Tải bản đầy đủ (.pdf) (132 trang)

motif thi tài trong truyền thuyết và truyện cổ tích dân tộc kinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (796.16 KB, 132 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Trần Thị Thùy Duyên

MOTIF THI TÀI TRONG TRUYỀN THUYẾT VÀ
TRUYỆN CỔ TÍCH DÂN TỘC KINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh – 2013


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Trần Thị Thùy Duyên

MOTIF THI TÀI TRONG TRUYỀN THUYẾT VÀ
TRUYỆN CỔ TÍCH DÂN TỘC KINH

Chuyên ngành

: Văn học Việt Nam

Mã số

: 60 22 01 21

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. PHAN THỊ THU HIỀN

Thành phố Hồ Chí Minh – 2013


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn, ngoài sự nỗ lực và cố gắng của bản thân, tôi đã nhận
được sự giúp đỡ, ủng hộ nhiệt tình từ thầy cô, gia đình và bạn bè. Tôi xin gửi lời cảm
ơn chân thành đến:
 Quý thầy cô trong khoa Ngữ văn và phòng Sau đại học trường Đại học Sư
phạm thành phố Hồ Chí Minh đã tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp tôi thực hiện đề tài
này.
 Cô Phan Thị Thu Hiền, người đã giúp đỡ và hướng dẫn tận tình tôi trong
suốt quá trình tôi thực hiện đề tài. Qua đây, tôi xin gửi tới cô lời biết ơn chân thành
và sâu sắc nhất.
 Gia đình, bạn bè, người thân luôn hỗ trợ, động viên tôi trong quá trình thực
hiện đề tài.
Với việc thực hiện một đề tài nghiên cứu trong khoảng thời gian và khả năng
còn hạn chế, luận văn không thể tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong nhận được sự
góp ý từ quý thầy cô và các bạn.
Xin chân thành cảm ơn!
Thành phố Hồ Chí Minh tháng 10 năm 2013

Trần Thị Thùy Duyên

3



MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN .........................................................................................................................3
MỞ ĐẦU .................................................................................................................................6
1. Lí do chọn đề tài ..............................................................................................................6
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .............................................................................................7
3. Mục đích nghiên cứu ....................................................................................................13
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................................13
5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu.................................................................13
6. Đóng góp mới của luận văn .........................................................................................14
7. Kết cấu luận văn ...........................................................................................................14
Chương 1. TRUYỀN THUYẾT VÀ TRUYỆN CỔ TÍCH CỦA DÂN TỘC KINH VÀ
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU MOTIF ........................................................................16
1.1. Truyền thuyết và truyện cổ tích của dân tộc Kinh ...................................................16
1.1.1. Truyền thuyết .......................................................................................................16
1.1.2. Truyện cổ tích ......................................................................................................18
1.1.3. Khái quát truyền thuyết và truyện cổ tích của dân tộc Kinh ...............................22
1.2. Motif và phương pháp nghiên cứu motif trong truyền thuyết và truyện cổ tích .........24
1.2.1. Khái niệm motif ...................................................................................................24
1.2.2. Phương pháp nghiên cứu motif trong truyền thuyết và truyện cổ tích ................25
Tiểu kết ..............................................................................................................................30
Chương 2. PHÂN LOẠI MOTIF THI TÀI TRONG TRUYỀN THUYẾT VÀ
TRUYỆN CỔ TÍCH DÂN TỘC KINH ..............................................................................31
2.1. Xét từ nhân vật thi tài ................................................................................................31
2.1.1. Các kiểu nhân vật thi tài trong truyền thuyết ......................................................31
2.1.2. Các kiểu nhân vật thi tài trong truyện cổ tích .....................................................38
2.2. Xét từ hình thức thi tài ..............................................................................................48

4



2.2.1. Các hình thức thi tài trong truyền thuyết ...........................................................49
2.2.2. Các hình thức thi tài trong truyện cổ tích ...........................................................55
2.3. Xét từ nguyên nhân thắng cuộc thi tài .....................................................................63
2.3.1. Các nguyên nhân thắng cuộc thi tài trong truyền thuyết ...................................63
2.3.2 Các nguyên nhân thắng cuộc thi tài trong truyện cổ tích ....................................68
Chương 3. KẾT QUẢ VÀ Ý NGHĨA THỂ HIỆN CỦA MOTIF THI TÀI TRONG
TRUYỀN THUYẾT VÀ TRUYỆN CỔ TÍCH CỦA DÂN TỘC KINH .........................75
3.1. Chức năng của hoạt động thi tài ...............................................................................75
3.1.1. Các kết quả của hoạt động thi tài trong truyền thuyết ........................................76
3.1.2. Các kết quả của hoạt động thi tài trong truyện cổ tích .......................................80
3.2. Ý nghĩa thể hiện của motif thi tài ..............................................................................85
3.2.1. Ý nghĩa thể hiện của motif thi tài trong truyền thuyết .........................................85
3.2.2. Ý nghĩa thể hiện của motif thi tài trong truyện cổ tích ........................................95
3.3. So sánh motif thi tài trong truyền thuyết và truyện cổ tích của tộc người Kinh với
một vài tộc người khác ....................................................................................................102
3.3.1. So sánh với dân tộc Khmer ................................................................................102
3.3.2. So sánh với dân tộc Chăm ................................................................................104
3.3.3. So sánh với vài dân tộc ít người khác................................................................106
KẾT LUẬN .........................................................................................................................110
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..........................................................................113
PHỤ LỤC ............................................................................................................................119
Phụ lục 1: .............................................................................................................................119
Phụ lục 2: .............................................................................................................................126

5


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Ngay từ buổi bình minh của loài người, văn học dân gian đã trở thành chiếc cầu kì

diệu nối liền đời sống thực tế và đời sống tinh thần của con người. Truyện cổ dân gian có
nhiều thể loại phong phú, đa dạng. Vì vậy, muôn mặt tâm hồn của nhân dân- chủ nhân của
những câu chuyện cổ được thể hiện hết sức chân thật, sinh động. Nhờ đó, những thế hệ sau
mới có thể tìm hiểu, cảm nhận về một thời kì không bao giờ quay trở lại của nhân loại.
Những câu chuyện cổ, nhất là thể loại truyền thuyết và truyện cổ tích chính là tấm gương
thần kì thể hiện ước mơ, gìn giữ những nét đẹp đáng quý của con người bấy giờ với sự cần
cù, khéo léo, tài hoa, thông minh, tài trí, khỏe mạnh, hào hiệp, trượng nghĩa,…mà muôn đời
sau còn lưu truyền. Những lớp trầm tích này được vùi sâu rất kín đáo, trở nên bền chặt và
vĩnh hằng.
Truyền thuyết và truyện cổ tích là một trong những phương tiện tái hiện và phản ánh
cuộc sống với những phức tạp, mâu thuẫn về tình yêu, hôn nhân, quyền lực, lãnh
thổ,…Truyền thuyết và truyện cổ tích nói riêng, văn học dân gian nói chung không chỉ tái
hiện mà còn đề xuất cách giải quyết hòa bình, hữu nghị và đầy tính nhân văn: thi tài để giải
quyết vấn đề. Vì vậy, rõ ràng, vấn đề thi tài trong văn học dân gian nói chung và trong
truyền thuyết, truyện cổ tích nói riêng là một vấn đề rất đáng quan tâm, tìm hiểu. Bởi nó
không chỉ thể hiện tinh thần hữu hảo, nhân đạo mà còn ca ngợi tài năng và phẩm chất của
con người.
Do đó, trong khuôn khổ của luận văn này, chúng tôi quyết định chọn vấn đề nghiên
cứu về motif thi tài trong truyền thuyết và truyện cổ tích, hai trong trong số các thể loại
phong phú của truyện kể dân gian. Về mặt chủ thể sáng tạo, chúng tôi chọn dân tộc Kinh dân tộc đông nhất và có khối lượng truyện kể đồ sộ nhất để làm rõ hơn những đặc điểm và ý
nghĩa thể hiện của motif này. Chúng tôi tin rằng motif này sẽ là phương tiện đắc lực giúp
chúng tôi tìm hiểu bước đầu về nội dung, ý nghĩa, giá trị của những câu chuyện dân gian
trong các sáng tác của dân tộc Kinh. Qua đó, chúng tôi có thể tìm về với cuộc sống và tâm
hồn của ông cha, để thêm yêu, thêm quý, thêm tự hào về truyền thống nghìn năm của dân
tộc.

