội phát triển, các
ngành khoa học phát triển theo hớng ngày càng chuyên sâu, không một ai dù thông thái
đến đâu cũng không thể nắm bắt hết đợc. Vì vậy, các hoạt động t pháp phải luôn luôn có
vai trò của bổ trợ t pháp. Đây là hoạt động của các chuyên gia thuộc đủ mọi ngành khoa
học làm chức năng t vấn, giám định những vấn đề thuộc chuyên ngành của mình giúp
cho hoạt động t pháp tiến hành một cách khoa học, khách quan và công bằng.
Trong các hoạt động bổ trợ t pháp đó, hoạt động của y học bổ trợ cho t pháp là loại hình
phổ biến nhất, thờng nhật nhất và có xu hớng phát triển ngày càng chuyên sâu, liên tục
cập nhật với các thành tựu mới nhất của khoa học và công nghệ.
Nói một cách khác, mọi thành tựu của y học nói riêng và các khoa học khác nói chung
đều đợc động viên kịp thời để giúp giải quyết những vấn đề mà xã hội và pháp luật đặt
ra.
1.4.

Y học t pháp - pháp y:

Y học t pháp là sự phát triển và mở rộng của pháp y - một chuyên khoa có từ lâu đời và
ngày nay đã phát triển thành nhiều nhánh chuyên sâu. Pháp y với quan niệm kinh điển
có nhiệm vụ nghiên cứu những vấn đề về tính mạng, thân thể con ngời trong những vụ
án hình sự giúp cho cơ quan điều tra tố tụng điều tra và xét xử chính xác, khoa học và
khách quan. Có thể coi pháp y là một khoa học điều tra bằng kiến thức y học. Hệ thống
2


cơ quan t pháp nhiều nớc theo mô hình Anh - Mỹ có một cơ quan chuyên điều tra về các

vụ có ngời chết đợc gọi thành tên riêng là Coroner. Trong cơ quan này có các điều tra
viên y học (Medical inspector, medical examiner), họ vừa là sĩ quan điều tra thuộc cảnh
sát lại vừa đợc đào tạo về y học, đặc biệt là chuyên khoa pháp y để trực tiếp điều tra toàn
diện một vụ chết ngời. Tơng tự nh vậy, ở Việt Nam cũng có các bác sĩ pháp y trong biên
chế của cơ quan cảnh sát khoa học hình sự. Các bác sĩ này vừa là sĩ quan cảnh sát của cơ
quan công an vừa đợc đào tạo về y khoa và pháp y có bằng cấp bác sĩ chuyên khoa pháp
y.
Xuất phát từ sự phát triển vừa rộng vừa chuyên sâu của khoa học điều tra nói chung và
pháp y nói riêng mà ngày nay pháp y hiện đại trở thành một khoa học tơng đối độc lập
nằm kề cận với một bên là y học và một bên là khoa học hình sự (Forensic science).
Với t cách là một khoa học độc lập, pháp y học đã phân nhánh thành nhiều chuyên khoa
sâu khác nhau và có xu hớng ngày càng phát triển thêm nhiều chi nhánh chuyên sâu
khác. Những chuyên khoa sâu cơ bản nhất của pháp y học bao gồm:
1.4.1. Bệnh học pháp y (Forensic pathology):
ở Việt Nam, chuyên khoa này phổ biến nhất đợc gọi theo quan niệm cũ là giải phẫu
bệnh - pháp y.
1.4.2. Dấu vết học pháp y:
Nghiên cứu những dấu vết sinh học phục vụ điều tra nh máu, dịch của cơ thể, ADN.
1.4.3. Nhân chủng học pháp y:
Nghiên cứu đặc điểm về nhân trắc, chủng tộc, giới tính, độ tuổi,... thờng nghiên cứu trên
đối tợng là xơng cốt, lông, tóc.
1.4.4. Nha khoa pháp y (Forensic odontology):
Nghiên cứu đặc tính cá thể thông qua răng, hàm mặt của đối tợng, trong đó quan trọng
nhất là tàng th nhận diện răng (dental record) dùng để nhận diện khi phần mềm đã bị rữa
nát hết.
1.4.5. Độc chất học pháp y (Forensic toxicology) và phân tích (kiểm nghiệm) độc chất
pháp y (Forensic toxicologycal analysis):
Nghiên cứu về tác động của chất độc lên cơ thể và xét nghiệm phân tích mẫu chất độc.
1.4.6. Tâm thần học pháp y (Forensic psychiatry):


3


ở Việt Nam có ngành tơng đơng là khoa pháp y của Viện sức khỏe tâm thần có chức
năng giám định bệnh tâm thần của những bị can về năng lực chịu trách nhiệm hình sự
của họ.
2. Lợc sử phát triển:

Có thể nói, cùng với sự phát triển của một xã hội có tổ chức, một xã hội đợc điều hành
bằng luật pháp thì y học t pháp đã xuất hiện để làm nhiệm vụ trợ giúp cho việc điều tra
và xét xử.
2.1. Lợc sử của thế giới:
ở Trung Quốc, thời Chiến Quốc (475-221 trớc Công nguyên), sách Lễ ký và Lã Thị
Xuân Thu đã ghi: mệnh lý chiêm thơng, sát sáng, thị tích, thẩm đoán, quyết ngục
tụng, tất đoan bình, có nghĩa là Lý giải về mạng ngời, quan sát thơng tích, quan sát
phân tích vết thơng, thẩm tra phán đoán để định tội tất sẽ công bằng.
Khi khai quật mộ cổ niên đại nhà Tần 220 năm trớc Công nguyên đã phát hiện nhiều văn
bản viết trên thẻ tre liên quan đến pháp y. Trong đó có nội dung vấn đáp pháp luật
phong chẩn thức qui định: gây ra những vết thơng nặng nhẹ khác nhau sẽ phải chọn
những hình phạt nặng nhẹ khác nhau. Phong chẩn thức còn ghi rõ nội dung công tác
pháp y: kiểm nghiệm cơ thể sống, kiểm nghiệm thủ cấp, kiểm nghiệm thi thể, khám
nghiệm hiện trờng và những ghi chép về dấu vết (vết tay, vết máu, vết hung khí,...).
ở thời thợng cổ, Vua Ha-mu-ra-bi nớc Ba-bi-lon (1792-1750 TCN) đã qui định việc
hành nghề y theo luật pháp, nêu rõ quyền lợi của ngời thầy thuốc nội, ngoại khoa, cụ thể
có những điều lệ truy tố họ nếu mắc sai sót điều trị vi phạm đến tính mạng bệnh nhân.
Tùy theo cơng vị xã hội của ngời chết, ngời thầy thuốc bị xử tội chặt tay hoặc bồi thờng
tiền bạc. Pháp luật cũng đề cập đến mối liên quan giữa bệnh tật và khả năng lao động
của ngời bệnh, đến những hành vi bạo động nh hãm hiếp, phá thai. Tại Trung Quốc trong
khoảng từ 3000 đến 200 năm trớc Công nguyên, ngành y đã phân loại các chất độc nh:
Thạch tín, thuốc phiện, a-cô-nít và dùng chất ma túy ha-sích để gây mê khi mổ xẻ. Tại

Hy Lạp tử thi đợc coi là vật thiêng liêng, nhng trong chết nghi vấn, thầy thuốc đợc mổ
xác để tìm nguyên nhân chết. Thầy thuốc Hê-rô-phin đã phát hiện xơng móng ở cổ nhng
cha biết tìm tổn thơng xơng này trong chết treo cổ. Hip-pô-crat đợc tôn sùng là cha đẻ
của ngành y, nhận định ngời béo dễ chết đột ngột và ngời ở lứa tuổi từ 40-60 thờng vỡ
mạch máu não. Trong lời thể của thầy thuốc trớc khi ra hành nghề, Hi-pô-crat đề cập đến
việc tránh thai bằng thuốc. ở ấn Độ những năm đầu sau Công nguyên, luật pháp cha qui
định rõ về tội trạng, nhng đã truy tố những kẻ phá hoại các cây thuốc và những kẻ loạn
luân. ở Ai Cập, những kẻ phá thai, đánh đập trẻ em, thầy thuốc làm chết bệnh nhân, đều
bị đa ra tòa xét xử. Qua giám định pháp y, đã thống kê một số ca chấn thơng sọ não kín
và hiện tợng xác khô đét nếu bị vùi sâu trong cát nóng, mở đầu cho việc tìm tòi những
phơng pháp ớp xác vua chúa trớc khi đem quàn dới hầm sâu trong kim tự tháp. Tại nớc
Ba T cổ, những sai sót trong điều trị bệnh nhân đều bị phạt tiền và những vụ phá thai bị
4


trừng trị rất nặng. Thời bấy giờ đã có văn bản phân loại thơng tích làm bảy nhóm, từ vết
bầm tím đến những thơng tổn làm chết ngời, và mỗi khi khám cho ngời bị thơng đều
phải sử dụng bảng phân loại đó. Tại La Mã pháp y đợc chú trọng đặc biệt. Vào khoảng
600 năm trớc Công nguyên, xác phụ nữ có thai sắp đến ngày sinh đợc mổ sớm để cứu
lấy đứa trẻ, việc mai táng bị cấm ngặt nếu cha làm việc đó. Trong chơng XII của Bộ luật
Hình sự nớc này đã ghi: Thời gian dài nhất của thai nghén là 300 ngày và đứa trẻ ra đời
dới thời hạn 10 tháng. Hai nghìn năm sau, Bộ luật của Na-pô-lê-ông cũng ấn định nh
vậy. Luật cũng nghiêm cấm phá thai và thầy thuốc làm chết bệnh nhân thì bị đi đày hoặc
xử trảm. Khi Xê-da bị ám sát, thầy thuốc Ang-tit-sti-uýt ghi nhận tử thi có 23 vết th ơng
và vết duy nhất gây chết sâu thấu khoang ngực, thuộc liên sờn thứ nhất. Dới thời hoàng
đế Juytsti-ni-ăng giám định viên pháp y không những chỉ là nhân chứng tại phiên tòa mà
còn có thể tham gia vào việc định mức án cho bị cáo. Đã có sách đề cập đến chết đột tử,
chết dới nớc, phá thai, hãm hiếp, trúng độc, bệnh tâm thần, giả bệnh, giả thơng tật.
ở thời chuyển tiếp, khoảng đầu thế kỷ V sau Công nguyên, ngời Đức là dân tộc đầu tiên
thời bấy giờ đề ra việc giám định các thơng tích để xác minh hung khí và thầy thuốc phải

