Tải bản đầy đủ (.pdf) (132 trang)

cảm hứng trữ tình sử thi trong thơ lê anh xuân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.3 MB, 132 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN BÁ LONG

CẢM HỨNG TRỮ TÌNH - SỬ THI TRONG
THƠ LÊ ANH XUÂN

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

Thành phố Hồ Chí Minh - năm 2006



LỜI CẢM ƠN
Hoàn thành được chương trình đào tạo và luận văn thạc sĩ này, tôi xin bày tỏ lòng cảm
ơn sâu sắc đối với Ban giám hiệu, phòng KHCN-SĐH, Khoa Ngữ văn Trường Đại học Sư
phạm TP. Hồ Chí Minh cùng tất cả Quý Thầy Cô đã tận tình giảng dạy, giúp đỡ tôi trong thời
gian học tập tại trường.
Đặc biệt tôi xin ghi lòng tạc dạ công ơn của PGS TS. Huỳnh Như Phương, thầy đã tận
tụy chỉ bảo và hướng dẫn tôi trong suốt quá trình nghiên cứu.

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 7 năm 2006
Nguyễn Bá Long

3


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................. 3
MỤC LỤC .................................................................................................................... 4


DẪN NHẬP .................................................................................................................. 6
1. Lý do chọn đề tài. ............................................................................................................6
2. Giới hạn đề tài. ................................................................................................................7
3. Lịch sử vấn đề. ................................................................................................................7
4. Phương pháp nghiên cứu. ............................................................................................19
5. Những đóng góp của luận văn. ....................................................................................20
6. Cấu trúc luận văn. ........................................................................................................20

CHƯƠNG 1: CẢM HỨNG TRỮ TÌNH - SỬ THI TRONG THƠ CHỐNG MỸ
..................................................................................................................................... 21
1.1. Khái niệm cảm hứng trữ tình - sử thi. .....................................................................21
1.1.1. Cảm hứng nghệ thuật.............................................................................................21
1.1.2. Cảm hứng trữ tình - sử thi. ....................................................................................24
1.2. Đặc điểm cảm hứng trữ tình - sử thi trong thơ chống Mỹ. ....................................27
1.2.1. Biên độ thời gian thơ chống Mỹ. ...........................................................................27
1.2.2. Đặc điểm về tư tưởng tình cảm. ............................................................................28
1.2.3. Đặc điểm về cái “tôi” trữ tình................................................................................32
1.2.4. Đặc điểm về giọng điệu nghệ thuật. ......................................................................38

CHƯƠNG 2: NỘI DUNG CẢM HỨNG TRỮ TÌNH - SỬ THI TRONG THƠ LÊ
ANH XUÂN ................................................................................................................ 48
2.1. Lê Anh Xuân, cuộc đời và hành trình thơ. ..............................................................48
2.1.1. Tiểu sử Lê Anh Xuân. ...........................................................................................48
2.1.2. Hành trình thơ Lê Anh Xuân .................................................................................49
2.2. Cơ sở hình thành cảm hứng trữ tình - sử thi trong thơ Lê Anh Xuân. ................52
2.2.1. Những yếu tố chủ quan..........................................................................................52
2.2.2. Những yếu tố khách quan. .....................................................................................55
2.3. Nội dung cảm hứng trữ tình - sử thi trong thơ Lê Anh Xuân. ..............................57
2.3.1. Cảm hứng về quê hương đất nước. .......................................................................57
2.3.2. Cảm hứng về con người và thời đại. .....................................................................68

2.3.3. Cảm hứng về Đảng và lãnh tụ. ..............................................................................78

CHƯƠNG 3: MỘT SỐ PHƯƠNG THỨC THỂ HIỆN CẢM HỨNG TRỮ TÌNH SỬ THI TRONG THƠ LÊ ANH XUÂN ................................................................. 87


3.1. Cách sử dụng ngôn từ và thể thơ..............................................................................87
3.1.1. Cách sử dụng ngôn từ thơ......................................................................................87
3.1.2. Cách sử dụng thể thơ. ............................................................................................97
3.2. Cách sử dụng hình ảnh, màu sắc có ý nghĩa biểu tượng. .....................................105
3.2.1. Hình ảnh cây dừa, dòng sông và đất....................................................................105
3.2.2. Màu sắc đa dạng, tươi sáng, giàu ý nghĩa. ..........................................................109
3.3. Sử dụng bút pháp cách điệu - lý tưởng hóa và liên tưởng - khái quát hóa. .......113
3.3.1. Bút pháp cách điệu - lý tưởng hóa. ......................................................................114
3.3.2. Liên tưởng - khái quát hóa. .................................................................................116
3.4. Giọng điệu thơ Lê Anh Xuân. .................................................................................119
3.4.1. Giọng trong trẻo, nhỏ nhẹ, chân tình. ..................................................................119
3.4.2. Giọng ngợi ca nồng nhiệt mà sâu lắng. ...............................................................121

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 123
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 126

5


DẪN NHẬP
1. Lý do chọn đề tài.
Thơ ca thời kỳ kháng chiến chống Mỹ đã góp phần vào thắng lợi vẻ vang của dân tộc. Để
có một nền thơ ca rất đáng trân trọng và tự hào như vậy, chúng ta không thể không nói đến đội
ngũ những cây bút trẻ đầy tài năng và tâm huyết như Nguyễn Khoa Điềm, Phạm Tiến Duật,
Nguyễn Duy, Lê Anh Xuân, Hữu Thỉnh, Dương Hương Ly, Thanh Thảo, Nguyễn Đức Mậu...

Họ là những nhà thơ - chiến sĩ trực tiếp lăn xả trên khắp các chiến trường ác liệt để tìm cảm
hứng sáng tác. Thơ của họ không dừng lại ở sự chiêm ngưỡng, ngợi ca mà còn bộc lộ những
suy ngẫm, những khái quát từ điểm nhìn cận cảnh của hiện thực chiến tranh. Có thể nói, thế hệ
nhà thơ này đã góp phần làm rạng rỡ cho nền thơ ca cách mạng với những gương mặt, những
giọng điệu vừa mang dấu ấn thời đại vừa rất riêng, rất độc đáo.
Càng đáng trân trọng hơn, trong đội ngũ những nhà thơ ra trận cũng có những người đã
anh dũng hy sinh để: “Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân” (Lê Anh Xuân).
Lê Anh Xuân là một trong những nhà thơ như vậy. Sự nghiệp sáng tác của ông tuy ngắn
ngủi, số lượng tác phẩm không nhiều nhưng thơ ông đã để lại trong lòng người đọc những ấn
tượng sâu sắc và có vị trí tỏa sáng trong nền thơ chống Mỹ: "Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác
của Lê Anh Xuân mãi mãi là mẫu mực về nhân cách của một nghệ sĩ chân chính, đã có những
đóng góp đáng kể không chỉ đối với nền văn học giải phóng Miền Nam mà với cả nền văn học
cách mạng dân tộc "[91, tr.346]. Những đóng góp của nhà thơ - chiến sĩ này đã được ghi nhận.
Đó là giải thưởng của Tạp chí Văn nghệ năm 1961 giành cho bài thơ Nhớ mưa quê hương (giải
nhì). Một số thi phẩm của ông được chọn giảng trong trường phổ thông; tên tuổi và sự nghiệp
sáng tác của Lê Anh Xuân tiếp tục được nghiên cứu ở bậc học Cao đẳng và Đại học. Năm
2001 Lê Anh Xuân được truy tặng Giải thưởng nhà nước về văn học nghệ thuật.
Tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu thơ Lê Anh
Xuân trên cấp độ tổng thể. Thiết nghĩ, đối với một nhà thơ trẻ tài năng, tâm huyết như Lê Anh
Xuân cần nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống.
Vì vậy, chúng tôi chọn đề tài Cảm hứng trữ tình - sử thi trong thơ Lê Anh Xuân với
ý nguyện được làm một việc hữu ích, thiết thực trong giảng dạy thơ Lê Anh Xuân nói riêng và
thơ chống Mỹ nói chung cho thế hệ trẻ khi cuộc chiến ác liệt một thời đã khép lại.


2. Giới hạn đề tài.
2.1. Mục đích nghiên cứu.
Luận văn giải quyết đề tài ở góc độ cảm hứng trữ tình - sử thi. Từ việc xác định các khái
niệm: cảm hứng, cảm hứng trữ tình - sử thi đến đặc điểm cảm hứng trữ tình - sử thi trong thơ
chống Mỹ; người viết nhằm hướng tới tìm hiểu, khám phá Cảm hứng trữ tình - sử thi trong

thơ Lê Anh Xuân: nội dung và phương thức thể hiện (cảm hứng về quê hương đất nước, về
con người và thời đại, về Đảng và lãnh tụ; cũng như cách sử dụng ngôn từ, thể thơ; cách sử
dụng hình ảnh, màu sắc có ý nghĩa biểu tượng; cách liên tưởng - khái quát hóa, cách điệu - lý
tưởng hoá ).
2.2. Đối tượng nghiên cứu.
Luận văn nghiên cứu toàn bộ sự nghiệp sáng tác của Lê Anh Xuân (gồm hai tập thơ, một
trường ca và một số bài thơ sáng tác trên đường hành quân vào Miền Nam được Lê Anh Xuân
ghi trong Nhật ký cá nhân). Ngoài ra, để nghiên cứu những nguyên nhân hình thành cảm hứng
trữ tình - sử thi cũng như hành trình sáng tác của Lê Anh Xuân, chúng tôi còn tìm đến những
vấn đề có liên quan đến cuộc đời, gia đình, quê hương và thời đại.
2.3. Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài nghiên cứu.
Trữ tình là bản chất của thơ. Thơ là tiếng nói của tình cảm, của cảm xúc thông qua cái
"tôi" trữ tình. Cảm hứng trữ tình - sử thi tất sẽ có một cái "tôi" tương ứng. Đó là cái "tôi" sử thi
- sản phẩm tất yếu của một thời đại hào hùng, oanh liệt đọng lại trong thơ. Có thể xem cảm
hứng trữ tình - sử thi như một đặc điểm chung của thi pháp thơ chống Mỹ. Thơ Lê Anh Xuân
là một thanh âm cộng hưởng trong giai điệu chung của nền thơ ấy.
Những bài viết về Lê Anh Xuân trước đây cũng như việc giảng dạy phần thơ ca chống
Mỹ và thơ Lê Anh Xuân hiện nay trong nhà trường đều là những cơ sở thực tiễn và cứ liệu để
chúng tôi nghiên cứu đề tài này.