6


2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Trong phạm vi tư liệu mà chúng tôi bao quát được, các nhà nghiên cứu trong và
ngoài nước đã phân tích khá nhiều khía cạnh vấn đề liên quan gián tiếp hoặc trực tiếp đến đề
tài luận văn của chúng tôi.
* Các tài liệu nghiên cứu về truyền thuyết và truyện cổ tích
Nghiên cứu về các phương diện tiêu biểu, nổi bật của thể loại truyền thuyết
Thể loại truyền thuyết được giới nghiên cứu Việt Nam quan tâm nhiều nhất bắt đầu
từ những năm 60, 70. Trong hai thập kỉ này, mối quan tâm của các nhà nghiên cứu chủ yếu
xoay quanh truyền thuyết về thời đại của Hùng Vương, An Dương Vương.
Trước hết là một loạt bài viết xoay quanh một văn bản cụ thể: truyền thuyết về An
Dương Vương, Mị Châu, Trọng Thủy và truyền thuyết thời đại vua Hùng nói chung. Các
tác giả Phan Nhân, Trần Nghĩa, Trần Quốc Vượng, Đinh Gia Khánh, Nguyễn Từ Chi đã sử
dụng các phương pháp đa dạng và phong phú khi xem xét các khía cạnh vấn đề có liên quan
trong việc nghiên cứu nhóm truyền thuyết này. Phan Nhân mở đầu cho loạt bài nghiên cứu
này vào 1961 bằng bài viết “ Mấy ý kiến về vấn đề khai thác truyện dân gian và cải biên
truyền thuyết Mị Châu- Trọng Thủy”. Bằng phương pháp thi pháp học, tác giả đã nêu vấn
đề đâu là chuẩn mực chung khi cải biên một tác phẩm văn học dân gian. Trong cuộc tranh
luận này, các nhà nghiên cứu đòi hỏi phải xác minh được đâu là cốt truyện hợp lí của truyền
thuyết Trọng Thủy- Mị Châu, xác định chủ đề tư tưởng, cải biên truyền thuyết này và phải
sử dụng vốn cổ ra sao. Nếu Phan Nhân chọn giải quyết vấn đề thứ ba thì Trần Nghĩa với “
Truyền thuyết Mị Châu- Trọng Thủy phát triển qua các thời đại” vào 1965 chọn giải quyết
vấn đề đầu tiên dựa vào các tài liệu cổ, từ góc nhìn dân tộc học.
Từ các bài viết của các nhà nghiên cứu đi trước, Đinh Gia Khánh đã có cái nhìn khái
quát hơn, rộng lớn hơn khi đặt ra vấn đề “ Xác định giá trị của truyền thuyết đối với việc tìm
hiểu lịch sử thời đại Hùng Vương” vào 1969. Ông nhận định “ truyền thuyết biến đổi dần
theo không gian và thời gian, nhưng dầu cho cơ cấu bên trong và diện mạo bên ngoài của
truyền thuyết có ít nhiều bị thay đổi thì nội dung chính lúc đầu vẫn không bị mai một mà
trái lại vẫn giữ nguyên tính chất hạt nhân trung tâm”. Vì thế, ông khẳng định giá trị của
truyền thuyết trong việc tìm hiểu lịch sử dân tộc là rất to lớn. Đây là một bài viết có tầm
khái quát lớn, bao trùm những vấn đề lớn của truyền thuyết như vấn đề nhân vật, cốt truyện,
vấn đề thái độ và tình cảm của nhân dân,…Thi pháp học được tác giả sử dụng như kim chỉ


7


nam trong việc nghiên cứu những vấn đề mang tính chất vĩ mô trong văn học dân gian.[
Đinh Gia Khánh, 2003, tr. 656,660].
Ngoài ra, vào 1969, Trần Quốc Vượng tiếp tục đóng góp cho chủ đề này bài viết
nghiên cứu về tên riêng của các nhân vật ở các truyền thuyết trong thời đại Hùng Vương: “
Từ việc nghiên cứu tên riêng trong các truyền thuyết nói về thời kì dựng nước”. Với phương
pháp nghiên cứu ngữ âm lịch sử, tiếp thu tinh thần nghiên cứu của Đinh Gia Khánh trong “
Qua việc nghiên cứu các danh từ riêng trong một số truyện cổ tích” và Hoàng Thị Châu
trong “ Tìm hiểu từ “ phụ đạo” trong truyền thuyết về Hùng Vương”, tác giả đã bước đầu
tìm hiểu về các tên riêng của các nhân vật chính trong Lí Ông Trọng, Trầu Cau, Thánh
Gióng, An Dương Vương.
Đến 1971, chuyên luận của Trần Quốc Vượng và Nguyễn Từ Chi kết thúc loạt bài
viết xoay quanh truyền thuyết An Dương Vương: “ Vua Chủ”. Các tác giả đã đi tìm xuất
thân của Vua Chủ, tên gọi dân gian của An Dương Vương Thục Phán. Đồng thời, các tác
giả cũng đi vào tìm hiểu con đường mà tác giả dân gian sáng tạo nên truyền thuyết về thành
Cổ Loa. Đi theo hướng nghiên cứu văn học dân gian bằng nhân học văn hóa, các tác giả đã
nghiên cứu về sự tái tạo, bồi đắp, khử dần,…để tạo nên diện mạo của truyền thuyết này hôm
nay.
Các nhà nghiên cứu tìm hiểu về truyền thuyết thời đại Hùng Vương tiêu biểu là nhà
nghiên cứu Cao Huy Đỉnh trong công trình “ Người anh hùng làng Dóng” (1969). Tác giả
đã tiến hành nghiên cứu truyền thuyết Thánh Gióng trên diện rộng từ điền dã, diễn xướng,
truyện kể,…đến các thư tịch cổ ghi chép sử ca, sách sử…để thấy được đặc trưng điển hình
của loại truyện cổ- anh hùng ca của tác phẩm Ông Dóng. Hướng tiếp cận theo nhân học văn
hóa được tác giả vận dụng thuần thục ở chuyên luận này.
Gần đây, văn học so sánh ngày một phát triển mạnh mẽ. Đó là biểu hiện của sự phát
triển văn học Việt Nam trong việc vươn xa ra thế giới, giao lưu và hội nhập mạnh mẽ. Các
tác giả bắt đầu quan tâm đến việc nghiên cứu nhiều văn bản truyền thuyết có mối liên quan

với nhau trong thế so sánh chúng.
Hồ Quốc Hùng (2000) trong bài viết: “Về sự tái sinh của nhóm truyền thuyết anh
hùng bộ lạc ở vùng Thuận Hóa” đã đặt vấn đề về sự tái sinh của nhóm truyền thuyết về
những người anh hùng thời bộ lạc, hậu thân của anh hùng làng Gióng ở vùng đất Thuận Hóa
xưa. Bằng thao tác so sánh các bản kể, tác giả đã phác họa nên diện mạo của nhóm truyện
mang đậm tính địa phương này.

8


Trên con đường này, chúng ta bắt gặp được những tương đồng giữa các tác phẩm của
văn học Việt Nam và nước ngoài. Nguyên nhân là sự tương thích về mặt văn hóa, lịch sử,
địa lí, tâm lí nhân loại,…Phan Thị Thu Hiền với “Truyền thuyết Man Nương của Việt Nam
và vu ca Tanggeum Aegi của Korea (Nghiên cứu so sánh)” (2012) đã cho thấy điều đó. Bài
viết đi vào so sánh hai tác phẩm của Việt Nam và Korea, tìm ra những nét tương đồng cũng
như khác biệt giữa hai tác phẩm, hạt nhân cơ bản làm nên bản sắc văn hóa của hai dân tộc.
Bên cạnh đó, phương pháp phê bình cổ mẫu cũng được áp dụng rộng rãi trong văn học dân
gian tiêu biểu là Trần Thị An với “ Những biểu tượng không gian thiêng trong truyền thuyết
dân gian người Việt”(2001). Tác giả đã tiến hành “khảo sát thái độ tinh thần đặc thù đối với
không gian của tác giả dân gian trong mối liên hệ với những trầm tích văn hóa của những
thời đại sản sinh ra truyền thuyết”. Tác giả đã đề cập đến những biểu tượng trong truyền
thuyết dân gian người Việt và lí giải chúng dựa trên cơ sở là Từ điển biểu tượng văn hóa thế
giới. [Trần Thị An, 2003, tr.725, 726 ]
Ngoài ra, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam với bộ “ Tổng tập Văn học dân gian
người Việt”, tập 4: Truyền thuyết dân gian người Việt ( 2004) trong phần Khải Luận đã nêu
lên quá trình hình thành khái niệm truyền thuyết, vấn đề phân loại, đặc điểm nghệ thuật, tư
tưởng- thẩm mĩ của thể loại truyền thuyết.
Nghiên cứu về các phương diện tiêu biểu, nổi bật trong thể loại truyện cổ tích
Công trình đầu tiên mang tính chất tiên phong dẫn đầu trong lĩnh vực nghiên cứu
truyện cổ tích là công trình “ Sơ bộ tìm hiểu những vấn đề của truyện cổ tích qua truyện