gửi văn bản giám định cho tòa án. Tại Pháp dới thời Sác-lơ-ma-nhơ, những nhà hình
pháp thờng xuyên cần đến sự cộng tác của các thầy thuốc để tìm ra manh mối các vụ án,
tự tử, hãm hiếp hoặc phá thai. Nhng phải đợi đến vài thế kỷ sau, pháp y mới khởi đầu sự
tiến triển dới thời Vua Hăng-ri đệ tứ, cụ thể là luật pháp qui định các bác sĩ, nội, ngoại,
sản sau khi đợc trng dụng giám định các trờng hợp chết do thơng tích hoặc thai nghén
đều phải làm nhân chứng tại tòa án. Trờng đại học tỉnh Mông-pe-li-ê đợc phép của Giáo
hoàng cho mổ tử thi. Các dợc sĩ đợc chỉ định giám định phẩm chất của thuốc có liên
quan đến điều trị bệnh trong các vụ án. Nhà phẫu thuật Am-broa-dơ Pa-rê nổi tiếng về
thắt mạch và cầm máu bằng dao điện viết cuốn chết do thơng tích gây tàn phế và cụt
chi và một số chuyên mục pháp y nh: chết sơ sinh, chết do sét, chết treo cổ; thơng tích
trớc và sau chết; trúng độc ô-xýt các-bon. Ông còn soạn thảo cả mẫu báo cáo pháp y.
Cùng thời đó Xê-vơ-rin Pi-nô xuất bản cuốn sách về trinh tiết và mất trinh. Tác giả tranh
luận sôi nổi với các bác sĩ pháp y về đặc điểm của màng trinh và nhận định rằng sau khi
giao hợp một số phụ nữ vẫn còn màng trinh nguyên vẹn. Giám định viên Ăng Toan Lu-i
thụ lý vụ án Ca-la đã chứng minh anh ta tự treo cổ chết, phục hồi quyền công dân cho
ông bố bị tuyên án tử hình vì nghi là đã giết con. ở thế kỷ XII tại Do Thái và một số nớc
Hồi giáo vùng Cận đông, cấm mổ xác ngời chết do bệnh nhng phải khám nghiệm tử thi
những ngời chết do án mạng và giám định viên phải xác minh nguyên nhân chết và vật
gây thơng tích làm chết ngời. ở thế kỷ XIII, Trung Quốc đã ấn hành bộ Pháp y học
gồm 5 quyển đề cập đến dấu hiệu chết, khám nghiệm tử thi, chết treo, chết đuối, chết
cháy và trúng độc. Tại ý, bác sĩ ngoại khoa Hu-gô Đơ-lu-ca tuyên thệ giữ chức giám
định pháp y chính thức. ở Đức, trờng y tỉnh Lai-xích giảng pháp y lần đầu vào năm
1650, một số tác giả nh Vens và Bon viết nhiều tài liệu về thơng tích trong tai nạn, tự tử,
án mạng. Cat-spe giảng pháp y ngót 40 năm và viết cuốn Pháp y thông dụng đợc dịch
ngay ra tiếng Anh năm 1856. ở áo, pháp y đợc giảng dạy lần đầu tại thủ đô Viên năm
1804 và cuốn Pháp y do bác sĩ Phôn-hớp-man đợc thông dụng ở nhiều nớc Châu Âu.
Tại Anh, giáo s pháp y đầu tiên là Đơn-can Crit-sti-sơn viết cuốn chuyên đề về chất
5



độc năm 1829 và sau thế chiến II Viện Hàn lâm pháp y đợc thành lập. Tại Mỹ từ thế kỷ
XVII, ngời Anh sang Mỹ khai khẩn đem theo luật lệ và thủ tục pháp y áp dụng trên đất
Mỹ. Ca pháp y đầu tiên là một vụ án mạng, bác sĩ khám nghiệm tử thi cho sinh viên trờng y tham dự. Sách pháp y là sách của Anh, cho đến thế kỷ XIX, pháp y mới đ ợc giảng
dạy bằng sách của Mỹ ở trờng đại học Ha-vớt ở Nữu-ớc và Phi-la-đen-phi-a. Năm 1923
nớc Mỹ qui định mỗi ca mổ tử thi trong 24 giờ là 40đôla. Từ 1918 đến 1938, riêng thành
phố Nữu-ớc giám định 11 vạn vụ pháp y gồm 8 vạn vụ chết do tai nạn các loại, hơn 2
vạn vụ tự tử và ngót 1 vạn vụ án mạng. Đến năm 1954 mới bắt đầu giám định tâm thần
những kẻ gây án. Từ thế kỷ XVIII đến cuối thế kỷ XIX, nền pháp y Châu Âu đã phát
triển mạnh và có cơ sở khoa học vững chắc. ở Pháp, Ooc-fi-la, giáo s pháp y Pa-ri, tác
giả cuốn Chuyên đề độc chất học đã nổi tiếng trong các vụ trọng án, với đội ngũ các
chuyên viên Pháp Tác-đi-ơ, Bru-a-den, La-ca-sa-nhơ, Ban-ta-da phục vụ đắc lực pháp
luật và viết sách đợc dịch sang nhiều thứ tiếng. Tại Đức, sách pháp y của Hen-kê-men-đê
đợc tái bản ngót chục lần và dịch sang tiếng Anh. Đến thế kỷ XX phần lớn các n ớc tiên
tiến đều có Viện Y pháp. Trong các cuốn chuyên đề của áp-đê-ép, Pas-cô-vôi, Sa-pôgiơ-nhi-cốp (Nga), Cơn-béc-sơn, Crát-uôn (Mỹ), Đề-Rô-be, Lô-ca, Si-mô-nanh (Pháp),
Sim-son, Bếch (Anh).v.v... vẫn còn phổ cập đến nay.
2.2.

Lợc sử Pháp y Việt Nam:

Dới thời Pháp thuộc Trờng Đại học Y Hà Nội đợc khánh thành năm 1904 nhng đến năm
1919 pháp y mới đợc đa vào giảng dạy và cha thành một bộ môn. Bác sĩ pháp y phụ
trách môn này cũng không phải là chuyên viên pháp y. Sau đó bác sĩ Vũ Công Hòe và
bác sĩ Trơng Cam Cống là những chuyên viên giải phẫu bệnh đầu tiên giảng dạy môn
này. Bác sĩ Hòe đã chọn đề tài pháp y Vấn đề tự tử ở Việt Nam làm luận án tốt nghiệp
và đảm nhận hai bộ môn Giải phẫu bệnh - Pháp y suốt thời kỳ trớc và sau cách mạng
Tháng Tám.
Thời kỳ từ 1947-1954 Giáo s Vũ Công Hòe là chuyên viên pháp y và sau tháng 10-1954
công tác pháp y đợc chuyển cho bác sĩ Trơng Cam Cống phụ trách cả về giảng dạy lẫn
giám định. Năm 1976 Tổ pháp y đợc hình thành trong Bộ môn Giải phẫu bệnh. Năm
1983 Bộ Y tế ra quyết định thành lập Bộ môn Y pháp tại Trờng đại học Y Hà Nội do

Giáo s Nguyễn Nh Bằng làm Chủ nhiệm và Phó tiến sĩ Trần Văn Liễu làm Phó chủ
nhiệm Bộ môn.
Sau ngày thống nhất đất nớc, hoạt động pháp y ngày càng tăng, Bộ Y tế đã giao cho trờng Đại học Y Hà Nội đào tạo bác sĩ chuyên khoa pháp y nhng cho đến nay đội ngũ
chuyên viên này còn ít ỏi cha đáp ứng đợc nhu cầu cho cả nớc. Song các chuyên viên
giải phẫu bệnh tại Hà Nội cũng nh các thành phố lớn và các tỉnh vẫn là những giám định
viên phục vụ đắc lực cho các cơ quan pháp luật.
Trong khi cha có Viện Y pháp, Nhà nớc ta đã tổ chức đợc Viện Khoa học hình sự đặt dới
quyền lãnh đạo của Bộ Công an có đội ngũ chuyên viên đã đợc đào tạp trog nớc và ở nớc
ngoài làm công tác giám định. Bộ môn Y pháp trờng Đại học Y Hà Nội thành lập năm
1983 đặt cơ sở tại Bệnh viện Việt - Đức để giám định những vụ án quan trọng thuộc nội,
6


ngoại thành và một số tỉnh lân cận Hà Nội. Bộ môn vừa giảng dạy vừa xúc tiến việc đào
tạo chuyên viên về: Chấn thơng học, sinh vật học, cốt học, độc học để kiện toàn kiến
thức chuyên môn chuẩn bị đội ngũ để tiến tới việc thành lập Viện Y pháp với đội ngũ
giám định viên chuyên nghiệp từ trung ơng đến địa phơng, đợc Nhà nớc chính thức công
nhận.
Hoạt động giám định t pháp nói chung và giám định pháp y nói riêng đã có một bớc
ngoặt cơ bản và quan trọng khi nhà nớc ta bắt đầu thể chế hóa bằng những văn bản có
tính pháp qui dới luật. Ngày 21/7/1988 Hội đồng Bộ trởng ra Nghị định số: 117/HĐBT
qui định rõ nhiệm vụ, chức năng, quyền hạn của hoạt động giám định t pháp. Nghị định
giao cho 5 Bộ và Uỷ ban Khoa học Nhà nớc (trong đó có Bộ Y tế) bổ nhiệm những
chuyên gia có đủ t cách và năng lực làm giám định viên, đồng thời định ra hệ thống cơ
quan quản lý và điều hành là các Tổ chức giám định t pháp. Thực hiện Nghị định này,
ngày 18/2/1989 Bộ Y tế đã ra quyết định số: 64/BYT-QĐ bổ nhiệm 9 giám định viên
pháp y tâm thần trung ơng với PTS. Nguyễn Đăng Dung Giám đốc bệnh viện tâm thần
trung ơng làm giám định viên trởng và 20 giám định viên pháp y trung ơng thuộc nhiều
chuyên ngành y dợc, với Giáo s Nguyễn Nh Bằng, Trởng Bộ môn Y -Pháp trờng Đại học
Y Hà Nội, Trởng khoa Giải phẫu bệnh viện Việt - Đức làm giám định viên trởng. Tiếp

