Tải bản đầy đủ (.pdf) (124 trang)

một số phẩm chất tâm lý cơ bản của chuyên viên nhân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 124 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Ngô Khánh Tường

MỘT SỐ PHẨM CHẤT TÂM LÝ CƠ BẢN
CỦA CHUYÊN VIÊN NHÂN SỰ

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh – 2012


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Ngô Khánh Tường

MỘT SỐ PHẨM CHẤT TÂM LÝ CƠ BẢN
CỦA CHUYÊN VIÊN NHÂN SỰ

Chuyên ngành

: Tâm lý học

Mã số

: 60 31 80

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. TRẦN THỊ PHƯƠNG

Thành phố Hồ Chí Minh – 2012


LỜI CẢM ƠN

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến:
 TS. Trần Thị Phương – người hướng dẫn khoa học – đã tận tình
hướng dẫn, động viên, khích lệ tôi trong suốt quá trình thực hiện đề
tài này.
 Quý Thầy, Cô đã giảng dạy, hướng dẫn, cung cấp tri thức khoa học
cho toàn thể học viên lớp cao học Tâm lý K.21.
Xin gửi lời cảm ơn đến:
 Quý Thầy, Cô trong Ban lãnh đạo trường ĐH Sư Phạm Tp. Hồ Chí
Minh.
 Cán bộ Phòng Sau Đại học thuộc trường ĐH Sư Phạm Tp. Hồ Chí
Minh.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến các anh, chị, bạn bè cùng khóa học Tâm lý
K.21; người thân và gia đình đã động viên, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình
học tập cũng như thực hiện luận văn này.
Tác giả luận văn


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cảm ơn
Mục lục
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHẨM CHẤT TÂM LÝ CƠ BẢN CỦA
CHUYÊN VIÊN NHÂN SỰ .....................................................................................5
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề................................................................................5
1.1.1. Nghiên cứu ở nước ngoài...........................................................................5
1.1.2. Nghiên cứu ở trong nước ...........................................................................7
1.2. Một số khái niệm công cụ ..............................................................................12
1.2.1. Phẩm chất tâm lý .....................................................................................12
1.2.1.1. Phẩm chất ..........................................................................................12
1.2.1.2. Phẩm chất tâm lý ...............................................................................15
1.2.2. Nghề nhân sự ...........................................................................................19
1.2.2.1. Nghề nghiệp ......................................................................................19
1.2.2.2. Nghề nhân sự.....................................................................................26
1.2.2.3. Sự phù hợp nghề và vấn đề phẩm chất cá nhân đáp ứng yêu cầu nghề
........................................................................................................................33
1.2.2.4. Phẩm chất tâm lý đáp ứng yêu cầu của nghề ....................................34
1.2.3. Phẩm chất tâm lý cơ bản của chuyên viên nhân sự .................................36
1.2.3.1. Những yêu cầu chung đối với chuyên viên nhân sự .........................36
1.2.3.2. Những yêu cầu về phẩm chất tâm lý .................................................38
1.2.3.3. Phẩm chất tâm lý cơ bản của chuyên viên nhân sự .........................47
1.2.4. Những yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển phẩm chất tâm
lý của chuyên viên nhân sự ......................................................................48
1.2.4.1. Các yếu tố khách quan ......................................................................49
1.2.4.2. Các yếu tố chủ quan ..........................................................................50
Tiểu kết chương 1 ....................................................................................................53
Chương 2: THỰC TRẠNG MỘT SỐ PHẨM CHẤT TÂM LÝ CƠ BẢN CỦA
CHUYÊN VIÊN NHÂN SỰ ...................................................................................55
2.1. Tổ chức nghiên cứu ........................................................................................55
2.1.1. Xây dựng phiếu điều tra ..........................................................................55



2.1.2. Vài nét về khách thể nghiên cứu..............................................................56
2.1.2.1. Tổng thể ............................................................................................56
2.1.2.2. Phương pháp chọn mẫu .....................................................................57
2.1.2.3. Kích thước mẫu .................................................................................57
2.1.2.4. Mô tả về khách thể nghiên cứu .........................................................57
2.2. Mô tả cách thức thu thập và xử lý số liệu.......................................................59
2.3. Đề xuất một số PCTL cơ bản của CVNS .......................................................61
2.3.1. Cơ sở đề xuất một số PCTL cơ bản của CVNS .......................................61
2.3.2. Đề xuất một số PCTL cơ bản của CVNS ................................................63
2.4. Khảo sát tính cần thiết của một số PCTL cơ bản của CVNS .........................64
2.4.1. Khảo sát mức độ cần thiết của một số phẩm chất tâm lý cơ bản của
chuyên viên nhân sự ..........................................................................................64
2.4.2. Kết quả so sánh các nhóm PC theo các thông số điều tra .......................68
2.4.2.1 . Kết quả so sánh các nhóm PC theo thông số giới tính.....................68
2.4.2.2. Kết quả so sánh các nhóm PC theo thông số trình độ đào tạo ..........69
2.4.2.3 . Kết quả so sánh các nhóm PC theo thông số chuyên ngành đào tạo
........................................................................................................................71
2.4.2.2. Kết quả so sánh các nhóm PC theo thông số thâm niên công tác ...........74
2.5. Kết quả nghiên cứu mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến sự hình thành và
phát triển một số PCTL cơ bản của CVNS ....................................................76
2.5.1. Nhận định chung về mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến sự hình
thành, phát triển PCTL của CVNS ........................................................77
2.5.2. Kết quả so sánh các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành, phát triển
PCTL của CVNS theo các thông số điều tra .........................................81
2.5.2.1. Kết quả so sánh các yếu tố ảnh hưởng theo giới tính .....................81
2.5.2.2. Kết quả so sánh các yếu tố ảnh hưởng theo trình độ được đào tạo.83
2.5.2.3. Kết quả so sánh các yếu tố ảnh hưởng theo chuyên ngành được
đào tạo .............................................................................................86
2.5.2.4. Kết quả so sánh các yếu tố ảnh hưởng theo thâm niên công tác của
CVNS ..............................................................................................88

Tiểu kết chương 2 ..................................................................................................911
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ..............................................................................955
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
-

CVNS

:

chuyên viên nhân sự

-

KBYN

:

khác biệt ý nghĩa

-

KKB

:

không khác biệt


-

KTLĐ và QLNNL

:

Kinh tế lao động và quản lý nguồn nhân lực

-

P

:

mức ý nghĩa

-

PC

:

phẩm chất

-

PCTL

:


phẩm chất tâm lý

-

QTKD

:

Quản trị kinh doanh

-

QTNL

:

Quản trị nhân lực

-

SL

:

số lượng

-

TB


:

trung bình


DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1 : Khách thể khảo sát .............................................................................. 58
Bảng 2.2 : Các mức độ biểu hiện các phẩm chất tâm lý của chuyên viên nhân sự ...... 60
Bảng 2.3 : Đánh giá của khách thể về mức độ cần thiết một số PCTL cơ bản
của CVNS. ........................................................................................... 64
Bảng 2.4 : So sánh các nhóm PC theo thông số giới tính ..................................... 68
Bảng 2.5 : Ý nghĩa khác biệt giữa các nhóm PC theo đánh giá của nam và nữ ... 68
Bảng 2.6 : So sánh các nhóm PC theo thông số trình độ đào tạo ......................... 69
Bảng 2.7 : Ý nghĩa khác biệt giữa các nhóm PC theo thông số trình độ được
đào tạo ................................................................................................. 70
Bảng 2.8 : So sánh các nhóm PC theo thông số chuyên ngành đào tạo ............... 72
Bảng 2.9 : Ý nghĩa khác biệt giữa các nhóm PC theo thông số chuyên ngành
được đào tạo ........................................................................................ 73
Bảng 2.10 : So sánh các nhóm PC theo thông số thâm niên công tác .................... 74
Bảng 2.11 : Ý nghĩa khác biệt giữa các nhóm PC theo thông số thâm niên
công tác................................................................................................ 75
Bảng 2.12 : Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành, phát triển PCTL của
CVNS .................................................................................................. 77
Bảng 2.13 : So sánh các yếu tố ảnh hưởng theo đánh giá của nam và nữ .............. .82
Bảng 2.14 :

So sánh các yếu tố ảnh hưởng theo theo trình độ đào tạo ............................ 84


Bảng 2.15 : So sánh các yếu tố ảnh hưởng theo đánh giá của CVNS có sự khác
nhau về chuyên ngành được đào tạo ................................................... 87
Bảng 2.16 : So sánh các yếu tố ảnh hưởng theo đánh giá của CVNS có sự khác
nhau về thâm niên công tác ................................................................. 89


1

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn vấn đề nghiên cứu
Tại Việt Nam, nhiều năm qua, Quản trị nhân sự (Human Resource
Management) không là yếu tố quyết định nhất của hầu hết các công ty. Họ thường
cho rằng Quản trị nhân sự là một bộ phận kém quan trọng, chỉ làm tiêu tốn tiền bạc
mà không mang lại lợi ích kinh tế cụ thể nào. Vì vậy, nó luôn được xếp cuối cùng
trong danh sách những việc cần làm khi vận hành doanh nghiệp. Tuy nhiên trong
thực tế, Quản trị nhân sự lại đóng một vai trò quan trọng và thử thách nhất tại bất kỳ
một doanh nghiệp.
Bất kỳ một công ty nào cũng không thể tồn tại nếu không có yếu tố con
người. Vì thế, chúng ta có thể thấy được việc quản lý nhân sự trong một công ty
quan trọng đến mức nào. Đó chính là vai trò của nghề quản lý nhân sự. Từ việc
tuyển chọn nhân viên mới vào công ty cho đến việc giúp đỡ nhân viên ổn định công
việc, bộ phận nhân sự chịu trách nhiệm về nguồn lực quan trọng nhất của một công
ty - đó là con người. Mức độ quan trọng của công việc quản lý nhân sự trong mỗi
công ty là khác nhau, song các doanh nghiệp đều dựa vào các chuyên viên nhân sự
để giúp họ qua các giai đoạn phát triển mạnh và thời kỳ khủng hoảng. Cho dù một
công ty có thành công hay không thì luôn cần đến các chuyên viên nhân sự.
Quản trị nhân sự không chỉ đơn thuần là “tuyển dụng nhân sự” cho doanh
nghiệp mà nó mang một trọng trách cao hơn trong việc thu hút và “giữ chân” nhân
tài. Không có một chính sách nhân sự tốt đồng nghĩa với việc doanh nghiệp khó thể
tuyển dụng được các ứng viên xuất sắc. Vai trò của quản trị nhân sự từ đó được thể

hiện cụ thể qua việc xây dựng các kế hoạch và chính sách nhân sự hợp lý nhất để
đảm bảo có thể thu hút, lựa chọn, duy trì, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực xuất
sắc cần thiết sự phát triển của doanh nghiệp. Như vậy, quản trị nhân sự đóng vai trò
rất quan trọng trong việc đảm bảo thành công của doanh nghiệp. Áp dụng một chế
độ Quản trị nhân sự đúng đắn không những giúp doanh nghiệp đạt được mục tiêu đề
ra mà còn giảm thiểu các rủi ro thất bại do các yếu tố về nhân sự gây ra.


2

Hơn nữa, khoa học tâm lý cũng đã chỉ ra rằng, bất kỳ hoạt động nào của con
người muốn đạt hiệu quả cao cũng đòi hỏi chủ thể có những phẩm chất tương ứng
đáp ứng yêu cầu của hoạt động đó, nhất là với những hoạt động có tính chất chuyên
môn.
Hoạt động của một chuyên viên nhân sự cũng vậy, hoạt động này được coi là
một loại nghề đặc biệt yêu cầu chủ thể phải có những PCTL để vừa hoàn thành
được những nhiệm vụ đặt ra, vừa thực hiện tốt những kỹ năng nghề nghiệp, vừa để
khắc phục những hiện tượng tâm lý tiêu cực có thể xảy ra trong quá trình hoạt động.
Việc nghiên cứu, tìm hiểu và xác định những PCTL cơ bản của chuyên viên nhân sự
có ý nghĩa hết sức quan trọng để làm cơ sở cho việc tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng
và sử dụng nguồn lực những người làm công tác nhân sự. Nếu chuyên viên nhân sự
không đảm bảo được những PCTL cơ bản mà nghề đòi hỏi thì hiệu quả hoạt động
công việc sẽ rất hạn chế.
Hiện nay, nhu cầu tuyển dụng chuyên viên nhân sự đã và đang ngày càng gia
tăng do các tổ chức doanh nghiệp đang dần nhận ra tầm quan trọng của bộ phận
Quản trị nhân sự. Tuy nhiên phần lớn đội ngũ nhân viên đang làm việc trong lĩnh
vực nhân sự hiện nay đều có nền tảng được đào tạo từ các chuyên ngành khác nhau.
Do nhu cầu của xã hội, họ chuyển sang làm việc trong ngành nhân sự mà chưa có
được một sự đào tạo hoàn chỉnh.
Từ những lí do nêu, việc nghiên cứu đề tài “Một số phẩm chất tâm lý cơ

bản của chuyên viên nhân sự ” là việc làm cần thiết, vừa mang ý nghĩa lý luận,
vừa có giá trị thực tiễn. Nghiên cứu này góp phần đáp ứng nhu cầu hiện nay về việc
tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, phát triển đội ngũ những người đang và sẽ đảm
nhận công việc quản lý nhân sự có đầy đủ PCTL cơ bản về nghề nghiệp, đạo đức,
tác phong …. nhằm giúp cho doanh nghiệp tồn tại và phát triển.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu lý luận và thực tiễn nhằm làm rõ và đề xuất một số các phẩm
chất tâm lý cơ bản của chuyên viên nhân sự. Khảo sát tính cần thiết của một số
phẩm chất tâm lý này góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của chuyên viên nhân


3

sự trong quá trình làm việc tại các doanh nghiệp.
3. Đối tượng nghiên cứu và khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Một số phẩm chất tâm lý cơ bản của chuyên viên nhân sự.
3.2. Khách thể nghiên cứu
Chuyên viên nhân sự đang làm việc tại các doanh nghiệp trên địa bàn thành

-

phố Hồ Chí Minh.
Chuyên gia nhân sự (gồm: Giám đốc nhân sự, Trưởng phòng nhân sự).

