Tải bản đầy đủ (.pdf) (140 trang)

chính sách đối ngoại của hoa kỳ ở khu vực đông á thập niên đầu thế kỷ xxi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.78 MB, 140 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Chung Thủy

CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HOA KỲ
Ở KHU VỰC ĐÔNG Á THẬP NIÊN ĐẦU
THẾ KỶ XXI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Thành phố Hồ Chí Minh - 2013


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Chung Thủy

CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HOA KỲ
Ở KHU VỰC ĐÔNG Á THẬP NIÊN ĐẦU
THẾ KỶ XXI
Chuyên ngành :

Lịch sử thế giới

Mã số

60 22 03 11

:



LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. NGÔ MINH OANH

Thành phố Hồ Chí Minh - 2013


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi, dưới sự hướng dẫn của
PGS.TS. Ngô Minh Oanh. Các nội dung nghiên cứu và kết quả trong luận văn này là trung
thực, chưa từng được ai công bố trong công trình nghiên cứu nào khác. Những số liệu trong
các bảng biểu phục vụ cho việc phân tích, đánh giá được tác giả thu thập từ các nguồn khác
nhau, có ghi trong phần tài liệu tham khảo. Ngoài ra, đề tài có sử dụng một số nhận xét,
đánh giá cũng như số liệu của các tác giả, cơ quan tổ chức khác, và cũng được thể hiện
trong phần tài liệu tham khảo.
Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về kết quả nghiên cứu trước Hội đồng.
Nguyễn Chung Thủy

1


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ 1
MỤC LỤC .................................................................................................................... 2
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ......................................................................... 4
MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 5
1. Lý do chọn đề tài .............................................................................................................5

2. Mục đích nghiên cứu ......................................................................................................5
3. Nguồn tư liệu và lịch sử nghiên cứu vấn đề..................................................................6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...............................................................................10
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn ..........................................11
6. Đóng góp của đề tài .......................................................................................................12
7. Kết cấu của luận văn ....................................................................................................12

CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH THẾ GIỚI VÀ KHU VỰC ĐÔNG Á
TỪ SAU CHIẾN TRANH LẠNH ĐẾN THẬP NIÊN ĐẦU THẾ KỶ XXI......... 13
1.1. Bối cảnh quốc tế .........................................................................................................13
1.1.1. Sự sụp đổ của trật tự hai cực Ianta và sự hình thành trật tự thế giới mới .............13
1.1.2. Sự xuất hiện của xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển .......................................14
1.1.3. Xu thế toàn cầu hóa kinh tế quốc tế và sự tác động của các vấn đề toàn cầu .......16
1.1.4. Vụ khủng bố ngày 11/9/2001 và sự tác động đến chính sách đối ngoại của Hoa
Kỳ đối với khu vực Đông Á ............................................................................................18
1.1.5. Khủng hoảng kinh tế toàn cầu và sự suy giảm về thế và lực của Mỹ .......................21
1.2. Tình hình khu vực Đông Á .......................................................................................24
1.2.1. Tình hình ở Đông Bắc Á .......................................................................................24
1.2.2. Tình hình ở Đông Nam Á......................................................................................36

CHƯƠNG 2: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HOA KỲ Ở ĐÔNG Á TRONG
THẬP NIÊN ĐẦU THẾ KỈ XXI .............................................................................. 43
2.1. Khái quát về chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ từ sau Chiến tranh Lạnh đến
trước thập niên đầu của thế kỷ XXI ...............................................................................43
2.1.1. Chính sách đối ngoại của chính quyền B.Clinton .................................................43
2.1.2. Sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của chính quyền G.W.Bush sau sự kiện
11/9/2001 .........................................................................................................................47
2.2. Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ ở Đông Bắc Á ...................................................49
2.2.1. Chính sách của Mỹ đối với sự “trỗi dậy” của Trung Quốc ...................................49
2



2.2.2. Chính sách của Mỹ đối với các đồng minh truyền thống Nhật Bản, Hàn Quốc ...58
2.2.3. Chính sách của Mỹ đối với vấn đề tranh chấp chủ quyền các hòn đảo trên biển
Hoa Đông ........................................................................................................................60
2.2.4. Chính sách của Mỹ đối với các vấn đề trên bán đảo Triều Tiên ...........................63
2.2.5. Chính sách của Mỹ đối với vấn đề “eo biển Đài Loan” ........................................66
2.3. Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ ở Đông Nam Á ..................................................69
2.3.1. Sự xác định các quốc gia đồng minh truyền thống và những quốc gia bè bạn .....69
2.3.2. Sự xem trọng về chính trị - an ninh hơn kinh tế, thương mại trong chính sách đối
ngoại của Mỹ ở Đông Nam Á .........................................................................................71
2.3.3. Chính sách của Mỹ về vấn đề dân chủ và nhân quyền ở một số quốc gia Đông
Nam Á .............................................................................................................................75
2.3.4. Quan điểm của Mỹ về vấn đề tranh chấp chủ quyền ở biển Đông .......................79

CHƯƠNG 3: MỘT SỐ NHẬN ĐỊNH, ĐÁNH GIÁ VỀ CHÍNH SÁCH ĐỐI
NGOẠI CỦA HOA KỲ Ở ĐÔNG Á TRONG THẬP NIÊN ĐẦU THẾ KỶ XXI83
3.1. Một số đặc điểm trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ ở Đông Á ....................83
3.2. Sự khác biệt trong chính sách của Hoa Kỳ giữa hai khu vực Đông Bắc Á và
Đông Nam Á ......................................................................................................................89
3.3. Những hệ lụy từ chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ đối với khu vực Đông Á..............92
3.4. Những rào cản trong việc triển khai chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ ở khu vực
Đông Á ...............................................................................................................................95
3.5. Triển vọng của việc triền khai chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ ở khu vực Đông
Á trong thời gian tới. ........................................................................................................99

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 104
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 107
PHỤ LỤC LUẬN VĂN ........................................................................................... 116


3


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Viết đầy đủ

Viết tắt
ĐNA

Đông Nam Á

ĐBA

Đông Bắc Á

CA – TBD

Châu Á – Thái Bình Dương

TBCN

Tư bản chủ nghĩa

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

CHDCND
LHQ


Cộng hòa dân chủ nhân dân
Liên hợp quốc

4


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sau sự sụp đổ của trật tự hai cực Ianta, thế giới bước vào khoảnh khắc đơn cực
với khoảng thời gian 15 -20 năm của trật tự đơn cực do siêu cường Mỹ thống trị. Trong
khoảng thời gian ngắn ngủi ấy, Mỹ là siêu cường số một và cũng là duy nhất – một hiện
tượng đặc biệt trong lịch sử nhân loại. Tuy nhiên, cũng trong khoảng thời gian ấy, thế
giới đã có những biến động không ngừng và to lớn: chủ nghĩa khủng bố quốc tế hoành
hành, xu hướng toàn cầu hóa và sự trỗi dậy của các cường quốc mới nổi – đặc biệt là sự
trỗi dậy của Trung Quốc đã thách thức vai trò bá quyền toàn cầu của Mỹ, khủng hoảng
kinh tế thế giới và sự tuột dốc của nền kinh tế Mỹ,… Tất cả những biến động to lớn ấy
đã tác động đến chính sách đối ngoại của hầu hết các quốc gia trên thế giới trong đó có
Mỹ - với tư cách là một siêu cường.
Trong bối cảnh ấy, Mỹ đã buộc phải có những điều chỉnh chiến lược trong chính
sách đối ngoại. Từ trọng tâm trong chính sách đối ngoại là châu Âu và khu vực Trung
Đông, Mỹ đã chuyển trọng tâm trong chính sách đối ngoại của mình sang khu vực châu
Á – Thái Bình Dương (CA – TBD). Và trong chiến lược an ninh CA – TBD, địa bàn
được Mỹ chú trọng hơn cả đó chính là khu vực Đông Á (bao gồm Đông Bắc Á và Đông
Nam Á). Sự chuyển hướng chiến lược trong chính sách đối ngoại này của Mỹ nhằm mục
đích chủ yếu là để đối phó với sự trỗi dậy của Trung Quốc – cường quốc đang thức vai
trò lãnh đạo thế giới của Mỹ.
Xuất phát từ thực tế nêu trên của tình hình thế giới những năm đầu thế kỷ XXI,
việc tìm hiểu về những điều chỉnh trong chính sách đối ngoại của siêu cường Mỹ đối với
khu vực CA – TBD nói chung và khu vực Đông Á nói riêng đang là những vấn đề thời
sự nóng bỏng, nó ảnh hưởng và chi phối trực tiếp đến việc hoạch định chính sách, đến

tình tình an ninh, chính trị của các quốc gia ở khu vực Đông Á. Đây cũng là lý do thôi
thúc tôi thực hiện đề tài này bởi tính thời sự nóng bỏng và sức hấp dẫn của nó.