đó, ngày 30/11/1990, Bộ Y tế lại ra quyết định số: 1059/ BYT-QĐ thành lập Tổ chức
giám định pháp y trung ơng trực thuộc Bộ Y tế có nhiệm vụ, chức năng đầu ngành hệ
thống pháp y của ngành Y tế. Cũng trong thời gian đó, tại các địa phơng, các ủy ban
nhân dân tỉnh cũng ra quyết định thành lập các Tổ chức giám định pháp y và bổ nhiệm
các giám định viên pháp y cấp tỉnh cho địa phơng của mình. Nh vậy là, lần đầu tiên
trong lịch sử Việt Nam, giám định pháp y đã trở thành một chuyên ngành Y tế chính
thống hoạt động theo đúng luật pháp hiện hành, chấm dứt giai đọan hoạt động kiêm
nhiệm của các cá nhân thầy thuốc đợc trng cầu giám định theo từng vụ việc.
Trong tiến trình cải cách t pháp của Nhà nớc Việt Nam, việc hoàn thiện, tăng cờng hiệu
lực của các cơ quan bổ trợ t pháp đã đợc ngành t pháp quan tâm và tích cực cùng ngành
y tế triển khai nhiều bớc đi quan trọng.
Ngày 17/1/2001 Viện Y học t pháp TW thuộc Bộ Y tế đợc thành lập trên cơ sở của Tổ
chức Giám định pháp y Trung ơng theo Quyết định của Thủ tớng Chính Phủ. PGS.TS
Trần Văn Liễu đợc bổ nhiệm làm Viện trởng.
Ngày 3/4/2002 Bộ trởng Bộ Y tế ký Quyết định số: 1119/QĐ-BYT bổ nhiệm 52 chuyên
gia thuộc nhiều chuyên khoa khác nhau làm giám định viên pháp y trung ơng. Trong số
này, có nhiều giảng viên của Trờng Đại học Y Hà Nội nh PGS. Nguyễn Lân Việt Hiệu
trởng trờng Đại học Y Hà Nội làm giám định viên về chuyên khoa tim mạch, PGS Hà
Văn Quyết Trởng Bộ môn Ngoại làm giám định viên chuyên khoa ngoại, và toàn bộ
giảng viên của Bộ môn Pháp y làm giám định viên chuyên trách.
Ngày 1/1/2005, Pháp lệnh về giám định t pháp chính thức có hiệu lực. Đây là văn bản
pháp luật cao nhất từ trớc đến nay ở nớc ta, điều đó nói lên tầm quan trọng và cấp bách
của tiến trình pháp luật hóa các hoạt động xã hội cũng nh kiện toàn sự vững mạnh của
các bộ máy công quyền.
7


Ngày 19/5/2005 Chính phủ ban hành Nghị định số: 67/2005/NĐ-CP Qui định chi tiết thi
hành một số điều của Pháp lệnh giám định t pháp. Nh vậy đã có một hành lang pháp lý
chuẩn mực cho việc giám định t pháp.

Thời kỳ đơng đại:
Với sự phát triển nhanh chóng, toàn diện và chuyên sâu của các ngành khoa học tự nhiên
và xã hội, với sự ứng dụng ngày càng hiệu quả công nghệ tin học, kỹ thuật số hóa, công
nghệ viễn thông, ngày nay sự tiến bộ của các ngành và từng ngành vợt lên những dự
đoán của các nhà khoa học; vì vậy chúng ta chỉ có thể thấy đợc những định hớng cơ bản
sau:
Yêu cầu của ngời dân về chăm sóc sức khỏe ngày càng cao:
Từ ngời dân bình thờng đến ngời bệnh đòi hỏi ngành y tế và ngời thầy thuốc không phải
là sự ban ơn khi khám chữa bệnh mà là những loại hình dịch vụ y tế có chất lợng chuyên
môn kỹ thuật cao, có thái độ phục vụ tận tình chu đáo, có sự đảm bảo an toàn, sự bảo hộ
của pháp luật, sự bảo hiểm của xã hội để họ có chất lợng cuộc sống ngày càng tiến bộ.
Yêu cầu này đặt ra tính pháp lý chặt chẽ trong điều hòa mối quan hệ thầy thuốc - bệnh
nhân. Sẽ xuất hiện những điều luật mới qui định cụ thể, chặt chẽ những việc mà thầy
thuốc và ngời bệnh phải thực thi song song với quá trình điều trị.
Sự kiểm soát của xã hội bằng luật pháp với những nghiên cứu, phát triển của y học:
Năm 1997, thành tựu nhân bản vô tính chú cừu Dolly đã làm chấn động không chỉ ngành
y, mà thực sự nó đặt ra những vấn đề trọng đại cho cả xã hội loài ngời về triết học, đạo
đức, pháp luật và tôn giáo. Quốc hội của rất nhiều nớc đã phải lập tức ban hành những
điều luật để kiểm soát sự phát triển của công nghệ nhân bản vô tính. Tiếp đó, việc giải
trình tự toàn bộ bộ gène của loài ngời lại đặt ra thử thách mới về quyền con ngời trong
việc xử lý mối quan hệ giữa con ngời - sinh học và con ngời - xã hội. Kỹ thuật siêu cắt
lớp vi tính hiện nay có thể cho phép dựng một cá thể con ngời thành một ngời ảo
bằng kỹ thuật 3D. Trong tơng lai, kỹ thuật số còn có khả năng đi sâu vào từng ngõ
ngách thầm kín nhất của từng con ngời rồi truyền lên mạng Internet. Tất cả những tiến
bộ kỳ diệu đó nếu thoát ra ngoài sự kiểm soát, điều chỉnh của xã hội, của pháp luật sẽ có
nguy cơ trở thành tai ơng cho sự an toàn xã hội.
Vì vậy, sẽ có sự định hớng thứ 2 là: trong hoạt động nghiên cứu y học và trong thực tiễn
hoạt động y tế, ngời thầy thuốc và cơ sở y tế sẽ phải chịu sự điều khiển, kiểm soát của
hành lang pháp lý mà cộng đồng xã hội đặt ra.
Hoạt động t pháp (điều tra, xét xử, dân sự) tiếp nhận những thành tựu khoa học kỹ

thuật mới nhất bổ trợ cho quyền năng của mình:
Hiện nay, một số bang của Hoa Kỳ đã qui định sử dụng kết quả xét nghiệm ADN về
mẫu - phụ hệ thay cho giấy khai sinh. Những xét nghiệm ADN xác định giới tính, những
xét nghiệm y học xác định độ tuổi đã đợc sử dụng để kiểm tra các vận động viên trong
thi đấu thể thao. Những nhận dạng căn cớc sinh học (ADN, ghi hình mống mắt,...) thay
cho nhận dạng bằng vân tay. Ngân hàng dữ liệu ADN (ADN finger data base) thay thế
cho tàng th vân tay tội phạm truyền thống.
8


Một vài dẫn chứng vừa nêu cho thấy, để đảm bảo an toàn xã hội, an ninh của thể chế,
trong bối cảnh hoạt động tội phạm gia tăng và biết sử dụng tiến bộ công nghệ để gây án;
ngành t pháp quốc tế cũng nh của nớc ta đã tích cực chủ động hoặc là mời các chuyên
gia giám định trợ giúp hoặc là triển khai những kỹ thuật công nghệ mới để đảm bảo bổ
trợ hiệu quả nhất cho hoạt động t pháp.
3. Chức năng, nhiệm vụ của chuyên ngành:

3.1. Tổng quan:
Y học t pháp là môn khoa học giao thoa giữa y học và khoa học xã hội nên chức năng,
nhiệm vụ của nó xuất phát từ cả hai phía. Cũng tơng tự nh vậy, chức năng nhiệm vụ này
phát triển ngày càng sâu rộng do động lực từ sự phát triển của y học, sự phát triển và yêu
cầu của hoạt động t pháp.
Trong pháp y kinh điển, những thầy thuốc giỏi đợc trang bị hiểu biết về luật pháp đợc
gọi là thầy thuốc y luật (medecin legist) có chức năng còn đơn giản là trợ giúp cho hoạt
động t pháp trong những vấn đề về tính mạng và sức khỏe của con ngời (họ thờng giám
định nguyên nhân tử vong trong những vụ án mạng). Dần dần, chức năng này đợc mở
rộng ra và phân định theo các chuyên khoa khác nhau. Khi đó có các bác sĩ pháp y thuộc
một chuyên khoa cụ thể. Ví dụ: Dentiste légist (nha sĩ pháp y).
Mặt khác, từ nhiệm vụ ngày càng phức tạp của mình, bản thân chuyên ngành pháp y
cũng phân định những nhánh chuyên sâu của mình để có thể thực hiện tốt công vụ. Ví

dụ, ngời ta có các mô hình nh:
- Pháp y hình sự.
- Pháp y dân sự.
- Pháp y tâm thần.
- Pháp y độc chất.
- ...
Hiện nay, ở mỗi quốc gia, mô hình tổ chức và chức năng nhiệm vụ của y học t pháp có
những đặc điểm khác nhau tùy thuộc vào bản thân năng lực của ngành y học n ớc đó và
theo yêu cầu của cơ chế vận hành pháp luật nớc đó. Cũng cần nhấn mạnh rằng, những
chức năng nhiệm vụ này luôn luôn vận động phát triển do đó, cần thiết phải cập nhật
kiến thức về thành tựu y học cũng nh cập nhật những điều luật mới ban hành của
cơ quan lập pháp.