-

4. Giả thuyết nghiên cứu
Hiện nay, các PCTL cần có của người lao động theo yêu cầu của một số


-

ngành nghề chưa phải là những PCTL cơ bản của CVNS.
Có sự khác biệt giữa các nhóm khách thể khi lựa chọn nhóm PCTL cơ bản cần

-

có của CVNS.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về phẩm chất tâm lý của CVNS.
5.2. Đề xuất một số phẩm chất tâm lý cơ bản của CVNS.
5.3. Khảo sát tính cần thiết của các phẩm chất tâm lý này đối với chuyên viên
nhân sự.
6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
6.1. Giới hạn về nội dung nghiên cứu
-

Đề tài tập trung nghiên cứu một số phẩm chất tâm lý cơ bản của chuyên viên
nhân sự phụ trách các công việc: tuyển dụng và đào tạo, phát triển nhân viên
ở một số doanh nghiệp.

-

Đề tài tập trung nghiên cứu ở một số loại hình doanh nghiệp như sau: Công
ty Trách nhiệm hữu hạn, Công ty Cổ phần, Công ty Liên doanh, Công ty
100% vốn nước ngoài.

6.2. Giới hạn về địa bàn nghiên cứu
Một số doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.



4

7. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành các nhiệm vụ nghiên cứu đã đặt ra và đạt được mục đích
nghiên cứu của đề tài, chúng tôi đã sử dụng phối hợp các phương pháp như sau:
7.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Mục đích: Thu thập những tài liệu liên quan đến vấn đề nghiên cứu nhằm
làm rõ các vấn đề lý luận của đề tài cần nghiên cứu.
Cách tiến hành: Đọc, phân tích, tổng hợp các tài liệu cần thiết phục vụ cho
việc nghiên cứu, nhằm xây dựng cơ sở lý luận cho việc triển khai, nghiên cứu thực
tiễn.
7.2. Phương pháp xin ý kiến chuyên gia
Xin ý kiến chuyên gia về các vấn đề quản trị nhân sự để hoàn thành phần đề
cương và xây dựng phiếu khảo sát.
7.3. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
Đây là một trong những phương pháp chủ yếu của đề tài.
Mục đích: Thu thập thông tin từ phía chuyên viên nhân sự về:
+ Nhận thức hệ thống danh mục các phẩm chất tâm lý cần thiết.
+ Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành, phát triển phẩm chất tâm lý của
chuyên viên nhân sự.
Cách tiến hành: Phát phiếu thăm dò ý kiến.
7.4. Phương pháp thống kê toán học
Dùng chương trình SPSS phiên bản 11.5 để xử lý số liệu, phân tích, đánh giá
kết quả nghiên cứu.


5

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHẨM CHẤT TÂM LÝ

CƠ BẢN CỦA CHUYÊN VIÊN NHÂN SỰ
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Cùng với sự phát triển của xã hội, sự phân công lao động mang tính chuyên
môn hóa ngày càng cao và nó cũng được nghiên cứu khi phân công lao động xã hội
đã xác định những loại hình nghề nghiệp.
Hoạt động của con người là hoạt động luôn có mục đích, có ý thức, có tính
xã hội và có tính tập thể được thể hiện bằng những thao tác công cụ nhất định đòi
hỏi con người phải có những phẩm chất tâm lý nhất định.
Nhằm phục vụ cho việc nâng cao hiệu quả lao động của con người, hợp lý
hóa quá trình sản xuất và tiết kiệm trong đào tạo nghề, đã có nhiều tác giả trong và
ngoài nước nghiên cứu vấn đề PCTL trên những bình diện khác nhau.

1.1.1. Nghiên cứu ở nước ngoài
Ngay từ thời Cổ đại, triết gia Arixtốt (384 – 322 TCN) đã có quan niệm về
“phẩm hạnh” của giới thượng đẳng. Nội dung của phẩm hạnh là biết định hướng,
biết làm việc, biết tìm tòi. Người có phẩm hạnh sẽ thu hút, điều khiển được người
khác và họ đều cao thượng, đáng kính. Ngay cả việc tuyển chọn người vào phục vụ
trong cung đình phải trải qua sự tuyển chọn cực kỳ khắt khe về kỹ năng lao động,
về sự phục tùng, tính nhẫn nhục chịu đựng, lòng dũng cảm, tinh thần khắc phục khó
khăn.
Các triết gia Trung Hoa Cổ đại như Khổng Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử cũng đã
có những quan niệm về “trí” và “đức” của người “quân tử”. Khổng Tử cho rằng,
người quân tử phải “trên thông thiên văn, dưới tường địa lý”, lấy chữ “đức” làm
trọng, thu phục nhân tâm làm việc lớn, lòng dạ ngay thẳng, đức độ khoan dung….
Năm 1983, nhà TLH người Anh F.Galton đã dùng test chẩn đoán nhân cách
để phục vụ cho việc tư vấn nghề; năm 1908, nhà TLH người Mỹ F.Parsons cũng đã
dùng test và bảng hỏi anket để nghiên cứu năng lực học sinh nhằm mục đích hướng
nghiệp.