3. Lịch sử vấn đề.
Lê Anh Xuân sáng tác thơ trước khi tập kết ra Miền Bắc (1954). Nhưng thơ ông thực sự
được giới nghiên cứu phê bình văn học chú ý kể từ khi có bài Nhớ mưa quê hương đạt giải nhì,
giải thưởng của Tạp chí Văn Nghệ năm 1961. Đã có hàng chục bài viết về nhà thơ trẻ tài năng
này; trong đó có những cây bút quen thuộc, uy tín như Hoài Thanh, Huỳnh Lý, Hoàng Như

7


Mai, Nguyễn Đăng Mạnh, Trần Hữu Tá, Hà Minh Đức, Trang Nghị, Nguyễn Đức Quyền,

Bích Thu, Diệp Minh Tuyền...
Nhìn chung, khi viết về Lê Anh Xuân các nhà nghiên cứu phê bình đã tiếp cận theo các
hướng sau đây:
3.1. Hướng tiếp cận nghiêng về cảm tưởng, cảm nhận chung thơ Lê Anh Xuân.
Theo hướng này, xuất hiện các bài viết của các nhà phê bình, nhà văn, nhà thơ: Hoài
Thanh, Hồng Tân, Diệp Minh Tuyền, Bảo Định Giang, Trang Nghị, Châu Khoa, Thạch
Trung, Nguyễn Chí Bền... Tuy chủ yếu dựa vào trực cảm, ấn tượng, không đi vào từng tác
phẩm cụ thể, nhưng tác giả các bài viết lại rất tinh tế, nhạy cảm khi nắm bắt "mạch chủ" trong
nguồn thơ Lê Anh Xuân; xem thơ Lê Anh Xuân như một tiếng nói mới "hết sức đáng quý,
đáng yêu" trong nền thơ chống Mỹ.
Viết về Lê Anh Xuân sớm nhất, có lẽ phải nói đến Hồng Tân. Trên tuần báo Văn
nghệ (số ra ngày 4 tháng 6 năm 1965), Hồng Tân đã sớm nhận ra: "Hơi thơ của Ca Lê Hiến trẻ
trung, nhịp thơ thanh thản, vần thơ tự nhiên, tình tiết và hình ảnh trong thơ lắng đọng, dễ
rung cảm người đọc" [78, tr.7]. Tiếp theo là bài viết của Diệp Minh Tuyền đăng trên Tạp chí
Văn học (số ra tháng 8 năm 1966). Theo Diệp Minh Tuyền, tình yêu quê hương trong thơ Lê
Anh Xuân: "không có cái điệu rầu rầu của khúc ca bi quan mà chỉ có âm điệu vui tươi của
những bài ca lạc quan cách mạng" [98, tr.99]. Cả hai bài viết đã đi vào "hồn cốt" trong thế
giới nghệ thuật thơ Lê Anh Xuân khi ông mới có tập Tiếng gà gáy chào đời.
Nhưng điều đáng chú ý là vào năm 1968, Hoài Thanh - nhà nghiên cứu phê bình văn
học hàng đầu ở nước ta có hai bài viết liền nhau về Lê Anh Xuân đăng trên Tạp chí Văn học số
9 và số 10. Cũng từ đó, thơ Lê Anh Xuân trở nên quen thuộc với độc giả, được độc giả chú ý
nhiều hơn.
Bài viết thứ nhất: Tiếng gà gáy của Ca Lê Hiến hay tâm sự của người thanh niên
Miền Nam tập kết; đoạn mở đầu, Hoài Thanh tâm sự: "Đã từ lâu tôi có ý định viết về tập thơ
này nhưng cứ vướng lẽ này lẽ khác không viết được. Đến nay mới viết thật là quá muộn.
Nhưng muộn cũng cứ viết vì không thể nào không viết" [80, tr.38]. Như thế, ngay từ khi mới ra
đời, Tiếng gà gáy đã đem đến cho Hoài Thanh một cảm tình đặc biệt, khiến ông "không thể
nào không viết" về nó. Theo Hoài Thanh, Tiếng gà gáy báo hiệu một tâm hồn thơ tươi sáng,
một dòng cảm xúc ngọt ngào, một tiếng nói trữ tình đằm thắm, thiết tha. Đây là đứa con tinh
thần đầu lòng của Lê Anh Xuân. Ngoài việc thẩm định những câu thơ trữ tình hay nhất, Hoài



Thanh còn tìm thấy ở tập thơ này tiếng nói của một con người "hay cảm xúc, nhiều suy
nghĩ" và có cả cái nhìn ở những chiều kích khác nhau: "Ta còn gặp lại nhiều lần trong thơ anh
một cái nhìn có thể nói không dừng lại ở chiều dọc, chiều ngang của sự vật mà còn thêm chiều
sâu lịch sử" [80. Tr.45].
Bài viết thứ hai: Thơ Lê Anh Xuân hay tấm lòng của người thanh niên trên tiền tuyến
lớn. Ở bài viết này, Hoài Thanh tập trung giới thiệu những sáng tác của Lê Anh Xuân kể từ
khi nhà thơ trở về Miền Nam chiến đấu. Theo Hoài Thanh, tập Hoa dừa và Trường ca Nguyễn
Văn Trỗi vẫn tiếp nối mạch cảm xúc trữ tình và cái nhìn có chiều sâu lịch sử từ Tiếng gà
gáy. Nhưng khi đã trực tiếp xáp mặt với khói lửa chiến trường, khi vốn sống thực tế đã dày
thêm và nhất là khi tinh thần đã được thử thách, tôi luyện thì thơ Lê Anh Xuân cũng như tấm
lòng của ông: kiên định, trong trẻo đầy nhiệt huyết. Hoài Thanh cho rằng thơ Lê Anh Xuân
viết ở chiến trường có độ say tình yêu và độ say lý tưởng: "Lý tưởng đó là điều say mê lớn
nhất của đời anh "[81, 265]. Thực ra thì Lê Anh Xuân đã say tình yêu, say lí tưởng từ
tập Tiếng gà gáy nhưng từ khi trở về quê hương, được gặp gỡ tiếp xúc với đông đảo những
con người bình dị mà bất khuất hiên ngang thì lý tưởng cách mạng trong thơ ông lại càng thiết
tha cháy bỏng; nó như một ngọn lửa đốt sáng tâm hồn thơ, khiến nhà thơ phải nói ra bằng lời.
Có điều, say tình yêu, say lí tưởng nhưng thơ Lê Anh Xuân không cuồng nhiệt, ồn ào đến mức
trống rỗng. Ngược lại chất trữ tình đằm thắm đã làm dịu ngọt thơ ông, cảm hứng sử thi trong
thơ ông cũng trở nên tươi xanh hơn, dễ đi vào lòng người hơn. Trong bài viết này, một lần
nữa, Hoài Thanh rất tinh tế khơi đúng mạch chủ lưu trong thế giới nghệ thuật Lê Anh
Xuân: "Câu thơ của Lê Anh Xuân vẫn dịu hiền và có khi nhỏ nhẹ nữa... có thể nói Lê Anh
Xuân đã đạt tới cái nhìn anh hùng ca và tìm đúng cái giọng anh hùng ca " [81,tr.277].
Năm 1976, trong bài Tấm lòng Miền Nam hưởng về Thủ đô chung của cả nước, sau
lời giới thiệu thơ Hưởng Triều, Bảo Định Giang, Thanh Hải, Hoài Thanh đã dừng lại lâu hơn
với Lê Anh Xuân: "Nhưng hôm nay chủ yếu tôi muốn nói về tình cảm thống nhất đất nước
trong thơ Lê Anh Xuân, một nhà thơ trẻ đã hy sinh trong chiến đấu" [84, tr.200]. Ông tỏ ra rất
tâm đắc với bài thơ Chào Hà Nội, chào Thăng Long của Lê Anh Xuân. Bởi theo Hoài Thanh,
đến bài thơ này, Lê Anh Xuân đã có cái nhìn rộng rãi, bao quát và có cả chiều sâu suy

tưởng: "Rõ ràng ở đây, xưa và nay, văn thơ và cuộc sống, tình riêng và nghĩa chung, lòng yêu
nước và yêu chủ nghĩa xã hội quyện với nhau rất chặt" [84, tr.203].
Tương đồng với ý kiến của Hoài Thanh, trong bài Lê Anh Xuân với tập Hoa Dừa và
Trường ca Nguyễn Văn Trỗi, nhà văn Trang Nghị cho rằng: “Ấm điệu phấn khởi, trong
9