3.2. Y học t pháp trong hoạt động y tế:
3.2.1. Y học t pháp cần thiết cho mọi cán bộ y tế:
9


Y học t pháp vừa là hiểu biết, t duy có tính pháp lý vừa là kỹ năng hành xử theo pháp
luật, do đó mọi nhân viên y tế từ ngời làm quản lý lãnh đạo đến ngời điều dỡng viên, từ
ngời làm lâm sàng cho đến ngời làm y tế cộng đồng ... đều phải tâm niệm tiêu chí sống
và hành nghề y theo pháp luật. Sống theo pháp luật là bổn phận công dân của mọi ngời, thầy thuốc cũng là một công dân bình quyền trong đời sống pháp luật do đó phải có
nghĩa vụ hiểu biết pháp luật phù hợp với bối cảnh xã hội để có thể xử lý đúng pháp lý
trong giao tiếp hàng ngày.
Hành nghề y theo pháp luật là bổn phận cao hơn do nghề nghiệp cao quí đòi hỏi.
Trong rất nhiều nghề nghiệp khác nhau trong đời sống, nghề y có một đặc điểm cơ bản
là liên quan đến sức khỏe, tính mạng của con ngời (cả cá nhân lẫn cộng đồng). Do đó, nó
vừa rất đợc coi trọng nh quan niệm đạo lý phơng Đông truyền thống đã tôn vinh là thầy
thuốc lại vừa gánh chịu một trách nhiệm rất nặng nề trong quan niệm của xã hội. Trách
nhiệm đó đòi hỏi rất cao về t cách, phẩm chất, y đức và trên hết là trách nhiệm pháp lý

của nghề nghiệp. Trách nhiệm đó là trách nhiệm của cá nhân cụ thể ngời thầy thuốc
hoặc của một pháp nhân cơ sở y tế đối với một ngời bệnh trên t cách một công dân có
quyền đợc chăm sóc sức khỏe một cách đúng đắn về chuyên môn y học và đúng đắn về
pháp luật.
Hiện nay, xã hội có nhiều loại hình cơ sở y tế vận hành theo những cơ chế khác nhau bao
gồm: cơ sở y tế của nhà nớc, cơ sở y tế t nhân, cơ sở y tế bán công, cơ sở y tế có yếu tố
nớc ngoài... Sự khác nhau thực chất là ở nguyên tắc tài chính về thanh toán, chi trả
những chi phí cho chăm sóc sức khỏe; từ đó dẫn đến vị thế pháp lý của 2 bên khác nhau
đòi hỏi việc xử lý mối quan hệ giao dịch dân sự khác nhau. Mối quan hệ dân sự đó đợc
điều chỉnh theo Bộ luật dân sự, Luật chăm sóc và bảo vệ sức khỏe, Luật doanh nghiệp,
Pháp lệnh hành nghề y tế t nhân và các văn bản dới luật khác.
3.2.2. Y học t pháp cần thiết trong hoạt động thờng nhật:
Để làm tốt những vấn đề pháp lý trong hoạt động khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe,
ngời thầy thuốc cần nhận rõ nguyên tắc: Xử lý về pháp lý song song với xử lý về chuyên
môn. Ngay từ khi bắt đầu tiếp xúc với một ngời dân cần chăm sóc sức khỏe, tiếp theo là
trong toàn bộ quá trình khám chữa bệnh và cuối công đoạn là những vấn đề thanh toán,
chế độ, chứng nhận y tế cho ngời bệnh sau khi ra viện; toàn bộ qui trình này đều cần
thiết có những xử lý đúng pháp lý, đúng luật định.
Ví dụ: Một ngời bệnh bị thơng vào viện. Ngay từ khâu tiếp đón, nhân viên y tế phải đảm
bảo ghi nhận đợc những thông tin cần thiết và chính xác về tên, tuổi, căn cớc của họ,
nguyên nhân bị thơng (do tai nạn, rủi ro hay bị hành hung). Trong quá trình điều trị, thầy
thuốc phải thăm khám tỉ mỉ và mô tả chi tiết về toàn trạng và từng thơng tích cụ thể
nhằm xác định đợc loại hình và cơ chế gây nên (vết thơng do bị đâm chém, do bị đánh,
do hỏa khí...), trong bệnh án phải đợc ghi chép đầy đủ những chỉ định can thiệp, những
chỉ định xét nghiệm thăm dò chức năng, những giải thích của thầy thuốc với ngời bệnh
(nh giải thích cần cắt bỏ một bộ phận bị hoại tử...) và những ý kiến của ngời bệnh, ngời
thân của họ (đồng ý hay không đồng ý với những chỉ định của thầy thuốc, xin nằm viện
10



thêm hay xin ra viện, chuyển viện...). Cuối cùng, khi ra viện, thầy thuốc có trách nhiệm
cấp cho họ những giấy tờ y tế liên quan nh giấy ra viện, giấy mổ, đơn thuốc... và giấy
chứng nhận thơng tích khi có yêu cầu khắc phục hậu quả (để bảo hiểm chi trả tiền bồi
thờng, để cơ quan pháp luật xử lý vụ gây thơng tích, để cơ quan chủ quản giải quyết chế
độ...).
Qua dẫn chứng trên đây, có thể thấy những yếu tố pháp lý có mặt trong suốt quá trình
thầy thuốc khám chữa bệnh và thậm chí cả sau khi kết thúc, khi bệnh nhân đã khỏi và ra
viện. Những yếu tố pháp lý này bắt buộc phải đợc thực hiện đầy đủ, không bỏ sót một
công đoạn nào và phải tôn trọng tính khách quan, khoa học của sự việc. Khi có một sự
cố xảy ra, bao giờ hồ sơ bệnh án và các giấy tờ y tế liên quan đều đợc niêm phong
(không đợc sửa chữa, viết thêm) và xem xét nh một chứng cứ quan trọng của vụ việc mà
không một ai có thể thay thế đợc khi thanh tra, điều tra để kết luận sự cố đó.
3.2.3. Y học t pháp trong nghiên cứu khoa học:
Lâu nay, việc tiến hành những nghiên cứu khoa học trong ngành y của nớc ta đợc tiến
hành tơng đối dễ dàng về mặt pháp lý. Từ những đề cơng nghiên cứu đến triển khai
trên ngời bệnh và làm báo cáo khoa học dễ bỏ qua khía cạnh pháp lý của việc nghiên
cứu. Có một lý do dễ hiểu là ngời bệnh cha có ý thức về quyền của họ nên khi đợc là đối
tợng để khám chữa bệnh (thực chất là nghiên cứu) họ chỉ thấy lợi ích của ngời bệnh mà
không có đòi hỏi khác, họ cũng không biết là trong bớc điều tra cơ bản họ đã phải khai
những chi tiết thuộc về cá nhân mà theo luật pháp họ có quyền giữ bí mật của riêng
mình. Ngoài ra, những phát hiện về bệnh lý, những bệnh phẩm, những hình ảnh tổn thơng đợc thu tập, xử lý và đa ra trình bày trong báo cáo khoa học thực chất là những bí
mật đời t của ngời bệnh. Nh vậy, thầy thuốc trong khi nghiên cứu y học lại vi phạm một
điều rất quan trọng về y đức là tiết lộ bí mật về sức khỏe thân thể của ngời bệnh.
Một dạng vi phạm luật pháp khác rất hay gặp là vi phạm công ớc về sở hữu trí tuệ (công
ớc Bern) và luật về quyền tác giả. Các công trình nghiên cứu của Việt Nam cần phải dựa
rất nhiều vào các công trình của các tác giả ở nhiều nớc phát triển (từ ý tởng cho đến phơng pháp cụ thể), nhng trên thực tế việc xin phép tác giả hoặc trích dịch nguyên văn
không có chú thích bị bỏ qua.
Với xu thế hội nhập, giao lu toàn cầu, ngời thầy thuốc cần nhận thức rõ vấn đề này để
biết cách xử lý đúng pháp luật trong các công trình nghiêncứu của mình tránh những sai
sót dù vô tình hay cố ý làm mất thanh danh thậm chí phải xử lý bằng pháp luật.

3.2.4. Những kỹ năng y học t pháp cần có:
Từ những nhận thức cần thiết đã nêu ở phần trên, trong hoàn cảnh hiện nay, ngời thầy
thuốc sẽ cảm thấy một gánh nặng pháp lý khó khăn khi hành nghề y tế. Hơn nữa, sự phát
triển đòi hỏi tốc độ cập nhật kiến thức và kỹ năng ngày càng cao, do đó không dễ gì có
khả năng đáp ứng hoàn hảo.
Đó là sự cần thiết phải có một số kỹ năng cơ bản dẫn đờng sau đây:
11


3.2.4.1. Có nguồn lực y học t pháp:
Ngay từ bớc khởi đầu cho một hoạt động y tế (xúc tiến mở phòng mạch t, đề án xây
dựng bệnh viện, đề án một chơng trình y tế...) phải có ý thức dành vị trí cho vấn đề pháp
lý. ở cơ sở y tế lớn phải có bộ phận phụ trách về pháp luật. Ví dụ, ở bệnh viện Chợ Rẫy,
có bộ phận gồm 3 luật s chịu trách nhiệm về các giao dịch có tính pháp lý. ở những cơ
sở nhỏ, thầy thuốc phải tìm hiểu, đa vào hồ sơ quản lý tất cả những điều luật liên quan
(cả luật về y tế và những luật dân sự khác), cần thiết phải sử dụng dịch vụ t vấn pháp lý
không những khi khởi nghiệp mà trong suốt quá trình hoạt động nghề nghiệp (có thể hợp
đồng với luật s dài hạn hoặc theo vụ việc để họ trợ giúp mình về pháp luật).
Bên cạnh đó, cần có mối quan hệ đồng nghiệp với cơ quan y học t pháp (có thể là các
trung tâm pháp y) để tranh thủ sự t vấn và giám định dân sự giúp cho hoạt động y tế luôn
luôn đi đúng trong hành lang pháp lý.
3.2.4.2. Pháp luật hóa (legislation) hoạt động nghiệp vụ và quản lý:
Mọi qui định, nội qui, chức năng, nhiệm vụ, chức trách của cơ sở, của từng bộ phận và
từng cá nhân phải đợc xây dựng thành văn bản và đợc xem xét dới góc độ pháp luật (tức
là không đợc vi phạm pháp luật hiện hành). Giữa ngời sử dụng lao động và ngời lao động
(bác sĩ, điều dỡng viên làm thuê cho cơ sở y tế) phải có hợp đồng lao động đúng luật,
nghĩa là không phải ký hợp đồng có tính hình thức, đối phó mà phải chi tiết cụ thể các
điều khoản để có thể qui trách nhiệm rõ ràng.
Chức năng về nghiệp vụ y tế phải tuân theo đúng giấy phép hoặc quyết định thành lập cơ
sở, ví dụ: Một phòng khám răng - hàm - mặt không đợc làm những việc thuộc chuyên

khoa tai - mũi - họng.
Những chức năng khác về quản lý, tài chính, bảo hiểm v.v... của cơ sở y tế khi vận hành,
khi có những quyết định qui định cho nhân viên thi hành phải đợc căn cứ vào những văn
bản pháp qui (văn bản Luật hoặc dới luật) liên quan đến vấn đề đó.
3.2.4.3. Đào tạo cơ bản và đào tạo lại về kiến thức luật pháp:
Trong nội dung đào tạo cán bộ y tế ở các trình độ khác nhau đều phải có học trình về y
học t pháp. Học viên phải thi đỗ môn học, nếu cha đạt kết quả phải thi lại theo đúng Luật
giáo dục - đào tạo.
Trong nội dung thi tuyển công chức, tuyển nhân viên, cơ sở tuyển dụng phải có nội dung
về pháp luật, về y học t pháp để lựa chọn đợc nhân viên có năng lực đáp ứng đúng yêu
cầu.
Trong quá trình làm việc, cơ sở y tế cần có định kỳ đào tạo lại thông qua một chơng
trình ngắn hạn, chơng trình tập huấn để bổ sung và cập nhật kiến thức y học t pháp cho
nhân viên.
12