2. Mục đích nghiên cứu

5


- Phục dựng chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ đối với khu vực Đông Á trên các lĩnh
vực kinh tế, an ninh – chính trị, vấn đề tự do – nhân quyền,…
- Chỉ ra những điều chỉnh trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ ở khu vực Đông
Á trước thế kỷ XXI so với giai đoạn thập niên đầu của thế kỷ XXI.
- Rút ra một số nhận định, đánh giá về chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ ở khu vực
Đông Á, đồng thời so sánh những điểm khác biệt trong chính sách của Hoa Kỳ giữa hai
khu vực Đông Bắc Á và Đông Nam Á.

3. Nguồn tư liệu và lịch sử nghiên cứu vấn đề
∗Về nguồn tư liệu: Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng các loại tư liệu từ
các nguồn sau: các công trình viết thành sách, các bài viết đăng trên các tạp chí của các
nhà nghiên cứu trong và ngoài nước có liên quan đến đề tài, các bài viết đăng ở các
website trên Internet.
∗Về lịch sử nghiên cứu vấn đề: Do là đề tài mới, mang tính thời sự nên tính đến
thời điểm thực hiện đề tài này, theo chúng tôi được biết, chưa có công trình nào đi sâu
vào nghiên cứu một cách hệ thống toàn bộ chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ ở khu vực
Đông Á vào thập niên đầu thế kỷ XXI trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị - an ninh, tự do
nhân quyền. Tuy nhiên, ở từng lĩnh vực hoặc từng vấn đề, sự kiện cụ thể cũng đã có một
số công trình của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước viết thành sách hoặc dưới
dạng bài viết đăng trên một số tạp chí. Đây là những tư liệu quý để chúng tôi tham khảo
trong quá trình thực hiện đề tài. Cụ thể, có thể kể đến một số công trình tiêu biểu sau
đây:

TS. Trần Anh Phương (Chủ biên, 2007), Chính trị khu vực Đông Bắc Á từ sau
chiến tranh lạnh, NXB Khoa học xã hội, HN. Công trình này gồm 4 chương đề cập đến
các vấn đề như thể chế chính trị, tranh chấp lãnh thổ và những mâu thuẫn cơ bản ở Đông
Bắc Á, vấn đề về liên kết kinh tế,… Đây là những tư liệu quý để chúng tôi tham khảo
trong quá trình thực hiện đề tài, đặc biệt là ở phần chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ với
khu vực Đông Bắc Á.
TS. Phạm Quý Long (Chủ biên, 2011), Đông Bắc Á – Những vấn đề kinh tế nổi
bật (2011-2020), NXB Từ điển Bách khoa, HN. Công trình đã cung cấp cho chúng tôi
6


những tư liệu quan trọng về lĩnh vực kinh tế của các quốc gia ở Đông Bắc Á như: vị thế
của kinh tế Đông Bắc Á trong nền kinh tế toàn cầu, tính phụ thuộc lẫn nhau của các nền
kinh tế trong khu vực,… Đây là lĩnh vực quan trọng, nó chi phối đến chính sách đối
ngoại của Hoa Kỳ ở khu vực này.
PGS.TS Nguyễn Thái Yên Hương (chủ biên, 2011), Quan hệ Mỹ - Trung hợp tác
và cạnh tranh: Luận giải dưới góc độ cân bằng quyền lực”, NXB Chính trị Quốc gia –
Sự Thật, HN. Đây là công trình chuyên khảo về mối quan hệ Mỹ - Trung, đề cập đến
nhiều vấn đề, nhiều khía cạnh của mối quan hệ. Do vậy, cuốn sách có nhiều nội dung
liên quan đến đề tài mà chúng tôi đang thực hiện và trở thành một tư liệu quan trọng để
chúng tôi tham khảo.
TS. Lê Khương Thùy (Chủ biên, 2012), Quan hệ Mỹ - Trung Quốc thập niên đầu
thế kỷ XXI, NXB Khoa học xã hội, HN. Công trình gồm ba chương đề cập đến các vấn
đề như: Những nhân tố tác động đến sự điều chỉnh chiến lược toàn cầu của Mỹ đối với
Trung Quốc; Chính sách của Mỹ đối với Trung Quốc và thực trạng của mối quan hệ này
ở thập niên đầu thế kỷ XXI; Đánh giá tác động và dự báo triển vọng của mối quan hệ
Mỹ - Trung ở thập niên đầu thế kỷ XXI. Đây là một tư liệu tham khảo có nhiều nội dung
liên quan đến đề tài và giúp ích cho chúng tôi rất nhiều trong quá trình thực hiện đề tài
này.
Nguyễn Trường (2010), Thế giới thời hậu chiến tranh lạnh, NXB Tri thức, HN.

Công trình này là một tuyển tập địa - kinh tế - chính trị, với độ dày hơn 800 trang, gồm 5
phần, đề cập đến nhiều vấn đề rộng lớn của thế giới thời hậu chiến tranh lạnh, trong đó
có phần một và phần hai – là những phần đề cập đến vai trò của Hoa Kỳ và Trung Quốc
trong thế giới đương đại hiện nay.
Nguyễn Thiết Sơn (Chủ biên, 2002), Nước Mỹ năm đầu thế kỷ XXI, NXB Khoa
học xã hội, HN. Nội dung của cuốn sách đề cập đến nhiều vấn đề của nước Mỹ trong
năm đầu của thế kỷ XXI, đặc biệt là sau sự kiện ngày 11/9 như vấn đề về khủng bố và
chống khủng bố, các vấn đề về kinh tế, chính trị, xã hội,… Và ở phần IV (từ trang 147
đến trang 249), cuốn sách đề cập đến chính sách đối ngoại và quan hệ quốc tế của chính
quyền G.Bush. Đây là phần có nhiều tư liệu cung cấp cho việc thực hiện đề tài của
chúng tôi.
7