6

Ở Liên Xô (trước đây), từ những năm 20 của thế kỷ 20, việc nghiên cứu tâm
lý phục vụ cho tuyển chọn, tư vấn và đào tạo nghề đã được chú trọng. Năm 1921,
phòng thí nghiệm tâm lý chuyên nghiên cứu nhân cách học sinh phục vụ hướng
nghiệp được thành lập trong viện nghiên cứu lao động trung ương và tâm sinh lý lao
động và tuyển chọn nghề được tổ chức ở Matxcơva. Nhiều nhà TLH nổi tiếng như:
K.K. Platônôv, G.G.Gôlubev, E.A.Climov, V.I.Segurova…đã đi sâu nghiên cứu về
xu hướng, về hứng thú nghề nghiệp như là PC quyết định hiệu quả hoạt động nghề.
Trong lĩnh vực nghiên cứu về phẩm chất nghề nghiệp và sự phát triển nghề
cũng đã có nhiều tác giả quan tâm, nghiên cứu trong các công trình như: R.Parsons
(1942), I.C.Diggory (1966), I.G.Bachman (1977). Các nghiên cứu đã phát hiện ra
một số kỹ năng nghề nghiệp và sự hình thành phát triển những kỹ năng đó trong quá
trình lao động. Họ đã đưa ra những tiêu chí đánh giá người lao động, trong đó đặc
biệt là các kỹ năng lao động. Trên cơ sở đó để tuyển chọn và huấn luyện người lao
động đem lại hiệu quả kinh tế và lợi nhuận cho các nhà tư bản.
Nhà TLH R.M.Stogdill đã nghiên cứu sâu về những PC của người lãnh đạo
và xác định người lãnh đạo cần có 5 đặc điểm về thể chất (chiều cao, ngoại hình,
sức khỏe,…), 4 đặc điểm về tri thức, 16 đặc điểm về nhân cách, 9 đặc điểm về xã
hội và 6 đặc điểm tính cách… Ông cho rằng, từng đặc điểm riêng lẽ có thể không có
ý nghĩa, nhưng một nhóm đặc điểm thì liên quan rất chặt chẽ với sự thành công.
Stogdill khẳng định rằng: “có một mối tương quan nhất định giữa các đặc điểm về
sự thông minh, uyên bác, đáng tin cậy, trách nhiệm, sự tham gia xã hội, và địa vị
kinh tế - xã hội của người lãnh đạo so với người không phải là lãnh đạo” [34, tr.6]
A.G. Côvaliov trong cuốn “Tâm lý học xã hội” lại cho rằng đề bạt người
lãnh đạo phải căn cứ vào 4 tiêu chí sau:
1. Trình độ đào tạo, bao gồm: trình độ văn hóa chung, trình độ nghề nghiệp, kiến
thức, kỹ năng, kỹ xảo..
2. Phẩm chất chính trị - đạo đức, bao gồm: niềm tin Cộng sản, tính nguyên tắc, ý
thức nghĩa vụ, lòng yêu lao động, tính kiên định.



7

3. Phẩm chất công tác, bao gồm: khả năng tổ chức, tính yêu cầu cao, tính kỷ luật.
thái độ lao động sáng tạo, ý thức nâng cao trình độn công tác.
4. Hiệu quả lao động, bao gồm: tinh thần đoàn kết tập thể, năng suất lao động. sự
thuyên chuyển cán bộ, sự tổn thương (an toàn lao động), uy tín của cán bộ lãnh
đạo đối với tập thể.[8, tr. 19 - 20.]
Riêng đối với ngành sư phạm, tác giả Ph.N.Gônôbôlin với công trình nghiên
cứu: “Những phẩm chất tâm lý của người giáo viên”, ông đã vạch ra được các
PCTL quyết định sự thành công của người giáo viên trong công tác giảng dạy và
giáo dục học sinh, là: đạo đức, chí hướng, hứng thú, năng lực, quá trình nhận thức,
hoạt động trí tuệ, tình cảm, PC ý chí. [11].
Tóm lại, qua các nghiên cứu về PCTL của một số tác giả nước ngoài, chúng
tôi thấy vấn đề PCTL trong hoạt động nghề từ lâu đã được khá nhiều nhà khoa học
quan tâm nghiên cứu. Xuất phát từ những đặc điểm của hoạt động, từ yêu cầu của
công việc đòi hỏi ở chủ thể phải có những PCTL để đáp ứng. Đồng thời chính trong
hoạt động lại là điều kiện để hình thành và phát triển những PCTL mà hoạt động đó
đòi hỏi. Những kết quả nghiên cứu của các tác giả nước ngoài về PCTL trong hoạt
động nghề nói chung đã cung cấp những cơ sở quan trọng giúp chúng tôi định
hướng trong quá trình nghiên cứu của mình.

1.1.2. Nghiên cứu ở trong nước
Ở Việt Nam, từ lâu các triều đại vua chúa và tướng lĩnh cũng rất chú ý đến
những PCTL trong việc tuyển chọn và sử dụng người hiền tài phục vụ đất nước.
Trong “Binh thư yếu lược”, vị anh hùng dân tộc – nhà quân sự kiệt xuất –
Trần Quốc Tuấn đã nêu 8 phương pháp để chọn người làm tướng, 8 phương pháp
đó nhằm xác định những PCTL là: sự linh hoạt (biến hóa), khả năng diễn đạt, lòng
trung thành, tư cách đạo đức (đức hạnh), tính liêm khiết (thanh liêm), tác phong

đứng đắn, lòng dũng cảm, khả năng tự chủ [34, tr. 7].
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở cán bộ phải luôn tự tu dưỡng, trau dồi
PC cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, vì “đạo đức là cái gốc của người làm cách
mạng”.


8

Trong một số bài viết mà Người để lại trong tác phẩm “Hồ Chí Minh toàn
tập”, bài “Đạo đức cách mạng” được đánh giá là nổi bật nhất. Người xem đạo đức
cách mạng là nền tảng, là tiêu chuẩn số một đối với người cán bộ lãnh đạo quản lý.
Người nói: “Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng
phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách
mạng vẻ vang”. Đó là lòng trung thành hết mực đối với sự nghiệp cách mạng, đây
là phẩm chất chính trị hàng đầu của người cán bộ lãnh đạo quản lý, …. Đặt lợi ích
của Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích của cá nhân. Vì
Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc.[18, tr. 236 –
238].
Ngoài ra, Người còn nhắc nhở, người cán bộ lãnh đạo phải có tính quyết
đoán, tính sáng tạo cao và dám nghĩ dám làm, chứ không phải là “loại cán bộ tròn
trĩnh, dễ bảo, tập đi, bò, đứng. [18, tr. 494 – 495].
Lấy đạo đức cách mạng làm nền tảng, làm gốc là tư tưởng lớn của Hồ Chí
Minh. Tuy nhiên, Người chưa bao giờ xem nhẹ tài năng. Người luôn quan tâm giáo
dục cán bộ lãnh đạo cả hai mặt: Phẩm chất cách mạng và năng lực công tác, không
nên tách rời và coi nhẹ mặt nào, “Có tài không có đức, tham ô hủ hóa có hại cho
nhà nước. Có đức không có tài như ông bụt ngồi trong chùa, không giúp ích được
ai”.[19, tr. 90]
Người cho rằng: con đường để hình thành phát triển những phẩm chất của
mỗi người chúng ta đó là giáo dục, tự giáo dục và tự rèn luyện.
Tác giả Phạm Tất Dong trong nhiều công trình nghiên cứu đã đề cập đến vấn

đề những PC cá nhân đáp ứng yêu cầu của nghề và tuyển chọn tâm lý đối với nghề,
đặc biệt đối với nghề y, đòi hỏi phải có những PC: tinh thần trách nhiệm; sự tận
tình; sự thông cảm; sự quan tâm; lòng từ thiện [6].
Khi nghiên cứu về PC nhân cách của người quản lý, hai tác giả: Nguyễn
Quang Uẩn và Nguyễn Bá Dương đã chia nhân cách người lãnh đạo thành 4 nhóm
cơ bản:


9

1. Nhóm phẩm chất chính trị - tư tưởng (tập hợp các phẩm chất thể hiện khuynh
hướng hoạt động, lập trường chính trị của người lãnh đạo).
2. Nhóm phẩm chất về tâm lý – đạo đức (nói lên trình độ trưởng thành về ý thức,
hành vi đạo đức, lập trường đạo đức cũng như tính cách của người lãnh đạo)
3. Nhóm các phẩm chất về năng lực công tác, gồm: năng lực chung, năng lực
chuyên môn và năng lực tổ chức.
4. Nhóm hiệu quả hoạt động lãnh đạo.[8, tr. 20]
Tác giả Bùi Ngọc Oánh cũng nêu lên các nhóm phẩm chất nhân cách cần có
ở nhà quản lý. Đó là:
1. Nhóm phẩm chất tư tưởng, chính trị, đạo đức, bao gồm: giác ngộ về chính trị,
trung thành với Tổ quốc, với nhân dân; có khả năng giải quyết các vấn đề
chính trị, công bằng, nhân ái, tế nhị, trung thực, gương mẫu; cần kiệm, liêm
chính, chí công, vô tư; cao thượng, …
2. Những phẩm chất cá tính, bao gồm: say mê đối với công việc, cởi mở, hòa
nhã, vui vẻ, lịch thiệp; quả quyết, táo bạo, dám nghĩ dám làm; tự chủ; cách
nhìn tổng hợp, khái quát hệ thống, chiến lược.
3. Những phẩm chất về năng lực, bao gồm: năng lực tổ chức quản lý; năng lực
chuyên môn .[22. Tr. 264 – 269.]
Trong luận án tiến sĩ “Cơ sở tâm lý học của sự hình thành và phát triển nhân
cách người thầy thuốc quân đội tương lai ”của mình, tác giả Nguyễn Sinh Phúc đưa

ra mô hình các PC nhân cách của bác sỹ quân y gồm 15 PC sau: Năng lực tổ chức
chỉ huy; Năng lực chuyên môn; Lòng nhân ái; Lập trường tư tưởng; Sẵn sàng nhận
nhiệm vụ; Khả năng giao tiếp; Tinh thần trách nhiệm; Nhiệt tình công tác, Tính kỷ
luật; Uy tín; Trung thực; Ham nghiên cứu khoa học, Khiêm tốn; Tính tập thể; Tính
sáng tạo [34, tr. 8].
Tác giả Trần Trọng Thủy đề cập nhiều đến việc xây dựng họa đồ nghề
nghiệp cho các nghề, trong đó cũng rất chú trọng vấn đề mô tả những đặc điểm tâm
lý của nghề trong họa đồ tâm lý mà phần hết sức quan trọng là những PCTL đáp
ứng đòi hỏi của nghề. [31]


10

Trong lĩnh vực nghiên cứu PC và PCTL đáp ứng yêu cầu của nghề cụ thể
cũng đã có khá nhiều tác giả nghiên cứu sâu và chỉ ra một số PCTL cơ bản đáp ứng
yêu cầu của nghề như:
Tác giả Nguyễn Thị Phương Anh (1996) nghiên cứu: “Một số đặc điểm tâm
lý – xã hội của doanh nghiệp”, qua quá trình phân tích các đặc điểm của hoạt động
kinh doanh đã nêu ra 14 PCTL của các nhà doanh nghiệp Việt Nam trong hoạt động
kinh doanh. Đó là: Bền bỉ; Cần cù; Dám mạo hiểm; Có đầu óc tính toán kinh
doanh; Ham học hỏi, hiểu biết; Linh hoạt, năng động; Nhạy bén; Óc sáng kiến,
sáng tạo; Quảng giao; Quyết đoán; Thạo việc; Có kinh nghiệm về lĩnh vực mình
kinh doanh; Thận trọng; Thông minh; Tự tin.
Tác giả Nguyễn Thị Kim Phương (1996) trong “Nghiên cứu một số đặc điểm
tâm lý – xã hội của giới doanh nghiệp trẻ Việt Nam” đã chia các PC thành 3 nhóm:
những khả năng, những kỹ năng và những PCTL đặc trưng hiện có ở giới doanh
nghiệp trẻ Việt Nam trong đó có 60 PC cụ thể . [34, tr. 8 ].
Trên lĩnh vực tâm lý học quân sự có khá nhiều tác giả nghiên cứu về PCTL
của người quân nhân trong các lĩnh vực khác nhau của hoạt động quân sự, như:
Tác giả Đỗ Văn Thọ trên cơ sở phân tích đặc điểm hoạt động của Cảnh sát

hình sự đã nêu lên hai nhóm đặc điểm tâm lý (biểu hiện thông qua tính tích cực và
tiêu cực) và 22 PCTL cần có của những chiến sĩ công an: Lòng yêu nghề, hứng thú
với nghề; Lòng trung thành với Đảng CSVN, với nhà nước CHXHCN Việt Nam;
Tinh thần đấu tranh bảo vệ lẽ phải; Tinh thần chịu đựng gian khổ, nỗ lực vượt khó;
Khả năng tư duy linh hoạt, nhanh nhạy; Trí nhớ tốt; Khả năng thích nghi cao, dễ
hòa nhập; Khả năng giao tiếp tốt; Khả năng phản ứng nhanh; Lòng dũng cảm;
Tính kiên quyết; Tính quyết đoán; Tính độc lập; Khả năng tự chủ, tự kiềm chế; Tính
thận trọng; Tính kiên trì; Tính trung thực; Khả năng phán đoán tốt; Có lòng tin vào
những điều tốt đẹp; Khả năng quan sát tốt; Tính kỷ luật (cao); Tinh thần trách
nhiệm (cao).[29]
Tác giả Nguyễn Văn Tập trong công trình nghiên cứu của mình đã xác định
28 PCTL cần có của cán bộ quản giáo trong hoạt động cải tạo phạm nhân: Nhận


11

thức sâu sắc về Chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; Lập trường tư
tưởng, chính trị vững vàng; Nắm vững đường lối, chính sách, pháp luật; Trung
thành với Đảng, với chế độ XHCN; Tính giáo dục; Tính vị tha, nhân ái; Liêm khiết;
Tận tụy với công việc; Tinh thần trách nhiệm cao; Tính công tâm (công bằng); Tính
kế hoạch; Tính kỷ luật; Tính đoàn kết; Tính nguyên tắc; Tính trung thực; Tính
cương quyết; Tính kiên trì; Tính dũng cảm; Tính nghị lực; Tính tự chủ; Tính quyết
đoán; Năng lực nghiệp vụ Công an; Năng lực tổ chức; Năng lực sư phạm; Năng lực
giao tiếp; Thói quen nói năng lịch sự, có văn hóa; Tác phong đàng hoàng, đĩnh
đạc; Tác phong sâu sát, cụ thể, rõ ràng. [26]
Các tác giả nói trên là những người đi đầu, đột phá trong việc nghiên cứu
tâm lý nghề nghiệp ở Việt Nam. Tuy kết quả nghiên cứu như thế nào đi nữa, nhưng
chắc chắn những tác giả trên cùng với công trình nghiên cứu của mình đã góp phần
lớn vào thực tiễn trong công tác tư vấn hướng nghiệp, tuyển chọn và đào tạo nghề ở
nước ta.

