Tải bản đầy đủ (.pdf) (130 trang)

đặc trưng nghệ thuật tiểu thuyết chúa trời của những chuyện vụn vặt của arundhati roy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (812.13 KB, 130 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
----------

Ngô Thị Thu Ngọc

ĐẶC TRƯNG NGHỆ THUẬT TIỂU THUYẾT
CHÚA TRỜI CỦA NHỮNG CHUYỆN VỤN VẶT
CỦA ARUNDHATI ROY

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh – 2012


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
----------

Ngô Thị Thu Ngọc

ĐẶC TRƯNG NGHỆ THUẬT TIỂU THUYẾT
CHÚA TRỜI CỦA NHỮNG CHUYỆN VỤN VẶT
CỦA ARUNDHATI ROY
Chuyên ngành: Văn học Nước ngoài
Mã số: 60 22 30

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN THỊ BÍCH THÚY



Thành phố Hồ Chí Minh – 2012


LỜI CẢM ƠN
------Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Nguyễn

Thị Bích Thúy, người hướng dẫn khoa học đã tận tình hướng dẫn, động
viên để tôi có thể hoàn thành tốt luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn tất cả các thầy cô đã giảng dạy,
hướng dẫn và tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình học Cao học.
Tôi cũng xin trân trọng cảm ơn Giám đốc Sở GD-ĐT Long
An, Ban Giám hiệu Trường THPT Đông Thạnh (Cần Giuộc, Long An)
cùng các đồng nghiệp đã tạo điều kiện và giúp đỡ để tôi hoàn thành
Luận văn.
Đồng thời, tôi xin gửi lời tri ân đến gia đình cùng bạn bè.

Tp. Hồ Chí Minh, ngày

tháng

năm 2012

Người viết luận văn

Ngô Thị Thu Ngọc
Lớp Cao học Văn học nước ngoài K21



MỤC LỤC
Trang
Lời cảm ơn
Mục lục
Lời cam đoan
PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 2
Chương một: ARUNDHATI ROY VỚI DÒNG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI ẤN ĐỘ
VIẾT BẰNG TIẾNG ANH .................................................................................................. 15
1.1. Con đường đến với văn chương của Arundhati Roy ................................................. 15
1.1.1. Bối cảnh xã hội Ấn Độ ....................................................................................... 15
1.1.2. Arundhati Roy – thân thế và sự nghiệp .............................................................. 19
1.2. Tiểu thuyết Ấn Độ đương đại viết bằng tiếng Anh ................................................... 25
1.2.1. Tiếng Anh trong văn học Ấn Độ đương đại ....................................................... 25
1.2.2. Sự ảnh hưởng và tiếp nhận của dòng văn học Ấn Độ viết bằng tiếng Anh ........ 26
1.2.3. Tiểu thuyết đầu tay “Chúa Trời của những chuyện vụn vặt” của Arundhati
Roy ................................................................................................................................ 32
Chương hai: HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT TRONG CHÚA TRỜI CỦA NHỮNG
CHUYỆN VỤN VẶT CỦA ARUNDHATI ROY .................................................................. 41
2.1. Mối liên hệ giữa ba thế hệ trong gia đình theo trục dọc (trực hệ) ............................. 42
2.1.1. Pappachi và Mammachi – Thế hệ thứ nhất ......................................................... 43
2.1.2. Ammu và Baba – Thế hệ thứ hai ........................................................................ 48
2.1.3. Estha và Rahel – Thế hệ thứ ba .......................................................................... 56
2.2. Mối liên hệ giữa ba thế hệ trong gia đình theo trục ngang (bàng hệ) ........................ 62
2.2.1. Baby Kochamma – Thế hệ thứ nhất ...................................................................62
2.2.2. Chacko – Thế hệ thứ hai ..................................................................................... 64
2.2.3. Sophie Mol – Thế hệ thứ ba................................................................................ 66
2.3. Mối quan hệ thuận nghịch trong gia đình .................................................................. 68


2.3.1. Mối quan hệ thuận ............................................................................................. 68

2.3.2. Mối quan hệ nghịch ............................................................................................ 70
2.4. Mối quan hệ chính trị, xã hội, tôn giáo ...................................................................... 72
2.4.1. Mối quan hệ thuận .............................................................................................. 72
2.4.2. Mối quan hệ nghịch ............................................................................................ 74
Chương ba: NGHỆ THUẬT KỂ CHUYỆN TRONG CHÚA TRỜI CỦA NHỮNG
CHUYỆN VỤN VẶT CỦA ARUNDHATI ROY .................................................................. 76
3.1. Người trần thuật ......................................................................................................... 76
3.1.1. Người trần thuật ngôi thứ ba khách quan ........................................................... 76
3.1.2. Người trần thuật ngôi thứ ba trữ tình ngoại đề ................................................... 78
3.1.3. Người trần thuật ngôi thứ ba nhập vai ................................................................ 81
3.2. Thời gian trần thuật .................................................................................................... 89
3.2.1. Độ lệch thời gian ................................................................................................. 90
3.2.2. Đồng hiện thời gian ............................................................................................ 93
3.2.3. Nhịp độ thời gian ................................................................................................ 95
3.3. Không gian trần thuật ................................................................................................ 97
3.3.1. Không gian thực.................................................................................................. 97
3.3.2. Không gian tâm tưởng ...................................................................................... 105
KẾT LUẬN......................................................................................................................... 111
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................................. 114
PHỤ LỤC ........................................................................................................................... 124


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi.
Các số liệu khảo sát, kết quả trong luận văn này là trung thực và chưa
từng công bố ở các công trình khác.
Người viết luận văn