PGS.TS Nguyễn xuân Sơn và TS.Nguyễn Văn Du (2006), Chiến lược đối ngoại
của các nước lớn và quan hệ với Việt Nam trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI, NXB
Chính trị Quốc gia, HN. Trong công trình này, các tác giả đã đề cập tới một số vấn đề
như: Cơ sở hoạch định chiến lược đối ngoại của các nước lớn sau chiến tranh lạnh, chiến
lược đối ngoại của một số nước lớn trong hai thập niên đầu của thế kỷ XXI,… Đây là tư
liệu cung cấp cho chúng tôi nhiều cứ liệu khoa học để thực hiện đề tài.
TS. Phạm Minh Sơn (Chủ biên, 2008), Chính sách đối ngoại của một số nước lớn
trên thế giới, NXB Lý luận Chính trị, HN. Với nội dung gồm 8 chương, cuốn sách đã đề
cập đến chính sách đối ngoại của hầu hết các nước lớn trên thế giới. Trong đó ở các
chương I, II,VIII là những chương đề cập đến chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ, Trung
Quốc và Nhật Bản – là những tư liệu liên quan đến đề tài mà chúng tôi thực hiện.
Fareed Zakaria (2010) (Người dịch: Diệu Ngọc), Thế giới hậu Mỹ, NXB Tri thức,
HN. Tác giả của công trình này là cây bút nổi tiếng của tờ Newsweek, một chuyên gia
phân tích về chính sách ngoại giao. Với 7 chương, cuốn sách đã đề cập những nội dung
khá rộng như: Sự trỗi dậy của phương Đông, những mâu thuẫn của thế giới đương đại,
một thế giới không có phương Tây hay quyền lực và mục tiêu của nước Mỹ,…Mặc dù

lập trường, quan điểm của người viết có cách nhìn nhận và tiếp cận của giới học giả
nước ngoài, tuy nhiên công trình cũng cung cấp những nguồn thông tin về Hoa Kỳ để
chúng tôi tham khảo trong quá trình thực hiện đề tài.
Konrad Seitz (2004) (Người dịch: Nguyễn Quang, Phan Trọng Hùng, Nguyễn
Thế Truyền), Cuộc chạy đua vào thế kỷ XXI, NXB Chính trị Quốc gia, HN. Đây là công
trình của tác giả người Đức và tác phẩm này đã được xếp vào danh mục sách bán chạy
nhất ở Cộng hòa liên bang Đức năm 1999. Công trình này gồm 5 phần với 23 chương,
đề cập đến nhiều vấn đề rộng lớn như chính trị, kinh tế, khoa học – kĩ thuật, công
nghệ,… của Mỹ, Nhật, châu Âu và Trung Quốc. Trong đó có những phần, những
chương là tư liệu tham khảo cho chúng tôi trong quá trình thực hiện đề tài.
Michael Yahuda (2006) (Người dịch: Vân Khánh), Các vấn đề chính trị Quốc tế ở
châu Á – Thái Bình Dương, NXB Văn học, HCM. Tác giả của công trình là Giáo sư môn
quan hệ quốc tế của trường Khoa học kinh tế và chính trị Luân Đôn, là học giả khách
mời ở trung tâm nghiên cứu châu Á Sigur thuộc khoa Quốc tế vụ Elliot của trường Đại
8


học George Washington và là thành viên của Trung tâm nghiên cứu Đông Á Fairbank
thuộc viện Đại học Harvard. Trong công trình này, chúng tôi rất quan tâm đến các
chương IV, VI, VII là những chương đề cập đến chính sách của Mỹ, Nhật Bản, Trung
Quốc đối với khu vực châu Á – Thái Bình Dương và các chương IX, X, XI, là những
chương đề cập đến vai trò của Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc trong thời kỳ “Kỷ nguyên ưu
thế của nước Mỹ”.
PGS.TS. Nguyễn Thái Yên Hương, PGS.TS. Tạ Minh Tuấn (Đồng chủ biên,
2011), Các vấn đề nghiên cứu về Hoa Kỳ, NXB Giáo dục Việt Nam. Đây là một công
trình tập hợp các bài viết của nhiều tác giả, được chia làm 4 chương, đề cập đến nhiều
vấn đề của Hoa Kỳ, từ lịch sử - văn hóa – xã hội, đến hệ thống chính trị, pháp luật,…
trong đó có chương IV, là chương đề cập đến chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ. Đây là
nguồn tư liệu thiết thực liên quan đến đề tài của chúng tôi.
Cùng với các công trình là các tập sách nêu ở trên, trong quá trình tìm kiếm tư

liệu để thực hiên đề tài, chúng tôi cũng đã tìm được khá nhiều các bài viết có liên quan
đến nhiều khía cạnh của đề tài. Các bài viết này là của các tác giả trong nước đăng trên
một số tạp chí nghiên cứu, tiêu biểu như:
Th.S Trịnh Thị Thu Huyền, Sức mạnh, quyền lực và bá quyền Mỹ trong cơn
khủng hoảng, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế số 3(74) tháng 9/2008.
TS. Nguyễn Thái Yên Hương, Mỹ và các vấn đề toàn cầu thời kỳ sau Chiến tranh
lạnh, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế số 1(72) tháng 3/2008.
Khổng Thị Bình và Nguyễn Vũ Tùng, Chính sách đối ngoại của Mỹ và hệ lụy đối
với khu vực châu Á – Thái Bình Dương: Các góc nhìn từ giới học giả khu vực, Tạp chí
Nghiên cứu Quốc tế số 2(77) tháng 6/2009.
TS. Vũ Lê Thái Hoàng, Đánh giá về sức mạnh của Mỹ và những hệ lụy quốc tế
trong những thập niên đầu của thế kỷ XXI, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế số 2(73) tháng
6/2008.
PGS.TS. Trần Khánh, Sự nổi lên của Trung Quốc trong tương quan quyền lực với
Mỹ và Nhật Bản ở Đông Á (thập niên đầu thế kỷ XXI), Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế số
4(79) tháng 12/2009.
9


GS.TS. Nguyễn Thiết Sơn, Cộng đồng Đông Á – Những khả năng, Tạp chí Châu
Mỹ ngày nay, số 09 năm 2006.
TS. Nguyễn Thị Hương Canh, Nhân tố Trung Quốc trong chính sách của Mỹ về
vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, số 10 năm 2006.
Nguyễn Tùng Dương, Tương lai và thế lực của Mỹ: “Khoảnh khắc đơn cực”đã
thực sự chấm dứt?, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế số 1(76) tháng 3/2009.
Th.S Lê Đình Tĩnh, Mỹ và an ninh Đông Nam Á hiện nay, Tạp chí Nghiên cứu
Quốc tế số 60.
Nhìn chung, nội dung của các bài viết nêu trên đã đề cập đến nhiều khía cạnh
khác nhau tác động đến chính sách đối ngoại của Mỹ ở khu vực Đông Á những năm đầu
thế kỷ XXI: từ thế và lực của Mỹ hiện nay đến sự nổi lên của Trung Quốc trong tương

quan quyền lực với Mỹ và Nhật Bản ở Đông Á; từ vai trò của Mỹ trong an ninh Đông Á
hiện nay đến những hệ lụy do chính sách của Mỹ gây ra cho khu vực,…Có thể nói, nội
dung và các nhận định, đánh giá của các tác giả trong các bài viết nêu trên đã trở thành
những tư liệu rất cần thiết để giúp chúng tôi thực hiện đề tài này.
Như vậy, điểm qua lịch sử nghiên cứu về vấn đề này cho thấy, từ trước đến nay, ở
trong và ngoài nước đã có một số nhà nghiên cứu tìm hiểu về chính sách đối ngoại của
Hoa Kỳ; nhưng, có thể do mục đích, nhu cầu nghiên cứu, mà họ chỉ đề cập đến giai đoạn
này hay giai đoạn khác, khía cạnh này hay khía cạnh khác trong chính sách đối ngoại
của siêu cường này mà chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống, toàn
diện và cụ thể về chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ ở khu vực Đông Á vào thập niên đầu
thế kỷ XXI. Những công trình nghiên cứu nêu ở trên đã giúp chúng tôi rất nhiều về mặt
tư liệu cũng như một số nhận định. Chúng tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn đối với tác giả của
những công trình nghiên cứu trên đây.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Về đối tượng nghiên cứu: Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ đối với khu vực
Đông Á.
Về phạm vi nghiên cứu: Đề tài được thực hiện trong giới hạn nghiên cứu về mặt
không gian, thời gian và nội dung như sau:
10