3.3. Y học t pháp bổ trợ hoạt động t pháp:
3.3.1. Khái niệm chung:
Theo nghĩa đầy đủ nhất, hoạt động t pháp không chỉ liên quan đến tố tụng, xét xử, thi
hành án mà trên thực tế nó bao trùm lên các hoạt động khác nhau của đời sống xã hội.
Ngay từ khi con ngời chào đời, hoạt động t pháp đã thực hiện chức năng đầu tiên xác
nhận một công dân bằng việc cấp giấy khai sinh. Nói một cách dễ hiểu nhất, sau khi đỡ
đẻ (hoặc mổ đẻ), thầy thuốc đơng nhiên phải thực hiện một chức năng y học t pháp bổ
trợ cho t pháp là cấp giấy chứng sinh. Từ giấy này, cơ quan t pháp phụ trách về hộ tịch
mới có cơ sở để cấp giấy khai sinh là văn bản pháp lý đầu tiên cho một công dân và có
hiệu lực suốt cả cuộc đời.
Tiếp sau đó, trong rất nhiều những giao dịch khác, ngời công dân cần đợc thầy thuốc, cơ
sở y tế xác nhận về sức khỏe, về bệnh tật của họ để phục vụ cho những giao dịch dân sự
hàng ngày của họ. Ví dụ chứng nhận sức khỏe để đi học, đi làm, chứng nhận tiêm chủng

phòng dịch cho việc xuất nhập cảnh, chứng nhận thơng tật để nhận bồi thờng bảo hiểm
v.v... Sau cùng, khi một con ngời mất đi (kể cả ngời tù mất quyền công dân) họ lại đợc y
tế cấp giấy báo tử, chứng tử phục vụ cho t pháp cấp giấy khai tử cho ngời đó. Ta cũng
cần nhớ một điều, trong lĩnh vực t pháp chết không phải hết, vì giấy khai tử của họ
còn có hiệu lực pháp lý với ngời còn sống trong giao dịch dân sự (ví dụ cho phép ngời vợ
(hoặc chồng) kết hôn lần 2, cho phép công bố và thực hiện di chúc, bảo đảm quyền đ ợc
chi trả bảo hiểm...)
Tiếp theo, chức năng quan trọng và phức tạp nhất là thực hiện giám định pháp y theo luật
định.
Nh vậy, ngời thầy thuốc và cơ sở y tế cần đổi mới và qui chuẩn về nhận thức và kỹ năng
của mình về y học t pháp, coi đây là một chức năng không thể thiếu trong hoạt động thờng nhật, có trách nhiệm cao khi thực hiện công việc để đảm bảo chính xác, khoa học về
chuyên môn và đúng pháp luật về pháp lý.
3.3.2. Y học t pháp trong hoạt động t pháp dân sự:
Trong công việc thờng ngày, thầy thuốc và cơ sở y tế bên cạnh việc khám chữa bệnh,
còn có chức năng cấp những chứng nhận y tế (medical certificat) phục vụ cho những nhu
cầu giao dịch khác nhau của ngời dân, thông thờng bao gồm:
-

Giấy chứng sinh phục vụ cho t pháp cấp giấy khai sinh.

-

Giấy chứng nhận sức khỏe phục vụ cho thủ tục kết hôn. Hiện nay, việc này mới qui
định trong trờng hợp kết hôn với ngời nớc ngoài, nhng trong tơng lai sẽ phải thực
hiện cho tất cả các trờng hợp.

-

Các loại giấy chứng nhận sức khỏe phục vụ cho các việc khác nh cấp bằng lái xe,
xin đi học, đi làm v.v...


13


-

Giấy chứng thơng (y chứng) phục vụ cho việc điều tra tố tụng nếu là thơng tích trong
vụ án; còn thông thờng phục vụ cho việc giải quyết chế độ xã hội, giải quyết bồi thờng của bảo hiểm.

-

Những chứng nhận y tế khác tùy theo yêu cầu cần đợc xác nhận, chứng thực để
miễn, hoãn hoặc giảm nhẹ cho ngời dân khi họ không đủ sức khỏe để thực hiện
nghĩa vụ công dân của mình.

3.3.3. Y học t pháp trong hoạt động t pháp tiền tố tụng (còn đợc gọi là ngoài tố tụng):
Khi xuất hiện những vụ việc cha đủ yếu tố để tiến hành điều tra tố tụng theo phạm vi
điều chỉnh của Bộ luật Tố tụng Hình sự, ngời ta coi đây là những vụ việc tiền tố tụng hay
ngoài tố tụng. Y học t pháp sử dụng kiến thức và phơng tiện chuyên môn của mình cung
cấp những chứng cứ y học xác định để có cơ sở giải quyết vụ việc theo hớng tố tụng hay
hòa giải, dân sự hay hình sự.
-

Xác định về tuổi, giới tính của công dân (trong thi đấu thể thao, trong các vụ việc
cần xác định tuổi vị thành niên hay thành niên...).

-

Xác định việc sử dụng Dopping trong thi đấu thể thao.


-

Giám định mẫu-phụ hệ cho trẻ em có nghi ngờ nhầm lẫn hoặc cha biết cha theo yêu
cầu dân sự của các đơng sự.

-

Giám định tỷ lệ thơng tật theo yêu cầu bảo hiểm.

-

Giám định bệnh tật trong quan hệ giao dịch bảo hiểm.

3.3.4. Y học t pháp và giám định t pháp:
Giám định t pháp sẽ đợc trình bày chi tiết ở mục 6.
Trong phần này, chỉ nói đến trách nhiệm và nghĩa vụ của ngành y phục vụ cho hoạt động
tố tụng. Trên bình diện rộng, theo luật định tất cả các thầy thuốc có trách nhiệm phục vụ
yêu cầu của cơ quan pháp luật theo chuyên môn nghiệp vụ của mình. Trên bình diện
hẹp, ngành y tế và ngành t pháp bổ nhiệm các thầy thuốc có trình độ chuyên môn giỏi
làm giám định viên t pháp về chuyên khoa đó. Chuyên sâu hơn nữa, các bác sĩ chuyên
khoa bệnh học (ta quen gọi là giải phẫu bệnh) và chuyên khoa pháp y đợc bổ nhiệm làm
giám định viên pháp y chuyên trách. Trên thế giới, cách thức tổ chức quản lý giám định
viên có nhiều mô hình khác nhau do một số đặc điểm riêng biệt về pháp luật, nh ng đều
giống với mô hình của Việt Nam trong chức năng, nhiệm vụ của các giám định viên.
3.3.4.1. Tất cả các thầy thuốc có văn bằng y khoa chính thống, có kinh nghiệm công tác
thực tế, có phẩm chất đạo đức tốt đều có thể đợc mời làm chức năng ngời giám định khi
có quyết định trng cầu của các cơ quan có thẩm quyền theo luật định.
Ví dụ: Một bác sĩ khoa ngoại của một bệnh viện huyện khi cơ quan luật pháp có quyết
định trng cầu về giám định một vụ việc gây thơng tích chẳng hạn; lúc đó, mặc dù bác sĩ
14



không đợc bổ nhiệm làm giám định viên cũng có thể thực hiện một vụ giám định pháp y
với đầy đủ chức năng quyền hạn và trách nhiệm nh một giám định viên.
Cũng tơng tự nh vậy, một thầy thuốc có thể đợc cơ quan pháp luật mời đến (họp án hoặc
xét xử) để có ý kiến t vấn, xác nhận hoặc giải thích một vấn đề về chuyên khoa của họ
nhằm giúp cho các ngành t pháp hiểu về những khía cạnh chuyên môn, những khái niệm,
những thuật ngữ về y học. Một số nớc, coi các hoạt động này của các thầy thuốc là một
nhân chứng khoa học trong hoạt động tố tụng.
3.3.4.2. Các chuyên gia y học đợc bổ nhiệm làm giám định viên t pháp về y học (giám
định viên pháp y) thuộc các chuyên khoa khác nhau, hoạt động theo hình thức kiêm
nhiệm (hoặc nửa thời gian):
Ví dụ: Tòa thợng thẩm Paris (Pháp) có niên giám hơn 400 thầy thuốc thuộc đủ mọi
chuyên khoa y học là những chuyên gia đợc bổ nhiệm (có tuyên thệ trớc tòa, tuyên thệ
về y khoa) làm giám định viên y học t pháp (experts médecins).
ở Việt Nam: Đội ngũ các giám định viên pháp y đợc Bộ Y tế - Bộ T pháp bổ nhiệm theo
hình thức trên gồm hơn 50 giám định viên ở cấp trung ơng và khoảng 990 giám định
viên ở cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ơng.
3.3.4.3. Các giám định viên pháp y chuyên trách:
Là các thầy thuốc chuyên khoa pháp y học (medecine légale, Forensic medecine)
chuyên trách làm việc giám định tử thi, giám định thơng tích và những giám định khác
thờng gặp hàng ngày, có số lợng giám định lớn.
Trong đó, có những thầy thuốc bệnh học pháp y (Forensic pathologist) làm chức năng
giám định viên pháp y là mô hình đợc a thích ở nhiều nớc và ở nớc ta. Có nhiều lý do để
mô hình này hoạt động có hiệu quả. Thứ nhất, trong giám định pháp y rất thờng gặp
những tổn thơng bệnh lý, những nguyên nhân tử vong do bệnh tật, mà bác sĩ bệnh học
pháp y là những ngời làm việc tại bệnh viện tất nhiên có nhiều kinh nghiệm để có thể
chẩn đoán bệnh học tốt nhất. Điều thứ hai, trong chơng trình đào tạo, trong sách giáo
khoa bệnh học bao giờ cũng có nội dung rất cơ bản về những vấn đề liên quan đến pháp
y. ở một số nớc (ví dụ ở Pháp), không thành lập Viện Pháp y, mà tại các bệnh viện lớn

có khoa bệnh học - pháp y thực hiện cả chức năng chẩn đoán bệnh học và làm giám dịnh
về pháp y.
Nhiều trờng đại học y trên thế giới có mô hình viện trong trờng, khoa hoặc bộ môn pháp
y thực hiện đồng thời chức năng đào tạo chuyên khoa pháp y học và chức năng giám
định pháp y.
Bộ môn Pháp y của Đại học Y Hà Nội cũng áp dụng mô hình này khi tất cả các giảng
viên đều đợc bổ nhiệm làm giám định viên pháp y cấp trung ơng, thực hiện đồng thời cả
3 chức năng:
- Giảng dạy, nghiên cứu môn pháp y.
15