sáng vang lên trong từng câu, từng chữ của Lê Anh Xuân. Tình yêu quê hương tha thiết đến
đau nhói, tính dân tộc đậm đà, chất trữ tình đằm thắm nổi lên trong suốt tập Hoa dừa" [54,
tr.49]. Đặc biệt, ở bài viết này, Trang Nghị tỏ ra rất tinh tế trong việc phát hiện ra chất giọng
sở trường của Lê Anh Xuân: "Anh thích nói bằng một giọng điệu trầm trầm, nhẹ nhàng... Và
cái ngôn ngữ, cái giọng điệu ấy có lẽ thích hợp, sở trường đối với anh hơn " [54, tr.50].
Năm 1971, Nhà xuất bản Văn nghệ giải phóng cho ra mắt bạn đọc tập Hoa dừa của Lê
Anh Xuân. Nhà thơ, nhà Nam Bộ học Bảo Định Giang viết lời tựa cho tập thơ này. Trong bài
viết của mình, Bảo Định Giang khẳng định: "Thơ của anh cũng như con người anh: giản dị
nhưng đằm thắm, mộc mạc nhưng say mê, phúc hậu nhưng duyên dáng, mặn mà và bao trùm
lên tất cả là chất tươi sáng, chất lạc quan cách mạng" [19, tr.257]. Theo Bảo Định Giang, quê
hương Nam Bộ đã góp phần hình thành nên hồn thơ Lê Anh Xuân, một hồn thơ "đằm thắm",
"phúc hậu", "duyên dáng, mặn mà". Hồn thơ ấy cất lên bằng chất giọng "tươi sáng, lạc
quan" như cốt cách và khí phách của con người Nam Bộ vậy. Còn nhà nghiên cứu Châu
Khoa (Huỳnh Như Phương) trong bài Thơ Lê Anh Xuân - những ánh lửa của lòng yêu
nước thì nhận định: "Mỗi nhà thơ đều đi lên từ cái nôi đã sinh ra chính giọng thơ mình. Cái
nôi của Lê Anh Xuân là một khoảng không gian quen thuộc: một làng quê, một hàng dừa, một
vườn sầu riêng, những rặng trâm bầu, những cầu tre nhỏ" [62, tr.3]. Thạch Trung trong
bài Thơ Lê Anh Xuân với đất nước và con người Bến Tre cũng nhận xét: "Cái độc đáo, cái
làm cho thơ Lê Anh Xuân sống mãi phải chăng một phần lớn là do cái chất mộc mạc nhưng
duyên dáng không rơi vào quê mùa, thô kệch được truyền từ con người, thổ ngơi, sông nước
Bến Tre" [91, tr.90].
Đến Tuyển tập văn học chữ viết Bến Tre, ở phần tiểu luận, nhà nghiên cứu Nguyễn Chí
Bền cũng đặt thơ Lê Anh Xuân trong mối quan hệ với quê hương để xác định: "Thế giới thơ

Lê Anh Xuân là những người con anh hùng của quê hương. Lê Anh Xuân viết khá say mê, miệt
mài về những người anh hùng. Cảm hứng chính của tập Hoa dừa có lẽ là cảm hứng về con
người của quê hương anh hùng" [68, tr.51]. Trong bài Thương tiếc một tài năng (báo Văn
nghệ số 28, 2005), Nguyễn Tý vẫn tâm niệm: "Quê hương Bến Tre là nỗi ám ảnh suốt 14 năm
anh sống trên đất Bắc. Tập thơ Tiếng gà gáy xuất bản năm 1965 là tiếng vọng của kí ức trong
đó khắc khoải nỗi nhớ quê, một vùng quê Nam Bộ mù mịt bom đạn của kẻ thù " [100, tr.6].
Trở lại với Lê Anh Xuân sau gần 30 năm, trên báo Văn nghệ (số 9 - 10, 1995), Diệp
Minh Tuyền đã không ngần ngại khi đặt tiêu đề cho bài viết của mình: Lê Anh Xuân, dáng
đứng của một thế hệ nhà thơ. Độ lắng của thời gian cho phép Diệp Minh Tuyền khẳng định:


"Cũng chính bằng xương máu của mình, Lê Anh Xuân đã tạo ra một dáng đứng - nhà thơ cho
Tổ quốc không chỉ là dáng đứng riêng của Lê Anh Xuân mà chính là dáng đứng của một thế
hệ nhà thơ chống Mỹ" [99, tr.25].
Cứ theo cách tiếp cận của các nhà nghiên cứu trên, chúng ta có thể suy luận: thơ Lê Anh
Xuân nằm trong dòng chảy của mạch thơ trữ tình Nam Bộ, một kiểu trữ tình mộc mạc, chân
chất nhưng không kém phần duyên dáng, mặn mà. Đồng thời, mạch trữ tình ấy lại được kết
hợp với chất hùng ca vang dội của thời đại; tạo cho thơ ông một sự hòa quyện gần như thống
nhất giữa trữ tình và sử thi, giữa truyền thống và hiện đại, giữa hiện thực và lãng mạn.
3.2. Hướng tiếp cận ở cấp độ nhận định tổng quát, nghiêng về đánh giá những mặt
bản chất trong sáng tạo nghệ thuật của Lê Anh Xuân.
Hướng tiếp cận này được thể hiện trong các Tuyển tập, Từ điển Văn học, các Tổng tập
nhà văn hiện đại, các bài viêt tổng quát về một giai đoạn thơ ca, các lời nói đầu trong các sách
tuyển chọn thơ Lê Anh Xuân hoặc các chuyên luận về thể loại thơ. Nhìn chung, đây là những
công trình khoa học ở tầm vĩ mô; dĩ nhiên thơ Lê Anh Xuân không phải là đối tượng nghiên
cứu duy nhất. Bởi thế các phần (hoặc đoạn) viết về Lê Anh Xuân đều ngắn gọn, súc tích,
lượng thông tin cao. Đó là ý kiến của các nhà nghiên cứu chuyên nghiệp: Nguyễn Đăng Mạnh,
Trần Hữu Tá, Nguyễn Mạnh Thường, Lê Lưu Oanh...Trước hết, các nhà nghiên cứu cho rằng
thơ Lê Anh Xuân có sự hòa quyện giữa chất hùng ca và tình ca. Thực ra sự hòa quyện này đã
trở nên phổ biến trong thơ chống Mỹ. Điểm nổi trội, góp phần làm nên vóc dáng thơ Lê Anh

Xuân là ở sự hòa quyện một cách hết sức tự nhiên, chân thành bằng giọng thơ vừa nhỏ nhẹ vừa
có chiều sâu. Chẳng hạn, viết về Trường ca Nguyễn Văn Trỗi, Trần Hữu Tá kết luận: "Chất
hùng ca và tình ca trong tập trường ca này nhiều lúc đã hòa quyện và được thể hiện một cách
xúc động" [29, tr.817]. Còn khi nhận định chung về thơ Lê Anh Xuân, Trần Hữu Tá viết: "Thơ
Lê Anh Xuân mang sắc thái riêng vừa bằng giọng nhỏ nhẹ tâm tình, vừa bằng những cảm
hứng lịch sử mang ý nghĩa triết luận khá sâu sắc"[29, tr.817].
Tương đồng với ý kiến trên, Nguyễn Đăng Mạnh nhận xét: "Thơ Lê Anh Xuân giàu xúc
cảm, có giọng đằm thắm nhỏ nhẹ, tâm tình, tuy còn dàn trải, ít cô đọng, nhung nhiều khi sôi
nổi cảm hứng lịch sử; thể hiện những tình cảm nồng nhiệt, tha thiết với quê hương đất nước
và cuộc kháng chiến chống Mỹ" [50, tr.295]. Nguyễn Mạnh Thường trong Từ điển tác giả
văn học Việt Nam thế kỷ XX cũng nhận thấy thơ Lê Anh Xuân "mang nặng chất hùng ca và
tình ca với sắc thái riêng" [92, tr.395]. Cái "sắc thái riêng" đó cũng không nằm ngoài giọng

11


thơ "nhỏ nhẹ, tâm tình " kết hợp với cảm hứng lịch sử. Có lẽ, điểm mạnh trong thơ Lê Anh
Xuân chính là ở sự kết hợp này.
Năm 1981, trong lời mở đầu Thơ Lê Anh Xuân, Nhà xuất bản Văn học khẳng
định: "Lê Anh Xuân là một tác giả được bạn đọc yêu thơ chăm chủ theo dõi với một tình cảm
đặc biệt. Ngay từ bài thơ đầu tiên, người ta đã nhận ra một phong cách riêng: chân thành,
hồn nhiên mà trữ tình đằm thắm, giản dị trong sáng nhưng không kém phần tình tế và sâu
lắng" [52, tr.7]. Chúng tôi nghĩ khái niệm "phong cách riêng" ở đây nên được hiểu như "sắc
thái riêng" mà Trần Hữu Tá và một số nhà nghiên cứu khác thường sử dựng. Bởi còn hơi sớm
khi nói đến phong cách nghệ thuật Lê Anh Xuân, nếu hiểu đúng nghĩa của khái niệm này.
Nhưng dẫu sao thì Lê Anh Xuân cũng đã có được một đứa con tinh thần cho riêng mình, mang
tâm hồn, cốt cách của chính mình. Cái quý ở một nhà thơ trẻ như Lê Anh Xuân không chỉ biểu
hiện ở cảm xúc trữ tình đằm thắm mà còn ở sự tinh tế, sâu lắng.
Các tác giả trong Tự điển tác giả, tác phẩm văn học Việt Nam dùng trong nhà
trường cũng thừa nhận ở Lê Anh Xuân: "Một giọng thơ có dấu ấn riêng: tươi trẻ hồn hậu,