- Về mặt không gian: Giới hạn ở khu vực Đông Á (gồm Đông Bắc Á và Đông Nam
Á).
- Về mặt thời gian: Giới hạn trong khoảng thập niên đầu của thế kỷ XXI.
- Về mặt nội dung: Tìm hiểu về chính sách đối ngoại của Mỹ ở khu vực Đông Á
trong thập niên đầu của thế kỷ XXI với 3 trụ cột chính là an ninh - quốc phòng, dân chủ
nhân quyền và kinh tế. Tuy nhiên, đề tài chủ yếu chỉ đi sâu vào việc phân tích chính sách
an ninh quốc phòng của Mỹ ở Đông Á, vì hai lý do sau đây:
Thứ nhất, trong chính sách đối ngoại của Mỹ thời kỳ sau Chiến tranh Lạnh dưới

thời chính quyền B.Clinton, 3 trụ cột chính được xác định là kinh tế, an ninh – quân sự
và thúc đẩy dân chủ, nhân quyền. Tuy nhiên, bước sang thập niên đầu thế kỷ XXI, sau
sự kiện khủng bố 11/9/2001 tại Mỹ, chính quyền G. Bush đã có sự điều chỉnh chính sách
đối ngoại: vấn đề chống khủng bố được coi là ưu tiên số một, do vậy chính sách an ninh
– quân sự cũng được đặc biệt đề cao. Chính vì vậy khi tìm hiểu về chính sách đối ngoại
của Mỹ ở khu vực Đông Á trong thập niên đầu của thế kỷ XXI, bên cạnh việc trình bày
sơ lược về chính sách kinh tế, vấn đề dân chủ, nhân quyền, đề tài chủ yếu đi sâu vào việc
phân tích chính sách an ninh – quân sự của Mỹ ở Đông Á.
Thứ hai, do giới hạn về số trang của một luận văn thạc sĩ nên việc trình bày về
chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ trên cả ba lĩnh vực như đã nêu ở trên trong phạm vi
không gian rộng lớn của cả khu vực Đông Á là điều không thể thực hiện được.
Ngoài ra, trong chính sách của Mỹ đối với khu vực Đông Nam Á, đề tài không đề
cập đến trường hợp Việt Nam vì đã có nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu về quan
hệ Việt - Mỹ.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Để thực hiện đề tài, chúng tôi sử dụng cơ sở lý luận và các phương pháp nghiên
cứu cụ thể sau:
- Về cơ sở lý luận, chúng tôi dựa vào quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin và Tư tưởng
Hồ Chí Minh để xem xét, đánh giá vấn đề cũng như đánh giá tư liệu; nhìn nhận các sự
kiện lịch sử trong mối quan hệ biện chứng.
- Về phương pháp nghiên cứu chuyên ngành, chúng tôi sử dụng các phương pháp:
11


Phương pháp lịch sử: xem xét, phân tích các vấn đề, sự kiện theo thời gian, niên
đại, lịch đại, đặt các sự kiện, quá trình lịch sử trong bối cảnh khu vực và quốc tế,…
Phương pháp logic: Trình bày, sắp xếp, xâu chuỗi, lí giải các vấn đề, sự kiện.
- Về phương pháp nghiên cứu liên ngành, chúng tôi sử dụng phương pháp nghiên
cứu quan hệ quốc tế: Những nhân tố chi phối quá trình hoạch định và thực hiện đường

lối đối ngoại của một nước: Quyền lợi dân tộc, so sánh lực lượng, xu thế thời đại,…

6. Đóng góp của đề tài
- Làm rõ chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ ở khu vực Đông Á trên một số lĩnh vực
cụ thể như an ninh – quân sự, chính trị và kinh tế; đồng thời chỉ ra những điểm khác biệt
trong chính sách của Mỹ ở Đông Bắc Á so với ở Đông Nam Á, từ đó làm rõ bản chất của
chính sách đối ngoại mà Mỹ triển khai ở Đông Á…
- Đề tài là một công trình mang tính tham khảo cho những ai quan tâm đến chính
sách đối ngoại của Hoa Kỳ ở khu vực Đông Á, những người nghiên cứu, giảng dạy về
lịch sử thế giới, lịch sử quan hệ quốc tế, học viên cao học và sinh viên.

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Dẫn luận, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, kết cấu
của luận văn bao gồm 3 chương sau đây:
Chương 1. Khái quát tình hình thế giới và khu vực Đông Á từ sau Chiến tranh Lạnh
đến thập niên đầu thế kỷ XXI.
Chương 2. Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ ở Đông Á trong thập niên đầu thế kỷ
XXI.
Chương 3. Một số nhận định, đánh giá về chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ ở Đông
Á trong thập niên đầu thế kỷ XXI.

12


CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH THẾ GIỚI VÀ KHU VỰC
ĐÔNG Á TỪ SAU CHIẾN TRANH LẠNH ĐẾN THẬP NIÊN ĐẦU
THẾ KỶ XXI
1.1. Bối cảnh quốc tế
1.1.1. Sự sụp đổ của trật tự hai cực Ianta và sự hình thành trật tự thế giới mới


Sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, Liên Xô và hệ thống các nước Xã hội chủ
nghĩa ở Đông Âu sụp đổ, cân bằng quyền lực giữa Mỹ và Liên Xô tan vỡ, đã tạo ra
những biến đổi cơ bản trong tương quan so sánh lực lượng trên thế giới và cấu trúc của
hệ thống chính trị quốc tế. Thế giới bước vào thời kỳ quá độ chuyển từ trật tự “hai cực”
sang một trật tự mới với nhiều biến đổi khôn lường, khó dự báo. Mỹ trở thành siêu
cường duy nhất, không có đối thủ tương xứng. Trạng thái mất cân bằng về quyền lực
trên toàn cầu do Liên Xô bất ngờ sụp đổ dẫn tới việc các nước coi lợi ích quốc gia, dân
tộc là một động lực cơ bản chi phối hoạt động chính trị đối ngoại, do đó, khi mâu thuẫn
về ý thức hệ có khuynh hướng thuyên giảm thì mâu thuẫn dân tộc lại nổi lên hết sức phổ
biến và biểu hiện gay gắt hơn trước. Mỹ muốn duy trì nguyên trạng (status quo), nhưng
các nước lớn khác, đặc biệt là Trung Quốc - cường quốc đang “trỗi dậy”, lại muốn xác
lập một thế cân bằng quyền lực mới bảo đảm vai trò nước lớn của họ, nhất là tạo thế có
thể tham gia tạo ra “các luật chơi” cho Trung Quốc. Theo nhiều đánh giá của chính giới
Mỹ, Trung Quốc là đối thủ tiềm tàng lớn nhất của Mỹ, có khả năng đe dọa vai trò lãnh
đạo của Mỹ trong 15 – 20 năm tới. Và với việc Trung Quốc nổi lên như là một chủ thể
trong hệ thống chính trị quốc tế đương đại là chưa hề có tiền lệ trong lịch sử [2].
Trải qua 235 năm kể từ khi tuyên bố độc lập (1776 – 2011), nước Mỹ đã liên tục
có sự phát triển mạnh mẽ để từ một thuộc địa trở thành một siêu cường trên thế giới.
Cùng với sự phát triển đó là sự thay đổi (lúc mạnh hơn, lúc giảm đi trong so sánh tương
đối với các cường quốc khác) về thế và lực của Mỹ qua các thời kỳ. Hiện nay, tuy cuộc
khủng hoảng tài chính năm 2008 làm Mỹ suy yếu tương đối, hình ảnh nước Mỹ dưới
thời G.W.Bush có bị giảm đi đáng kể sau cuộc chiến ở Irắc, nhưng các chuyên gia đều
nhận định rằng đến 2020 Mỹ vẫn là một siêu cường.
13