Ngô Thị Thu Ngọc
Lớp Cao học Văn học nước ngoài K21



2

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Văn học Ấn Độ trên văn đàn thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng đã
được khẳng định từ lâu bởi sự độc đáo, đa dạng, phong phú mà thống nhất. Từ
những tác phẩm văn học cổ điển: thần thoại (Veda), sử thi (Ramayana,
Mahabharata), truyện ngụ ngôn (Panchatantra), kịch thơ (Shakuntala) đến thơ
ca trung đại với các tên tuổi như Tunxi Đat, Chanđi Đat,… và đặc biệt là R.
Tagore – người đạt giải Nobel năm 1913, đã làm rạng danh nền văn học Ấn Độ
hiện đại… Sau Tagore, văn học Ấn (chủ yếu là tiểu thuyết) tiếp tục được dịch
khá đều đặn ở Việt Nam như: Godan; Đây, tổ quốc tôi (Prem Chand), Trên lưng
cọp (B. Bhattacharya), Hai lá một búp (Mulk RajAnand), Thất bại (Krisan),
Người dẫn đường (R.K. Narayan), Sông Hằng mẹ của tôi (B.P. Gupta) ,
Samsakara (Anantha Murthi), Mùa tôm (Thakagi Pillai),… Song, xét về tầm
vóc, văn học Ấn Độ đến với Việt Nam còn chậm và chưa thỏa mãn hết lòng
mong muốn của bạn đọc.
Những thập niên đầu thế kỉ XX, nền văn học Ấn Độ đương đại với tên tuổi
của những nhà văn trẻ đã tạo dư chấn trên văn đàn thế giới. Cứ khoảng mười đầu
sách được bán ra thì có bốn cuốn là của các tác giả người Ấn. Điều này chứng tỏ
người đọc đang ngày càng có xu hướng tìm đến các nhà văn Ấn, các tác phẩm
văn học Ấn đương đại. Ở Việt Nam, các tác phẩm văn học Ấn Độ đương đại viết
bằng tiếng Anh đã được dịch và giới thiệu bao gồm: Chúa Trời của những
chuyện vụn vặt (Arundhati Roy), Triệu phú khu ổ chuột (Vikas Swarup), Cọp
Trắng (Aravind Adiga), Haroun và Biển Truyện (Salman Rushdie), Di sản của
mất mát (Kiran Desai),… Có thể nói, dòng văn học Ấn viết bằng tiếng Anh đang
thu hút sự quan tâm của đông đảo bạn đọc.
Trong số các tác phẩm thuộc dòng văn học Ấn đương đại viết bằng tiếng

Anh được dịch ở Việt Nam, chúng tôi đặc biệt chú ý đến quyển tiểu thuyết đầu


3

tay Chúa Trời của những chuyện vụn vặt của Arundhati Roy và chọn nghiên cứu
bởi những lí do như sau:
1)

Tác phẩm The God of Small Things của A. Roy được trao Giải Man Booker
năm 1997 khi ra đời được một năm. Đến nay, nó đã được dịch ra trên 27
thứ tiếng trên thế giới, làm say mê hàng triệu độc giả. Số lượng sách bán ra
tương đương với quyển Trăm năm cô đơn của G. Maquez. Năm 1999, The
God of Small Things của Arundhati Roy được dịch giả Thanh Vân cho ra
mắt độc giả Việt Nam với nhan đề Chúa Trời của những chuyện vụn vặt.
Tuy nhiên, việc tiếp nhận tác giả, tác phẩm này ở Việt Nam vẫn chưa thực
sự khởi sắc.

2)

Nhà nghiên cứu văn hóa Ấn Độ, Hồ Anh Thái, từng nói rằng trước văn hóa
Ấn Độ, mỗi người đều trở nên thật nhỏ bé. Bởi trong nền văn hóa đó, cái gì
cũng to lớn giống như tư duy mang tính bao quát, hoành tráng của người
Ấn. Và nhan đề cuốn sách của A. Roy được dịch là Chúa Trời của những
chuyện vụn vặt. Dường như cuốn sách sẽ chỉ nói đến toàn những điều nhỏ
nhặt, vụn vặt trong cuộc sống? Những điều vụn vặt nhưng có “sức quyến rũ
đầy ma lực”. Đằng sau những điều vụn vặt ấy là “những nỗi thống khổ
tuyệt hay và lạ lùng”. Đây là một cuốn tiểu thuyết về “tình yêu, cái chết, về
sự phân biệt đẳng cấp và những xung đột gia đình”.
Trong chương đầu tiên, hàng loạt sự kiện được cung cấp không theo một


trật từ nào và cũng không tìm được mối liên hệ nào giữa chúng. Các nhân vật lần
lượt xuất hiện, không được giới thiệu gì về lai lịch, gốc gác... Người đọc tự hỏi: Điều cuốn hút đang ẩn chứa đằng sau “mớ bòng bong” này là gì?
Khi trang cuối cùng của cuốn sách khép lại thì “những điều ẩn nấp” trong
tác phẩm vỡ ra, những điều lớn lao ẩn chứa sau vô vàn điều nhỏ nhặt (Chúng tôi
sẽ đề cập ở các chương chính của luận văn). Câu chuyện về đất nước Ấn Độ thời
hậu thuộc địa những năm 90 của thế kỉ XX với những luật lệ, hủ tục đè nặng
phận người khốn khó (nạn phân biệt đẳng cấp, giới tính, tôn giáo...). Những điều


4

này không mới nhưng đã thu hút người đọc qua cách kể chuyện của nhà văn.
Chúa Trời của những chuyện vụn vặt thể hiện tài năng và hơn hết là tâm hồn
nhạy cảm, tinh tế của Arundhati Roy khi tái hiện câu chuyện về một gia đình
trung lưu ở Ayemenem, một vùng nông thôn Ấn Độ. Tác phẩm cho thấy điểm
nổi bật trong câu chuyện không chỉ ở những bi kịch mà ở cách phản ứng của các
thành viên trong gia đình trước những bi kịch ấy.
Tìm hiểu việc tiếp nhận tác phẩm của A. Roy ở Việt Nam, chúng tôi nhận

3)

thấy chưa có nhiều công trình nghiên cứu về tiểu thuyết đương đại Ấn Độ.
Vì vậy, với đề tài nghiên cứu: Đặc trưng nghệ thuật tiểu thuyết Chúa
Trời của những chuyện vụn vặt của Arundhati Roy, chúng tôi hi vọng
góp phần giới thiệu tác phẩm A. Roy với độc giả Việt Nam và hướng tiếp
cận một phong cách sáng tác mới lạ của một đại diện tiêu biểu cho dòng
văn học Ấn đương đại viết bằng tiếng Anh.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Arundhati Roy – nhà văn nữ Ấn Độ đầu tiên giành được Giải Man Booker

với quyển tiểu thuyết đầu tay là một sự kiện nổi bật trên văn đàn thế giới. Có lẽ
không quá lời khi cho rằng A. Roy là một nhà văn khá đặc biệt so với các nhà
văn Ấn cùng thời. Tiểu thuyết Chúa Trời của những chuyện vụn vặt của A. Roy
đề cập đến những vấn đề nhạy cảm của xã hội Ấn Độ: vấn đề chính trị, đẳng cấp,
tôn giáo, giới tính… Tất cả đã được A. Roy khai thác ở một khía cạnh khác:
cuộc sống của những đứa trẻ “bất hợp pháp” (được sinh ra khi cha mẹ không
cùng tôn giáo); tình yêu không cùng đẳng cấp, tôn giáo và đời sống tinh thần;
lòng vị kỉ của con người; nhu cầu tình dục… Đây không còn là vấn đề của riêng
Ấn Độ mà là nỗi niềm của mỗi người trước số phận đồng loại trong xã hội hiện
đại.
2.1. Ở Việt Nam
Trong phạm vi những tư liệu bao quát được, qua một số bài viết đăng rải rác
ở sách tham khảo, tạp chí và internet), chúng tôi tạm chia thành hai nhóm:


5

(1) Giới thiệu chung về tác giả - tác phẩm:
- Bài giới thiệu về tiểu thuyết Chúa Trời của những chuyện vụn vặt của
Arundhati Roy trong Hợp tuyển Văn học Châu Á (tập 2) do PGS. Lưu
Đức Trung chủ biên.
- Bài giới thiệu tiểu thuyết Chúa Trời của những chuyện vụn vặt của
Arundhati Roy của PGS.TS. Đỗ Thu Hà biên soạn trong Từ điển Văn học
Nước ngoài.
- Bài “Arundhati Roy và tiểu thuyết The God of Small Things” của tác
giả Đào Trung Đạo 1 .
- Bài viết “Dấu ấn phương Tây trong văn học Ấn Độ cận - hiện đại” của
TS. Nguyễn Thị Mai Liên.
- Bài: “Một khuôn mặt độc đáo của văn chương Ấn Ðộ: Arundhati
Roy” của tác giả Trần Doãn Nho.