- Làm việc tại Khoa Giải phẫu bệnh - pháp y bệnh viện Hữu nghị Việt - Đức nh một
bác sĩ bệnh học pháp y.
- Tham gia làm việc nửa thời gian (kiêm nhiệm) tại Viện Y học t pháp TW của Bộ Y tế
với chức năng làm giám định viên pháp y chuyên trách.
Một mô hình nữa của hoạt động chuyên trách là các bác sĩ pháp y làm việc tại các cơ
quan giám định pháp y.
Một số nớc có các Viện pháp y riêng, trong đó các thầy thuốc pháp y làm chức năng
nghiên cứu chuyên sâu về pháp y học và đồng thời đảm nhiệm chức năng giám định
pháp y. ở Việt Nam, theo Pháp lệnh Giám định t pháp, đã và đang xây dựng hệ thống cơ
quan giám định pháp y chuyên trách với Viện Pháp y Quốc gia và các Trung tâm Giám
định pháp y cấp tỉnh, thành phố.
Tơng ứng với mô hình này, các nớc có các bác sĩ pháp y chuyên trách đợc gọi với các
tên khác nhau trong hệ thống Coroner, Forensic science, medicolegal investigation với
các điều tra viên y học (Medical inspector, Medical examiner).
ở Việt Nam có các bác sĩ pháp y thuộc cơ quan cảnh sát khoa học hình sự, các bác sĩ
pháp y quân đội thuộc Viện Pháp y Quân đội là những bác sĩ pháp y chuyên trách làm
giám định viên pháp y trong các cơ quan giám định này.
Ngoài ra, còn có mô hình giám định viên pháp y của Viện Pháp y trực thuộc Bộ T pháp

ví dụ nh ở Thụy Điển, Đan Mạch hay mô hình giám định viên pháp y hoạt động trong
những Hiệp hội y học hoặc Đoàn bác sĩ có chức năng làm trọng tài, làm giám định trong
những tranh chấp dân sự.
Tóm lại, về cách thức tổ chức quản lý hoạt động giám định pháp y khá phong phú tùy
thuộc từng nớc nhng nguyên tắc và tiêu chí cơ bản nhất là đảm bảo sự hoạt động có
hiệu quả của các chuyên gia y học, chuyên gia pháp y phục vụ tốt cho đời sống xã
hội và cho hoạt động t pháp.

16


Bài 2

y học t pháp và hoạt động y tế
Mục tiêu:
1. Nhận thức rõ năng lực về pháp lý cần phải có trong hoạt động y tế.
2. Nắm vững 10 kỹ năng y học - pháp lý cần phải có.
3. Nắm vững nguyên tắc xử lý khi gặp tai biến điều trị.
4. Hiểu rõ ý nghĩa của một số điều của các bộ luật và văn bản dới luật liên quan nhất
đến ngành y tế.

Nội dung:
1. Y học t pháp và hoạt động y tế.
2. Điều luật liên quan đến thầy thuốc và hoạt động y tế.
3. Giám định y pháp .
1. Y học t pháp và hoạt động y tế:

Sự phát triển của y học và sự phát triển của đời sống xã hội nói chung đặc biệt là xã hội
định hớng pháp quyền dẫn đến hình thành khái niệm và hoạt động cụ thể của y học t
pháp. Nhìn tổng thể, y học t pháp có mối quan hệ 2 chiều trong nhiệm vụ chức năng của

mình.

Y học - T pháp

- Các chuyên khoa y học
- Các cơ sở y tế
- Cá nhân thầy thuốc,
dợc sĩ

- Cơ quan pháp luật
- Pháp nhân
- Thể nhân
- Công dân

Y học phục vụ
hoạt động t pháp

Luật pháp hóa
hoạt động y tế

Sơ đồ 1: Quan hệ giữa y học và t pháp
17


Y học t pháp (Medical
Juris- Prudence)

Pháp y (Forensic
medicine
medicolegal)


Khoa học hình sự
(Forensic science)

Sơ đồ 2: Quan hệ giữa y học t pháp và khoa học hình sự

1.1. Tuân thủ pháp luật khi hành nghề y dợc:
Tất cả các thầy thuốc và các cơ sở y tế thuộc đầy đủ các ngành chuyên khoa khác nhau
đều có trách nhiệm tuân thủ pháp luật trong hoạt động chuyên môn của mình, phải có
năng lực pháp lý để ứng xử trong mối quan hệ với ngời bệnh, ngời thân của họ và các cơ
quan có trách nhiệm với ngời bệnh. Mối quan hệ đó từ xa xa là mối quan hệ cá nhân,
cảm tính, có đợc điều chỉnh bằng y đức và quan niệm đạo lý chung. Nhng dần dần, khi
xã hội phát triển trở nên đa dạng và phức tạp, thì mối quan hệ giữa con ngời với xã hội
chỉ có thể duy nhất điều chỉnh bằng pháp luật mới đảm bảo đợc sự công bằng cho công
dân và sự ổn định cho xã hội. Mối quan hệ đó trong ngành y càng đặc biệt coi trọng do
tính nhạy cảm, sống còn của tính mạng và sức khỏe con ngời. Từ một thầy thuốc hành
nghề t nhân cho đến những nhà chuyên môn có trách nhiệm quản lý điều hành cơ sở y tế
đều phải hàng ngày đối diện với những vấn đề mang tính pháp lý và phải cần tự hỏi mình
làm nh vậy có đúng pháp luật không? Có vô tình vi phạm một qui định, một điều luật
nào đó không?
Ngày nay, ngời bệnh đợc xã hội và pháp luật đảm bảo cho quyền đợc chăm sóc sức
khỏe, họ có quyền bỏ tiền ra để đợc sử dụng một dịch vụ y tế theo yêu cầu của họ, do đó
đơng nhiên đã hình thành một hợp đồng dân sự (thành văn hoặc bất thành văn) giữa họ
và thầy thuốc. Một khi, hợp đồng dân sự đó không đạt đợc kết quả, các bên của hợp
đồng sẽ trở thành bên nguyên, bên bị, (mà tuyệt đai đa số ngời bệnh là bên nguyên)
và việc giải quyết khi đó chỉ còn con đờng theo luật pháp.
Do đặc điểm của nớc ta, mới đang hình thành và đang phát triển cho một nhà nớc pháp
quyền, đang học cách điều hành xã hội theo tiêu chí pháp quyền, từ ngời dân đến công
chức, từ ngời bệnh đến thầy thuốc đều còn bỡ ngỡ trong việc xử sự theo đúng pháp luật.
Rất nhiều sự việc đáng tiếc xảy ra do không có hiểu biết về pháp luật, thiếu năng lực xử

lý có tính pháp lý dẫn đến hậu quả không đáng có. Mối quan hệ của các bên đang từ một
quan hệ nhân đạo, hàm ơn đột nhiên trở thành mối quan hệ tranh chấp căng thẳng, thậm
chí thù địch. Những tác động không đúng của thông tin đại chúng nhiều khi cũng làm
18


phức tạp thêm vấn đề và thờng gây tổn hại đến thanh danh của thầy thuốc và cơ sở y tế.
Câu thành ngữ dân gian làm phúc phải tội đã nói lên rõ ràng và đầy đủ hiện trạng này.
Lý do quan trọng để xảy ra tình trạng này là thiếu sót chủ quan của phía thầy thuốc và cơ
sở y tế, cha có khả năng giải quyết vụ việc có lý có tình, để có thể vừa thuyết phục đ ợc
ngời bệnh vừa tự bảo vệ đợc uy tín nghề nghiệp của mình. Vì vậy, ngời thầy thuốc phải
có một hàm lợng pháp lý nhất định trong tố chất của mình mới trở thành ngời thầy
thuốc có triển vọng đợc.
1.2. Tuân thủ pháp luật trong hoạt động nghiên cứu khoa học:
Do đối tợng của y học là con ngời khác hẳn những đối tợng sinh học thuần túy nên việc
nghiên cứu những ngời bệnh phải chịu sự điều chỉnh của pháp luật hiện hành để đảm bảo
tôn trọng cá thể ngời bệnh và cộng đồng. Mọi nghiên cứu khoa học đều phải đợc sự cho
phép của bản thân ngời bệnh hoặc ngời giám hộ, đơn giản nhất nh việc chụp ảnh ngời
bệnh cũng phải đợc ngời bệnh đồng ý, khi công bố ảnh phải dùng kỹ thuật che kín mắt
để không lộ diện ngời bệnh và khi chú thích ảnh không đợc ghi rõ tên tuổi.
Những mục tiêu nghiên cứu phải tuân theo đúng pháp luật nghĩa là không đợc làm
những việc mà luật pháp cấm làm hoặc cha cho phép làm. Ví dụ những nghiên cứu về
nhân bản vô tính, về thay đổi giới tính, lựa chọn giới tính của thai nhi,...
Những nghiên cứu về tác dụng của dợc phẩm, những phác đồ điều trị mới mà có thể đã
công bố trên Internet hay sách báo y học các nớc nhng cha đợc Bộ Y tế nớc ta cho phép
thì cũng không đợc tự tiện ứng dụng.
Nói vắn tắt, trong lĩnh vực này thầy thuốc và cơ sở y tế vừa phải tuân thủ những điều luật
của Bộ luật dân sự về quyền công dân, vừa phải tuân thủ những điều luật của Bộ luật
chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cùng những văn bản pháp qui dới luật hiện đang có hiệu
lực.