Và dù rằng, đa số các chuyên gia đều thống nhất với nhận định chung là đến năm
2020, Mỹ vẫn là một siêu cường. Tuy nhiên, sau khi “trật tự hai cực Ianta” sụp đổ,
“khoảnh khắc đơn cực” tức “một cực” duy nhất do Mỹ thống trị chỉ kéo dài trong
khoảng 15 đến 20 năm sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc. Hiện nay, việc xác định trật tự

thế giới mới còn đang là vấn đề tranh cãi trong giới nghiên cứu và các chuyên gia. Việc
xác định trật tự thế giới mới đã hình thành hay chưa? Nếu đã hình thành thì là trật tự
“đơn cực”, “đa cực”, “vô cực” hay “nhất siêu - đa cường”… vẫn chưa có câu trả lời thỏa
đáng. Điều đó cho thấy thế giới hiện nay đang bước vào thời kỳ quá độ chuyển từ trật tự
“hai cực” thời Chiến tranh Lạnh và sau đó là trật tự “đơn cực” do Mỹ thống trị trong
khoảng hai thập niên đầu sau Chiến tranh Lạnh sang một trật tự thế giới mới với nhiều
biến đổi khôn lường, khó dự báo. Thực tế đó xuất phát từ các yếu tố như sự suy giảm về
thế và lực của Mỹ và sự nổi lên của các trung tâm quyền lực khác gồm: Trung Quốc, Ấn
Độ, EU và “sự trở lại” của Nga với vai trò là một cường quốc. Nhận định về sự nổi lên
của các trung tâm quyền lực mới nổi, Ngoại trưởng Mỹ - bà Condoleezza Rice cho rằng:
“Trong thế kỷ XXI, các nước đang nổi lên như Ấn Độ, Trung Quốc, Brazil, Ai Cập,
Indonesia và Nam Phi sẽ góp phần ngày càng quan trọng vào việc định dạng tiến trình
lịch sử” [38, tr.543 - 544]. Trong khi đó đánh giá về sự thay đổi cơ bản cán cân quyền
lực trong quan hệ quốc tế hiện nay, học giả Fareed Zakaria (người phụ trách chuyên mục
quốc tế,Tuần báo Newsweek của Mỹ) cũng cho rằng, trong 500 năm qua, thế giới đã trải
qua ba lần thay đổi cơ bản cán cân quyền lực: lần thứ nhất là sự nổi lên của phương Tây
từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII; lần thứ hai là sự nổi lên của Mỹ từ cuối thế kỷ XIX đến
giữa thế kỷ XX; lần thứ ba đang diễn ra, là sự nổi lên của phần còn lại của thế giới – sự
vươn lên này không chỉ là “sự trỗi dậy của châu Á”, mà còn của các nước Nam Mỹ,
Vùng Vịnh và cả các nước châu Phi [94, tr.1-2].
Như vậy có thể nói, sự tăng lên về sức mạnh kinh tế và vai trò chính trị của các
“diễn viên” mới đang có tác động không nhỏ đến cán cân quyền lực thế giới nói chung,
tới thế và lực của Mỹ nói riêng.
1.1.2. Sự xuất hiện của xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển

14


Sau sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu những năm
1989 – 1991, chủ nghĩa xã hội với tính cách là hệ thống thế giới không còn, trật tự thế

giới hai cực bị phá vỡ, thế giới bước vào thời kỳ kết thúc Chiến tranh Lạnh. Từ đó xu thế
hòa bình, hợp tác hình thành và ngày càng trở thành một xu thế chủ đạo[58, tr.13]. Trong
thập niên đầu thế kỷ XXI, xu thế chung trên thế giới là hòa bình, hợp tác, toàn cầu hóa
và hội nhập kinh tế khu vực, thế giới với sự nổi lên của nhiều quốc gia và nhiều khu vực
kinh tế. Hòa bình, hợp tác vì sự ổn định và phát triển kinh tế là nét cơ bản, song vẫn còn
nhiều thách thức đặt ra đối với nền hòa bình chung trên thế giới và nền kinh tế toàn cầu.
Nét mới của tình hình thế giới kể từ sau Chiến tranh Lạnh đến những năm đầu thế
kỷ XXI đó là nhân loại ngày càng phải tập trung sức mạnh của toàn thể cộng đồng để
giải quyết mâu thuẫn đang nổi lên, đe dọa đến tất cả các quốc gia, dân tộc, giữa một bên
là các lực lượng đấu tranh cho hòa bình, bảo vệ độc lập dân tộc, ổn định và phát triển
bền vững với một bên là chủ nghĩa đế quốc cường quyền áp đặt do Mỹ và các nước đế
quốc gây ra. Các nước, nhất là các nước đang phát triển bên cạnh việc phải nhanh chóng
thích nghi với toàn cầu hóa, quốc tế hóa và khu vực hóa thì cuộc đấu tranh chống mặt
trái của toàn cầu hóa cũng được xem là một nhiệm vụ quan trọng. Nội dung của thời đại
ngày nay vẫn là cuộc đấu tranh ý thức hệ để lựa chọn con đường phát triển hợp quy luật,
điều chỉnh chiến lược, sách lược để hội nhập trong xu thế toàn cầu hóa, vừa hợp tác vừa
đấu tranh trên con đường phát triển.
Xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển, có thể nói, là xu thế vận động và phát triển
chung của thế giới và hơn nữa, còn là một xu thế chính, xu thế chủ đạo trên thế giới hiện
nay. Sau Chiến tranh Lạnh và sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông
Âu vào thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX, quan hệ quốc tế đã có những thay đổi sâu sắc.
Thay cho quan hệ đối đầu và biệt phái trước đây là quan hệ đối thoại và hợp tác, giao lưu
giữa các nước. Quan hệ quốc tế hiện nay liên quan trực tiếp đến toàn cầu hóa và kinh tế
thị trường toàn cầu, đến quá trình sản xuất, trao đổi, phân phối và tiêu dùng trên quy mô
toàn cầu
[58, tr.17]. Do vậy, việc thúc đẩy hợp tác kinh tế giữa các nước trên quy mô toàn
cầu đang làm cho sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước ngày càng sâu sắc hơn, kết cấu
quan hệ quốc tế xuất hiện sự thay đổi mang tính thực chất và mới mẻ hơn.
15



Trong quá trình toàn cầu hóa các nước tư bản phát triển đang giữ vai trò chi phối,
nhưng đây cũng là những cơ hội, vận hội tốt cho các nước đang phát triển thông qua
cạnh tranh mà đi lên, để từ đó có được mối quan hệ bình đẳng hơn với các nước phát
triển. Ngược lại, các nước phát triển cũng cần các nước đang phát triển để có them thị
trường, có thêm nguồn nhân lực cho phát triển. Do vậy, cả hai nhóm nước này đều cần
đến nhau,vì thế chung sống hòa bình và cùng có lợi đang trở thành xu thế khách quan
của thế giới đương đại. Trong cạnh tranh giữa các nước vừa có đấu tranh và thậm chí
xung đột vì lợi ích riêng, vừa có hợp tác và phối hợp những nỗ lực để giải quyết những
vấn đề chung, toàn cầu. Hòa bình, hợp tác và phát triển do vậy, trở thành yêu cầu khách
quan và điều kiện tất yếu cho sự tồn tại và phát triển của toàn thể nhân loại hiện nay.
Mặt khác, xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển hình thành còn do sự tác động của
các yếu tố như: sự phát triển của khoa học – công nghệ; sự phức tạp chính trị, nan giải xã
hội và tiếp biến của các yếu tố văn hóa; sự cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường, biến
đổi khí hậu,… Đây là các yếu tố có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự hình thành
của xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển bởi không một quốc gia, dân tộc nào trong thế
giới đương đại lại không chịu sự tác động của các yếu tố này, cho dù đó là sự tác động
trực tiếp hay gián tiếp. Khi chịu sự tác động của các yếu tố này, không một quốc gia, dân
tộc nào có thể một mình đứng ra giải quyết các thách thức mà mình đang phải đối mặt,
do vậy, cần có sự hợp tác ở cấp độ toàn cầu hoặc khu vực mới mong giải quyết được. Do
đó, xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển ngày càng trở thành một xu thế tất yếu.
1.1.3. Xu thế toàn cầu hóa kinh tế quốc tế và sự tác động của các vấn đề toàn cầu