• Riêng đối với ngành quản trị nhân sự, trong quá trình tìm hiểu thông qua các
phương tiện thông tin đại chúng và quá trình tìm kiếm tài liệu phục vụ cho luận văn,
tác giả nhận thấy: cho đến nay có rất ít công trình khoa học nghiên cứu chính thức
về những PCTL cần có của người làm công tác quản lý nhân sự, đặc biệt là đối với
chuyên viên phụ trách công việc nhân sự. Những công trình này hầu hết chỉ tập
trung ở việc đưa ra một số nhận định và ý kiến chủ quan được đút kết từ kinh
nghiệm thực tiễn của những người làm công tác quản lý nhân sự (đặc biệt là đối với
các tác giả nước ngoài) cũng như của một số tác giả trong nước đang thực hiện công
tác giảng dạy tại một số trường đại học, cao đẳng có đào tạo các chuyên ngành:
Quản trị nhân lực; Quản trị kinh doanh hoặc Kinh tế lao động và quản lý nguồn
nhân lực.
Những nhận định, đóng góp của các tác giả nói trên khi đề cập những PC cần
có tiêu biểu của những người làm công việc liên quan đến quản lý nhân sự đã bước
đầu khái quát tuy chưa rõ ràng và cụ thể nhưng cũng giúp chúng ta xây dựng được
hệ thống PCTL cần có của những người quản lý nhân sự nói chung và chuyên viên


12

nhân sự nói riêng.
Tóm lại, trong và ngoài nước đã có không ít công trình nghiên cứu về PCTL
của nhiều tác giả trên các lĩnh vực: giáo dục, kinh doanh, hoạt động quản lý, y học,
hoạt động quân sự, …. Các nghiên cứu này đã chỉ ra rằng: đặc điểm, tính chất của
hoạt động đòi hỏi chủ thể của hoạt động ấy phải có những PC tương ứng để thực
hiện. Đồng thời chính trong hoạt động ấy lại làm nảy sinh và phát triển những
PCTL mà hoạt động ấy đòi hỏi.
Những nghiên cứu trên là một trong những cơ sở quan trọng giúp tác giả xây
dựng cơ sở lý luận định hướng trong quá trình nghiên cứu đề tài này. Tuy nhiên, có
thể nói cho đến nay vẫn chưa có một công trình, một đề tài nào nghiên cứu về
PCTL của chuyên viên nhân sự một cách đầy đủ và hệ thống.

Do đó, vấn đề PCTL của chuyên viên nhân sự trong hoạt động quản lý nhân sự
rất cần thiết phải có sự nghiên cứu một cách có hệ thống và khoa học đáp ứng với
đòi hỏi của lý luận cũng như thực tiễn vấn đề này.

1.2. Một số khái niệm công cụ
1.2.1. Phẩm chất tâm lý
1.2.1.1. Phẩm chất
Trong từ điển tiếng Việt có định nghĩa: Phẩm chất là cái làm nên giá trị của
người hay vật. [37] Ta có thể hiểu “phẩm chất” theo định nghĩa này là những thuộc
tính, đặc điểm của đối tượng mà căn cứ vào đó người ta có thể đánh giá, xác định
giá trị đối tượng đó.
Trong tiếng Anh, danh từ Quality được dùng với nghĩa là: phẩm chất, đặc
tính, loại, hạng.
Theo từ điển Tâm lý học (Dictionary of psychology) của J.P.Chaplin thì PC
là “mức độ tương đối giữa cái tốt hoặc cái tuyệt với về lĩnh vực nào đó”. [2, tr.686]
Trong khi phân tích quan điểm về những phẩm chất chung của nhân cách,
K.K. Platonốp đề cập đến vị trí của xu hướng, tính cách, khí chất, năng lực trong
cấu trúc nhân cách.


13

Một điều được K. K. Platonốp nhấn mạnh trong tác phẩm của mình, đó là:
các khái niệm “thuộc tính”, “đặc điểm” và “phẩm chất” thường được áp dụng một
cách tùy tiện và không chính xác trong học thuyết về nhân cách. Đôi khi người ta
coi chúng là đồng nghĩa, nhưng sự thật thì không phải như vậy. Cụ thể theo ông:
“Thuộc tính” đó là khái niệm rộng nhất, nó là một cái gì vốn có của cá nhân,
là một nét của cá nhân, cái nét ấy quy định sự giống nhau hay khác nhau của một cá
nhân so với những cá nhân khác.
“Đặc điểm” cá nhân đó là những thuộc tính cá biệt hoặc sự tổng hòa những

thuộc tính ấy.
“Phẩm chất” đó là thuộc tính cơ bản nhất làm cho cá nhân được xác định.
Phẩm chất của cá nhân thay đổi, thì nói chung cá nhân ấy thay đổi.
“Phẩm chất, Hê – ghen viết, là tính xác định trực tiếp, nói chung đồng nhất
với tồn tại …. Nhờ vào phẩm chất của mình mà một cái gì đó lại là chính nó, và khi
mất đi cái phẩm chất ấy thì nó không trở thành nó nữa ”. [23, tr.18]
Và 4 tiểu cấu trúc nhân cách trong phẩm chất chung mà K. K. Platonốp đề
cập ở đây với vai trò là phẩm chất tâm lý chứ không phải theo một cách hiểu phiến
diện khi đồng nhất toàn bộ chúng như một phẩm chất xã hội.
Trong từ điển Tâm lý học (The dictionary of psychology) của Raymond
J.Corsini “Phẩm chất (quality) là đặc điểm (hoặc đặc trưng) về cảm giác (Sensation)
hoặc thực thể khác để cho nó trở thành độc đáo, là sự khác về chất (loại, thứ, hạng)
chứ không phải về số lượng” [1, tr.796]. Như vậy, theo cách hiểu này, PC được hiểu
là những đặc điểm (đặc trưng) về thực thể hoặc về sự phản ánh thế giới (tinh thần)
của đối tượng để tạo nên sự khác biệt với đối tượng khác về tính chất, giúp đánh giá
phân loại hay xếp hạng đối tượng. Có hai loại phẩm chất: PC của thực thể (vật chất
- Entity) và PC của cảm giác (tinh thần - Sensation).
Tuy cách nói khác nhau, nhưng có thể khái quát một số nội dung cơ bản sau:
PC là đặc điểm, thuộc tính gắn bó với đối tượng; PC là mức độ giá trị của những
đặc điểm, thuộc tính…của đối tượng để tạo nên sự khác biệt của chúng, làm cơ sở
cho sự đánh giá, phân loại, xếp hạng; Có những phẩm chất thiên về tinh thần (xét