- Bài “Văn học Ấn Độ - Trên đường chinh phục thế giới” từ nguồn:
L'Express do Hoài Khanh ghi lại.
- Bài “12 tiểu thuyết Ấn hay nhất viết bằng tiếng Anh” do Hà Linh ghi
nhận từ nguồn Outlookindia.
Trong nhóm bài giới thiệu chung này, tác giả các bài viết thường bắt đầu
bằng việc khẳng định vị trí tiểu thuyết Chúa Trời của những chuyện vụn vặt của
Arundhati Roy trên văn đàn thế giới nói chung và trong dòng văn học Ấn đương
đại viết bằng tiếng Anh nói riêng. Nhìn chung, tác giả các bài viết đều thể hiện
lòng yêu mến và đánh giá cao quyển tiểu thuyết này. Đó là những nhận định của
PGS.TS. Lưu Phan Thu Hiền: “Chúa trời của những chuyện vụn vặt là một sự
kiện của văn chương đương đại Ấn Độ”; của Hoài Khanh: “Từ Salman Rushdie

Bên cạnh những nhận xét xác đáng, chúng tôi nhận thấy có nhiều thông tin không chính
xác trong bài viết của tác giả Đào Trung Đạo. Ví dụ như: Arundhati Roy đạt Giải Man
Booker năm 1998 (đúng phải là năm 1997); Rahel và Estha xa nhau sau 25 năm thì gặp lại
(đúng chỉ là 23 năm); tên các nhân vật;…
1


6

đến Arundhati Roy, qua V. S. Naipaul, những nhà văn Ấn Độ nổi tiếng đã chinh
phục hầu hết những độc giả Anh ngữ trên thế giới”…
Những bài giới thiệu về Arundhati Roy, tùy tính chất của mỗi bài viết mà
A. Roy được giới thiệu nhiều hoặc ít. Trong số các bài viết kể trên, bài của Trần
Doãn Nho cung cấp thông tin về cuộc đời A. Roy chi tiết hơn cả. Trần Doãn Nho
đề cập nhiều đến con đường hoạt động chính trị, xã hội, đến một số sự kiện quan
trọng trong cuộc đời và cảm hứng sáng tác của A. Roy, đồng thời bày tỏ niềm
yêu thích, sự mến mộ với A. Roy trong tư cách nhà văn hơn là nhà hoạt động
chính trị, xã hội. Tuy nhiên, phần tư liệu về Arundhati Roy từ những bài viết nêu

trên không nhiều, đó là những khó khăn khi chúng tôi nghiên cứu về cuộc đời và
sự nghiệp của nhà văn này.
Phần tóm tắt nội dung tác phẩm, tác giả các bài viết đã chú trọng ở nội
dung quan trọng như:
Hiện thực xã hội cũng là một trong những chủ đề văn học nóng
bỏng mà Arundhati Roy - một nhà văn nữ trẻ trung, người chính gốc
Kerala - đã dám miêu tả một cách trần trụi (và bằng tiếng Anh)”; một xã
hội "trộn lẫn giữa chủ nghĩa Marx kiểu phương Đông với Ấn Độ giáo
chính thống điểm xuyết một tí chút dân chủ." ...
Theo Đào Trung Đạo, cuốn tiểu thuyết là câu chuyện bi thảm của gia đình Rahel
qua ba đời ở Kerala, miền Nam Ấn Độ, nơi đã xảy ra những đối nghịch tranh
chấp căng thẳng về chính trị và chủng tộc. Đó cũng là câu chuyện “về hai đứa trẻ
sinh đôi”, Estha và Rahel “vĩnh viễn đánh mất tuổi thơ ấu trên khúc ngoặt một
dòng sông”; về chuyện mọi luật lệ bị “xáo trộn”, chuyện “Sophie Mol chết đuối
trong một trò chơi nghịch ngợm của trẻ con”; chuyện “Ammu, mẹ của Estha và
Rahel” “ban ngày yêu các con, ban đêm yêu đàn ông, một chàng trai thuộc đẳng
cấp Paravan thấp hèn”. Những nhận xét trên đã giúp chúng tôi tiếp cận đầy đủ
nội dung tiểu thuyết Chúa Trời của những chuyện vụn vặt.


7

Về phương diện nghệ thuật, Chúa Trời của những chuyện vụn vặt được
“nhiều nhà phê bình có uy tín so sánh phong cách của A. Roy với M. Faulkner,
J. Joyce…”. PGS.TS. Phan Thu Hiền nhắc đến “thủ pháp đảo lộn trật tự thời
gian”, “thủ pháp quay chậm của điện ảnh” được A. Roy sử dụng; TS. Nguyễn
Thị Mai Liên xếp tiểu thuyết Chúa Trời của những chuyện vụn vặt vào dạng
“tiểu thuyết tâm lí dòng ý thức”; Đào Trung Đạo cũng nêu một vài nhận xét:
“Đây là quyển tiểu thuyết có tính tự truyện được Arundhati Roy xây dựng theo
những mô hình kiến trúc”... Nghệ thuật kể chuyện độc đáo thể hiện ở thời gian