Tấm Cám” của nhà nghiên cứu Đinh Gia Khánh vào năm 1968. Trong công trình này, ông
đã bước đầu sử dụng phương pháp nghiên cứu theo type và motif của trường phái địa lí –
lịch sử để giới thiệu một cách chi tiết các bản kể của type truyện Tấm Cám trên thế giới.
Sau Đinh Gia Khánh, các nhà nghiên cứu bắt đầu đi vào nghiên cứu các motif nổi bật
trong một nhóm truyện. Đây cũng là một hướng vận dụng phương pháp nghiên cứu ảnh
hưởng của trường phái địa lí – lịch sử. Trước hết, Nguyễn Thị Huế viết “Người mang lốtmotip đặc trưng của kiểu truyện cổ tích về nhân vật xấu xí mà tài ba” (1997). Đến 1998,
Nguyễn Bích Hà với công trình “ Thạch Sanh và kiểu truyện dũng sĩ trong truyện cổ Việt
Nam và Đông Nam Á” (1998). Đến năm 2001, Nguyễn Tấn Đắc viết “ Từ truyện Kajong và
Halêk của người Chăm đến type truyện Tấm Cám ở Đông Nam Á” trong quyển “Truyện kể
dân gian đọc bằng TYPE và MOTIF”. Bài viết đã đi vào so sánh các bản kể khác nhau
thuộc nhiều dân tộc của type truyện Tấm Cám phổ biến.

9


Hưởng ứng khuynh hướng nghiên cứu mới: nghiên cứu văn học dân gian theo hướng
nghiên cứu kết cấu truyện, Tăng Kim Ngân đã vận dụng lí thuyết về 31 chức năng của
Propp trong “ Cổ tích thần kì người Việt- đặc điểm cốt truyện” ( 1994). Tiếp đó, đến 2006,
cũng vận dụng phương pháp hình thái học của V.Ia. Propp, Đỗ Bình Trị cũng đi vào nghiên
cứu một số truyện cổ tích thần kì và truyền thuyết Việt trong chuyên luận “Truyện cổ tích
thần kì Việt đọc theo Hình thái học của truyện cổ tích của V.Ia.Propp”. Đây được xem là
một công trình có dạng tương tự như công trình “Truyện kể dân gian đọc bằng TYPE và
MOTIF” của Nguyễn Tấn Đắc, cái khác biệt là lí thuyết về phương pháp mà tác giả sử dụng.
Loại phương pháp thứ ba được các nhà văn học dân gian áp dụng trong lĩnh vực
nghiên cứu là thi pháp học trên cơ sở so sánh văn học viết và văn học dân gian. Trước hết,
Hoàng Tiến Tựu với công trình “ Bình giảng truyện dân gian”(1998) đã tiến hành bình một
số truyền thuyết, truyện cổ tích tiêu biểu. Năm 2010, Nguyễn Định với “Yếu tố thần kỳ
trong truyền thuyết và truyện cổ tích người Việt ở Nam Trung Bộ” đã tiến hành thống kê và
lí giải về yếu tố thần kì trong truyền thuyết và truyện cổ tích của người Việt ở khu vực này.
Đến năm 2011, Nguyễn Xuân Đức đã đóng góp cho làng nghiên cứu khoa học về

truyện cổ tích công trình “ Thi pháp truyện cổ tích thần kì người Việt”. Công trình này chủ
yếu đề cập đến những đặc điểm thi pháp của truyện cổ tích thần kì người Việt trong quan hệ
đối sánh với văn học viết là chủ yếu. Công trình “Những vấn đề thi pháp văn học dân gian”
của Nguyễn Xuân Đức vào năm 2011 cũng có nhiều đóng góp về mặt thi pháp văn học dân
gian nói chung và thể loại truyền thuyết và truyện cổ tích nói riêng. Công trình đã đề cập
nhiều vấn đề như tiêu chí phân loại thần thoại, truyền thuyết và truyện cổ tích dựa theo chức
năng, đặc trưng thi pháp của chúng.
Đặc biệt, nhà nghiên cứu Chu Xuân Diên với chuyên luận “ Truyện cổ tích dưới mắt
các nhà khoa học” ( 1989) đã từng bước khái quát các trào lưu nghiên cứu truyện cổ tích
của các nhà folklore thế giới và Việt Nam nhằm tiến tới khẳng định một cách nhìn toàn diện
về lịch sử nghiên cứu và phân loại truyện cổ tích. Trong chuyên luận này, tác giả đi vào các
vấn đề cơ bản của thể loại này như khái niệm, vấn đề nguồn gốc và nghiên cứu lịch sử
truyện cổ tích, mối quan hệ của truyện cổ tích với hiện thực và việc nghiên cứu thi pháp
truyện cổ tích. Phương pháp cấu trúc- chức năng là phương pháp chủ yếu trong chuyên luận
này. Thể nghiệm phương pháp nghiên cứu cấu trúc- chức năng, Chu Xuân Diên viết “ Về
cái chết của mẹ con người dì ghẻ trong truyện Tấm Cám” vào 1999. Tác giả đã lí giải một
cách lí thú về vấn đề nguồn gốc và sự biến đổi ý nghĩa của một số motif tạo thành đoạn kết

10


truyện cổ tích Tấm Cám. Thông qua đó, nhà nghiên cứu đưa ra một hướng tiếp cận mới đối
với truyện cổ dân gian, tránh đi cái nhìn xã hội học đang là khuynh hướng tranh luận chủ
yếu đối với đoạn kết của type truyện phổ biến này. Hướng tiếp cận này sẽ là hướng tiếp cận
chính của người nghiên cứu trong công trình luận văn này trong việc thử lí giải nguồn gốc
và sự biến đổi về các phương diện như nội dung, hình thức, chức năng,…của motif thi tài.
Tiếp theo là “Những nhận định khái quát về truyện cổ tích Việt Nam” (1982) …trong
“Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam” của Nguyễn Đổng Chi. Trong công trình này, tác giả
cũng sử dụng phương pháp nghiên cứu theo type và motif của trường phái địa lí – lịch sử đi
vào đặc điểm của truyện cổ tích Việt Nam và nguồn gốc của truyện cổ tích Việt Nam. Tuy

ngay từ đầu, tác giả đã thu hút cả thể loại truyền thuyết với tên gọi cổ tích lịch sử vào thể
loại truyện cổ tích nhưng nhờ vào nguồn tài liệu khảo dị phong phú thuộc nhiều dân tộc
khác nhau, từ Á đến Âu nên tác giả vẫn đưa ra được những nhận định sắc sảo, lí thú trong
các luận điểm của mình.
Ngoài ra, ở tập 6 của bộ “Tổng tập Văn Học Dân Gian người Việt”( 2004): Truyện cổ
tích thần kì, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam trong phần Khải luận đã bước đầu khái quát
lịch sử sưu tầm nghiên cứu truyện cổ tích Việt Nam. Tương tự như phần Khải luận của tập
4, các tác giả cũng tiến hành tổng kết các cách phân loại truyện cổ tích và đưa ra quan điểm
chung nhất về cách phân truyện cổ tích thành ba loại được nhiều nhà nghiên cứu chấp nhận
nhất.
Các tài liệu nghiên cứu này đóng vai trò hỗ trợ người viết về mặt phương pháp
nghiên cứu chuyên luận này. Tùy theo đặc điểm riêng cũng như những mặt khả thủ và bất
cập của từng phương pháp mà người viết vận dụng từng phương pháp hoặc vận dụng kết
hợp các phương pháp trong quá trình nghiên cứu. Mặt khác, các tài liệu này cũng cung cấp
nhiều tri thức về dân tộc học, xã hội học, văn hóa,…hỗ trợ người viết trong việc ứng dụng
phương pháp liên ngành để giải thích các hiện tượng, quy luật xuất hiện trong chuyên luận.
* Các tài liệu nghiên cứu có liên quan đến motif thi tài
Có thể xem Nguyễn Tấn Đắc là người đầu tiên đề cập đến motif thi tài trong nghiên
cứu văn học dân gian. Công trình đầu tiên của tác giả mang tên “Những truyện kể của Vêta- la” (1986), những câu chuyện cổ Ấn Độ. Ở phần cuối của sách, tác giả tiến hành thống
kê các motif chính trong các truyện được chọn in. Theo đó, motif thi tài xuất hiện với tư
cách là một trong các motif chính trong các truyện. Tác giả không đi vào phân tích, lí giải