nhỏ nhẹ, tâm tình mà sâu sắc bởi những cảm hứng lịch sử mang tầm khái quát cao" [48,
tr.195]. Lê Anh Xuân chưa phải là nhà thơ triết luận, ông sáng tác bằng những cảm xúc,
những rung động hết sức chân thực, hồn nhiên của mình. Nhưng càng về sau, thơ ông càng có
chiều sâu và tầm khái quát. Có được điều này là nhờ ông đã đưa được cảm hứng lịch sử vào
văn chương: "Cảm hứng lịch sử đã đến độ nhuần nhuyễn quyện chặt với cảm hứng thơ" [1,
tr. 1431]. Năm 2004, trong Tinh tuyển văn học Việt Nam (tập 8), nhận định về thơ Lê Anh
Xuân, Lê Lưu Oanh viết: "Điều khiến cho mọi người ghi nhớ thơ Lê Anh Xuân là sức lôi
cuốn mãnh liệt của một hồn thơ dạt dào, sôi nổi, chan chứa tình yêu đằm thắm, nồng nàn với
quê hương đất nước cùng chất lãng mạn bay bổng, cảm hứng lịch sử mãnh mẽ và một giọng
điệu đậm chất anh hùng ca" [70, tr.656].
Như vậy, dưới con mắt của các nhà nghiên cứu, bản chất thơ Lê Anh Xuân được nhìn
nhận từ vẻ đẹp trữ tình và anh hùng ca. Ông đã hình thành được một chất giọng riêng, một
dáng vẻ riêng khó lẫn.
3.3. Hướng tiếp cận nghiêng về phân tích, thẩm bình một bài (hoặc đoạn) thơ cụ
thể của Lê Anh Xuân.
Hướng tiếp cận này rất cần thiết cho những ai đến với văn học; bởi văn học tồn tại dưới
dạng tác phẩm. Tài năng sáng tạo, phong cách nghệ thuật, khuynh hướng sáng tác của nhà văn


đều được bộc lộ qua tác phẩm của họ. Đối với Lê Anh Xuân, nhiều nhà nghiên cứu đánh giá
thơ ông có mặt mạnh trong cảm xúc, trong xây dựng hình tượng, trong tạo hình và biểu hiện.
Đó là bài viết của Hoàng Như Mai, Nguyễn Đức Quyền, Hải Hà, Lê Quang Trang và một số
tác giả của các chuyên luận có đề cập đến thơ Lê Anh Xuân (Hữu Đạt, Hà Minh Đức,Vũ Văn
Sỹ, Vũ Duy Thông, Mã Giang Lân).
Nhà nghiên cứu Hoàng Như Mai tỏ ra rất tâm đắc với bài thơ Trở về quê nội, "một bài
thơ có cấu trúc giản dị" nhưng đã gói gọn trong đó tất cả lòng yêu thương trân trọng của nhà
thơ đối với quê hương sau bao năm trời xa cách. Đặc biệt là những rung động sâu sắc tràn
ngập của nhà thơ khi gặp lại những con người trên quê hương: "Những gương mặt rất đẹp và
biểu lộ sự kiên cường bất khuất cuốn hút nhà thơ chẳng khác gì một kiệt tác nghệ thuật cuốn
hút tác giả" [44, tr.20]. Theo Hoàng Như Mai, sức hấp dẫn của bài thơ Trở về quê nội trước

hết là ở cảm hứng ngợi ca nồng nhiệt và ở mạch cảm xúc tuôn trào của một người con được
đắm mình với quê hương trong những năm tháng ác liệt nhất. Đồng thời Hoàng Như Mai cũng
nhận thấy Lê Anh Xuân có điểm mạnh ở sự chân thực trong cảm xúc: "Những môtíp, những
hình ảnh đã cũ vào thơ Lê Anh Xuân vẫn rung động lòng người đọc. Ấy là vì anh đã đưa vào
đó tất cả sự chân thành của tuổi trẻ, tất cả sự xúc cảm thật sự của nhà thơ" [44, tr.23]. Tuy
nhiên, trong sáng tác nghệ thuật, sự chân thực của cảm xúc là cần thiết nhưng chưa đủ, người
đời sẽ lãng quên ngay nếu đó là tác phẩm dở. Đối với Lê Anh Xuân, Hoàng Như Mai khẳng
định: "Bài thơ trở về quê nội cũng như các sáng tác của Lê Anh Xuân nói chung có những
đoạn thật sáng tạo" [44, tr.22]. Thơ Lê Anh Xuân sống sâu được trong tâm thức người đọc
chính nhờ những sáng tạo như thế. Trong bài viết của mình, Hoàng Như Mai đánh giá cao bài
thơ Trở về quê nội, coi đây như một trong những bài thơ "đỉnh" của Lê Anh Xuân.
Là người quê Nam, sống trên đất Bắc trong những năm tháng đất nước chia cắt, Nguyễn
Đức Quyền lại tỏ ra mặn mà với bài Nhớ mưa quê hương, xem bài thơ như: "sóng tỏa vào tâm
hồn tôi, như cơn mưa mùa hạ làm mát da thịt tuổi thơ, làm sống dậy những kỷ niệm tuổi thơ
của tôi ở quê Nam" [65, tr.151]. Cũng như Hoàng Như Mai, trong bài viết của mình, Nguyễn
Đức Quyền đánh giá cao cảm xúc nhiệt thành, chân thực của Lê Anh Xuân, xem đó như một
lực hấp dẫn có khả năng "thôi miên" người đọc: "Tôi yêu nguồn xúc cảm bài thơ, nguồn xúc
cảm dào dạt quá, anh cứ trải hồn chân thật của mình ra như là nguồn của một con sóng
lớn" [65, tr.152]. Hơn nữa, đây lại là bài thơ đầu của Lê Anh Xuân, cảm xúc ban đầu bao giờ
cũng trinh nguyên, say mê, rạo rực: "Nguồn xúc cảm lại tươi mát trong trẻo, nồng nàn, cái
nồng nàn làm cho ta ngây ngất như cái thuở ban đầu" [65, tr.15.2]. Với Lê Anh Xuân, người
13


đọc quí nhất ở ông và cũng là sức mạnh vốn có trong thơ ông chính ở nguồn cảm xúc đầy nhiệt
thành và chân thực ấy. Thiếu điều này, Lê Anh Xuân sẽ không còn là mình nữa.
Hải Hà lại thích điệu lục bát trong bài thơ Rừng Xuân (1966), bài thơ được Lê Anh
Xuân sáng tác trên đường hành quân vào chiến trường Nam Bộ. Cảm hứng ở đây vẫn đằm
thắm, dịu dàng và có thêm nhiều hương sắc, âm vang của núi rừng. Hải Hà bình những vẻ đẹp
đầy sắc xuân trong bài thơ nhằm tôn thêm vẻ đẹp trong tâm hồn nhà thơ - chiến sĩ Lê Anh

Xuân: "Bài thơ với 12 câu trong sáng, giản dị đã giúp cho chúng ta - những người ở hậu
phương lớn hiểu thêm phẩm chất tâm hồn trong sáng, cao đẹp của người chiến sĩ giải phóng
quân, đồng thời góp phần khẳng định niềm tin tất thắng vào cuộc chiến đấu giải phóng Miền
Nam, thống nhất đất nước của toàn dân ta" [21, tr.9]. Ở bài thơ này, dòng cảm xúc tuy không
dào dạt tuôn chảy như trong Nhớ mưa quê hương nhưng vẫn chân thành trong trẻo như thuở
nào. Theo Hải Hà, bài thơ không chỉ là bức tranh thiên nhiên tươi sáng mà phía sau bức tranh
ấy đã xuất hiện chất giọng của ý chí, của quyết tâm: "Đó là cái quyết tâm bắt nguồn từ sâu xa
của trái tim nhớ thương đằm thắm, của thái độ sống đầy trách nhiệm đối với quê hương, với
Tổ quốc của nhà thơ trẻ Lê Anh Xuân" [21, tr.9]. Theo đó, cảm hứng trữ tình trong thơ Lê Anh
Xuân ngày càng thêm cứng cỏi và càng chuyển dịch về hướng sử thi.
Lê Quang Trang có lời bình về đoạn thơ 12 câu trích trong Trường ca Nguyễn Văn
Trỗi với tựa đề Việt Nam (do người soạn đặt). Lời bình ngắn gọn mà sắc nét, Lê Quang Trang
đã làm nổi bật khả năng khái quát tổng hợp của Lê Anh Xuân khi viết về đất nước mình. Đó là
cái nhìn đất nước từ không gian đến thời gian, từ thiên nhiên đến con người mà tư tưởng cốt
lõi vẫn là đất nước thống nhất từ đỉnh Hà Giang đến mũi Cà Mau. Đáng chú ý là, theo tác giả
lời bình, để có khả năng trên, Lê Anh Xuân đã kết hợp nhuần nhuyễn giữa cảm hứng nghệ
thuật với tư duy lịch sử: "Trong thơ Lê Anh Xuân ngoài nhạy cảm của con người thi sĩ, anh
còn là nhà sử học... Tri thức sử học ấy đã cho anh thêm khả năng tổng hợp và khái quát những
vấn đề rộng lớn mà bài thơ cần vươn tới" [21, tr.l 1].
Hà Minh Đức, Hữu Đạt, Mã Giang Lân, Vũ Duy Thông, Vũ Văn Sỹ trong các
chuyên luận của mình đều có phân tích đến thơ Lê Anh Xuân, nhất là bài Dáng đứng Việt
Nam. Cả Hữu Đạt và Hà Minh Đức đều đánh giá cao nghệ thuật tạo hình và biểu hiện của bài
thơ này: "Trong bài thơ Dáng đứng Việt Nam của Lê Anh Xuân có những câu mà về mặt tạo
hình thì rất đẹp, nhưng về mặt biểu hiện của nó cũng có giá trị rất cao" [10, tr.46]. Vũ Văn Sỹ
phân tích chất trữ tình từ một tiêu điểm nghệ thuật trong Trường ca Nguyễn Văn Trỗi mà theo
ông, Lê Anh Xuân phải có "Con mắt tinh đời" mới cảm nhận được. Đó là nơi gặp gỡ lần cuối