tự sự rời rạc, trộn lẫn quá khứ với hiện tại, “giống như A. Roy đã viết từng
chương rời rạc, tất cả là 21 chương, rồi sau đó ghép chúng lại”. Những ý kiến,
nhận định này đã gợi mở nhiều cho chúng tôi trong quá trình tiếp cận tác phẩm
từ phương diện nghệ thuật.
(1) Nghiên cứu về tác phẩm:
Bài viết “Vài nét về thi pháp tiểu thuyết Chúa Trời của những chuyện
vụn vặt”: Trong bài viết này, từ góc độ thi pháp, ThS. Vũ Thị Thu Hương đã
chọn hướng tiếp cận tác phẩm ở hai phương diện không gian nghệ thuật và thời
gian nghệ thuật. Trong phần không gian nghệ thuật, tác giả tập trung vào không
gian thiên nhiên (không gian dòng sông, không gian mưa), không gian gia đình
và không gian đất nước Ấn Độ nói chung. Phần thời gian nghệ thuật, tác giả
khảo sát trình tự thời gian và chọn thời điểm ban đêm là trọng tâm, đồng thời chú
ý tới nhịp độ thời gian của tác phẩm. Bài viết còn chú ý đến cách lặp đi lặp lại
một khoảnh khắc, một ngày, một thời điểm với biết bao sự kiện dồn dập… Qua
hướng tiếp cận này, bài viết khẳng định tài năng và cá tính sáng tạo độc đáo của
A. Roy.
Bài viết “Hình ảnh người phụ nữ trong tiểu thuyết Chúa Trời của
những chuyện vụn vặt” mở đầu bằng sự khái quát bối cảnh lịch sử hiện đại Ấn
Độ, thực trạng bất công đối với phụ nữ Ấn, vai trò của phụ nữ trong xã hội Ấn
Độ từ trước đến nay... Bằng việc vận dụng “quan điểm về giới trong mối quan hệ


8

quốc gia và quốc tế”, tác giả viết: “Vấn đề phụ nữ được đưa vào tác phẩm như
một niềm khao khát sau thời thuộc địa”. Qua phần tóm tắt ngắn gọn cốt truyện
dựa theo nhân vật chính Rahel, tác giả nói đến “sự thiếu an toàn của xã hội”
dành cho những đứa trẻ, về lịch sử Ấn Độ hậu thuộc địa. Đó là những “di
chứng” của chủ nghĩa thực dân thông qua hình tượng ẩn dụ về “Ngôi nhà lịch
sử”. Sự mục ruỗng của “Ngôi nhà lịch sử” có mối quan hệ chặt chẽ với sự chết

dần của ngôi nhà Ayemenem, cũng “bộc lộ rõ sự mất mát của giai cấp trưởng giả
về vị trí thống trị của nó trong cuộc đấu tranh đẳng cấp với giai cấp lao động”.
Điều này, theo chúng tôi, không phục vụ nhiều cho vấn đề nghiên cứu của đề tài
mà tác giả đặt ra. Điều chúng tôi chờ đợi ở bài viết, một cái nhìn hệ thống, sâu
sắc hơn về “hình ảnh những người phụ nữ trong tiểu thuyết…” nằm ở phần sau
với cách phân tích và khái quát về những nhân vật nữ qua “bốn thế hệ những phụ
nữ trong gia đình Ayemenem, từ Mammachi, Baby Kochamma đến Ammu, rồi
Rahel” 2.
Bài viết tập trung vào những vấn đề có liên quan trực tiếp đến phụ nữ
như: giới tính, tình dục. Tác giả thể hiện sự đồng cảm với các nhân vật nữ bất
hạnh qua phương thức xây dựng nhân vật của A. Roy. Đó là giá trị của người
phụ nữ Ấn hôm nay trên chặng đường phát triển của xã hội.
Chúng tôi còn tìm thấy một số bài viết trên Blog cá nhân của một số độc giả với
niềm yêu thích đặc biệt dành cho tác phẩm. Mặc dù chỉ dừng lại ở mức cảm nhận
ban đầu nhưng ý kiến này cũng đã tạo hứng thú cho chúng tôi khi nghiên cứu đề
tài của mình.
2.2. Ở nước ngoài
Hiện nay, các nhà phê bình cũng như những độc giả quan tâm đến Chúa
Trời của những chuyện vụn vặt có nhiều hướng tiếp cận tác phẩm khác nhau
nhưng tựu trung họ đều chú ý đến hai trọng tâm: nội dung và nghệ thuật của tác
Theo chúng tôi là ba thế hệ: Mammachi và Baby Kochamma sẽ được xem là cùng một
thế hệ, hai thế hệ còn lại là Ammu và Rahel.
2


9

phẩm. Tuy nhiên, sự phân tách này chỉ mang tính tương đối. Bởi giữa hai
phương diện tiếp cận, đôi khi, khó có thể chia tách rạch ròi được. Ở những bài
nghiên cứu mà chúng tôi bao quát được 3, có thể hiện sự giao thoa giữa nội dung

và nghệ thuật của tác phẩm.
- Bài “Arundhati Roy's The God of Small Things: 'Real' Possibilities in
Postcolonial Literature” (Tạm dịch: Chúa Trời của những chuyện vụn vặt của
Arundhati Roy: Yếu tố “thực” trong văn chương hậu thuộc địa) viết: “Cho đến
nay Chúa Trời của những chuyện vụn vặt đã bán được 6.000.000 bản”. Chúa
Trời của Những Chuyện Vụn vặt có mặt trong top 100 tiểu thuyết được yêu thích
nhất tại Anh và được nêu lên như một hiện tượng đặc biệt của văn chương hậu
thuộc địa. Bài viết của Frederick Luis Aldama cũng tìm hiểu tác phẩm ở nhiều
phương diện như: nội dung đề tài, ngôn ngữ, văn phong,… và chú ý nhiều đến
chất văn chương, yếu tố chính trị trong tác phẩm.
- Tiến sĩ M. Lal Goel ở Đại học West Florida (1999) đọc quyển tiểu thuyết
của A. Roy hai lần (lần đầu để nắm cốt truyện, lần sau để thưởng thức nghệ thuật
của nó). Ông bảo bản thân ông bị cuốn hút bởi văn phong của A. Roy: câu văn
ngắn gọn, sắc bén; thành ngữ mới lạ, ấn tượng; nhiều cụm từ hay: “Lịch sử của
pháp luật”, “luật yêu đương”, “mọi thứ có thể thay đổi trong một ngày”… Từ đó,
ông bày tỏ niềm yêu thích trước khả năng tưởng tượng của A. Roy khi miêu tả
nhân vật, không gian, sự kiện… trong tiểu thuyết.
- Trong bài “Arundhati Roy: The God of Small Things Study Guide”,
tác giả Paul Brians trình bày hai phần. Phần đầu nêu ngắn gọn những nhận định
chung về tiểu thuyết của A. Roy: “A. Roy chịu ảnh hưởng của Salman Rushdie”.
Ông cũng chop rằng nét độc đáo nhất trong tiểu thuyết của A. Roy là sự thâm
nhập vào suy nghĩ của trẻ thơ một cách khách quan với những đam mê cuồng
Trên thế giới xuất hiện khá nhiều công trình nghiên cứu về tiểu thuyết Chúa Trời của
những chuyện vụn vặt của A. Roy cũng như về bản thân nhà văn. Tuy nhiên, trong phần
này, chúng tôi chỉ xin tổng hợp lại những tư liệu phù hợp với khả năng tiếp nhận của bản
thân người viết cũng như phạm vi nghiên cứu của đề tài luận văn.
3