14

riêng về khía cạnh con người), nhưng cũng có những phẩm chất thiên về thực thể
vật chất (cả con người và đồ vật, vật chất).
Trong thực tiễn đời sống xã hội, chúng ta thường dùng những khái niệm:
phẩm chất tốt, phẩm chất chưa tốt, chưa đảm bảo đầy đủ các phẩm chất theo yêu
cầu của nghề nghiệp,…, khi nhận xét hay đánh giá về một người nào đó. Phẩm chất

và Năng lực là hai khía cạnh được đề cập đến nhiều nhất. Về thực chất khi đánh giá
nhân cách của một con người là chúng ta đã dựa trên những mặt phẩm chất, phẩm
giá mà trong đó đã bao hàm cả mặt năng lực của con người đó. Và Phẩm chất và
Năng lực được xem như hai nhóm phẩm chất cơ bản của nhân cách.
Xuất phát từ quan điểm của C. Mác: “ Bản chất của con người là tổng hòa
các quan hệ xã hội”, tác giả Nguyễn Ngọc Bích đã đưa ra hệ thống phẩm chất nhân
cách bao gồm: Phẩm chất về mặt đạo đức và Phẩm chất về mặt năng lực. [2. tr.244]
 Phẩm chất về mặt đạo đức, bao gồm :
1. Thế giới quan, lý tưởng bao gồm: quan điểm chính trị, lập trường, vai trò
xã hội của cá nhân.
2. Thái độ và hành vi ứng xử xã hội của cá nhân; Thái độ và hành vi đối với
người khác, đối với gia đình, đối với xã hội: đoàn thể, nhân dân, Tổ quốc;
Thái độ đối với lao động.
3. Tình cảm và ý chí:
a) Mặt tình cảm: Tình cảm đạo đức, tình cảm trí tuệ, tình cảm thẩm mỹ.
b) Mặt ý chí: Tính tự chủ, tính cân bằng, tính mục đích, tính dũng cảm,
tính hòa nhập.
 Phẩm chất về mặt năng lực, bao gồm :
1. Năng lực trí tuệ - năng khiếu, năng lực chuyên môn, tài năng.
2. Năng lực thể chất – tâm lý.
Có thể nói, khi đề cập đến mặt phẩm chất, phẩm giá của con người là ta đã
bao hàm cả mặt năng lực của con người đó.
Như vậy, có thể thống nhất hiểu “phẩm chất” là những đặc điểm của người
hay vật đạt mức độ chất lượng cần thiết đáp ứng yêu cầu nào đó của xã hội, và tạo


15

nên sự khác biệt về hạng, loại với đối tượng khác. Phẩm chất thường được xem xét
theo những tiêu chí nhất định và được phân biệt với những đặc điểm âm tính (thói,

tật, kém phẩm chất,…) và những đặc điểm không điển hình khác.

1.2.1.2. Phẩm chất tâm lý
Cho đến nay, các tài liệu ở Việt Nam (kể cả các loại từ điển Tâm lý học của
các tác giả trong và ngoài nước) chưa thấy một tài liệu nào định nghĩa hay giải thích
thế nào là PCTL? Tuy nhiên, khái niệm này lại được dùng khá phổ biến trong các
công trình nghiên cứu và tác phẩm của một số tác giả như: Ph.N Gônôbôlin:
“Những phẩm chất tâm lý của người giáo viên”; Mai Hữu Khuê: “Tâm lý học trong
quản lý Nhà nước”; Ngô Công Hoàn: “Tâm lý học xã hội trong Quản lý”; Nguyễn
Thạc, Phạm Thành Nghị : “Tâm lý học sư phạm đại học”; Lê Văn Hồng: “Tâm lý
học Lứa tuổi và Sư phạm”; Đỗ Văn Thọ: “Những phẩm chất tâm lý cơ bản của
Cảnh sát hình sự”; …..
Tác giả Mai Hữu Khuê không sử dụng khái niệm PCTL đối với người lãnh
đạo, nhưng cho rằng những phẩm chất mà người lãnh đạo không thể thiếu được: 1.
Những phẩm chất về chính trị; 2. Những phẩm chất về nghiệp vụ - chuyên môn; 3.
Năng lực tổ chức (Khả năng biết giao tiếp, Khả năng biết nghe và chịu nghe người
khác, Biết nghiên cứu người khác theo những số liệu chưa đầy đủ, Biết tác động
một cách có hiệu quả tới người dưới quyền, biết khuyến khích họ hoàn thành việc
chung, Khả năng biết đoàn kết mọi người, Biết kích thích và duy trì nhiệt tình công
tác của tập thể ).[17]
Cùng với cách sử dụng thuật ngữ “phẩm chất”, tác giả Ngô Công Hoàn đã
đưa ra những phẩm chất cần có của người Cán bộ quản lý: 1. Phẩm chất đạo đức; 2.
Phẩm chất trí tuệ; 3. Những năng lực của nhân cách quản lý (Nhu cầu làm công tác
quản lý, Năng lực tổ chức, Năng lực chuyên môn, Năng lực hợp tác với mọi
người).[13]
Tác giả Lê Văn Hồng cũng đề cập đến PC người giáo viên bao gồm:
1. Thế giới quan khoa học
2. Lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ



16

3. Lòng yêu trẻ
4. Lòng yêu nghề
5. Một số phẩm chất đạo đức và ý chí của người thầy giáo: tinh thần, nghĩa vụ
mình vì mọi người – tinh thần nhân đạo, tôn trọng, thái độ công bằng, chính
trực – Thái độ ngay thẳng, giản dị, khiêm tốn. [14, tr.169]
Trong luận án tiến sĩ: “Những phẩm chất tâm lý cơ bản của Cảnh sát hình
sự” của mình, tác giả Đỗ Văn Thọ cho rằng: phẩm chất tâm lý là những thuộc tính,
những đặc điểm tinh thần của cá nhân (phân biệt với PC sinh lý, thể chất); là
những thuộc tính, đặc điểm tâm lý tích cực được đánh giá theo hệ thống tiêu chí
nhất định, bao gồm những PC chính trị, đạo đức; những PC trí tuệ, năng lực;
những PC ý chí, tính cách. Những PC đó hình thành, phát triển, thể hiện ở hoạt
động và giao tiếp, đồng thời chi phối toàn bộ hoạt động và giao tiếp của cá nhân
trong đời sống và trong nghề nghiệp. [29, tr. 20]
Riêng đối với tác giả Nguyễn Văn Tập trong công trình nghiên cứu của mình
đã cho rằng: PCTL là những thuộc tính tâm lý quy định hành vi và cách ứng xử có ý
nghĩa xã hội của con người trong những tình huống khác nhau của quan hệ giao
tiếp và hoạt động. PCTL thường là những thuộc tính tâm lý biểu hiện mặt tư tưởng,
tính cách, ý chí, năng lực, phong cách của con người. [26]
Có nhiều cách phân loại các PCTL, nếu ta phân loại theo cấu trúc nhân cách
thì sẽ có các nhóm PC như sau: xu hướng, tính cách, khí chất, năng lực. Nhưng nếu
chúng ta dựa trên cơ sở của sự phân loại theo giá trị (giá trị đạo đức, giá trị thẩm
mỹ, giá trị kinh tế) thì sẽ có các nhóm PCTL như: nhóm PCTL thuộc về chính trị tư tưởng, nhóm PCTL thuộc về đạo đức và nhóm PCTL thuộc về trình độ năng lực.
Qua các cách sử dụng khái niệm như trên cho thấy một thực tế là: nhiều tác
giả trong khi đề cập đến những PC của người cán bộ, PC nghề nghiệp nào đó
thường không dùng khái niệm PCTL; có tác giả dùng khái niệm này đồng nghĩa với
nhân cách; có tác giả lại phân biệt tách rời PCTL và PC nhân cách, coi chúng là hai
loại khác nhau; có tác giả lại coi tri thức là PCTL; hoặc ngược lại không coi PC
chính trị, năng lực của con người là PCTL. Có tác giả coi năng lực là PCTL nhưng