của đôi vợ chồng trẻ ở khám tử hình. So sánh với ký Sống như anh của Trần Đình Vân, Vũ
Văn Sỹ khẳng định: "Ở đây cái diện mạo văn xuôi của nhân vật Nguyễn Văn Trỗi đã bị chi

phối trực tiếp bởi tình cảm chủ quan của nhà thơ một cách công khai khi biểu đạt" [76,
tr.185]. Mã Giang Lân có cảm tình với bài thơ Cấy đêm của Lê Anh Xuân, một bài thơ được
sáng tác trên quê hương vào thời điểm ác liệt nhất của cuộc chiến chống Mỹ: "Bài thơ Cấy đêm
của Lê Anh Xuân thật cảm động chi tiết ít, gọn nhưng sâu đậm, giàu liên tưởng" [37, tr.299].
Theo Mã Giang Lân, cảm hứng chủ đạo trong bài thơ không chỉ ngợi ca con người quê hương
anh dũng mà rộng hơn còn là: "hình ảnh tượng trưng cho niềm tin của nhân dân Miền
Nam" [37, tr.299]. Còn Vũ Duy Thông thì lại tâm đắc với đoạn thơ mà Lê Anh Xuân viết về
hình ảnh Mẹ trong bài thơ Trở về quê nội. Đó là người mẹ nuôi chiến sĩ vốn đã quen thuộc
trong thơ ca kháng chiến; mẹ chở che và hết mực yêu thương bộ đội như con đẻ của mình.
Theo Vũ Duy Thông, tình cảm này: "chỉ có được trong chiến tranh, chính nghĩa [88, tr.110].
3.4. Hướng tiếp cận nghiêng về nghiên cứu tổng thể thơ Lê Anh Xuân trên phương
diện nội dung và nghệ thuật.
Hướng tiếp cận này bao gồm những bài viết sau khi Lê Anh Xuân đã có những tác phẩm
được đánh giá cao trên thi đàn. Do vậy, tính hệ thống ở đây cũng được thể hiện rõ nét và cách
nhìn cũng có nhiều điểm mới.
Từ năm 1976, Phạm Văn Sỹ đã nghiên cứu Lê Anh Xuân theo hướng tiếp cận trên.
Trong chương Thơ Lê Anh Xuân (sách Văn học giải phóng Miền Nam, Nxb Đại học và
Trung học chuyên nghiệp), nhận xét về Trường ca Nguyễn Văn Trỗi, Phạm Văn Sỹ viết: "Tình
cảm nồng nhiệt, hơi thơ khỏe, yếu tố trữ tình và yếu tố hùng ca quyện vào nhau làm cho tập
truyện thơ có sức cuốn hút người đọc" [77, tr.215]. Đồng thời, Phạm Văn Sỹ cũng nhận thấy
trong thơ Lê Anh Xuân: "hiện thực và lãng mạn gắn liền với nhau, thực và thơ quyện làm
một" [77, tr.216]. Còn về nghệ thuật, Phạm Văn Sỹ đề cao khả năng tạo hình của Lê Anh
Xuân và cũng chỉ ra mặt hạn chế: "Ở nhiều bài thơ, ý thơ chưa thật tập trung, hình ảnh thơ
chưa thật cô đọng, lời thơ còn dễ dãi" [77, tr.215]. Tuy vậy, Phạm Văn Sỹ vẫn nhận
định: "Thơ Lê Anh Xuân nói chung đều hay có sức gợi cảm" [77, tr.216].
Năm 1977, Huỳnh Lý có bài nghiên cứu công phu về Lê Anh Xuân qua tập Tiếng gà
gáy và Hoa dừa. Với phong cách viết giáo trình Lịch sử văn học ở bậc Đại học, Huỳnh Lý đã
chia thành các đề mục cụ thể để phân tích nội dung và nghệ thuật, cách chia như sau:
1. Thơ Lê Anh Xuân ca ngợi cuộc sống lao động và chiến đấu trên hai miền Nam Bắc.
15



2. Thơ Lê Anh Xuân mang tình yêu quê hương thắm thiết.
3. Ngôn ngữ thơ Lê Anh Xuân là một ngôn ngữ tình cảm, hồn nhiên thật thà, tươi trẻ,
trong sáng.
Theo cách chia trên, chúng tôi tạm hiểu: Nội dung thơ Lê Anh Xuân có hai mảng cảm
hứng: cảm hứng ngợi ca (mục 1) và cảm hứng tâm sự (mục 2). Gộp chung lại có thể gọi
bằng Cảm hứng trữ tình - ngợi ca tức đồng dạng với Cảm hứng trữ tình - sử thi. Huỳnh Lý
nhận định: "Thơ Lê Anh Xuân trước hết là thơ ca ngợi không dè dặt cuộc sống chiến đấu và
lao động ở hai miền Nam - Bắc, thơ anh cũng là thơ mang tình yêu quê hương thắm thiết, thơ
của những tình cảm tươi mát, trong sáng" [43, tr.54]. Đồng thời, tác giả bài viết cũng thừa
nhận thơ Lê Anh Xuân không chỉ "ghi hình ảnh " mà "đôi khi cũng khái quát hóa" [43,
tr.58]. Về nghệ thuật, Huỳnh Lý nhận định ngôn ngữ trong thơ Lê Anh Xuân là: "Một ngôn
ngữ tình cảm, hồn nhiên, thật thà, tươi trẻ, trong sáng" [43, tr.67]. Theo Huỳnh Lý, sở dĩ ngôn
ngữ thơ Lê Anh Xuân có những đặc điểm trên, ngoài ảnh hưởng của quê hương, còn do: "Tình
cảm của anh đậm đà, chân chất như gạo tẻ, lúa mùa, không điểm hoa hòe, hoa sói" [43, tr.68].
Tuy nhiên, mộc mạc mà không thô kệch, thơ bao giờ cũng đòi hỏi cao về sự cô lắng, hàm súc
và khả năng tạo dựng hình tượng. Về mặt này, Huỳnh Lý nhận xét: "Phải nói rằng, các chức
năng thơ - của văn nghệ nói chung - Lê Anh Xuân đều đạt ở mức cao, riêng chức năng thẩm
mỹ thì chưa được nâng lên ngang hàng với giáo dục và nhận thức" [43, tr.67].
Cũng theo phong cách viết giáo trình Lịch sử văn học, trong chương Lê Anh Xuân, Lê
Quang Hưng đã chia thành bốn đề mục để nghiên cứu. So với bài viết của Huỳnh Lý, bài viết
của Lê Quang Hưng phân tích thêm Trường ca Nguyễn Văn Trỗi và dành riêng một đề mục
bàn về giọng điệu thơ Lê Anh Xuân. Còn về nội dung, nhìn đại thể, Lê Quang Hưng cũng có
những nhận xét tương đồng với Huỳnh Lý. Chẳng hạn, Huỳnh Lý cho rằng: "Vài năm sau
cùng của cuộc đời làm thơ, Lê Anh Xuân có dụng ý nâng hình ảnh lên hình tượng và đưa vào
các câu chuyện một ý nghĩa khái quát" [43, tr.67] thì Lê Quang Hưng cũng đánh giá: "Khi
ngợi ca những con người quê hương Miền Nam chiến đấu, thơ Lê Anh Xuân ngày càng có xu
hướng khái quát hóa, mang đậm cảm hứng sử thi" [46, tr.404]. Và ông bổ sung thêm: "Khi đã
hòa vào cuộc chiến đấu lớn lao của quê hương của dân tộc ở những nơi nóng bỏng nhất, hồn

thơ Lê Anh Xuân tuy vẫn trẻ trung trong trẻo, nhưng ngày càng thêm chiều sâu đậm của cảm
hứng lịch sử" [46, tr.399]. Về giọng điệu, Lê Quang Hưng khẳng định: "Lê Anh Xuân là nhà
thơ sớm có giọng - một giọng điệu trữ tình khó lẫn" [46, tr.407]. Một nhà thơ có giọng chắc