10


nhiệt, những nỗi sợ hãi sau những biến cố gần như tiêu diệt chúng… Phần thứ
hai của bài viết chú giải cặn kẽ những từ, cụm từ đồng thời đặt ra những câu hỏi
gợi mở, tạo điểm nhấn cho độc giả khi tiếp cận tác phẩm. Những chú giải của P.
Brians rất chi tiết và được trình bày theo từng chương của cuốn sách.
- Trong bài “Complicity and resistance: Women in Arundhati Roy’s
The God of Small Things” (Tạm dịch là: “Sự đồng thuận và chống đối: Nhân
vật nữ trong Chúa Trời của những chuyện vụn vặt của Arundhati Roy”), nhà
nghiên cứu Golam Gaus Al-Quaderi and Muhammad Saiful Islam nói về vấn đề
đồng thuận và chống đối của các nhân vật nữ tiêu biểu trong tiểu thuyết (Ammu,
Rahel, Baby Kochamma, Mammachi…). Bài viết tập trung vào sự bất bình đẳng
ở Ấn Độ thời hậu thuộc địa thông qua việc lí giải những vấn đề trong hôn nhân:
sự cam chịu của những người phụ nữ như Mammachi; sự công khai phá vỡ luật
lệ của Ammu và Rahel… Theo tác giả bài viết, Ammu là nhân vật có vai trò
quan trọng nhất trong tác phẩm, là "một phụ nữ dũng cảm tuyệt vời" (Aijaz
Ahmad). Sự nổi loạn của Ammu chống lại tập tục hôn nhân, chống lại những trật
tự xã hội, dù kết cục phải chết trong nỗi cô đơn, sợ hãi cùng kiệt thì Ammu vẫn
được xem là người đại diện cho những người phụ nữ dám đấu tranh hết mình vì
sự bình đẳng. Cùng với Ammu, ba nhân vật: Mammachi, Baby Kochamma và
Rahel cũng được phân tích kĩ để làm rõ hơn vấn đề “đồng thuận” và “chống đối”
ở những phụ nữ này. Vấn đề giải phóng phụ nữ khỏi những áp bức của đẳng cấp
và giới tính cũng được đặt ra. Tuy nhiên, trong tác phẩm, A. Roy chưa đưa ra
giải pháp cụ thể nào để giải thoát người phụ nữ. Có lẽ, nhà văn hiểu rõ rằng: Sự
giải thoát, (một kết thúc có hậu) sẽ là không tưởng trong xã hội Ấn Độ những
năm cuối thế kỉ XX. Chúa Trời của những chuyện vụn vặt phơi bày cuộc sống
thực không chút ngụy trang như một cách đưa ra vấn đề để mọi người cùng quan
tâm, từ đó tìm ra phương án hành động thiết thực hơn.
- Các bài viết giới thiệu về The God of Small Things như: bài của Taisha
Abraham (“An Interview with Arundhati Roy” – Tạm dịch là: “Một cuộc



11

phỏng vấn Arundhati Roy”); của Alok Rai trên The Sunday Review of The Times
of Indian; của Đài BBC; và những trao đổi của A. Roy với công chúng… Tựu
trung, các bài viết này chỉ mới dừng lại ở những nhận định mang tính khái quát.
Từ sự thống kê những đánh giá ban đầu về tình hình nghiên cứu tác phẩm ở
Việt Nam, ở Ấn Độ và nước ngoài, chúng tôi nhận thấy tiểu thuyết Chúa Trời
của những chuyện vụn vặt của Arundhati Roy đã nhận được sự quan tâm sâu
rộng của các nhà nghiên cứu. Những vấn đề được bàn luận khá phong phú cả về
nội dung, tư tưởng, nghệ thuật lẫn các vấn đề văn hóa, chính trị… Đây là những
tư liệu tham khảo cần thiết đối với chúng tôi trong quá trình thực hiện đề tài luận
văn của mình.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Khái niệm đặc trưng nghệ thuật của đề tài trong luận văn được chúng tôi
hiểu là những sáng tạo nghệ thuật mang tính hệ thống trong tiểu thuyết của A.
Roy, những dấu hiệu mà khi liên hợp lại sẽ thể hiện được phong cách của A.
Roy với các tác giả văn học Ấn đương đại viết bằng tiếng Anh khác. Đặc trưng
nghệ thuật Chúa Trời của những chuyện vụn vặt được chúng tôi tiếp cận ở dấu
ấn nghệ thuật, ở phong cách của A. Roy qua ngôn ngữ, bút pháp, hình tượng
nhân vật,… trong tác phẩm. Với đề tài “Đặc trưng nghệ thuật tiểu thuyết
Chúa Trời của những chuyện vụn vặt của Arundhati Roy”, chúng tôi tập
trung tìm hiểu hai phương diện: hình tượng nhân vật và nghệ thuật kể chuyện
của A. Roy để lí giải về những thành công của tác phẩm qua các giải thưởng
được trao tặng và vị trí của tác giả, tác phẩm trong dòng văn học Ấn đương đại
viết bằng tiếng Anh, từ đó khẳng định sự độc đáo của tác phẩm này.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Cho đến thời điểm này, Arundhati Roy mới chỉ viết duy nhất tiểu thuyết
The God of Small Things. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi tiếp cận với bản

dịch tiếng Việt Chúa Trời của những chuyện vụn vặt xuất bản năm 1999 của


12

dịch giả Thanh Vân (Nhà xuất bản Phụ Nữ Hà Nội). Ở một số đoạn, chúng tôi
nhận thấy dịch giả có lược dịch so với nguyên bản 4. Việc đối chiếu giữa bản
dịch tiếng Việt và nguyên tác tiếng Anh là cần thiết nhưng do khả năng tiếng
Anh còn hạn chế của người viết và phạm vi cho phép của đề tài nên chúng tôi
chưa làm tốt được việc đối chiếu văn bản. Trong quá trình triển khai đề tài,
chúng tôi tìm hiểu thêm một số bài viết của A. Roy về các vấn đề xã hội để có
những đánh giá toàn diện hơn về tư tưởng, nghệ thuật tác phẩm, về thân thế của
A. Roy.
4. Phương pháp nghiên cứu
Chúng tôi đã chọn vận dụng những phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp văn hóa – văn học: Được vận dụng để phát hiện những dấu
ấn văn hóa đặc thù trong nghệ thuật tiểu thuyết của nhà văn. Việc nghiên cứu
một tác phẩm văn học không thể tách rời những yếu tố, đặc điểm văn hóa dân
tộc. Chúng tôi xem đây là một trong những phương pháp chủ đạo trong quá trình
thực hiện đề tài.
- Phương pháp loại hình: Nghiên cứu tác phẩm dựa trên quan điểm tiếp cận
tiểu thuyết, cách kể của tiểu thuyết, phương thức hình thành tính cách nhân vật
cũng như phương thức xây dựng hoàn cảnh trong tiểu thuyết...
- Phương pháp tiếp cận thi pháp học: tìm hiểu đặc trưng nghệ thuật tiểu
thuyết Chúa Trời của những chuyện vụn vặt thông qua hình tượng nhân vật và
nghệ thuật kể chuyện.
- Phương pháp phê bình tiểu sử: Chúng tôi dùng phương pháp này để tìm
hiểu về bối cảnh xã hội của tác phẩm cũng như tiểu sử của nhà văn, từ đó có
những cứ liệu xác thực để chứng minh cho sự tác động của bối cảnh xã hội đến
tác phẩm và ngược lại.