11


chúng. Đây là một trong những thể nghiệm của tác giả trong việc cố gắng hệ thống các
chuyện kể thành các motif và type.
Đến năm 2001, Nguyễn Tấn Đắc cho ra đời “Truyện kể dân gian đọc bằng TYPE và
MOTIF”. Trong bài viết “Đọc lại Truyện Sơn Tinh- Thủy Tinh” của công trình này, motif
thi tài giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh (dựa vào bản kể trong Lĩnh Nam chích quái) được tác

giả xác định là một trong những motif chính của truyện. Nó được sử dụng để làm tiền đề
giải thích motif đánh nhau mà theo tác giả đó là “những cuộc chiến tranh cướp đoạt đàn
bà”[ Nguyễn Tấn Đắc, 2001, tr.122] . Bên cạnh đó, Nguyễn Tấn Đắc cũng nói đến cuốn
Motif – Index of Folk- Literature của Stith Thompson. Ở đó, các chương chia theo thứ tự A,
B, C, D,…X ,trong đó có motif A85 là cuộc thi sáng tạo giữa thần nam chồng và thần nữ
vợ. Như vậy, ở đây, motif thi tài được tác giả nhắc đến khi đi vào tìm hiểu, nghiên cứu một
tác phẩm văn học dân gian cụ thể. Thông qua việc nghiên cứu motif thi tài, tác giả lí giải,
làm sáng rõ nội dung cũng như thể loại của tác phẩm. Đây là tài liệu quan trọng hàng đầu
đối với người viết trong luận văn này.
Ngoài ra, motif thi tài chủ yếu được đề cập đến trong các luận án, luận văn nghiên
cứu về truyện cổ Chăm.
Đầu tiên là công trình của Nguyễn Thị Thu Vân: “Khảo sát đặc điểm truyện cổ dân
tộc Chăm” (Luận án tiến sĩ 2005). Trong chương 2, tác giả đã có một mục dành riêng để
khảo sát các motif chính ( 9 motif ). Tác giả đã xác định motif thi tài mà cụ thể là motif thi
xây tháp là một motif khá đặc trưng của tộc người Chăm.
Thứ hai, Kiều Thị Sopri: “Truyền thuyết liên quan đến tháp Chăm tại vùng đất Ninh
Thuận, Bình Thuận” (Luận văn thạc sĩ 2011) đã đề cập đến motif thi tài trong mục các motif
trong truyền thuyết Chăm. Tác giả luận văn khẳng định motif thi tài có hai dạng là thi xây
tháp và thi đào mương. Tác giả đã đi vào khái quát các dạng thức cơ bản của hai dạng này
và đưa ra nhận định về ý nghĩa của hai dạng này. Theo đó, theo tác giả dạng thi tài xây tháp
là một cách để tôn vinh người anh hùng dân tộc Po Klong Garai. Còn motif thi đào mương
chủ yếu lí giải tục ở rễ . Đặc biệt, motif thi đào mương được xác định là motif sáng tạo riêng
của dân tộc Chăm thể hiện tinh thần thi đua lao động.
Nhìn chung, motif thi tài không phải là motif mới. Nó xuất hiện rất nhiều trong các
thể loại thần thoại, truyền thuyết,…Các tác giả chỉ nêu tên, thống kê, lí giải motif này đồng
thời với các motif khác hoặc phạm vi nghiên cứu chủ yếu ở truyền thuyết của các tộc người
khác cụ thể là tộc người Chăm. Việc khảo sát motif này trong một hệ thống cụ thể, thống kê,

12



phân loại một cách khái quát theo tiêu chí thể loại của tộc người Kinh đến giờ vẫn còn bỏ
ngỏ, chưa được đặt thành một vấn đề nghiên cứu riêng biệt.
3. Mục đích nghiên cứu
Trước hết, người viết tìm ra những tương đồng và dị biệt của hai thể loại truyền
thuyết và truyện cổ tích.
Từ đó, người viết nêu ý nghĩa thể hiện của motif thi tài trong cốt truyện truyền thuyết
và truyện cổ tích. Thông qua đó, chúng tôi tiến hành nhận diện quan niệm, ước mơ, đặc
điểm tư duy,…của con người thời xưa nói chung và người Kinh nói riêng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng: motif thi tài trong truyền thuyết và truyện cổ tích
Phạm vi: chủ yếu là truyền thuyết và truyện cổ tích của dân tộc Kinh ở các vùng
miền Việt Nam. Truyền thuyết và truyện cổ tích của các dân tộc khác được đối chiếu, so
sánh nhằm làm nổi bật đặc trưng của truyền thuyết và truyện cổ tích tộc Kinh.
5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu
* Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp loại hình: nghiên cứu theo đặc trưng loại hình của truyền thuyết và
truyện cổ tích.
Phương pháp nghiên cứu type và motif: nghiên cứu các kiểu truyện có xuất hiện
motif thi tài, lí giải những ý nghĩa mà motif thi tài thể hiện.
Phương pháp thực chứng: từ các số liệu đã thu được trong quá trình thống kê tài liệu,
chúng tôi đưa ra những nhận định về các đặc điểm, ý nghĩa,…của vấn đề cần nghiên cứu.
Phương pháp so sánh: nghiên cứu những tương đồng và dị biệt của motif thi tài ở
từng thể loại, cụ thể là truyền thuyết và truyện cổ tích. Bước đầu lí giải chúng dựa vào lí
thuyết loại hình, đặc trưng thi pháp của từng thể loại.
Phương pháp hệ thống: nghiên cứu motif thi tài từ nhiều góc độ khác nhau, trong mối
tương quan với hệ thống thể loại truyện cổ dân gian.
Phương pháp liên ngành: sử dụng các phương pháp bổ trợ từ các ngành khoa học
khác như ngành tâm lí học (Phương pháp tâm lí học tiếp nhận, phương pháp phê bình cổ
mẫu) trong việc tiếp cận motif thi tài qua những đặc trưng về mặt biểu tượng, tư duy, tình

cảm,…của chủ thể trong quá trình tiếp nhận, lưu truyền và biến đổi hay ngành dân tộc học
(Phương pháp dân tộc học) để lí giải những vấn đề có liên quan đến motif thi tài dựa vào

13


những đặc điểm dân tộc học của tộc người, chỉ ra được những đặc trưng của motif thi tài
trong truyền thuyết và truyện cổ tích của tộc người Kinh.
* Nguồn tư liệu
Trước hết, chúng tôi sử dụng tư liệu sưu tầm và biên soạn riêng biệt cho từng thể loại
là bộ Tổng tập văn học dân gian người Việt (2004), tập 4, 5 ( thể loại truyền thuyết) và tập
6, 7 ( thể loại truyện cổ tích).
Ngoài ra, các tư liệu khác có sự pha trộn của nhiều thể loại cũng được chúng tôi sử
dụng ở đây. Các tư liệu như Văn nghệ dân gian Quảng Nam –Đà Nẵng ( 1984). Những truyện
kể của Vua Vêtala (1986), Truyện kể dân gian Nam Bộ (1987), Văn học Đồng bằng sông Cửu
Long (1997), Văn học dân gian Tây Sơn (1999), Chuyện kể địa danh Việt Nam (2000), Truyện
kể dân gian đọc bằng TYPE và MOTIF (2001), Lĩnh Nam chích quái: truyện cổ dân gian sưu
tập biên soạn ở thế kỷ XV (2001), Truyện cổ các dân tộc miền núi Bắc miền Trung ( 2001),
Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam ( 5 tập)(2008) , , Đặc khảo Văn học dân gian Thừa Thiên
Huế (2010),Văn học dân gian Châu Đốc (2010), Văn nghệ dân gian Bạc Liêu (2011).
6. Đóng góp mới của luận văn
Nghiên cứu về motif thi tài theo một hệ thống hoàn chỉnh ở thể loại truyền thuyết và
truyện cổ tích của dân tộc Kinh. Qua đó, người viết khám phá về ý nghĩa thể hiện về nhiều
phương diện của motif thi tài trong truyền thuyết và truyện cổ tích trong văn hóa dân gian
người Kinh.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục, luận văn được chia thành ba chương với những nội
dung như sau:
Ở chương một “Truyền thuyết và truyện cổ tích dân tộc Kinh và phương pháp nghiên
cứu motif ”, chúng tôi đi vào trình bày khái quát lí thuyết loại hình về thể loại truyền thuyết

và truyện cổ tích, việc nghiên cứu hai thể loại này từ phương pháp nghiên cứu motif. Đây sẽ
cơ sở lí luận làm nền tảng cho hai chương sau.
Trong chương hai “Phân loại motif thi tài trong truyền thuyết và truyện cổ tích dân
tộc Kinh”, người viết tiến hành thống kê, phân loại motif thi tài trong hai thể loại này. Từ
đó, người viết có thể tìm hiểu được ý nghĩa cũng như chức năng của motif này ở chương
cuối.
Ở Chương ba “Chức năng và ý nghĩa thể hiện của motif thi tài qua thể loại truyền
thuyết và truyện cổ tích của dân tộc Kinh”, chúng tôi đi vào phân tích, lí giải về chức năng

14


và ý nghĩa thể hiện của motif này trong mối quan hệ với văn hóa đời sống tinh thần của chủ
thể sáng tạo cũng như tiếp nhận.