hẳn là nhà thơ có tài năng và có vị trí nhất định trong nền thơ ca dân tộc hoặc ít nhất là trong
một thời đại.
Trong giới nghiên cứu phê bình văn học ở nước ta, có thể nói, cùng với Hoài
Thanh, Bích Thu là người "mặn duyên" với thơ Lê Anh Xuân. Điều đó được thể hiện qua hai
bài nghiên cứu khá công phu về nhà thơ trẻ này.
Bài thứ nhất được viết vào năm 1984 với tựa đề Lê Anh Xuân. Trong bài viết này, Bích
Thu nghiên cứu các sáng tác của Lê Anh Xuân theo trình tự từ tập Tiếng gà gáy đến tập Hoa
dừa và Trường ca Nguyễn Văn Trỗi. Điều đáng chú ý ở bài viết của Bích Thu là đã sớm đề cập
đến cái "tôi" trữ tình trong thơ Lê Anh Xuân. Chẳng hạn, trong đoạn mở đầu, Bích Thu
viết: "Tình yêu quê hương được Lê Anh Xuân thể hiện qua cái "tôi" trữ tình giàu cảm xúc, tinh
tế đã trở nên gần gũi thân quen với bạn đọc " [90, tr.451]. Về sau Bích Thu vẫn khẳng
định: "Lê Anh Xuân biểu hiện trong thơ mình một cái "tôi" trữ tình, đằm thắm, trẻ trung" [90,
tr.458]. Vào những năm 80 của thế kỷ trước, chúng tôi nghĩ, Bích Thu là một trong số không
nhiều nhà nghiên cứu đã đưa khái niệm trên vào nghiên cứu thơ Lê Anh Xuân.
Năm 2000, Bích Thu có bài thứ hai: Lê Anh Xuân - nhập cuộc và sáng tạo. Đến bài viết
này, Bích Thu bàn sâu vào cảm hứng sáng tạo của Lê Anh Xuân. Theo tác giả bài viết
thì: "Cảm hứng nhập cuộc luôn là cảm hứng chủ đạo trong thơ Lê Anh Xuân, thể hiện ngay từ
bài thơ đầu tiên Nhớ mưa quê hương" [91, tr.345]. Cảm hứng nhập cuộc đồng nghĩa với khát
vọng trở về. Với Lê Anh Xuân, trở về quê hương trong thời điểm dầu sôi lửa bỏng thực sự là
một niềm say mê, một lời thôi thúc. Bởi vậy, đây cũng là nguồn cảm hứng sáng tạo của
ông: "Khát vọng trở về đồng hành với khát vọng sáng tạo trong thế giới nghệ thuật của thơ Lê
Anh Xuân" [91, tr.348]. Cũng như các nhà nghiên cứu khác, Bích Thu khẳng định tầm khái
quát, chiều sâu lịch sử, cảm xúc chân thực trong thơ Lê Anh Xuân: "Nét độc đáo làm nên bản
sắc trong thơ Lê Anh Xuân cũng là cảm quan nồng nàn của nhà thơ về truyền thống lịch
sử" [91, tr.350]. Theo Bích Thu, ngôn từ thơ Lê Anh Xuân: "mang sắc thái Nam Bộ với những

câu chữ tự nhiên bình dị mà đầy thương mến " [91, tr.353].
Khác với Bích Thu, Nguyễn Kim Hoa trong bài Ca Lê Hiến - Lê Anh Xuân nhà thơ chiến sĩ lại có ý làm nổi bật sự phát triển trong tâm hồn thơ Lê Anh Xuân từ Tiếng gà
gáy đến Hoa dừa và các sáng tác sau đó. Theo Nguyễn Kim Hoa, quan điểm sáng tác của Lê
Anh Xuân trước sau vẫn không thay đổi: "Anh làm thơ để bày tỏ tâm tình của mình đối với vận
mệnh của dân, của nước, bày tỏ lòng căm thù của mình đối với giặc ngoại xâm" [12, tr.481].

17


Nhận xét này là phù hợp, bởi chính Lê Anh Xuân cũng quan niệm: "Thơ là súng là
gươm". Nhưng sáng tác nghệ thuật đồng nghĩa với tìm tòi, sáng tạo; hơn nữa, hiện thực cuộc
kháng chiến chống Mỹ đã thực sự khơi nguồn cảm hứng cho nhà thơ; Nguyễn Kim Hoa đã rất
có lý khi khẳng định: "Từ khi trở về Nam, thơ Lê Anh Xuân mang hơi thở trực tiếp của cuộc
chiến đấu. Thơ anh khỏe khoắn, sinh động hẳn lên và cũng gây cho người đọc những cảm xúc
mạnh mẽ hơn" [12, tr.485]. Nguyễn Kim Hoa đưa ra so sánh: "Nếu tập Tiếng gà gáy là tâm sự
thì Hoa dừa, Trường ca Nguyễn Văn Trỗi và các tác phẩm khác của anh ở giai đoạn sau là
hành động" [12, tr.487] và kết luận: "Từ Tiếng gà gáy đến Hoa dừa cùng các tác phẩm sau,
thơ Lê Anh Xuân đã tiến một bước dài" [12, tr.48].
Đọc thơ Lê Anh Xuân là một bài viết sắc sảo của Bùi Công Hùng. Nếu Nguyễn Kim
Hoa chú ý đến sự phát triển trong hồn thơ Lê Anh Xuân thì Bùi Công Hùng lại tập trung phân
tích những nét thuộc về bản chất của hồn thơ đó. Tuy nhiên, nói là bản chất của một hồn thơ
không có nghĩa là Lê Anh Xuân đã có một phong cách ổn định. Mọi thứ đối với Lê Anh Xuân
đều đang dang dở nhưng những gì mà nhà thơ viết ra thì đã được định hình. Bùi Công Hùng đi
vào nét định hình ấy, ông viết: "Thơ Lê Anh Xuân chảy một dòng với lịch sử, mang trong mình
nó chất thơ tươi trẻ, hăng say bừng bừng khí thế mới như tuổi trẻ của anh, như cả Miền Nam
đang dào dạt sức sống đang dào dạt chống Mỹ "[31, tr.238]. Cũng như một số nhà nghiên cứu
trước đây, Bùi Công Hùng cho rằng chất thơ trữ tình của Lê Anh Xuân cũng như hương rượu
nồng được cất lên từ quê hương Nam Bộ: "Thơ anh dâng lên những hương vị màu sắc của
riêng Nam Bộ, mảnh đất quê hương của hồn thơ anh" [31, tr.238]. và "Tình quê hương trong
thơ anh tỏa vị say dìu dịu, tình yêu quê hương nồng đượm của anh làm ngọt ngào dòng thơ

anh" [31, tr.239]. Bùi Công Hùng phân tích sâu sắc hình tượng quê hương trong thơ Lê Anh
Xuân cốt để làm nổi bật luận điểm trên. Đồng thời trong bài viết của mình, Bùi Công Hùng
luôn gắn kết giữa chất trữ tình với chất hùng ca trong thơ Lê Anh Xuân: "Bên cạnh chất trữ
tình, trong thơ anh đã vọng lên giọng thơ có tính chất hùng tráng" [31, tr.243]. Và cũng theo
Bùi Công Hùng, Lê Anh Xuân đã có sự chuyển dịch từ chất thơ trữ tình hoài niệm sang chất
thơ hùng tráng, cũng như bước chân của nhà thơ từ hậu phương lớn Miền Bắc vào tiền tuyến
lớn Miền Nam: "Anh đang chuyển những bài thơ trữ tình giàu kỷ niệm về quê hương sang
những bài thơ mang tính chất hào hùng về cuộc chiến đấu rộng lớn, kì vĩ hơn" [31, tr.244].
Chúng tôi nghĩ, sự chuyển dịch trong cảm hứng nghệ thuật của Lê Anh Xuân là một sự kết
hợp hài hoà nhuần nhuyễn giữa trữ tình và sử thi mà trữ tình vẫn là cái gốc của thơ ông.


Tất cả các bài viết theo các hướng tiếp cận trên đều liên quan đến đề tài mà chúng tôi
nghiên cứu. Tuy nhiên, để có được một công trình khoa học toàn vẹn về Lê Anh Xuân, chúng
tôi nghĩ cần nghiên cứu ông từ phương diện cảm hứng trữ tình - sử thi. Biết ơn các nhà nghiên
cứu phê bình đã có những bài viết sâu sắc giúp chúng tôi có đủ cứ liệu để bất tay vào công việc
của mình.

4. Phương pháp nghiên cứu.
Luận văn kết hợp, vận dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây:
4.1. Phương pháp lịch sử.
Nghiên cứu thơ Lê Anh Xuân trên phương diện cảm hứng trữ tình - sử thi, chúng tôi đặt
toàn bộ sáng tác của nhà thơ vào những năm tháng cả nước sục sôi chống Mỹ và chỉ như vậy
thì mới có thể phân tích, đánh giá một cách khách quan, công bằng và khoa học. Đồng thời sự
hình thành cảm hứng trên cũng được xem xét trong mối quan hệ gắn bó với nền thơ ca chống
Mỹ.
4.2. Phương pháp hệ thống.
Mọi yếu tố đều tồn tại trong hệ thống, bất cứ hệ thống nào cũng bao hàm trong nó những
yếu tố cụ thể. Chúng tôi coi cảm hứng trữ tình - sử thi trong thơ Lê Anh Xuân là một hệ thống.
Nghiên cứu hệ thống này tức là đi vào khảo sát phân tích những yếu tố về nội dung và phương

thức thể hiện.
4.3. Phương pháp loại hình.
Luận văn nghiên cứu cảm hứng sáng tạo của Lê Anh Xuân ở loại hình trữ tình (thơ).
Bám sát đặc trưng loại hình này, trong quá trình phân tích thơ Lê Anh Xuân, chúng tôi luôn
chú ý đến các vấn đề như cái "tôi" trữ tình, nhân vật trữ tình, vấn đề phản ánh - biểu hiện và
khả năng nội cảm hóa khách thể của Lê Anh Xuân.
4.3. Phương pháp phân tích, tổng hợp.
Để luận văn có tính thuyết phục, chúng tôi vận dụng phương pháp này vào việc phân tích
các tín hiệu thẩm mỹ, cấu trúc ngôn từ, các hình ảnh, màu sắc giàu ý nghĩa biểu tượng; từ đó
tổng hợp để làm nổi bật cảm hứng trữ tình - sử thi và chứng minh thơ Lê Anh Xuân thoát thai
từ cảm hứng đó.