Điều này gợi mở một đề tài nghiên cứu thú vị về tác phẩm khi chúng tôi có thể phát triển
khả năng ngôn ngữ của mình sau này.
4


13

- Phương pháp hệ thống: chúng tôi đặt tác phẩm Chúa Trời của những
chuyện vụn vặt trong dòng chảy của nền văn học Ấn Độ đương đại, với một số
tác phẩm văn học Ấn viết bằng tiếng Anh.
5. Bố cục luận văn
Luận văn gồm ba phần: mở đầu, ba chương chính và kết luận.
Phần mở đầu của luận văn gồm có sáu mục: Lí do chọn đề tài, Lịch sử
nghiên cứu vấn đề, Đối tượng và phạm vi nghiên cứu, Phương pháp nghiên cứu,
Bố cục luận văn và Đóng góp của luận văn.
Ba chương chính của luận văn gồm:
- Chương một (27 trang): Arundhati Roy với dòng văn học Ấn Độ
đương đại viết bằng tiếng Anh. Trong chương này, chúng tôi giới
thiệu khái quát về con người, sự nghiệp của Arundhati Roy và quá
trình phát triển của dòng văn học Ấn Độ đương đại viết bằng tiếng
Anh.
- Chương hai (37 trang): Hình tượng nhân vật trong Chúa Trời của
những chuyện vụn vặt. Chương này phân tích nghệ thuật xây dựng
hình tượng nhân vật của tác giả qua mối quan hệ ràng buộc giữa các
thế hệ trong một dòng họ với cách phân chia theo trực hệ và bàng hệ,
để từ đó chỉ ra mối liên kết giữa các thế hệ trong tác phẩm dựa trên
mối quan hệ huyết thống và mối quan hệ xã hội.
- Chương ba (37 trang): Nghệ thuật kể chuyện trong Chúa Trời của
những chuyện vụn vặt. Nghệ thuật kể chuyện là một vấn đề lớn nên

trong chương này, chúng tôi chỉ triển khai tập trung ở: người trần
thuật, thời gian trần thuật và không gian trần thuật trong tác phẩm.
Kết luận (3 trang): Là những tổng hợp và đánh giá các vấn đề đã trình bày
ở ba chương chính, đề xuất hướng đi tiếp theo trong các công trình nghiên cứu
sau này.
Tài liệu tham khảo (10 trang) và Phụ lục (2 trang).


14

6. Đóng góp của luận văn
Ý nghĩa khoa học: Với đề tài “Đặc trưng nghệ thuật tiểu thuyết Chúa
Trời của những chuyện vụn vặt của Arundhati Roy”, chúng tôi mong muốn
đóng góp kết quả nghiên cứu về nghệ thuật tiểu thuyết của Arundhati Roy – một
phong cách độc đáo của văn chương Ấn Độ đương đại.
Ý nghĩa thực tiễn: Việc nghiên cứu, giới thiệu Arundhati Roy còn khá xa
lạ ở Việt Nam. Chúng tôi hi vọng công trình này sẽ góp phần đưa Arundhati Roy
đến gần hơn với độc giả, đồng thời cung cấp tư liệu về một hiện tượng văn
chương đặc biệt của tiểu thuyết Ấn Độ đương đại viết bằng tiếng Anh mà theo
chúng tôi, Arundhati Roy là một trong những gương mặt nổi bật.


15

Chương một
ARUNDHATI ROY VỚI DÒNG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI ẤN ĐỘ
VIẾT BẰNG TIẾNG ANH
1.1. Con đường đến với văn chương của Arundhati Roy
1.1.1. Bối cảnh xã hội Ấn Độ
1.1.1.1. Vài nét về xã hội Ấn Độ sau năm 1947

Ấn Độ được ví như một cô gái đẹp, mình quấn hai dải “đăng ten” (sông
Ấn và sông Hằng), đầu đội mũ tuyết (núi Himalaya), chân vô tư nghịch nước
biển Ấn Độ Dương. Nhưng vẻ đẹp hồn nhiên, dịu dàng này đã trải qua không ít
thăng trầm. Trong phạm vi cho phép, chúng tôi chỉ đề cập những vấn đề liên
quan đến xã hội Ấn từ sau ngày độc lập đến cuối thế kỉ XX với sự phát triển
vượt bậc về mọi mặt cũng như vô vàn những khó khăn, thử thách liên quan đến
A. Roy và tác phẩm của bà.
Sau khi giành lại được nền độc lập từ tay thực dân Anh năm 1947, Ấn
Độ bị phân chia thành Liên bang Ấn Độ và Lãnh thổ tự trị Pakistan. Quá trình
dẫn đến chia cắt bắt nguồn từ hàng loạt những sự kiện mang tính chính trị chứ
không đơn giản chỉ vì sự mâu thuẫn của hai tôn giáo (Hindu giáo và Hồi giáo).
Bởi dù có những khác biệt đến mức không thể cùng tồn tại nhưng hai cộng
đồng người này đã chung sống hòa bình trong một giai đoạn lịch sử l âu dài.
Sự chia cắt ấy cũng không hoàn toàn chỉ do thực dân Anh thực hiện mưu đồ
chia rẽ. Vì từ cuối những năm 30 trở đi, sự tác động và ảnh hưởng của Anh ở
Ấn Độ đã không còn mạnh mẽ. Có thể thấy, việc chia cắt còn diễn ra dưới tác
động của các nhân vật, sự kiện lịch sử và các hội nghị, các cuộc đàm phán,
thương lượng giữa ba bên: thực dân Anh, Đảng Quốc Đại Ấn Độ và Liên đoàn
Hồi giáo, với các nhân vật mang tầm ảnh hưởng như M. Gandhi, J. Nehru,


16

M.A. Jinna… nhất là trong thập niên cuối (1937 - 1947).
Việc chia cắt đất nước là một tai họa giáng xuống đầu quần chúng nhân
dân. Từ những mầm mống xung đột nhỏ lẻ, nhưng do tác động về mặt tư
tưởng và quan điểm của giới lãnh đạo đã dẫn đến xung đột về mọi mặt. Biết
bao cuộc xung đột đẫm máu được qui về một nguyên nhân duy nhất là do xung
đột tôn giáo. Trong cuộc bầu cử đầu tiên của Ấn Độ sau chia cắt năm 1952,
mọi người nhận ra rằng: Cái giá của tự do là chia cắt đất nước. Đảng Quốc Đại