Xu thế toàn cầu hóa (mà cốt lõi là toàn cầu hóa kinh tế) không phải là một xu thế
mới xuất hiện gần đây mà nó đã hình thành ngay từ đầu thế kỷ XX, được đẩy nhanh ở
hai thập niên cuối thế kỷ XX và phát triển mạnh mẽ từ đầu thế kỷ XXI [58, tr.33]. Có
nhiều ý kiến cho rằng toàn cầu hóa hiện nay là làn sóng toàn cầu hóa hiện đại thứ ba và
được bắt đầu từ những năm 80 của thế kỷ XX, còn trước đây làn sóng toàn cầu hóa hiện
đại lần thứ nhất là từ năm 1870 đến năm 1914, làn sóng toàn cầu hóa hiện đại lần thứ hai
là từ năm 1950 đến năm 1980


16


[54, tr.5 – 7 ]. Xu thế này tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội từ kinh tế
đến chính trị văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng v.v… cuốn hút tất cả các nước, các
quốc gia trên thế giới, chi phối những biến đổi của tình hình thế giới hiện nay. Và cho dù
được nhìn nhận từ góc độ nào thì người ta đều thống nhất với nhau rằng, toàn cầu hóa là
một quá trình không thể đảo ngược trong ít nhất một vài thập kỷ tới [58, tr.34].
Xu thế toàn cầu hóa ngày càng diễn ra mạnh mẽ bởi đặc điểm của toàn cầu hóa, ở
khía cạnh kinh tế, là việc tạo ra hàng loạt cơ hội cho sự phát triển ở mỗi quốc gia, mỗi
khu vực và toàn thế giới. Đó là gia tăng các tập đoàn, các công ty xuyên quốc gia, thúc
đẩy tiến bộ khoa học và chuyển giao công nghệ mới; các công ty xuyên quốc gia và các
tổ chức tài chính thế giới (như Quỹ tiền tệ quốc tế, Ngân hàng thế giới, Ngân hàng châu
Âu, Ngân hàng châu Á, Tổ chức thương mại thế giới, v.v…) ngày càng trở thành những
chủ thể chính trong các quan hệ kinh tế quốc tế; đẩy mạnh tự do hóa thương mại và gia
tăng nhanh chóng mậu dịch, đẩy mạnh di chuyển vốn đầu tư, chuyển giao công nghệ và
nâng cao năng lực cạnh tranh; chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi cơ chế quản lý
kinh tế, mở rộng thị trường, đa dạng hóa và chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu; mở rộng các
hình thức tổ chức hoạt động kinh tế quốc tế v.v…[54, tr.90 – 98].
Xu thế toàn cầu hóa ngày càng diễn ra mạnh mẽ còn bởi vai trò và tầm quan trọng
của nó. Toàn cầu hóa kinh tế làm gia tăng nhanh số lượng, quy mô và vai trò của các
công ty xuyên quốc gia; tăng cường phân công và chuyên môn hóa lao động quốc tế;
thúc đẩy tiến bộ khoa học và chuyển giao công nghệ; đẩy mạnh tự do hóa thương mại;
đẩy mạnh di chuyển vốn đầu tư, chuyển giao công nghệ và nâng cao năng lực cạnh
tranh; chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, mở rộng thị
trường; cải cách hệ thống tài chính, ngân hàng; nâng cao hiệu quả và năng lực vạnh
tranh của các quốc gia; thúc đẩy giao lưu và hội nhập kinh tế quốc tế, phối hợp ngăn
ngừa và giảm thiểu ảnh hưởng tiêu cực của các cuộc suy thoái kinh tế, khủng hoảng tài
chính tiền tệ, nạn độc quyền, gian lận thương mại, v.v..

Mặt khác, trong điều kiện toàn cầu hóa, sự liên kết giữa các quốc gia, dân tộc trên
thế giới ngày càng tăng lên. Đó là do chi phí vận chuyển hàng hóa, thông tin liên lạc, các
hàng rào thuế quan thương mại ngày càng giảm xuống. Bên cạnh đó, sự liên kết về kinh
tế kéo theo những liên kết về chính trị, văn hóa xã hội; đưa lại những trao đổi về xã hội
17


theo hướng dân chủ hóa. Toàn cầu hóa ngày nay không còn chỉ là toàn cầu hóa về kinh
tế, dù rằng toàn cầu hóa về kinh tế vẫn là chủ yếu, mà còn bao hàm cả khía cạnh chính
trị, văn hóa, xã hội.
Tuy nhiên, toàn cầu hóa cũng ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của các nền
kinh tế, nhất là những nền kinh tế các nước đang phát triển. Đó là nợ nước ngoài tăng,
nền kinh tế của các quốc gia trở nên phụ thuộc vào nhau nhiều hơn và dễ có những biến
động dây chuyền, khó khăn trong kiểm soát và kiềm chế khủng hoảng tài chính; tăng sự
phụ thuộc của các nước kém phát triển vào các nước phát triển, tăng mức độ chênh lệch
giàu nghèo, v.v.. Ở khía cạnh văn hóa – xã hội, toàn cầu hóa có xu hướng chuyển hóa
những bộ phận dân tộc đa dạng thành một nền văn minh nhân loại chung nhất, đồng thời
chuyển hóa cộng đồng các dân tộc đa dạng trên thế giới thành một nền văn minh nhân
loại chung nhất.
Tóm lại, toàn cầu hóa kinh tế là một xu thế khách quan và đang ngày càng diễn ra
mạnh mẽ, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia với cả thời cơ và nguy cơ, vừa có mặt
tích cực vừa có mặt tiêu cực. Đây cũng là một đặc điểm nổi bật của tình hình thế giới kể
từ sau Chiến tranh Lạnh đến nay.
1.1.4. Vụ khủng bố ngày 11/9/2001 và sự tác động đến chính sách đối ngoại của
Hoa Kỳ đối với khu vực Đông Á

Sáng ngày 11/9, cả nước Mỹ đã bị rung chuyển bởi một loạt vụ khủng bố bằng
máy bay xảy ra đồng thời và có hệ thống nhằm vào các trung tâm trọng yếu về thương
mại và quốc phòng, vốn là biểu tượng cho sức mạnh và sự thịnh vượng của nước Mỹ.
Tòa tháp đôi của Trung tâm Thương mại quốc tế sừng sững tại trung tâm New York phút

chốc biến thành đống đổ nát. Lầu năm góc, trụ sở của Bộ Quốc phòng, nơi được bảo vệ
một cách nghiêm ngặt, cũng bị tấn công làm sụp đổ cả một góc tòa nhà. Hệ thống an
ninh phòng thủ của Mỹ hoàn toàn bị động trước các vụ tấn công trên. Cơ quan tình báo
cũng không hề có thông tin gì về vụ khủng bố.
Vụ khủng bố này đã rung lên một hồi chuông mới về khủng bố và chống khủng
bố. Nó đã và đang tác động đến nhiều mặt của đời sống kinh tế, chính trị - xã hội nước
Mỹ và của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Vụ khủng bố ngày 11/9/2001 là vụ khủng
18