19


5. Những đóng góp của luận văn.
Chọn đề tài này, chúng tôi có nguyện vọng được đóng góp:
5.1. Về mặt lý luận: Luận văn luận giải, làm sáng tỏ khái niệm cảm hứng và cảm hứng
trữ tình - sử thi trong sáng tạo nghệ thuật; vận dụng vào nghiên cứu một thời kì thơ ca và một
tác giả cụ thể.
5.2. Về mặt văn học sử: Luận văn nghiên cứu toàn bộ quá trình sáng tạo nghệ thuật của
Lê Anh Xuân, khẳng định những đóng góp của ông đối với nền thơ ca Việt Nam sau Cách
mạng tháng Tám.
5.3.Về mặt thực tiễn: Góp một phần vào việc giảng dạy, học tập thơ Lê Anh Xuân nói
riêng và thơ ca chống Mỹ nói chung được tốt hơn.

6. Cấu trúc luận văn.
Ngoài Dẫn nhập, Kết luận, Tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm ba chương
Chương 1: Cảm hứng trữ tình - sử thi trong thơ chống Mỹ.
Chương 2: Nội dung cảm hứng trữ tình - sử thi trong thơ Lê Anh Xuân.

Chương 3: Một số phương thức thể hiện cảm hứng trữ tình - sử thi trong thơ Lê Anh
Xuân.


CHƯƠNG 1: CẢM HỨNG TRỮ TÌNH - SỬ THI TRONG THƠ
CHỐNG MỸ
1.1. Khái niệm cảm hứng trữ tình - sử thi.
1.1.1. Cảm hứng nghệ thuật.
Khi Mác nói: "Con người sáng tạo theo qui luật của cái đẹp" thì cái đẹp ở đây được hiểu
theo nghĩa phổ quát mà ai cũng có khả năng tạo ra trong mọi hoạt động và hành vi của mình.
Từ cái đẹp đến nghệ thuật là cả một quá trình phát triển về tinh thần, tư tưởng và sự chuyển
hóa chức năng trong hoạt động sáng tạo của con người. Hơn nữa lao động nghệ thuật nói
chung và sáng tạo thơ văn nói riêng thuộc lĩnh vực sản xuất tinh thần theo phương thức cá
nhân, đơn lẻ. Sản phẩm của nó cũng mang tính cá thể chứ không phải là sản phẩm tập thể
được làm ra hàng loạt như trong trong sản xuất vật chất. Bởi vậy, sáng tạo nghệ thuật đòi hỏi
phải có tài năng, kể cả thiên tài. Nhà văn hóa Phạm Văn Đồng tâm sự: "Tôi nghĩ, chúng ta
hoạt động trong lĩnh vực đặc biệt này, lĩnh vực văn học nghệ thuật, mà không có tài, có khiếu,
thì khó khăn lắm... Nếu không có tài gì đặc biệt thì anh nên đi làm việc khác, chứ làm văn
nghệ thì khổ lắm " [42, tr.204].
Thừa nhận lao động nghệ thuật cần có tài năng đặc biệt, thì tài năng ở đây được hiểu bao
gồm cả năng khiếu bẩm sinh. Tất nhiên năng khiếu ấy phải được nuôi dưỡng và phát triển
thông qua quá trình học tập, rèn luyện không ngừng của nhà văn. Một trong những năng khiếu
hàng đầu tạo nên tố chất không thể thiếu của nhà văn là cảm hứng nghệ thuật. Ai không được
trời phú cho năng khiếu này thì dù trí tuệ có uyên bác đến đâu cũng không thể sáng tạo được
văn chương. Mỗi nhà văn đều có cách sáng tạo cho riêng mình nhưng ở họ đều có một điểm
giống nhau, đó là phải dạt dào cảm hứng - cảm hứng sâu sắc và bền vững, cảm hứng được
xuyên thấm vào thế giới nghệ thuật.
Tuy vậy, cảm hứng không phải là độc quyền của nghệ thuật. Hầu như tất cả các hoạt
động của con người đều cần đến cảm hứng và đều có cảm hứng (nói đúng hơn là hứng thú
nghề nghiệp). Nhưng đó là cảm hứng thông thường chứ chưa phải cảm hứng nghệ thuật.

Phương Lựu phân biệt: "Cảm hứng có thế có trong tất cả các ngành sản xuất khi mà con
người lao động hoàn toàn tự nguyện theo những mục đích hoàn toàn phù hợp với lí tưởng và
khả năng của mình. Nhưng khác với thành phẩm của tất cả các ngành lao động khác, tác
phẩm văn học nghệ thuật còn chứa đựng tình cảm chủ quan của chủ thể sáng tạo" [42, tr.209
21


- 210]. Nói ngắn gọn, cảm hứng trong các ngành lao động khác sẽ tan biến khi sản phẩm đã
xong xuôi, còn trong sáng tạo nghệ thuật, cảm hứng vẫn được bảo lưu và chuyển hóa vào tác
phẩm. Có thể nói, nếu không có cảm hứng thì không thể có văn chương theo nghĩa đích thực
của nó. Điều này cũng không có gì lạ, bởi chuyện văn chương là chuyện tình cảm (tình cảm
nghệ thuật); nhà văn không thể sáng tác khi trong lòng họ đã nguội lạnh: "Sáng tác nghệ thuật
không thể không có cảm hứng. Viết văn là gan ruột, tâm huyết, chỉ bộc lộ những gì đã thực sự
tràn đầy trong lòng, không thể cho ra những sản phẩm của một tâm hồn bằng lặng, vô vị,
miễn cưỡng " [42, tr.210].
Tuy nhiên, không phải hễ có cảm hứng tuôn trào thì tất sẽ có nghệ thuật, điều này còn
tùy thuộc vào năng lực chuyển hóa cảm hứng thành hình tượng của nhà văn nữa. Nhà thơ
Xuân Diệu viết: "Khi tôi nói xúc cảm, tôi không chỉ nói rung động về tình cảm mà thôi, bởi vì
người ta có thể rung động rất nhiều, thiết tha, chân thành đến ứa lệ, nhưng ra nước mắt chưa
hẳn đã ra thơ. Khi tôi nói xúc cảm là rung động về vần điệu, hình tượng, âm thanh, một hứng
thú sáng tạo vậy" [17, tr.123 -124]. Có điều, không ai có thể phủ nhận được sự khởi phát ban
đầu trong sáng tạo nghệ thuật vẫn là cảm hứng.
Vậy cảm hứng là gì?
Theo V.Biê-lin-xky, cảm hứng là: "Trạng thái phấn chấn cao độ của nhà văn do việc
chiếm lĩnh được bản chất của cuộc sống mà họ miêu tả", là "sự thiết tha và nhiệt tình nồng
cháy gợi lên bởi một tư tưởng nào đó" và "cảm hứng biến sự nhận thức của trí tuệ về một tư
tưởng nào đó trở thành lòng say mê đối với tư tưởng đó, trở thành năng lượng và thành khát
vọng nồng nhiệt" [24, tr.208 - 209]. Từ điển Larousse (của Pháp) gọi cảm hứng là nhiệt tình
sáng tạo (enthousiasme créateur). Từ điển Khang Hy (Trung Quốc) thì nói "hứng" là cảm xúc
trước sự vật mà phát ra. Sự thực thì cảm hứng chính là thời điểm mà sức sống bên trong đã

tích tụ, ấp ủ, lên men sáng tạo. Đó là thời điểm mà ngọn lửa kỳ diệu của thơ ca bùng cháy
khiến nghệ sĩ không thể không nói ra bằng lời.
Ở Việt Nam, từ thế kỷ XVII, Nguyễn Quýnh đã khẳng định: "Người làm thơ không thể
không có cảm hứng, cũng như tạo hóa thể không có gió vậy... Tâm người ta như chuông, như
trống, hứng như chày và dùi. Hai thứ đó gõ, đánh vào chuông, trống, khiến chúng phát ra
tiếng; hứng đến khiến người ta bật ra thơ" [79, tr.103]. Gần đây, các tác giả bộ giáo trình Lí
luận văn học định nghĩa: "Cảm hứng là một trạng thái căng thẳng nhưng say mê khác
thường. Sự căng thẳng của ý chí và trí tuệ, sự dồi dào về cảm xúc, khi đã đạt đến sự hài hòa,


kết tinh, sẽ chảy bùng trong tư duy nghệ thuật của nhà văn, dẫn dắt họ đến những mục tiêu da
diết bằng con đường gần như trực giác, bản năng" [42, tr.210]. Những người biên soạn Từ
điển thuật ngữ văn học định nghĩa cảm hứng chủ đạo là: "Trạng thái tình cảm mãnh liệt, say
đắm, xuyên suốt tác phẩm nghệ thuật, gắn liền với một tư tưởng xác định, một sự đánh giá
nhất định, gây tác động đến cảm xúc của những người tiếp nhận "[22, tr.38].
Như vậy, về khái niệm và vai trò của cảm hứng trong sáng tạo nghệ thuật, nhìn chung
các nhà mỹ học, lí luận văn học đều có những nhìn nhận tương đồng. Nhưng khi bàn đến
nguồn gốc xuất hiện và "cơ chế" hình thành cảm hứng thì lại có nhiều quan niệm khác nhau.
Những nhà duy tâm cho rằng cảm hứng có được là do thần linh đột nhập, văn nghệ sĩ triền
miên trong một trạng thái bị ám ảnh (Platông). Có ý kiến khác lại quả quyết: "Cảm hứng sáng
tác là hoàn toàn mang tính chất trực giác " (Bexcxông, Crôsê). Còn Phrớt thì giải thích cảm
hứng bắt nguồn từ bản năng tình dục. Đến các nhà duy vật biện chứng, cảm hứng được lý giải
từ lao động. Chẳng hạn, tác giả của cuốn tiểu thuyết lừng danh Thép đã tôi thế đấy, Nicôlai
Axtrôvxky tâm sự: "Tôi chỉ tin một điều là cảm hứng sinh ra từ trong lao động... vì lao động
đó là thầy thuốc tốt nhất cho mọi cảm hứng" [ 104, tr.233 ].
Nói cảm hứng bắt nguồn từ lao động cũng có tính thuyết phục của nó. Bởi cảm hứng
không phải tự nhiên mà có, không lao động thì không thể "đẻ ra" cảm hứng được. Cảm hứng
là kết quả của quá trình lao động trí tuệ kết hợp nhuần nhuyễn với tình cảm. Người sáng tác
thơ văn cũng lao động, lao động trong trạng thái dạt dào cảm hứng. Nhưng nói như vậy không
có nghĩa là phủ nhận tài năng bẩm sinh của nhà văn. Thiếu gì người lao động cật lực, vắt óc ra