đã đấu tranh đến cùng nhưng đến lúc cũng nhận ra ba con đường: đất nước bị
nước ngoài cai trị, nội chiến đẫm máu hoặc cả hai… Nếu không có chia cắt,
nghĩa là không có sự chuyển giao quyền lực. Và nếu cả Ấn Độ chìm trong nội
chiến thì hậu quả sẽ còn bi thảm hơn nhiều so với việc chia cắt. Vì vậy, để có
một chính phủ trung tâm được thiết lập bằng phong trào hòa bình chỉ còn con
đường chia cắt. Đây là quan điểm và lập luận của những người theo chủ nghĩa
dân tộc của Ấn Độ. Nhìn chung, lịch sử về giai đoạn này đã bị chính trị hóa rất
nhiều nên thật khó để tìm được một nhận định khách quan tuyệt đối.
Việc chia cắt diễn ra để lại một vết cắt sâu trong lòng hai quốc gia Ấn
Độ và Pakistan. Và dĩ nhiên, điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến đời sống con
người và xã hội Ấn Độ nói riêng, hai nước Ấn Độ và Pakistan nói chung.
Tiếp theo là sự chia cắt giữa các tỉnh Punjab và Bengal, những cuộc bạo
động giữa người Sikh, Hindu và Hồi giáo bùng nổ ở Punjab, Bengal và Delhi,
làm hơn một triệu người thiệt mạng [50, tr.39]. Trong thời kì này, những cuộc di
cư ồ ạt trong lịch sử hiện đại diễn ra rất nhiều, với khoảng 12 triệu người Hindu,
Sikh và Hồi giáo di chuyển giữa Ấn Độ và Pakistan làm cho tình hình chính trị,
xã hội Ấn Độ vốn chưa ổn định càng thêm căng thẳng. Chưa kịp khôi phục đất
nước sau gần một thế kỉ chịu sự áp bức, bóc lột của thực dân Anh, Ấn Độ tiếp
tục gánh trên mình những cuộc chiến hết sức căng thẳng ở vùng Kashmir – nơi
tranh chấp giữa Ấn Độ và Pakistan (vào những năm 1948, 1965, 1971).


17

Sau ngày độc lập, chính phủ vẫn không thể kiểm soát được vấn đề gia
tăng dân số: “Vào những năm 70, dân số Ấn Độ tăng khoảng 13 triệu người mỗi
năm và đến năm 1985 tổng dân số đã lên tới 750 triệu người” [80]. Năm 1991
dân số Ấn Độ là hơn 800 triệu người và đến nay đã vượt quá con số một tỉ
người. Dân số tăng nhanh đi liền với đói nghèo, thất học làm đời sống người dân
vô cùng khó khăn.

Đáng nói hơn, dù đất nước đã độc lập, tư tưởng tự do, dân chủ đã được
khai mở nhưng tư tưởng quốc gia hẹp hòi, địa phương chủ nghĩa, những thành
kiến về đẳng cấp, tôn giáo, những tư tưởng phong kiến bảo thủ… vẫn tồn tại ở
Ấn Độ. Và dù Hiến pháp đã qui định cấm phân biệt đẳng cấp nhưng hệ thống
đẳng cấp vẫn tồn tại một cách ngấm ngầm, nhất là ở các vùng nông thôn xa xôi
của Ấn Độ. Vì những điều này mà đa số người dân Ấn luôn tuyệt đối phục tùng
hoàn cảnh và số phận.
Bằng nền tảng cộng hòa cùng với tinh thần làm việc chăm chỉ, sự kiên trì
trau dồi tri thức và khả năng sáng tạo của người dân, Ấn Độ đã nhanh chóng
khắc phục những khó khăn về kinh tế: “nghèo nàn, lạc hậu, bị suy kiệt bởi các
cuộc cướp bóc, khai thác và thuộc địa hóa”. Tuy nhiên, vẫn còn không ít những
vấn đề nan giải như: mức độ phân hóa giàu nghèo ngày càng cao ở các thành phố
lớn; những hủ tục, những định kiến về đẳng cấp và xung đột tôn giáo vẫn ngấm
ngầm… Mong muốn đạt được sự phát triển toàn diện và đồng bộ, Ấn Độ sẽ phải
nỗ lực nhiều hơn nữa trong mọi phương diện. Vấn đề còn lại chỉ là thời gian.
1.1.1.2. Bức tranh văn hóa đa dạng, thống nhất
Là một quốc gia đa sắc tộc, đa ngôn ngữ với nền văn hóa cổ xưa, trường
tồn và thăng trầm qua các thời kì lịch sử, Ấn Độ đã để lại một di sản văn hóa
đậm màu sắc tôn giáo. Những cuộc xâm lược và sự cai trị những ách áp bức của
các tộc người Hy Lạp, người Hồi giáo và thực dân phương Tây sau này đã không
hủy diệt được mà còn hòa tan vào dòng chảy của văn hóa truyền thống Ấn Độ.
Có thể nói, nét độc đáo của văn hóa Ấn Độ là khả năng hấp thụ và tồn tại cùng


18

lúc nhiều nền văn hóa khác nhau. Cả yếu tố bản địa lẫn yếu tố du nhập đều tự
thích nghi để tồn tại.
Đằng sau dáng vẻ hiện đại, vẫn là một Ấn Độ quyến rũ, huyền bí và thâm
trầm, một Ấn Độ luôn tôn trọng những giá trị tâm linh, luôn suy ngẫm, chiêm