15


Chương 1. TRUYỀN THUYẾT VÀ TRUYỆN CỔ TÍCH CỦA DÂN
TỘC KINH VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU MOTIF
1.1. Truyền thuyết và truyện cổ tích của dân tộc Kinh
1.1.1. Truyền thuyết
1.1.1.1. Khái niệm
Truyền thuyết là một thể loại lớn trong văn học dân gian, đã hình thành, vận động và
phát triển lâu đời. Nó là thể loại có sự giao thoa với thần thoại, cổ tích. Vì vậy, việc đưa ra
định nghĩa về truyền thuyết vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau.
Kiều Thu Hoạch cho rằng:
“ Truyền thuyết là một thể tài truyện kể truyền miệng, nằm trong loại hình tự sự dân
gian; nội dung cốt truyện của nó là kể lại truyện tích các nhân vật lịch sử hoặc giải thích
nguồn gốc các phong vật địa phương theo quan điểm của nhân dân; biện pháp nghệ thuật

phổ biến của nó là khoa trương, phóng đại, đồng thời nó cũng sử dụng những yếu tố hư ảo,
thần kì như cổ tích và thần thoại…”[Kiều Thu Hoạch, Bùi Mạnh Nhị ( chủ biên), 1999,
tr.141]
Theo Bùi Mạnh Nhị:
“Truyền thuyết là truyện dân gian kể về các nhân vật và sự kiện lịch sử, thể hiện
cách đánh giá của nhân dân về những nhân vật và sự kiện đó. Truyền thuyết thường có yếu
tố tưởng tượng kì ảo”. [ Bùi Mạnh Nhị, 2012, tr.5].
Nhìn chung, chúng tôi nhận thấy truyền thuyết là một thể loại dân gian có những đặc
điểm khái quát sau: truyền thuyết là những sáng tác tự sự dân gian; có sự hiện diện của yếu
tố tưởng tượng, kỳ ảo, hoang đường; truyện kể về nhân vật và sự kiện lịch sử đã xảy ra
trong quá khứ; truyện gắn liền với nhiều chứng tích văn hóa còn lưu cho đến nay.
1.1.1.2. Đặc trưng thi pháp thể loại
* Về yếu tố kì diệu
Truyền thuyết thường có cốt lõi là sự thật lịch sử được bao bọc thêm bên ngoài bằng
các yếu tố kì diệu, hoang đường. Tuy nhiên, yếu tố kì diệu ở đây chủ yếu chỉ mang tính chất
thi vị, làm tăng vẻ đẹp, sự oai hùng của nhân vật mà nhân dân kính trọng, tạo nên sự linh
thiêng của các chứng tích vật chất, văn hóa.[Lê Chí Quế, 2001, tr.64]
*Về thời gian
Thời gian trong truyền thuyết là thời gian quá khứ- xác định. Truyền thuyết nào cũng
kể về chuyện đã xảy ra và vào một thời kì lịch sử nhất định nào đó.Tuy nhiên, khoảng cách

16


thời gian sự kiện và thời gian sáng tạo tác phẩm là một khoảng cách có thể rất gần nhưng
cũng có thể rất xa, rất khó xác định .[Lê Chí Quế, 2001, tr.64]
* Về không gian
Cũng như thời gian, không gian trong truyền thuyết thường mang tính cụ thể, xác
định. Đó là những di tích vật chất như gò, đồi, sông, suối,…hay các di tích văn hóa như đền,
đình, tháp,… Chúng thường được gán cho những tính chất mang tính thiêng gắn liền với

nhân vật lịch sử hoặc với chứng tích lịch sử, địa danh,… .[Lê Chí Quế, 2001, tr. 64-65]
Bên cạnh đó, Trần Thị An khi tìm hiểu riêng về tính thiêng trong không gian cho
rằng không gian thiêng trong truyền thuyết vốn có tiền thân từ sự sùng bái tự nhiên, gán cho
không gian những giá trị tinh thần đượm màu sắc huyền thoại của con người cổ đại. Thế
giới của truyền thuyết vốn là thế giới của thần thiêng nên không gian tồn tại trong truyền
thuyết tất yếu cũng là không gian mang tính linh thiêng. [Trần Thị An, 2001, tr.725].
Không gian trong truyền thuyết còn gắn liền với phạm vi hoạt động của các nhân vật
trong truyện. Đó cũng là nơi lưu truyền và gìn giữ những câu chuyện truyền thuyết thông
qua các phong tục và lễ hội, tạo nên tính địa phương và tính dân tộc sâu sắc của thể loại
truyền thuyết.
* Về nhân vật
Nhân vật trong truyền thuyết thường được phân chia theo nhiều tiêu chí khác nhau
như phân chia theo tuyến thành nhân vật chính và nhân vật phụ. Các nhân vật chính trong
truyền thuyết thường là bán thần và người.
Về nhân vật là thần ( hoặc bán thần), các nhân vật này thường là nhân vật khởi
nguyên tạo nên nguồn gốc các thị tộc, bộ lạc, gia tộc. Họ thường là nhân vật có nét nhân
cách thì người nhưng hành động, hình dáng thì lại là thần. Đây là nhân vật mang ảnh hưởng
kiểu nhân vật thần thoại. Ngoài ra, loại nhân vật này còn xuất hiện với tư cách là trợ thủ
thần kì cho nhân vật chính.
Về nhân vật là người trong truyền thuyết lịch sử, theo Lê Chí Quế, chủ yếu họ là
những anh hùng lịch sử. Một số người được chính sử ghi nhận như Bùi Thị Xuân, Nguyễn
Hiền,… một số người tuy không xuất hiện trong chính sử nhưng lại được nhân dân tin yêu,
kính trọng và “ thiêng hóa” họ thành nhân vật truyền thuyết như các nhân vật anh hùng
nông dân. Có điều, kết cuộc của nhân vật trong truyền thuyết luôn mang tính chất “mở”.
Nhân vật phần nhiều phải chịu tuẫn tiết, hy sinh, “ ngài hóa” vào hồn thiêng sông núi .[Lê
Chí Quế, 2001, tr. 60]

17



Các nhân vật trong các loại truyền thuyết khác, thường là những con người vô danh
nhưng nhờ vào tài năng, sự khéo léo, chăm chỉ, trung thực và nhất là sự thông minh đã tạo
nên những kì tích, những chiến công, gặt hái được thành công nên cũng được vinh danh, ca
ngợi. Đó là các danh nhân văn hóa, các nhân vật tôn giáo,… [Lê Chí Quế, 2001, tr. 62- 63]
Ngoài ra, các nhân vật trong truyền thuyết còn xuất hiện theo nhóm truyện, hệ thống
truyện. Ví dụ, nhóm truyền thuyết về anh hùng áo vải Quang Trung, nhóm truyền thuyết về
việc xây thành giành đất... Chính sự hiện diện của nhân vật trong tác phẩm đã giúp các
truyền thuyết rời rạc kết dính với nhau thành từng mảng, nhóm truyện. Nhờ đó, truyền
thuyết luôn có số lượng phong phú và tồn tại theo hệ thống.
* Về kết cấu văn bản
Ở truyền thuyết, kết cấu văn bản theo Lê Chí Quế thường là kết cấu trực tuyến,
không có đồng hiện và sự quay trở lại. Sự việc trong truyền thuyết không đầy đủ như chính
sử. Đặc biệt, phần giới thiệu lai lịch nhân vật và kết thúc câu chuyện thường được hư cấu
theo nguyên tắc kì diệu và thiêng hóa. [Lê Chí Quế, 2001, tr.64]
* Thái độ tiếp nhận truyền thuyết
Đối với truyền thuyết, niềm tin, đức tin trở thành cốt lõi của tác phẩm.
Truyền thuyết là sự đánh giá của tác giả dân gian về các nhân vật và sự kiện lịch sử
trên quan điểm của nhân dân. Nguyễn Xuân Đức đã khẳng định rằng người nghe (đọc)
truyền thuyết đều muốn tin câu chuyện là thật. Còn người kể thì chủ yếu muốn tạo niềm tin
nơi người nghe ( đọc) còn bản thân anh ta không hẳn đã tin hoặc nếu có tin thì niềm tin ấy
cũng không mang tính tuyệt đối như thần thoại. [Nguyễn Xuân Đức, 2011, tr.46-47].
Chính điều đó đã tạo nên chức năng giáo dục ý thức cộng đồng thiên về nhận thức lí
tính. Sự gắn kết nhân vật truyền thuyết với địa phương, với phong vật đã dần dần trở thành
một tâm thức phổ biến, để dẫn đến hình thành một quy luật tâm lý phổ biến trong đời sống
nhân dân: thấy vật nhớ đến người, nghĩ đến người nhớ vật. Điều này dẫn đến hệ quả là
truyền thuyết luôn gắn liền với nghi lễ và lễ hội.
1.1.2. Truyện cổ tích
1.1.2.1. Khái niệm
Trong giáo trình Văn học dân gian Việt Nam, Lê Chí Quế trình bày khái niệm
“truyện cổ tích” thông qua việc xác định bản chất thể loại của nó. Theo Lê Chí Quế:

“Truyện cổ tích là sáng tác dân gian trong loại hình tự sự mà thuộc tính của nó là
xây dựng trên những cốt truyện; truyện cổ tích là tác phẩm nghệ thuật được xây dựng thông

18


qua sự hư cấu nghệ thuật thần kỳ; truyện cổ tích là một thể loại hoàn chỉnh của văn học dân
gian, được hình thành một cách lịch sử...”. [Lê Chí Quế, 2001, tr. 107]
Đặc biệt, Chu Xuân Diên, trong chuyên luận “Truyện cổ tích dưới mắt các nhà khoa
học”, đã phân tích khá sâu sắc nội hàm khái niệm “cổ tích”. Ông viết:
“Cổ tích là một từ Hán Việt. “Cổ” có nghĩa là xưa, cũ. Ta có khái niệm “truyện cổ”
(hoặc “truyện cổ dân gian”), “truyện đời xưa” dùng để chỉ nhiều loại truyện dân gian khác
nhau, trong đó có truyện cổ tích… các loại truyện cổ khác nữa (cả thành văn lẫn dân
gian)”.[Chu Xuân Diên, 2001, tr. 230]
Sau khi diễn giải, Chu Xuân Diên nhấn mạnh, khái niệm “truyện cổ tích” bao hàm ba
yếu tố nghĩa: “truyện cổ tích là truyện kể; truyện kể này có quan hệ với thời quá khứ xa xưa
cả về nội dung lẫn nguồn gốc phát sinh; dấu tích của truyện kể này vẫn còn lại cho đến
nay.”[Chu Xuân Diên, 2001, tr. 230- 231]
Từ những phát biểu trên, chúng tôi nhận thấy truyện cổ tích là một thể loại tự sự dân
gian có những đặc điểm khái quát sau: truyện cổ tích là những sáng tác tự sự dân gian, có
cốt truyện hoàn chỉnh; chủ yếu dựa trên nhiều yếu tố tưởng tượng, kỳ ảo, hoang đường;
truyện kể về những sự tích đời xưa và dấu tích truyện kể còn lưu cho đến nay.
1.1.2.2. Đặc trưng thi pháp thể loại
* Yếu tố kì diệu
Yếu tố kì diệu, hoang đường đóng vai trò quan trọng trong truyện cổ tích. Nó là thủ
pháp nghệ thuật để xây dựng cốt truyện. Yếu tố kì diệu có nguồn gốc từ tín ngưỡng, phong
tục cổ như tín ngưỡng tổ tiên, vật linh luận, tục hiến tế,…Về sau này, yếu tố kì diệu còn có
thêm sự xuất hiện của các yếu tố tôn giáo như sự xuất hiện của Bụt, Phật ( Phật giáo), Tiên (
Đạo giáo) nhưng đã được dân gian hóa. Yếu tố kì diệu thể hiện ở loài vật ( chim, cá,…), sự
vật ( niêu cơm ăn không hết, cây đàn thần,…) và nhân vật (Tiên, Phật,…).[ Lê Chí Quế,

2001, tr. 132]
Tuy nhiên, yếu tố kì diệu tuy là do trí tưởng tượng phong phú của nhân dân sáng tạo
nên nhưng nó cũng phải phục tùng luận lí thông thường tức là nó không thể vượt quá phạm
vi những điều kiện nhất định cho phép.
* Về thời gian
Lê Chí Quế khẳng định thời gian trong truyện cổ tích là thời gian quá khứ phiếm
định. Truyện cổ tích luôn mở đầu bằng những câu “ ngày xửa ngày xưa”… [ Lê Chí Quế,
2001, tr. 132]

19


* Về không gian
Theo Propp, không gian trong truyện cổ tích giữ vai trò hai mặt. Một mặt, nó là một
thành phần cấu trúc quan trọng, mặt khác, dường như nó ít được quan tâm. Sự thay đổi về
mặt không gian là cơ sở cho việc phát triển các tình tiết của cốt truyện. Bên cạnh đó, truyện
cổ tích chối bỏ việc gia công tỉ mỉ khi xây dựng thủ pháp không gian truyện cổ tích. Cũng
như thời gian, trong cổ tích, không gian mang tính phiếm định, ước lệ. Không gian thường
là ở một làng nọ, vùng nọ, vương quốc nọ,…ít khi nói đến một địa danh cụ thể. Nhân vật cổ
tích đến các không gian như thế nào không quan trọng mà cái quan trọng là cách thức họ
vượt qua nó. Có thể họ xuất hiện tại một không gian mới bằng viên ngọc ước, bó củi thần,…
Không gian chủ yếu chỉ được xây dựng như những điểm dừng, những khoảng cách xa như
các giai đoạn của nghi lễ.[ Propp, 2003, tr. 235].
Không gian trong cổ tích, do không mang tính cụ thể, xác định nên không chịu sự
gán ghép, đặt để, kết dính với bất cứ một địa phương nào. Tuy nhiên, nó lại là thể loại mang
tầm quốc tế. Nói theo Chu Xuân Diên, “Tính chất quốc tế rõ ràng là một hiện tượng độc
đáo nổi bật của truyện cổ tích. Truyện cổ tích có khả năng di chuyển từ dân tộc này sang
dân tộc khác, vượt qua mọi ranh giới về ngôn ngữ, về lãnh thổ... của các quốc gia”.[Chu
Xuân Diên, 2001, tr. 224]
* Về nhân vật

Theo Lê Chí Quế, nhân vật chính trong cổ tích, là con người của đời thường, trong
một xã hội phân chia giai cấp. Đó là những nhân vật bất hạnh như đứa con mồ côi, đứa con
riêng, người con út, người đi ở, nhân vật xấu xí..., nhân vật dũng sĩ và người có tài năng kì
lạ, nhân vật thông minh hay ngốc nghếch, nhân vật là động vật biết nói năng, hành động như
con người. Mỗi nhân vật trong truyện cổ tích luôn thuộc về một kiểu nhân vật nào đó (người
mồ côi, người em út, người xấu xí mà tài ba...). [ Lê Chí Quế, 2001, tr. 132]
Cũng đồng ý kiến với Lê Chí Quế, Đinh Gia Khánh cho rằng nhân vật chính của cổ
tích là người, “ lấy nguyên mẫu trong xã hội loài người. Nếu có một số nhân vật một số là
thần linh hoặc được xây dựng trên cơ sở nhân cách hóa các hiện tượng thiên nhiên thì đó
cũng chỉ là nhân vật phụ” [ Đinh Gia Khánh, 1998, tr. 295].
Ngoài ra, theo Nguyễn Xuân Đức, các nhân vật trong truyện cổ tích là những nhân
vật cực tuyến và phân cực rõ rệt về mặt nhân cách. Tuy nhiên, các nhân vật này vẫn chưa
thể vừa mang tính khái quát vừa mang tính cá thể rõ nét. [ Nguyễn Xuân Đức, 2011, tr. 4554].