nghĩ mà vẫn không có được một bài thơ hay. Cho nên ở đây cần nhìn nhận trên hai phương
diện khách quan và chủ quan. Cảm hứng nghệ thuật được hình thành, một mặt do "thiên phú"
(chủ quan); mặt khác, do có sự tác động của thế giới khách quan vào trí não con người. Sáng
tạo nghệ thuật là sáng tạo tinh thần, hình tượng nghệ thuật cũng được hiểu như "một khách thể
tinh thần đặc thù" [42, tr.138]. Mà theo Mác trong Tư bản luận thì: "Cái tinh thần chẳng phải
là cái gi khác mà chính là cái vật chất được chuyển hóa vào đầu óc con người và được cải tạo
lại ở trong đó" [72, tr. 17].
Do cảm hứng được hình thành từ những yếu tố khách quan và chủ quan như vậy, nên
thực tiễn cho thấy: khi nhà văn xa rời hiện thực, thậm chí thoát ly khỏi hiện thực thì sáng tác
của họ hoặc khô cằn cảm hứng hoặc cảm hứng tuy vẫn dạt dào nhưng chưa chắc đã chân thực.
Ngược lại, cùng gắn bó với một hiện thực, cùng một khuynh hướng cảm hứng và cùng lao
động cật lực như nhau; nhưng do sở trường của mỗi nhà văn mỗi khác cho nên chất lượng
23


sáng tác giữa họ cũng không đồng đều. Ở đây có cái gọi là "vùng cảm hứng". Mỗi nhà văn,
nhà thơ có một vùng cảm hứng "ruột" cho riêng mình. Vùng cảm hứng đó có thể được xác
định ở nội dung đề tài hoặc ở không gian, thời gian được phản ánh và biểu hiện. Chẳng hạn,
vùng cảm hứng "ruột" của Xuân Diệu là đề tài tình yêu, ở vùng này, Xuân Diệu xứng danh
"ông hoàng". Nhưng khi chuyển sang đề tài kháng chiến, đề tài đất nước thì sáng tác của Xuân
Diệu không được nổi bật như một số nhà thơ khác, dù ông vẫn dạt dào cảm hứng. Đến Phạm
Tiến Duật, một trong những nhà thơ trưởng thành thời chống Mỹ cũng tìm được một vùng
cảm hứng cho bản thân. Đó là không gian Trường Sơn trong những năm chiến tranh ác liệt.
Có thể nói, nếu không gắn với không gian này, chưa chắc Phạm Tiến Duật đã sáng tác được
những bài thơ từng làm rạo rực lòng người và chưa chắc ông đã có được một giọng thơ của
riêng mình.
Cảm hứng nghệ thuật có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp (pathos) tức là tình cảm sâu sắc,
nồng nàn. Cảm hứng nghệ thuật bao giờ cũng đậm đà, lắng lọc hơn cảm hứng thông thường.
Đồng thời, cảm hứng này luôn gắn với tư tưởng và mang tính khuynh hướng rõ rệt. Cảm hứng
nghệ thuật cũng là một yếu tố của nội dung tác phẩm. Nó thống nhất các yếu tố khác như đề

tài, chủ đề, tư tưởng tác phẩm.
Trên cơ sở xác định khái niệm cảm hứng như vậy, chúng tôi coi cảm hứng nghệ thuật là
cảm hứng chủ đạo bao trùm, xuyên suốt toàn bộ tác phẩm, rộng hơn là toàn bộ sáng tác của
nhà văn. Sách Dẫn luận nghiên cứu văn học (G.N. Pôxpêlôp chủ biên) xác định cảm hứng có
bảy loại: cảm hứng anh hùng, cảm hứng bi kịch, cảm hứng kịch tính, cảm hứng châm biếm,
cảm hứng hài hước, cảm hứng thương cảm, cảm hứng lãng mạn [64, tr.141]. Sự thể hiện các
loại hứng đó tùy thuộc vào thời đại, vào cảm quan và năng lực sáng tạo của từng nhà văn.
Trong sáng tạo nghệ thuật, nhà văn có thể đan xen nhiều loại cảm hứng khác nhau nhưng
trong đó bao giờ cũng nổi trội lên một cảm hứng chủ đạo. Đối với Lê Anh Xuân, cảm hứng
chủ đạo trong thơ ông là cảm hứng trữ tình - sử thi. Nghiên cứu cảm hứng này tức là khám phá
thế giới nghệ thuật của nhà thơ.
1.1.2. Cảm hứng trữ tình - sử thi.
Thơ ca trước hết là tiếng nói của tình cảm: "Thơ khởi phát từ lòng người ta" (Lê Quí
Đôn), nó vốn dĩ đã mang yếu tố trữ tình. Nhưng trong một thời điểm lịch sử hào hùng của dân
tộc, khi cảm hứng sử thi trở thành cảm hứng chủ đạo trong sáng tác của các nhà thơ thì yếu tố
trữ tình tất sẽ kết hợp với cảm hứng sử thi, tạo thành cảm hứng trữ tình - sử thi. Ở nước ta, loại


cảm hứng này được coi như một đặc điểm thi pháp chung của thơ ca kháng chiến, nhất là
trong kháng chiến chống Mỹ. Nhà nghiên cứu Nguyễn Vãn Long khẳng định: "Thơ kháng
chiến chống Mỹ thuộc loại hình thơ cách mạng. Nó là sự tiếp nối liền mạch dòng thơ kháng
chiến chống Pháp và thơ trong những năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhưng đã đưa loại
hình thơ cách mạng đến một bước phát triển cao, mà đặc điểm nổi bật là sự kết hợp sử thi với
trữ tình, tạo thành khuynh hướng trữ tình - sử thi" [41, tr. 12].
Khái niệm sử thi ở đây không đồng nhất với sử thi cổ đại, một thể loại tự sự khách quan,
có dung lượng lớn, kể hết mọi biểu hiện phong phú của đời sống như một bách khoa toàn thư.
Khái niệm sử thi trong cảm hứng trữ tình - sử thi được hiểu là một khuynh hướng cảm hứng
ưu tiên cho chủ đề dân tộc, cho khí thế sục sôi của một thời kỷ vẻ vang của cách mạng; xây
dựng những con người tiêu biểu cho ý chí, phẩm chất anh hùng mang tầm vóc lịch sử và thời
đại; nó không chỉ thể hiện ở nội dung thể tài mà còn ở quan điểm tiếp cận của nhà thơ với mọi

hiện tượng đời sống, là quan điểm cộng đồng. Với khuynh hướng cảm hứng này, các nhà thơ
chống Mỹ đã sáng tạo nên những hình tượng đẹp, có chiều sâu về đất nước, về Đảng, về lãnh
tụ và các tầng lớp nhân dân: bộ đội, thanh niên xung phong, phụ nữ, phụ lão, thiếu nhi, xã
viên, công nhân, cán bộ đủ các ngành nghề. Hầu như tất cả các tầng lớp nhân dân đều có đại
diện của mình trong bức tranh văn học.
Cảm hứng trữ tình - sử thi tôn trọng và đề cao nguyên lý văn học phản ánh hiện thực, nó
miêu tả một cách toàn diện các mặt của đời sống như lòng yêu nước, tinh thần chiến đấu, tinh
thần đoàn kết cộng đồng, niềm lạc quan cách mạng, niềm tin vào lý tưởng cộng sản. Phạm trù
cái cao cả thực sự trở thành phạm trù mỹ học cho các nhà thơ kháng chiến theo đuổi. Nhờ vậy,
thơ chống Mỹ cố âm hưởng hào sảng, khẻe khoắn, luôn đem lại niềm vui phơi phới, ấm áp cho
người tiếp nhận.
Cảm hứng trữ tình - sử thi thường tạo ra những tác phẩm có những đặc điểm chủ yếu sau
đây.
* Trước hết đó là những tác phẩm mang màu sắc hoành tráng, phản ánh hiện thực hào
hùng của dân tộc cùng với những sự kiện lịch sử quan trọng có ý nghĩa với toàn thể cộng
đồng. Nói như Hêghen: "Các sử thi thực sự độc đáo đến nay cung cấp cho chúng ta một bức
tranh tinh thần dân tộc... một bức tranh toàn vẹn về các giai đoạn, ở đấy có ý thức và phẩm
chất của ý thức" [25, tr.29]. Nhìn vào thơ ca chống Mỹ ta thấy chưa bao giờ trong thơ lại bùng
cháy tinh thần quật khởi chống ngoại xâm như ở thời kỳ này. Và cũng chưa bao giờ nghệ thuật

25


×