nghiệm và khát vọng vươn tới sự giác ngộ, giải thoát khỏi đời sống vật chất phù
phiếm.
Sự dung hợp tôn giáo đã tạo nên dấu ấn riêng cho văn hóa Ấn Độ. Hai tôn
giáo chính và phổ biến nhất ở Ấn Độ là Hindu giáo và Phật giáo. Tuy nhiên, văn
hóa Hindu (chiếm trên 83% dân số) luôn chiếm ưu thế, ngay cả trong những
hoàn cảnh chính trị bất lợi. Còn những tôn giáo khác như: Sikh, Jain, Hồi, Thiên
Chúa,… với không ít điểm khác biệt, bất đồng, thậm chí là xung đột cũng đã biết
cách chung sống hòa bình.
Cuối thế kỉ XX, làn sóng phương Tây hóa văn hóa Ấn Độ diễn ra mạnh
mẽ nhưng cuối cùng đã bị đẩy lùi nhờ những nỗ lực không mệt mỏi của các nhà
hoạt động văn hóa tâm huyết: Raja Ram Mohan Roy, Swami Vivekananda,
Narayana Guru, Maharisi…
Văn hóa Ấn Độ thế kỉ XX thể hiện khuynh hướng khoan dung, thỏa hiệp
và phóng khoáng khi tiếp thu cái mới. Nhưng về căn bản, nó lại không dễ dãi với
những gì liên quan đến phương diện tinh thần, đến lương tâm đạo đức của con
người, đến giá trị nhân văn của dân tộc, cũng như của cả nhân loại. Giữ gìn bản
sắc văn hóa truyền thống của dân tộc luôn là vấn đề nóng bỏng và phức tạp
không riêng ở quốc gia nào. Với Ấn Độ, Jawaharlal Nehru từng nói:
Một ước mơ thống nhất nào đó đã chiếm lĩnh tâm trí Ấn Độ kể từ buổi
đầu của nền văn minh. Sự thống nhất đó không phải từ bên ngoài áp đặt
vào, không phải là sự tiêu chuẩn hóa những thứ ngoại lai hoặc thậm chí
các niềm tin. Nó là một cái gì sâu sắc hơn và trong lòng nó là một đức bao
dung rộng lớn nhất về niềm tin và tập quán, và mọi sự khác biệt đều được
chấp nhận, thậm chí được khuyến khích”.


19

Chính sự linh động này, nên dù với một xã hội đa nguyên phức tạp đến mức nào,
Ấn Độ vẫn giữ cho mình một nền văn hóa đặc trưng mang đậm “bản sắc Ấn

Độ”, “cá tính Ấn Độ”, “tinh thần Ấn Độ”.
Trong nền văn hóa ấy, văn học Ấn Độ được xem là đại diện tiêu biểu
chứng minh cho khả năng bảo tồn bản sắc dân tộc. Chúng tôi tìm thấy điều này ở
các nhà văn trẻ của dòng văn học Ấn Độ đương đại viết bằng tiếng Anh. Trong
phần tiếp theo, chúng tôi muốn đề cập đến một nhà văn nữ, Arundhati Roy.
1.1.2. Arundhati Roy – thân thế và sự nghiệp
1.1.2.1. Đứa con của Thiên Chúa giáo và Hindu giáo
Arundhati Roy (tên đầy đủ là Suzanna Arundhati Roy) sinh ngày 24 tháng
11 năm 1961 tại Bengal, vùng Đông Bắc Ấn. Mẹ A. Roy (bà Mary Roy) là người
theo Thiên Chúa giáo nhưng cha, một chuyên viên trồng trà, lại là người theo
Hindu giáo. Theo quan niệm của đại đa số người Ấn, hôn nhân là “sự hợp nhất
đã được thánh hóa, làm cho việc li hôn trở thành một điều không thể nghĩ đến
trong truyền thống” [50, tr.96]. Chính vì điều này mà từ xa xưa, biết bao luật lệ
đã trói buộc người phụ nữ vào bổn phận làm con, làm vợ và cả làm mẹ. Cuộc
hôn nhân của bố mẹ A. Roy có sự kết hợp của hai tôn giáo. Người cha theo
Hindu giáo từ lâu vẫn quen với nếp nghĩ vợ là người chịu đựng và phục tùng
tuyệt đối. Nhưng mẹ A. Roy lại thuộc lớp phụ nữ mới – một giáo viên, một
người hoạt động xã hội vì sự bình đẳng giới. Cả cuộc đời, Mary Roy luôn kiên
quyết, bền bỉ đấu tranh cho quyền thừa kế của những phụ nữ Thiên Chúa giáo ở
Kerala. Ngày nay, ở Kerala, phụ nữ ngày càng được tự do và bình đẳng hơn.
Mary sáng lập ngôi trường (Corpus Christi) độc lập với chính quyền địa phương
để giáo dục thanh thiếu niên theo tinh thần tự do, dân chủ, không câu nệ vào
những điều cấm kị của tôn giáo hay văn hóa truyền thống. Cuộc hôn nhân của
Mary Roy đổ vỡ là do sự khác biệt quá lớn trong tư tưởng của hai vợ chồng. Sau


20

khi cha mẹ li hôn, Arundhati Roy sống với mẹ ở vùng Ayamanam 5 tỉnh Kerala.
A. Roy được mẹ dạy học tại nhà, đến 10 tuổi mới bắt đầu đến trường như những

đứa trẻ khác. Có thể thấy, A. Roy chịu ảnh hưởng trực tiếp và sâu sắc từ sự giáo
dục của mẹ. Trong đó, tinh thần tự do luôn được đề cao với hai mẹ con.
Tóm lại, Mary Roy đã có ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành tư tưởng
và nhân cách của Arundhati Roy. Vì khi lớn lên, A. Roy đã trở thành nhà hoạt
động chính trị, xã hội như người mẹ của mình.
1.1.2.2. Nhà hoạt động xã hội - nhà văn
Từ nhỏ Arundhati Roy đã hấp thu tinh thần tự do, dân chủ của mẹ nên khi
vừa đến tuổi trưởng thành, bà đã chọn cho mình một cuộc sống tự lập. Mười tám
tuổi, A. Roy rời nhà đến Delhi và bắt đầu cuộc sống riêng của mình. Cô sống
trong một ngôi lều nhỏ ở khu lều bất hợp pháp và kiếm sống bằng việc bán
những vỏ chai thu gom được. Sau đó, cô đăng kí học ngành Quy hoạch và Kiến
trúc tại một trường đại học ở Delhi. Tại đây, A. Roy gặp và kết hôn với kiến trúc
sư Gerard Da Cunha, một sinh viên cùng ngành. Sau khi kết hôn, A. Roy và
chồng từ bỏ ngành kiến trúc, đến thành phố Goa, bán bánh kẹo ở bờ biển cho
khách du lịch. Sau bốn năm chung sống, A. Roy và chồng li dị. Không có con
cái, A. Roy chuyển sang bán trái cây kiếm sống. May mắn, A. Roy tìm được việc
làm tại "National Institute for Urban Affairs". Hàng ngày, A. Roy đi làm với
chiếc xe đạp thuê cũ kĩ. Được một thời gian, vì tò mò, A. Roy bắt đầu chuyển
qua làm phim ở Massey Saab với giám đốc Pradeep Krishen (người chồng thứ
hai của bà sau này). Thời gian này, A. Roy tập viết lách (thực hiện ước mơ từ bé
của mình) và được nhận làm người viết kịch bản cho phim truyền hình. Kịch bản
đầu tiên và cũng do bà đóng vai chính là phim In Which Annie Gives It Those
Ones. Tiếp sau đó, A. Roy viết kịch bản cho phim Electric Moon do người
Ayamanam trở thành bối cảnh chính cho quyển tiểu thuyết đầu tay, The God of Small
Things, của A. Roy sau này dưới cái tên Ayemenem.
5


×