17

lại phân chia: “PC tâm lý – PC nhân cách – PC tâm lý khác”.
Trong các tác giả trên khi đề cập đến khái niệm, chỉ có tác giả Đỗ Văn Thọ
và Nguyễn Văn Tập đưa ra định nghĩa, nhưng cuối cùng lại quy về PC nhân cách.
Dường như các tác giả nói trên đều có một sự gò ép nào đó khi dùng khái niệm
PCTL và PC nhân cách. Phải chăng các tác giả không muốn đề cập đến một vấn đề
có thể nảy sinh tranh cãi hay vì một lý do tế nhị nào đó, nhưng rõ ràng là khái niệm
PCTL vẫn chưa có được cách hiểu thống nhất với nhau.
Tuy nhiên khi đề cập đến PCTL hay PC nhân cách, các tác giả đều nói đến
những đặc điểm về ý thức chính trị, đạo đức, những đặc điểm về nhận thức, tình
cảm, tính cách, ý chí, năng lực … của con người, tức là đều nói về những PC tinh
thần chứ không phải những PC về sinh lý – thể chất hay đặc điểm xã hội thuần túy.
Theo quan điểm của Ph.N.Gônôbôlin trong tác phẩm “Những phẩm chất tâm
lý của người giáo viên”, tuy không đưa ra định nghĩa nhưng ông đã đề cập đến
người giáo viên cần có những PC: Phẩm chất đạo đức, chí hướng; Năng lực sư
phạm; Phẩm chất ý chí. Chúng tôi nhất trí với quan niệm của Gônôbôlin coi những
PC thuộc về năng lực, ý chí, đạo đức, xu hướng…là những PCTL, bởi năng lực, khí
chất hay bất cứ hiện tượng tâm lý nào của cá nhân, tuy đều có yếu tố sinh vật tham
gia (cơ sở sinh lý), nhưng chúng đều là hiện tượng tinh thần – là tâm lý – không thể
coi năng lực là cái gì khác hay tương đương với PCTL. Các năng lực cụ thể nào đó
chính là PCTL.
Còn khi nói đến nhân cách cũng tức là nói đến những thuộc tính tâm lý cơ
bản tạo nên nhân cách. Do đó, PC nhân cách chính là PCTL. Nhưng “nhân cách”
không phải là sự cộng lại tất cả các đặc điểm tâm lý mà là kết tinh của những đặc
điểm đặc trưng, không phải tất cả các PCTL đều là PC nhân cách (mặc dù chúng
cũng góp phần nhất định tạo nên đặc trưng nhân cách của cá nhân). PCTL là khái
niệm bao trùm lên khái niệm PC nhân cách, không thể thay thế cho nhau được và

cũng hoàn toàn không tách rời nhau.
Một vấn đề nữa đặt ra là: PCTL là “cái xã hội” hay “cái sinh vật” hay là một
cái gì khác nữa? Về vấn đề này, có thể nhất trí với quan điểm của E.V. Xôrôkhôva


18

(1996) khi cho rằng: Các PCTL không chỉ quy về xã hội, cũng không quy về sinh
học hay nằm giữa hai phạm trù (hoặc dưới hai phạm trù đó). Tuy nhiên, cũng không
nên tách chúng ra khỏi một phạm trù nào: PCTL dường như thấm sâu vào cả xã hội
và sinh học bằng hình thức nhất định, “xuyên sâu”, gắn liền chúng. Mặt khác, có
nhiều đặc điểm xã hội, sinh học được thể hiện trong hành vi và hoạt động của con
người thông qua các PCTL.[1, tr.125]
Một số nhà tâm lý khi đề cập đến vấn đề tuyển chọn tâm lý nghề nghiệp, cho
rằng: PCTL – nhân cách chịu ảnh hưởng nhiều của điều kiện giáo dục, hoàn cảnh
sống và hoạt động để hình thành, phát triển, tuy nhiên cũng có nhiều PC chịu nhiều
ảnh hưởng của yếu tố bẩm sinh.
Như vậy, việc tách riêng để định nghĩa PCTL là gì chỉ có tính qui ước một
cách trừu tượng tương đối để nghiên cứu chứ không có ý định phân định máy móc,
rạch ròi PCTL hay PC nhân cách.
Trong luận văn này, chúng tôi đồng tình với quan điểm của Đỗ Văn Thọ và
tạm xác định PCTL là những thuộc tính, những đặc điểm tinh thần của cá nhân
được quy định, hình thành và phát triển thông qua hoạt động và giao tiếp của con
người, đồng thời chi phối lại toàn bộ đời sống và hoạt động nghề nghiệp của cá
nhân. PCTL thường là những thuộc tính tâm lý thể hiện về mặt đạo đức; trí tuệnăng lực và ý chí - tính cách của con người.
Theo đó, mức độ năng lực của con người về nhận thức, hành động, các thái
độ tích cực của cá nhân với xung quanh…đều là biểu hiện của các PCTL. Tất cả các
đặc điểm tâm lý đạt đến mức độ tương đối ổn định, tích cực (có ích) cho hoạt động
của cá nhân, cho việc đánh giá về cá nhân, đó là những phẩm chất tâm lý. Nói cách
khác PCTL là đặc tính hay mức độ chất lượng cần thiết của các chức năng tâm lý,

giúp cá nhân tiến hành các hoạt động đạt đến mục đích. Đương nhiên những biểu
hiện tâm lý nhất thời, không gắn bó với chức năng tâm lý của cá nhân, không có ý
nghĩa để đánh giá thì chưa phải là PCTL.
Căn cứ trên những cơ sở về mặt lý luận như đã được trình bày ở phần trên,
chúng tôi phân tích các phẩm chất tâm lý của CVNS theo 3 khía cạnh:


×