20


*Về kết cấu văn bản
Kết cấu một văn bản cổ tích nhìn chung ổn định và theo công thức. Theo Propp, kết
cấu của truyện cổ tích là hành trình các nhân vật thực hiện các chức năng đã được định sẵn
như nhân vật chính từ giã nhà mình, nhân vật bị thử thách, bị gạn hỏi, bị tra khảo và điều đó
chuẩn bị cho anh ta có được phương tiện thần kì hay người giúp đỡ,…[Propp, 2003, tr.185].
Theo Đinh Gia Khánh, trong cổ tích, “để thỏa mãn được yêu cầu truyền khẩu,
Truyện cổ tích thường cấu tạo theo đường thẳng. Cốt truyện xây dựng theo trình tự thông
thường, việc gì xảy ra trước, kể trước, việc gì xảy ra sau, kể sau…Cốt truyện phát triển theo
một mạch tình tiết chính”.[Đinh Gia Khánh, 1998, tr. 335].
Trong cổ tích, kết thúc tác phẩm thường bao giờ cũng có “hậu”. Nhân vật bao giờ
cũng được đền bù xứng đáng cho những bất hạnh, những thử thách nghiệt ngã mà mình phải
gánh chịu, phải vượt qua ( ngoại trừ một số truyện cổ tích sinh hoạt)
* Thái độ tiếp nhận truyện cổ tích

Nếu như trong thần thoại, cả người kể lẫn người nghe đều tin tưởng tuyệt đối vào
điều được kể thì trong cổ tích, người kể hết sức tỉnh táo để bịa ra chuyện. Còn bản thân
người nghe lại ở trong trạng thái si mê tạo nên “trường cổ tích”.
Người kể cổ tích rất có ý thức trong việc sử dụng các yếu tố hư cấu nghệ thuật nhất là
yếu tố kì diệu để tạo ra một thế giới kì diệu, hoang đường, lãng mạn nhằm tạo hứng thú cho
người nghe.
Ia.V.Propp đã nhận định “ Các sự kiện được kể ra dị thường đến mức không bao giờ
có thể xảy ra trong thực tiễn và chính nhờ điều đó mà cổ tích tạo ra sự hứng thú”.[Nguyễn
Xuân Đức, 2011, tr. 42] Đó chính là hành động sáng tạo lại những câu chuyện “ đời xưa”
nhưng lại tạo nên sức hấp dẫn kì lại nơi người nghe tạo nên một trạng thái “ trường cổ tích”.
Thật vậy, “trường cổ tích” là một thủ pháp nghệ thuật đặc trưng của thể loại cổ tích.
Theo cách lí giải của Nguyễn Xuân Đức, chúng tôi hiểu “ trường cổ tích” là một cái khung
bao gồm hai hệ tọa độ là không- thời gian truyện cổ tích và người nghe với những cảm xúc
thẩm mĩ bị tác động khi tiếp nhận truyện cổ tích là những điểm nằm trong hệ tọa độ đó.
“Trường cổ tích” có mối liên hệ chặt chẽ với thế giới cổ tích. Thế giới cổ tích thuộc
về phương diện nội dung của truyện cổ tích, là một không gian đặc thù bao chứa sự tưởng
tượng về sự tồn tại của những điều li kì khác với thế giới hiện thực. Trong khi đó, “trường
cổ tích” lại thuộc về phương thức nghệ thuật tạo ra sự hấp dẫn nơi người nghe. Nhưng để
tạo nên được sự hấp dẫn người nghe thì thế giới cổ tích với những hư cấu kì diệu đóng vai

21


trò rất to lớn. Như vậy, thế giới cổ tích nằm trong tập hợp các yếu tố góp phần tạo nên
“trường cổ tích”.
“Trường cổ tích” được tạo ra chủ yếu nhờ vào cách tạo ra một không- thời gian cổ
tích mà chúng tôi đã bàn ở phần trên.. Chúng đã đưa người nghe vào một trạng thái tinh
thần đặc thù. Người nghe lúc này hoàn toàn tách biệt với thế giới bên ngoài, đắm chìm vào
một thế giới cổ tích đầy cái Đẹp và cái Thiện. Người nghe đã “ ly thân” ( Chữ dùng của
Nguyễn Xuân Đức) khỏi con người lí tính bình thường. Để kết thúc truyện, truyện cổ tích

thường kết thúc bằng những hiện tượng thường gặp trong cuộc sống để tạo mối liên kết, một
“chiếc cầu” đưa người đọc (nghe) trở về hiện thực. Đó chính là các giai đoạn để tạo ra
“trường cổ tích”: nhập trường, tạo trường và giải trường.
1.1.3. Khái quát truyền thuyết và truyện cổ tích của dân tộc Kinh
Người Kinh hay còn gọi là người Việt là dân tộc chiếm ưu thế nhất về mặt số lượng
trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Họ đã tạo nên một nền văn minh rực rỡ ven sông
Hồng với sự phát triển vượt bậc, đặc biệt là hệ thống truyền thuyết và truyện cổ tích.
Cũng như các thể loại văn học dân gian khác, hệ thống truyền thuyết và truyện cổ
tích dân tộc Kinh là lăng kính phản ánh những vấn đề cốt yếu nhất của xã hội lúc bấy giờ.
Xã hội càng phát triển thì mối quan hệ giữa người và người cũng phức tạp, mâu thuẫn cũng
bộc lộ rõ hơn. Mâu thuẫn nổi bật nhất là mâu thuẫn giữa địa chủ và nông dân. Các truyền
thuyết về những cuộc khởi nghĩa của nông dân cũng phát triển mạnh mẽ như “Chàng Lía”,
“Cố Bu”, “Ba Vành”, “Hầu Tạo”,… Qua đó, truyền thuyết và truyện cổ tích thể hiện sự
phản kháng, lên án, tố cáo bộ mặt của xã hội lúc bấy giờ. Cũng phản ánh mâu thuẫn xã hội
nhưng trong truyện cổ Chăm lại là mâu thuẫn về đẳng cấp bởi thiết chế xã hội Chăm chịu
ảnh hưởng từ Đạo Bà La Môn.
Cùng là nền nông nghiệp lúa nước nhưng dân tộc Kinh có những bước phát triển
khác hẳn so với tộc Khmer và Chăm. Ở tộc Kinh, dấu vết của chế độ mẫu hệ đã mờ nhạt,
chế độ phụ hệ phát triển mạnh mẽ. Type truyện Tấm Cám thể hiện rất rõ điều này. Trong
“Tấm Cám” của người Việt, mâu thuẫn dì ghẻ- con chồng là mâu thuẫn chủ yếu. Đây chính
là hệ quả của chế độ phụ hệ. Trong khi đó, ảnh hưởng của chế độ mẫu hệ còn rất sâu đậm
trong truyện cổ Khmer và Chăm. Tấm Cám của dân tộc Chăm lại phản ánh mối quan hệ con
ruột- con nuôi do sự ảnh hưởng của chế độ mẫu hệ. Hay trong các câu chuyện truyền thuyết
của Khmer, nhân vật phụ nữ là nhân vật chính chiếm số lượng phổ biến như “Sự tích ao Bà
Om”, “Sự tích núi Bà Đen”, “Sự tích núi Bà đội om”,…