1.3. Trợ giúp cơ quan pháp luật theo luật định:
Mọi điều luật liên quan đến y tế của các nớc bao giờ cũng có những điều khoản qui định
trách nhiệm của thầy thuốc trong những trờng hợp phải hợp tác, báo cáo với cơ quan luật
pháp.
Ví dụ, thầy thuốc có trách nhiệm phải bảo đảm bí mật về tình trạng sức khỏe, bệnh tật
của ngời bệnh mình đang điều trị, nhng một số trờng hợp ngời bệnh bị thơng trong
những vụ việc hình sự thì thầy thuốc phải thông báo cho cơ quan cảnh sát biết và phải
cấp giấy chứng thơng xác nhận đầy đủ, rõ ràng tình trạng sức khỏe, thơng tích của ngời
bệnh.
Hoặc trong những trờng hợp ngời bệnh đang trong thời gian liên quan đến điều tra, tố
tụng, hay chấp hành án; theo yêu cầu nhân đạo và yêu cầu pháp chế, thầy thuốc có trách
nhiệm xác nhận với cơ quan pháp luật về tình trạng bệnh tật sức khỏe của ngời bệnh có
đủ điều kiện để tham gia vào các quá trình tố tụng hay không.
19


Một số trờng hợp, cơ quan pháp luật có văn bản yêu cầu về xác nhận hay t vấn trong
những vấn đề ngời bệnh có liên quan đến pháp luật, thầy thuốc hoặc cơ sở y tế cũng có
trách nhiệm phải trả lời bằng văn bản.
1.4. Đợc bổ nhiệm là giám định viên t pháp hay đợc mời giám định theo vụ việc:
Theo luật pháp Việt Nam, bất cứ ngời thầy thuốc nào, khi cơ quan luật pháp có Quyết
định trng cầu giám định bằng văn bản, đều có thể thực thi chức năng giám định t pháp
trong lĩnh vực chuyên môn của mình.
Cũng theo luật định, ngành y tế và ngành t pháp bổ nhiệm những thầy thuốc giỏi, có đủ
tiêu chuẩn theo Pháp lệnh về Giám định t pháp và danh sách giám định viên. Đây là vinh
dự nhng cũng là trách nhiệm pháp lý rất nặng nề của thầy thuốc trong hoạt động thực
tiễn của mình, đây cũng là lý do mà môn học này có trách nhiệm cung cấp những kiến
thức và kỹ năng thực hành về y học - t pháp cho tất cả các thầy thuốc thuộc mọi chuyên
khoa.
1.5. Những kỹ năng y học - pháp lý cần phải có:

1.5.1. Lấy tính mạng, sức khỏe của ngời bệnh là mục tiêu cao nhất trong hoạt động nghề
nghiệp. Không để lệ thuộc, không bị điều khiển bởi những lý do, động cơ khác.
1.5.2. Tôn trọng nguyện vọng của ngời bệnh, của ngời thân về bí mật bệnh tật, bí mật
điều trị.
1.5.3. Có quyền yêu cầu sự trợ giúp, cung cấp phơng tiện, tạo điều kiện cần thiết cho sự
cứu chữa ngời bệnh.
1.5.4. Đợc sự bảo hộ của pháp luật và cơ quan công an trong khi hoạt động cứu chữa ngời bệnh.
1.5.5. Có trách nhiệm thông báo với cơ quan pháp luật trong những trờng hợp liên quan
đến pháp luật.
1.5.6. Các hồ sơ bệnh án, giấy tờ y tế đều có giá trị hiệu lực pháp lý; thầy thuốc phải có
trách nhiệm cá nhân trong các hồ sơ đó.
1.5.7. Không thực hiện những phác đồ điều trị, những cách thức thủ thuật phẫu thuật,
những loại thuốc nằm ngoài danh mục, phơng pháp đợc ngành y tế Việt Nam cho
phép.
1.5.8. Có trách trách nhiệm thông báo, giải thích, thỏa thuận với ngời bệnh, ngời nhà
trong những tình huống phát sinh và phải đợc văn bản hóa trong hồ sơ bệnh án.
1.5.9. Văn bản hóa các nội dung làm việc với các cơ quan bên ngoài. Cân nhắc thận
trọng khi cho phép hay không cho phép hoạt động ghi âm, ghi hình trong cơ sở y
tế.

20


1.5.10. Trong nghiên cứu khoa học phải tôn trọng đối tợng nghiên cứu (ngời bệnh, ngời
dân đợc điều tra thống kê), tuân thủ nghiêm ngặt Bộ luật dân sự về quyền công
dân.
1.5.11. Tôn trọng, đoàn kết hợp tác với đồng nghiệp trong hoạt động chuyên môn cũng
nh trong quan hệ thuộc phạm vi quản lý.
1.6. Y đạo - y đức (Deontologie):
1.6.1. Định nghĩa:

Deontologie là những lý thuyết về nghĩa vụ, đạo đức nghề nghiệp, những qui chế khi
hành nghề.
Đối với tất cả các nghề nghiệp trong xã hội, khi có nhiều ngời cùng làm chung một nghề
tất nhiên sẽ phát sinh những vấn đề trong quan hệ giữa các bên đòi hỏi có những qui tắc
ứng xử cần đợc tôn trọng. Bên cạnh đó là những qui tắc về nghĩa vụ của ngời hành nghề
đối với khách hàng và với toàn xã hội, ngành Y tế cũng nằm trong những qui tắc đó. Hơn
thế nữa, do nghề y là một nghề nhân đạo, liên quan đến vốn quí nhất của xã hội là con
ngời nên deontologie của ngành Y đã đợc đề cao nh một giá trị thiêng liêng cao quí ngay
từ khi có hoạt động khám chữa bệnh của loài ngời.
1.6.2. Lời thề Hyppocrate-Deontologie:
Ngay từ năm 450 trớc Công nguyên, ngời thầy thuốc vĩ đại mà mọi thầy thuốc đều biết
tiếng đã đề xớng ra Lời thề, sau đợc gọi là Lời thề Hyppocrate, hiện vẫn đợc nhiều
trờng Đại học Y trên thế giới dùng cho sinh viên tuyên thệ khi tốt nghiệp.
Các danh y của Việt Nam thời trớc nh Hải Thợng Lãn Ông, Tuệ Tĩnh, trong các sách dạy
nghề làm thuốc của mình cũng có những lời dạy bảo, chỉ dẫn cho học trò. Điển hình nh
câu Nam dợc trị nam nhân có giá trị triết học y học cho đến ngày nay.
ở các nớc khác, hoạt động nghề nghiệp có cơ chế tự quản, xã hội hóa trong các hiệp hội,
các đoàn bác sĩ của địa phơng. Chính những tổ chức này, thông qua đại hội theo điều lệ
đã đặt ra những chuẩn mực hành nghề, những nghĩa vụ, những đạo lý nghề nghiệp mà
ngời thầy thuốc phải tuân theo.
Do điều kiện ở mỗi nớc khác nhau, nên Deontologie của mỗi nớc cũng có khác nhau về
chi tiết nhng tựu trung đều nhấn mạnh đến yếu tố nhân văn, giá trị cao quí và đòi hỏi cao
đạo đức của ngời làm nghề y. Hoặc có những điều qui định có tính chất đặc thù của
ngành y nh: không đợc mổ xẻ cho ngời thân của mình, không đợc tiết lộ về hoàn cảnh
đời t của ngời bệnh, phải có mặt 2 ngời trở lên khi thăm khám cho phụ nữ...
Có thể nói, bên cạnh những điều luật thành văn về y tế, những qui định của Deontologie
có ý nghĩa sâu sắc, nó khuyến thiện ngời thầy thuốc, có tác dụng giáo dục để thầy thuốc
tự hoàn thiện mình trong đạo đức nghề nghiệp, tự trau dồi mình trở thành ngời trí thức
vừa có tài cao vừa có tâm có đức trong sáng.
21



1.6.3. Qui định về y đức (tiêu chuẩn của ngời làm công tác y tế):
Trong hoàn cảnh phức tạp của nền kinh tế thị trờng, kèm theo những ảnh hởng cả cái tốt
lẫn cái xấu của xu hớng toàn cầu hóa; ngời thầy thuốc hiện nay có nguy cơ xem nhẹ
những giá trị nhân văn, giá trị đạo lý của chính mình và của những ngời xung quanh.
Một xu hớng chạy theo những chuyên khoa, những cơ sở y tế có công nghệ cao tơng ứng
với thu nhập cao đã bộc lộ ở thầy thuốc trẻ và sinh viên. Trong khi hành nghề cũng có xu
hớng đẩy cao giá thành của một phác đồ điều trị và tâm lý sùng ngoại, coi nhẹ các phơng
pháp chữa bệnh truyền thống. Trong học tập cũng nh trong thực hành, có định hớng lệch
lạc coi trọng lâm sàng - nhẹ về cận lâm sàng, trọng về chữa trị mổ xẻ nhẹ về tuyên
truyền, giáo dục, t vấn về phòng bệnh.
Ngoài ra, ngời thầy thuốc còn phải chịu những thử thách do áp lực về thu nhập tiền bạc
mà nhiều nguồn từ bên ngoài tác động vào làm cho khó giữ mình.
Nhằm góp phần vào việc nâng cao Deontologie và y đạo của thầy thuốc Việt Nam, ngày
6/11/1996; Bộ trởng Bộ Y tế đã ban hành Quyết định số: 2088/BYT-QĐ Qui định về y
đức:
Qui định về y đức

(Tiêu chuẩn đạo đức của ngời làm công tác y tế)
(Ban hành kèm theo Quyết định số: 2088/BYT-QĐ ngày 6/11/1996 của Bộ trởng Bộ Y
tế)
Y đức là phẩm chất tốt đẹp của ngời làm công tác y tế, đợc biểu hiện ở tinh thần trách
nhiệm cao, tận tụy phục vụ, hết lòng thơng yêu chăm sóc ngời bệnh, coi họ đau đớn nh
mình đau đớn, nh lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: Lơng y phải nh từ mẫu. Phải thật
thà đoàn kết, khắc phục khó khăn, học tập vơn lên để hoàn thành nhiệm vụ, toàn tâm
toàn ý xây dựng nền Y học Việt Nam. Y đức phải thể hiện qua những tiêu chuẩn, nguyên
tắc đạo đức đợc xã hội thừa nhận.
1. Chăm sóc sức khỏe cho mọi ngời là nghề cao quí. Khi đã tự nguyện đứng trong hàng
ngũ y tế phải nghiêm túc thực hiện lời dạy của Bác Hồ. Phải có lơng tâm ngời thầy

thuốc. Không ngừng học tập và tích cực nghiên cứu khoa học để nâng cao trình độ
chuyên môn. Sẵn sàng vợt qua mọi khó khăn gian khổ vì sự nghiệp chăm sóc và bảo
vệ sức khỏe nhân dân.
2. Tôn trọng pháp luật và thực hiện nghiêm túc các qui chế chuyên môn. Không đợc sử
dụng ngời bệnh làm thực nghiệm cho những phơng pháp chẩn đoán, điều trị, nghiên
cứu khoa học khi cha đợc phép của Bộ Y tế và sự chấp nhận của ngời bệnh.
3. Tôn trọng quyền đợc khám bệnh, chữa bệnh của nhân dân. Tôn trọng những bí mật
riêng t của ngời bệnh; khi thăm khám, chăm sóc cần bảo đảm kín đáo và lịch sự.
Quan tâm đến những ngời bệnh trong diện chính sách u đãi xã hội. Không đợc phân
biệt đối xử ngời bệnh. Không đợc có thái độ ban ơn, lạm dụng nghề nghiệp và gây
22