bố lớn nhất trong lịch sử nhân loại xét trên tất cả các phương diện: thiệt hại về tính mạng
con người, về tài sản, về tinh thần, về niềm tin, về mức độ ảnh hưởng, về không gian
cũng như thời gian, về kế hoạch chuẩn bị, sự tinh vi, thời gian chuẩn bị cho cuộc khủng
bố, về ảnh hưởng đến an ninh, chính trị, về sự phát triển kinh tế. Đây là vụ khủng bố
mang tính toàn cầu mặc dù nó xảy ra trên đất Mỹ. Do đó, chúng ta có thể nhận thấy được
bức tranh toàn cảnh về hậu quả của khủng bố nói chung qua phân tích hậu quả của cuộc
khủng bố ngày 11/9/2001 tại Mỹ.
Phát biểu trên kênh truyền hình toàn quốc tối ngày 11/9, Tổng thống Mỹ
G.W.Bush coi đây là một thảm kịch quốc gia và là một hành động chiến tranh. Ông kêu
gọi sử dụng toàn bộ nguồn lực quốc gia để cứu trợ các nạn nhân, và cam kết sẽ trả thù và
trừng trị không phân biệt những kẻ tiến hành khủng bố cũng như những nước che chở
cho chúng. Công cuộc cứu hộ đã được tiến hành khẩn trương ở New York, song kết quả
thu được rất bi quan do đống đổ nát quá lớn. Thiệt hại về người là vô cùng to lớn, hơn
gấp đôi số thương vong của Mỹ trong vụ Nhật Bản tấn công vào Trân Châu Cảng 60
năm trước (khoảng 3000 quân). Cho đến ngày 21/9, ngoài 266 hành khách trên 4 chiếc
máy bay, số tử vong ở Lầu năm góc là 180 người. Hơn 5000 người của 79 quốc gia đã
chết, trong đó có 300 cảnh sát và nhân viên cứu hỏa New York đang làm nhiệm vụ trong
hai tòa nhà trước khi chúng sụp đổ. Những nước có số người chết từ 200 người trở lên
bao gồm: Mỹ, Côlômbia, Pakistan, Anh. Những nước có số người chết từ 50 người trở
lên bao gồm: Úc, Bỉ, Nhật Bản, Nga, Thụy sĩ, Thổ Nhĩ Kỳ, Canada, El Salvador, Hy

Lạp, Ireland, Israel, Italia. Có 7 nước có một công dân bị chết là New Zealand, Norway,
Bahamas, Bolivia, Costarica, Srilanka, St. Luci
[61, tr.33].
Hầu hết nhân dân trên thế giới đều bàng hoàng và phẫn nộ khi chứng kiến những
cảnh tượng tàn phá chết chóc qua các kênh truyền hình và các hãng thông tấn, báo chí
của nước Mỹ cũng như trên khắp thế giới. Các nhà lãnh đạo của tất cả các nước trên thế
giới đều lên tiếng phản đối hành động khủng bố và gửi điện chia buồn đến chính phủ và
nhân dân Mỹ. Tổng thư ký Liên Hợp quốc Kofi Annan nói “Tất cả chúng ta đều đau
thương trước tấn bi kịch khủng khiếp này”. Tổng thống Nga V.Putin phát biểu “Chủ
19


nghĩa khủng bố đang là một thách thức đối với nhân loại và Nga sẽ hợp tác với Mỹ để
chống chủ nghĩa khủng bố”. Thủ tướng Pháp J.Chirac cũng cho rằng “Thế giới cần phải
chống lại chủ nghĩa khủng bố bằng mọi cách”. Chủ tịch Trung Quốc Giang Trạch Dân
đã phản đối vụ khủng bố và cam kết sẽ tham gia hợp tác quốc tế chống khủng bố. Các
nhà lãnh đạo các nước Cuba, Libi, Iran, Palestine đều kịch liệt lên án vụ khủng bố. Các
nước đồng minh của Mỹ đều bày tỏ tình đoàn kết với Mỹ. Thủ tướng Đức nói “Vụ
khủng bố là một lời tuyên chiến đối với thế giới văn minh”. Thủ tướng Anh Tony Blair
thì cam kết “Nhân dân Anh sẽ sát cánh cùng nhân dân Mỹ trong thời khắc khó khăn
này”. Ngày 12/9/2001, trong điện chia buồn gửi Tổng thống Hoa Kỳ G.Bush, Chủ tịch
nước ta Trần Đức Lương nhấn mạnh: “Chính phủ và nhân dân Việt Nam rất sửng sốt
trước thảm họa đã xảy ra tại Hoa Kỳ sáng ngày 11/9, bày tỏ sự chia buồn sâu sắc tới
Chính phủ và nhân dân Hoa Kỳ, đặc biệt là tới gia đình các nạn nhân. Trước sau như
một, Việt Nam phản đối những hành động khủng bố gây chết chóc, đau thương cho dân
thường” [4]. Các tổ chức và diễn đàn quốc tế cũng cực lực lên án vụ khủng bố này.
Tuyên bố của các nhà lãnh đạo APEC về chống khủng bố nêu rõ: “Các nhà lãnh đạo lên
án một cách rõ ràng bằng những ngôn từ mạnh mẽ nhất các vụ tấn công khủng bố tại
Hoa Kỳ ngày 11/9/2001 và bày tỏ sự cảm thông và lời chia buồn sâu sắc nhất đối với
nạn nhân của nhiều quốc gia và gia đình họ và đối với nhân dân và Chính phủ Hoa Kỳ.

Các nhà lãnh đạo coi các hành vi giết người cũng như các hành động khủng bố dưới mọi
hình thức và biểu hiện, được thực hiện ở bất kỳ nơi nào và thời điềm nào bởi bất kỳ ai,
đều là sự đe doa sâu sắc đối với hòa bình, thịnh vượng và an ninh của mọi dân tộc thuộc
mọi tín ngưỡng, mọi quốc gia” [ 81].
Các cơ quan quốc tế có trụ sở tại New York, kể cả cơ quan Đại hội đồng Liên
Hợp quốc cũng đã được lệnh sơ tán để bảo đảm an ninh. Ngay sau khi nhóm họp lại,
ngoài việc thảo luận, thông qua Nghị quyết số 56/1 ngày 12/9/2001 lên án chủ nghĩa
khủng bố và các tuyên bố khác, Đại Hội đồng Liên Hợp quốc đã giành tới 5 ngày (từ
ngày 1-5/10/2001) để thảo luận về các vấn đề khủng bố (Xem trang web của Liên Hợp
quốc).

20


Vụ khủng bố 11/9 đánh dấu một bước ngoặt trong tư duy an ninh của Mỹ. Sự kiện
này đã khiến người Mỹ phải nhìn nhận rõ ràng hơn về sự thay đổi của môi trường an
ninh và các thách thức an ninh đối với Mỹ. Đó là biểu hiện cụ thể mức độ thách thức của
chủ nghĩa khủng bố quốc tế đối với an ninh Mỹ; là cú sốc chiến lược, thúc đẩy những
điều chỉnh chính sách quan trọng mang tính tổng thể trong chiến lược an ninh Mỹ; tác
động mạnh tới chính sách chống khủng bố của Mỹ không chỉ ở khu vực Đông Á mà trên
phạm vi toàn thế giới [52, tr.39].
Ở cấp độ chiến lược, quan điểm của chính quyền G.Bush về an ninh đối với Đông
Á, phần nào có sự kế thừa tư duy của chính quyền Bill Clinton. Mục tiêu bao trùm của
Mỹ tại Đông Á vẫn là duy trì vị thế, ảnh hưởng và vai trò lãnh đạo của Mỹ ở khu vực,
ngăn chặn không để cho bất cứ một nước hay một nhóm nước nào nổi lên thách thức vai
trò, vị trí của Mỹ. Lợi ích của Mỹ tại Đông Á vẫn là duy trì hòa bình, ổn định khu vực;
thúc đẩy tự do hóa thương mại; tiếp cận tự do và an toàn các tuyến đường biển trọng
yếu; thúc đẩy dân chủ hóa theo kiểu phương Tây. Tại cuộc điều trần trước ủy ban đối
ngoại – Thượng viện Mỹ (ngày 26/4/2001), ông James Kelly – Trợ lý ngoại trưởng Mỹ
về Đông Á – Thái Bình Dương đã khẳng định “Lợi ích của chúng ta ở Đông Á là không

thay đổi” [40].
Sau sự kiện 11/9, vấn đề bảo vệ nước Mỹ trước những cuộc tấn công khủng bố
được chú trọng hơn bao giờ hết. Với ưu tiên số một cho cuộc chiến chống khủng bố
trong chiến lược an ninh quốc gia của mình, Mỹ hiểu rằng cuộc chiến này đòi hỏi phải
có sự hợp tác mạnh mẽ của các đồng minh quốc tế. Bởi vậy trong triển khai chiến lược
an ninh đối với khu vực Đông Á sau sự kiện 11/9, Mỹ coi Đông Á là một địa bàn quan
trọng, tìm kiếm sự ủng hộ của các đồng minh trong khu vực; thông qua ASEAN (ARP)
để thúc đẩy hợp tác trong một mặt trận chung chống khủng bố quốc tế. Đồng thời, Mỹ
đã cứng rắn hơn trong quan hệ song phương với các nước được coi là “đối thủ chiến
lược”.
1.1.5. Khủng hoảng kinh tế toàn cầu và sự suy giảm về thế và lực của Mỹ

Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 mà điểm xuất phát là từ khủng
hoảng tín dụng nhà đất ở Mỹ, đã có ảnh hưởng tiêu cực đến hầu hết các nền kinh tế trên
21


thế giới, đặc biệt là nền kinh tế của các nước tư bản phát triển. Diễn biến và tác động của
cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 cực kỳ phức tạp và khó dự đoán trước
động thái của nó. Kể từ khi nổ ra cuộc khủng hoảng, nền kinh tế thế giới đã rơi vào vòng
suy thoái trầm trọng. Sản xuất, xuất khẩu và đầu tư giảm mạnh, thị trường tiêu dùng bị
co hẹp, thất nghiệp tăng nhanh, cán cân thương mại nói chung của các nước rơi vào tình
trạng thâm hụt lớn, lạm phát tăng cao và các chỉ số kinh tế gần đây cho thấy chưa có dấu
hiệu của sự phục hồi. Bất chấp các nỗ lực của các chính phủ và các tổ chức tài chính
quốc tế như IMF và World Bank trong việc thực hiện các giải pháp và chính sách kinh tế
nhằm đối phó với cuộc khủng hoảng, nền kinh tế thế giới vẫn chưa có dấu hiệu khởi sắc
[30, tr.32 ].
Với vị thế là siêu cường về kinh tế và quân sự trên thế giới, là đầu tầu của nền
kinh tế thế giới, do vậy cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 đã tác động sâu sắc
đến nền kinh tế Mỹ, làm cho thế và lực của Mỹ suy giảm đáng kể trên trường quốc tế.

Kể từ khi trở thành một siêu cường trên thế giới sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất,
Mỹ đã trải qua một lần suy giảm về thế và lực, đó là giai đoạn từ giữa thập niên 1960
đến cuối thập niên 1970. Khi đó, nước Mỹ hai lần rơi vào suy thoái kinh tế (thập niên 70
và 80), phải cạnh tranh quyết liệt với hai trung tâm kinh tế TBCN khác là Tây Âu và
Nhật Bản; phải đối phó với sự vươn lên mạnh mẽ của Liên Xô và hệ thống các nước
XHCN, thất bại trong chiến tranh Việt Nam. Tuy nhiên, giai đoạn suy giảm đó của Mỹ
không nghiêm trọng như trong giai đoạn hiện nay. Sự suy giảm thế và lực hiện nay của
Mỹ thể hiện trên nhiều mặt:
Về kinh tế, hiện nay Mỹ đang mất dần vai trò là động lực chính của nền kinh tế thế
giới, cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ hiện nay được coi là nghiêm trọng nhất kể từ
Đại khủng hoảng (1929 – 1933) khởi đầu từ Mỹ đã làm lung lay mạnh vai trò trung tâm,
“thành trì” về tài chính của Mỹ. Theo Tuần báo Kinh doanh (Business Week) của Mỹ,
số ra ngày 22 – 29-8-2005, tỷ trọng của Mỹ trong nền kinh tế toàn cầu sẽ giảm từ 28%
năm 2004 xuống 27% nặm và 26% năm 2050. Năm 2005 là một năm đáng báo động đối
với thị trường chứng khoán New York: 24 trong tổng số 25 đợt lên sàn (IPO) lớn nhất
trong năm đó diễn ra bên ngoài nước Mỹ [102]. Kể từ năm 2002, mỗi năm Mỹ thâm hụt
ngân sách từ 300 đến 400 tỷ đôla, lên đến 450 tỷ trong tài khóa 2007 – 2008. Tính đến
22


tháng 10/2008, tổng nợ quốc gia đã vượt 10.000 tỷ đôla, trong đó 25% là nợ nước ngoài.
Thâm hụt thương mại của Mỹ là khoảng 700 tỷ đôla mỗi năm, chủ yếu là nhập siêu với
Trung Quốc và các nước xuất khẩu dầu [22, tr.135].
Việc bảo đảm an ninh năng lượng là một trong những vấn đề hết sức khó khăn đối
với Mỹ trong những năm đầu của thế kỷ XXI. Về cơ bản, Mỹ phụ thuộc nhiều vào việc
nhập khẩu năng lượng. Năm 2003, nhập khẩu dầu và năng lượng của Mỹ chiếm hơn 1/4
tổng thâm hụt thương mại hàng hóa và dịch vụ, đến năm 2008 con số này đã vượt mức
3/4 tổng thâm hụt thương mại. Tuy nhiên, việc này có thể sẽ được khắc phục được trong
một tương lai gần, do việc phát triển các nguồn năng lượng thay thế đang được Chính
phủ Mỹ ưu tiên đầu tư cả về vốn và kỹ thuật công nghệ.

Hiện nay, kinh tế Mỹ đang vấp phải sự cạnh tranh ngày càng lớn từ các nền kinh
tế khác như Trung Quốc, Nhật Bản, EU, Nga, Ấn Độ và Braxin. Cuộc khủng hoảng tài
chính nghiêm trọng ở Mỹ vẫn đang cần những biện pháp mạnh để khắc phục, song cũng
cần phải mất một thời gian nữa mới có thể ổn định. Đồng thời, Mỹ đang phải tiếp tục
giải quyết những vấn đề kinh tế - xã hội lớn có tính cơ cấu sau đây: Vấn đề thâm hụt
ngân sách và thương mại, vấn đề an ninh năng lượng, vấn đề tái cơ cấu nền kinh tế và
duy trì hệ thống an sinh - xã hội. Điều này sẻ ảnh hưởng đến sự tăng trưởng kinh tế
cũng như vai trò lãnh đạo kinh tế của Mỹ [37, tr.196].
Về chính trị, uy tín chính trị của Mỹ cũng suy giảm đáng kể ở nhiều khu vực trọng
yếu trên thế giới do hình ảnh của Mỹ bị sứt mẻ nhiều sau những sa lầy ở hai cuộc chiến
Irắc và Ápganixtan và đặc biệt là từ sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008. Mô hình
kinh tế, giá trị văn hóa Mỹ không còn đủ sức hấp dẫn để Mỹ có thể truyền bá ra bên
ngoài. Điển hình như tại Đông Á, uy tín chính trị của Mỹ cũng có phần suy giảm so với
thập niên 90 của thế kỷ 20. Điều này bắt nguồn từ sự tương đối lơ là của Mỹ trong việc
giúp các nước ASEAN thoát khỏi khủng hoảng tài chính – tiền tệ châu Á năm 1997 –
1998 và thái độ đôi khi thiếu công bằng của Mỹ đối với tín đồ Hồi giáo trong cuộc chiến
chống khủng bố. Hơn nữa, sự quan tâm chưa đúng mức của Mỹ đến việc mở rộng
thương mại với ASEAN, nhất là xây dựng các FTA, trong khi Trung Quốc lại đi đầu
trong lĩnh vực này cũng góp phần làm giảm một cách tương đối vị thế của Mỹ ở Đông
Nam Á. Tuy nhiên, từ khi Barack Obama lên cầm quyền (2008), Mỹ dường như hiểu ra
23


×