22


Theo Nguyễn Khánh Toàn trong Văn học dân gian Việt Nam- một biểu hiện độc đáo

và xuất sắc sức sống mãnh liệt của dân tộc, trong những thời kì đấu tranh gay gắt giữa nông
dân và phong kiến, tầng lớp trí thức phong kiến có sự phân hóa ngày càng sâu sắc, những
nho sĩ sống ở nông thôn đã hòa mình vào nhân dân, dùng văn học dân gian làm vũ khí đấu
tranh chống chế độ áp bức bóc lột của giai cấp phong kiến và đã góp phần đáng kể làm cho
vốn văn học dân gian thêm giàu và tinh vi.[Nguyễn Khánh Toàn, 2003,106]
Thật vậy, về lực lượng sáng tác, truyền thuyết và truyện cổ tích vốn được sáng tác và
lưu truyền ở cửa miệng nhân dân. Tuy nhiên, trong thời kì phong kiến, ở xã hội người Kinh,
hầu như ở làng quê nào cũng có các thầy đồ. Họ mở lớp dạy chữ nghĩa cho trẻ con, thanh
niên. Nhiều vị quan tài cao học rộng, hiểu biết uyên bác khi về ở ẩn, vui thú điền viên cũng
mở lớp dạy học. Vì vậy, truyền thuyết và truyện cổ tích chịu ảnh hưởng của tầng lớp nho sĩ
rất lớn. Không chỉ vậy, nhiều nơi, chùa chính là nơi sinh hoạt văn hóa, văn nghệ của dân
chúng. Các nhà sư cũng là những vị trí thức uyên bác mở lớp dạy học cho dân chúng. Do
đó, cả nho sĩ và các nhà sư cùng đóng vai trò rất lớn trong đời sống tinh thần của dân chúng.
Các câu chuyện truyền thuyết và truyện cổ tích, món ăn tinh thần của dân chúng đương
nhiên cũng chịu ảnh hưởng về tư tưởng của nho sĩ và nhà sư. Chúng được các nhà nho, nhà
sư ghi chép thành văn bản lưu hành ở các đình, đền, miếu, chùa,…và được các vương triều
biên soạn thành thần tích, ngọc phả. Vì vậy, việc quan điểm người ghi chép ảnh hưởng ít
nhiều đến bản kể là điều khó tránh. Các tác phẩm như Báo cực truyện, Ngoại sử kí của Đỗ
Thiện, Việt Điện U Linh ( thế kỉ XIV), Trần Thế Pháp ( thế kỉ XIV), Lĩnh Nam chích quái
của Vũ Quỳnh, Kiều Phú ( thế kỉ XV) hay các bộ sử như Đại Việt sử kí toàn thư của Ngô Sĩ
Liên ( thế kỉ XV) biên soạn trên cơ sở xem trọng thần thoại và truyền thuyết lịch sử là
những tác phẩm sớm nhất được ghi nhận.
Nhân dân và tầng lớp nho sĩ cũng đồng thời là tầng lớp thưởng thức các tác phẩm
truyền thuyết và truyện cổ tích. Những câu chuyện được lưu hành trong cộng đồng cư dân
Kinh ở các làng xã. Như đã trình bày ở trên, các tác phẩm truyền thuyết và truyện cổ tích
chịu ảnh hưởng to lớn về tư tưởng không chỉ của dân chúng mà còn của nho sĩ và nhà sư. Vì
vậy, khi lưu truyền, các văn bản được nhuận sắc này lại ảnh hưởng ngược trở lại lời kể dân
gian. Cứ thế, truyền thuyết lưu truyền trên cơ sở chịu sự ảnh hưởng của cả dân chúng và
tầng lớp nho sĩ, các nhà sư.
Do có sự ảnh hưởng sâu sắc từ tầng lớp nho sĩ, truyền thuyết và truyện cổ tích của

dân tộc Kinh mang chất trí tuệ sâu sắc qua các truyện kể. Các câu chuyện về các vị trạng

23


nguyên như Mạc Đỉnh Chi, Nguyễn Hiền, Lương Thế Vinh, Nguyễn Bỉnh Khiêm…,những
vị sư có học vấn uyên bác như Minh Không, Vạn Hạnh,…cô gái thôn quê nhưng thông
minh, hay chữ như “Nàng Xuân Hương”, “Nữ hành giành bạc”,…đều có nội dung mang
tính chất bác học như đối câu, làm thơ, hò đối đáp, câu đố,…tạo nên giá trị to lớn về mặt
nhận thức cũng như tạo nên diện mạo rất riêng của truyền thuyết và truyện cổ tích dân tộc
Kinh. Các câu chuyện truyền thuyết và truyện cổ tích của các dân tộc anh em khác như
Khmer, Thái,…thường ít chất trí tuệ hơn hẳn. Đa số, các truyện kể của các tộc anh em khác
đơn giản, chân chất và gần gũi với thể loại thần thoại hơn về nhân vật, cốt truyện,…
Bên cạnh đó, truyền thuyết và truyện cổ tích do chịu sự chi phối chủ thể sáng tạo và
lưu truyền nên đã hấp thụ vào rất nhiều yếu tố từ bên ngoài. Trước hết đó là ảnh hưởng của
Nho giáo. Các nhân vật như anh học trò, thầy đồ,…xuất hiện rất phổ biến trong các câu
chuyện. Hay ảnh hưởng của Phật giáo như quan niệm luân hồi, nghiệp báo, …trong các câu
chuyện cổ tích. Đạo giáo xuất hiện trong truyện cổ Kinh qua các nhân vật như đạo sĩ,
tiên,…Tuy nhiên, sự cải biến này vẫn mang những nét đặc trưng riêng của cộng đồng Kinh
so với các cộng đồng khác. Cả ba yếu tố này cùng dung hòa với tín ngưỡng bản địa như tín
ngưỡng thờ mẫu, tín ngưỡng vạn vật hữu linh,…tạo nên bộ mặt phong phú và đa dạng cho
truyện cổ Kinh. Trong khi đó, xã hội Chăm là sự thống trị của Bà La Môn giáo. Câu chuyện
về “Chàng Dạ Xoa” trong truyện cổ Chăm là ví dụ tiêu biểu cho sự thống trị về mặt tinh
thần này. Truyện là bài ca chiến công của hoàng tử Rama, hiện thân của vị thần Bà La Môn
Vishnu. Còn ở xã hội Khmer lại là sự thống trị độc tôn của Phật giáo. Nói về Phật giáo,
dòng Phật ở xã hội dân tộc Kinh là Đại thừa, vốn ảnh hưởng từ Trung Hoa, ở xã hội Khmer
là Phật giáo Tiểu thừa được truyền từ Campuchia sang. Các câu chuyện về tiền kiếp của
Đức Phật như “Sự tích lễ hội Oc- Om- Bok”, “Sự tích con thỏ và mặt trăng”,…là những ví
dụ tiêu biểu.
Ngày nay, văn học dân gian của tộc Kinh vẫn tiếp tục phát triển nhất là thể loại

truyền thuyết và truyện cổ tích. Nó tiếp tục dung nạp nhiều nội dung mới của xã hội đương
đại, làm phong phú thêm bộ mặt của văn học dân gian dân tộc.
1.2. Motif và phương pháp nghiên cứu motif trong truyền thuyết và truyện cổ tích
1.2.1. Khái niệm motif
Theo Từ điển Văn học ( Bộ mới):

24


“Motif trong tiếng Pháp là motif, tiếng Đức là motive, tiếng Latinh là moveo có
nghĩa là chuyển động. Còn trong tiếng Trung Quốc là mẫu đề, từ ngữ chỉ thành tố bền vững
mang tính hình thức và nội dung của văn bản văn học.[Lại Nguyên Ân, 2004, tr. 1013]
Về mặt nguồn gốc, motif xuất hiện lần đầu trong Từ điển âm nhạc của Broxa và được
Goethe đưa vào văn học ( Về thi ca tự sự và thi ca kịch nghệ).
Trong văn học dân gian, motif là yếu tố không thể phân chia nhỏ hơn của văn bản,
ngôn bản, là những sự vật, hình ảnh, đơn vị nhỏ nhất của cốt truyện dân gian.
Các motif thường chuyển dịch theo thời gian, thay đổi hàm nghĩa qua từng thời đại.
Các motif văn học, gần giống motif thần thoại luôn đi vào kinh nghiệm tinh thần của văn
học nhân loại.
Theo Nguyễn Tấn Đắc, Stith Thompson đã viết trong Standard Dictionary of
Folklore: “motif là thuật ngữ chỉ bất kì một phần nào mà ở một tiết ( item) có thể phân tích
ra được. Trong nghệ thuật dân gian có motif của hình phác họa ( deign), là những hình mẫu
thường lặp lại hoặc kết hợp với những hình mẫu khác theo một kiểu cách riêng biệt nào đó.
Trong âm nhạc và bài hát dân gian cũng có những khuôn nhạc giống nhau thường trở lại
luôn. Lĩnh vực mà motif được nghiên cứu nhiều nhất và phân tích cẩn thận nhất là truyện kể
dân gian như các loại truyện cổ tích, truyền thuyết, huyền thoại, ballad. [ Nguyễn Tấn Đắc,
2001, tr.26-27]
Motif truyện kể đôi khi là những khái niệm rất đơn giản, thường gặp trong truyện kể
truyền thống. Bản thân của một motif cũng có thể là một mẫu kể ngắn và đơn giản, một sự
việc đủ gây ấn tượng hoặc làm vui thích cho người nghe. Thuật ngữ motif muốn trở thành

một phần thật sự của truyện thì bản thân nó phải làm cho người ta nhớ và lặp đi lặp lại, nó
phải khác với cái chung chung.
1.2.2. Phương pháp nghiên cứu motif trong truyền thuyết và truyện cổ tích
* Trường phái Phần Lan và phương pháp biên soạn tư liệu về truyện dân gian theo
type và đặc biệt là motif.
Trường phái Phần Lan (Finnish Method) là trường phái chuyên nghiên cứu folklore
( từ đây thuật ngữ folklore được chúng tôi dùng với nghĩa là “ văn hóa dân gian”), được
khởi xướng bởi các nhà nghiên cứu folklore Phần Lan là Julius Leopold Fredrik Krohn
(1835-1888), giáo sư văn học Phần Lan ở Đại học Tổng hợp Helsinki. Con ông, Kaarle
Krohn (1863-1933), giáo sư ngành Folklore so sánh của trường Đại học Tổng hợp Helsinki,

25


×