phiền hà cho ngời bệnh. Phải trung thực khi thanh toán các chi phí khám bệnh, chữa
bệnh.
4. Khi tiếp xúc với ngời bệnh và gia đình họ, luôn có thái độ niềm nở, tận tình; trang
phục phải chỉnh tề, sạch sẽ để tạo niềm tin cho ngời bệnh. Phải giải thích tình hình
bệnh tật cho ngời bệnh và gia đình họ hiểu để cùng hợp tác điều trị; phổ biến cho họ
về chế độ, chính sách, quyền lợi và nghĩa vụ của ngời bệnh; động viên an ủi, khuyến
khích ngời bệnh điều trị, tập luyện để chóng hồi phục. Trong trờng hợp bệnh nặng
hoặc tiên lợng xấu cũng phải hết lòng cứu chữa và chăm sóc đến cùng, đồng thời
thông báo cho gia đình ngời bệnh biết.
5. Khi cấp cứu phải khẩn trơng chẩn đoán, xử lý kịp thời không đợc đùn đẩy ngời bệnh.
6. Kê đơn phải phù hợp với chẩn đoán và bảo đảm sử dụng thuốc hợp lý, an toàn; không
vì lợi ích cá nhân mà giao cho ngời bệnh thuốc kém phẩm chất, thuốc không dùng với
yêu cầu và mức độ bệnh.
7. Không đợc rời bỏ vị trí trong khi làm nhiệm vụ, theo dõi và xử lý kịp thời các diễn
biến của ngời bệnh.
8. Khi ngời bệnh ra viện phải dặn dò chu đáo, hớng dẫn họ tiếp tục điều trị, tự chăm sóc
và giữ gìn sức khỏe.

9. Khi ngời bệnh tử vong, phải thông cảm sâu sắc, chia buồn và hớng dẫn, giúp đỡ gia
đình họ làm các thủ tục cần thiết.
10.Thật thà, đoàn kết, tôn trọng đồng nghiệp, kính trọng các bậc thầy, sẵn sàng truyền
thụ kiến thức, học hỏi kinh nghiệm, giúp đỡ lẫn nhau.
11.Khi bản thân có thiếu sót, phải tự giác phân trách nhiệm về mình, không đổ lỗi cho
đồng nghiệp, cho tuyến dới.
12.Hăng hái tham gia công tác tuyên truyền giáo dục sức khỏe, phòng chống dịch bệnh,
cứu chữa ngời bị tai nạn, ốm đau tại cộng đồng; gơng mẫu thực hiện nếp sống vệ
sinh, giữ gìn môi trờng trong sạch.
1.7. Xử lý tai biến điều trị:
1.7.1. Khái niệm:
Trong việc khám chữa bệnh có thể không may xuất hiện những sự cố bất ngờ và đáng
tiếc ngoài ý muốn của mọi ngời.
Những sự cố này gồm 2 loại:
Một là những diễn biến, biến chứng bất khả kháng của bệnh tật, chấn thơng mà y
học hiện tại cha điều trị đợc. Ví dụ: Thờng gặp trong sản khoa những trờng hợp tắc
mạch do nớc ối trong cuộc chuyển dạ; những trờng hợp shock phản vệ do tiêm truyền
bệnh nhân có cơ địa dị ứng với những xác suất mà y học đã biết (thờng gặp shock phản
vệ trong tiêm tĩnh mạch vitamine C, thậm chí đã gặp do tiêm vitamine B1, shock ngay
khi vừa thử test kháng sinh).
23


Hai là những biến chứng, tai biến do sai sót điều trị thực sự:
Những sai sót có thể từ những nguyên nhân thuần túy chuyên môn sau:
- Chẩn đoán, tiên lợng bệnh không đúng.
- Chỉ định không đúng.
- Thao tác kỹ thuật sai.
- Theo dõi ngời bệnh không sát.
- Vi phạm qui trình qui tắc chuyên môn.

Những sai sót do trách nhiệm, nghĩa vụ của thầy thuốc.
- Thiếu tinh thần trách nhiệm vi phạm qui tắc nghiệp vụ.
- Thái độ thờ ơ, coi thờng, chủ quan khi đợc thông báo về diễn biến bệnh lý.
- Vi phạm y đạo - y đức của thầy thuốc.
1.7.2. Nguyên tắc xử lý:
Điều cơ bản nhất khi xử lý tai biến là phải kết luận phân biệt rõ ràng 2 loại sự cố nh đã
nêu ở phần 5.7.1. Bởi vì, từ 2 loại tai biến này sẽ dẫn đến việc xử lý vụ việc hoàn toàn
khác nhau. Thầy thuốc và cơ sở y tế chỉ phải chịu trách nhiệm dân sự, hình sự tùy thuộc
vào mức độ vi phạm khi nguyên nhân tai biến hoàn toàn do sai sót điều trị thực sự.
Một nguyên tắc bất di bất dịch là bằng mọi cách phải tiến hành giám định (mổ tử thi,
làm các xét nghiệm bổ sung, hội chẩn). Thông thờng, tâm lý của ngời bệnh, ngời thân
không muốn mổ tử thi nhng lại vẫn khiếu kiện kể cả khi trớc đó họ có cam kết bằng văn
bản không kiện tụng. Do đó, khi xảy ra tai biến trong điều trị làm ngời bệnh tử vong, cá
nhân thầy thuốc và lãnh đạo cơ sở y tế cần phối hợp với những cơ quan chức năng liên
quan thuyết phục bằng đợc ngời thân đồng ý để tiến hành giám định tử thi.
Đối với những sai sót không gây tử vong; cơ sở y tế, ngành pháp y cần thiết có hội chẩn
hồi cứu với sự tham gia của chuyên gia đầu ngành của chuyên khoa đó để có kết luận
khoa học, khách quan về nguyên nhân của sai sót.
Từ những căn cứ khoa học, khách quan nh vậy mới có cơ sở, chứng cứ để cơ quan quản
lý y tế hay cơ quan pháp luật tiến hành các bớc thanh tra hoặc điều tra vụ việc.

1.7.3. Kỹ năng xử lý khi gặp sự cố điều trị:
1.7.3.1. Tích cực huy động mọi khả năng ở mức cao nhất để cấp cứu hồi sức ngời bệnh
để hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả.
1.7.3.2. Sau khi cấp cứu hồi sức không kết quả, ngừng can thiệp chuyên môn.
1.7.3.3. Báo cáo ngời có trách nhiệm lãnh đạo.
24


1.7.3.4. Lu giữ niêm phong: hồ sơ bệnh án, mẫu thuốc men, dụng cụ, mẫu bệnh phẩm.

1.7.3.5. Làm việc chính thức, có biên bản giữa cá nhân thầy thuốc, lãnh đạo cơ sở y tế,
ngời thân của bệnh nhân và các cơ quan có thẩm quyền liên quan (có thể là
thanh tra y tế, cảnh sát điều tra, Viện Kiểm sát,...) để đề ra cách giải quyết hậu
quả.
1.7.3.6. Bình tĩnh giải quyết theo pháp luật, không tự tiện thỏa thuận tay đôi với ngời
thân của bệnh nhân một cách vô nguyên tắc vì không thể lờng trớc đợc diễn
biến kiện tụng.
1.7.3.7. Bảo vệ cơ sở y tế, bảo vệ thân thể nhân phẩm của thầy thuốc tránh những manh
động tiêu cực.
1.7.3.8. Thận trọng, chính xác, đúng luật định, có biên bản ghi nhận khi làm việc với cơ
quan thông tin đại chúng.
1.7.3.9. Không vội vàng xử lý thầy thuốc, chỉ ra quyết định xử lý vụ việc khi đã có kết
luận giám định, kết luận của thanh tra hay kết luận điều tra.
Kết luận: Đây là vấn đề rất nhạy cảm với công luận xã hội và khá bức xúc với ngành y;
có nguy cơ ngày càng hay gặp và nguy cơ hình sự hóa vụ việc, đòi hỏi thầy thuốc và
quản lý y tế phải có năng lực pháp lý khi ứng xử và biết địa chỉ cần tìm để đợc t vấn, trợ
giúp giải quyết vụ việc với kết quả tốt nhất có thể đợc.
2. Điều luật liên quan đến thầy thuốc và hoạt động y tế:

Trong giai đoạn xã hội đang phấn đấu cho mục tiêu sống và làm việc theo pháp luật,
xây dựng nhà nớc pháp quyền, hoạt động y tế và chức năng của ngời thầy thuốc cần thiết
phải đợc trang bị những kiến thức và năng lực pháp lý.
Trong phần này chỉ có mục đích thông tin chính xác các Bộ luật và văn bản d ới luật
để ngời học có tài liệu làm căn cứ cho việc áp dụng và tuân thủ trong hoạt động nghề
nghiệp. Vì vậy không có giải thích và bình luận các điều luật. Các điều luật đợc trích
dẫn, chọn lọc những điều liên quan hay gặp nhất, phục vụ sát thực cho các cơ sở y tế
và các thầy thuốc hành nghề và những trích dẫn tên điều luật để ngời đọc tiện tra
cứu những văn bản luật hoặc tìm đọc thêm các bộ sách bình luận, giải thích của các
cơ quan và tác giả có thẩm quyền. Từ văn bản pháp luật đến thực tế đời sống tất nhiên
bao giờ cũng có một khoảng cách nhất định do nguyên nhân khác nhau: về trình độ văn

hóa chung, về hiểu biết pháp lý, năng lực pháp lý... của công dân, của cán bộ y tế cũng
nh năng lực điều hành quản lý nhà nớc của các cơ quan nhà nớc chức năng. Mặt khác
trong quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật, tất nhiên sẽ có những sửa đổi, bổ sung
và các điều luật mà chỉ có Quốc hội mới có quyền thông qua và ban hành những sửa đổi
đó. Vì vậy, nguyên tắc cao nhất của ngời thầy thuốc khi hành nghề là sống và hành
nghề y theo pháp luật. Trong thực tế, các điều luật mới luôn luôn đợc công bố, ngời
thầy thuốc có trách nhiệm cập nhật hóa những kiến thức không thể thiếu về luật pháp nói
chung và những điều luật liên quan đến nghề nghiệp. Trong chơng trình giảng dạy của
các trờng đại học y khoa tất yếu cũng cần thiết trang bị cho sinh viên những kiến thức cơ
25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×