Tải bản đầy đủ (.pdf) (666 trang)

phân tích đặc điểm về mặt âm học của hệ thống nguyên âm tiếng bình định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (13.82 MB, 666 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Lê Nguyễn Hoàng Mai

PHÂN TÍCH ĐẶC ĐIỂM VỀ MẶT ÂM HỌC
CỦA HỆ THỐNG NGUYÊN ÂM
TIẾNG BÌNH ĐỊNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh – 2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
-------------------------

Lê Nguyễn Hoàng Mai

PHÂN TÍCH ĐẶC ĐIỂM VỀ MẶT ÂM HỌC
CỦA HỆ THỐNG NGUYÊN ÂM
TIẾNG BÌNH ĐỊNH
Chuyên ngành : Ngôn ngữ học
Mã số

: 60 22 01 02

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:



TS. HONDA KOICHI

Thành phố Hồ Chí Minh – 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu
trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận văn

Lê Nguyễn Hoàng Mai


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tôi xin gửi lời cảm ơn đến:
 TS. Honda Koichi , người trực tiếp và tận tình hướng dẫn khoa học cho tôi. Tôi
xin gửi đến Thầy lời tri ân và biết ơn chân thành, sâu sắc nhất.
 Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, Khoa Ngữ văn, Phòng Sau
Đại học đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành luận văn này.


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ 1
LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................. 2
MỤC LỤC .................................................................................................................... 3
MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 7
1. Lý do chọn đề tài .............................................................................................................7
2. Mục đích nghiên cứu ......................................................................................................7
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..................................................................................8

4. Lịch sử vấn đề .................................................................................................................8
5. Phương pháp nghiên cứu ...............................................................................................8
6. Cấu trúc luận văn ...........................................................................................................9

CHƯƠNG 1: TÍN HIỆU ÂM THANH CỦA NGUYÊN ÂM ................................ 11
1.1. Một số vấn đề về sóng âm ..........................................................................................11
1.1.1. Sự hình thành của sóng âm..................................................................................11
1.1.2. Cộng hưởng và họa âm .......................................................................................11
1.2. Đặc trưng âm học của nguyên âm ............................................................................12
1.2.1. Âm sắc của nguyên âm ........................................................................................12
1.2.2. Formant ...............................................................................................................13

CHƯƠNG 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ HỆ THỐNG ÂM VỊ TIẾNG BÌNH ĐỊNH
..................................................................................................................................... 19
2.1. Cấu trúc âm tiết tiếng Bình Định ..............................................................................19
2.2. Hệ thống âm đầu tiếng Bình Định ............................................................................21
2.3. Hệ thống âm cuối tiếng Bình Định ...........................................................................22
2.4. Hệ thống âm chính tiếng Bình Định ........................................................................24


CHƯƠNG 3: QUY TRÌNH VÀ PHƯƠNG PHÁP THU THẬP VÀ XỬ LÝ NGỮ
LIỆU ........................................................................................................................... 28
3.1. Quy trình và phương pháp thu thập ngữ liệu...........................................................28
3.1.1. Xác định vùng nghiên cứu và đối tượng ngôn ngữ..............................................28
3.1.2. Lựa chọn tư liệu viên ...........................................................................................29
3.1.3. Ngữ liệu ...............................................................................................................31
3.1.4. Thiết bị thu âm .....................................................................................................31
3.2. Phương pháp xử lý ngữ liệu ......................................................................................31
3.2.1. Phương pháp đo tần số formant của nguyên âm .................................................31
3.2.2. Phương pháp đo trường độ nguyên âm ...............................................................35

3.3. Phương pháp xử lý bộ số liệu ....................................................................................39

CHƯƠNG 4: SỰ THAY ĐỔI ÂM SẮC CỦA NGUYÊN ÂM ĐƠN TRONG
TIẾNG BÌNH ĐỊNH ................................................................................................. 40
4.1. Tương quan giữa các nguyên âm trong các bối cảnh qua phát âm của từng tư liệu
viên .....................................................................................................................................40
4.2. Sự tách/ nhập nhóm của nguyên âm trong các bối cảnh ........................................55
4.2.1. /i/ “i” [i], [ɪ] ...................................................................................................55
4.2.2. /ɤ/ “ơ”  [ɤ], [ ɐ], [o]; /ɤ̆ / “â”  [ ɐ]; /o/ “ô”  [o], [ ɐ] ...........................57

4.2.3. /e/ “ê”  [i], [ɤ] ..............................................................................................58
4.2.4. /ɛ/ “e, a”  [ɛ], [æ] ...........................................................................................59

4.2.5. /ɔ/  [ ɐ], [ɔ] và [o]; ..........................................................................................61

4.2.6. /a/, /ă/  [æ] .......................................................................................................62
4.2.7. /u/  [u], [ɯ]; /ɯ/  [ɯ] ................................................................................64

4.2.8. “-ong, -oc”, “-anh, -ach”  [æ] ........................................................................65
4.3. Đặc trưng âm sắc của nguyên âm .............................................................................66
4.4. Giải pháp âm vị học ...................................................................................................68


Chương 5: SỰ THAY ĐỔI ÂM SẮC CỦA NGUYÊN ÂM ĐÔI TRONG TIẾNG
BÌNH ĐỊNH ............................................................................................................... 72
5.1. Nguyên âm /i͜ɤ/ ...........................................................................................................72

5.1.1. Nguyên âm /i͜ɤ/ qua cách phát âm của 12 tư liệu viên ........................................72

5.1.2. Sự triệt tiêu yếu tố thứ hai của nguyên âm /i͜ɤ/ .....................................................77

5.1.3. Đặc trưng âm sắc của nguyên âm /i͜ɤ/.................................................................84

5.2. Nguyên âm /ɯ͜ɤ/ .........................................................................................................85
5.2.1. Nguyên âm /ɯ͜ɤ/ qua cách phát âm của 12 tư liệu viên ......................................85

5.2.2. Sự triệt tiêu yếu tố thứ hai của nguyên âm /ɯ͜ɤ/ .................................................91

5.2.3. Đặc trưng âm sắc của nguyên âm /ɯ͜ɤ/ ..............................................................98

5.3. Nguyên âm /u͜ɤ/ ........................................................................................................100
5.3.1. Sự thể hiện của /u͜ɤ/ qua cách phát âm của 12 tư liệu viên...............................100
5.3.2. Sự triệt tiêu yếu tố thứ hai của nguyên âm /u͜ɤ/ ................................................105

5.3.3. Đặc trưng âm sắc của nguyên âm /u͜ɤ/ ..............................................................113

5.3.4. Giải pháp âm vị học...........................................................................................115

Chương 6 TRƯỜNG ĐỘ NGUYÊN ÂM TRONG TIẾNG BÌNH ĐỊNH ........ 117
6.1. So sánh giá trị trường độ của các cặp nguyên âm .................................................118
6.1.1. [ɐ] “-ơi”, [ɤ] và [ɐ] “-ây” ...............................................................................118

6.1.2. [ɐ] “-ân, -âng” , [ɐ] “-ông” và [o] “-ôn” .......................................................118

6.1.3. [ɐ] “-ât, -âc”, [ɐ] “-ôc” và [o] “-ôt”...............................................................119

Cũng như “-ân, -âng”, “-ông” và “-ôn”, trường độ giữa “-ât, -âc”, “-ôc”, “-ôt” cũng
có kết quả tương tự: nguyên âm trong “-ât, -âc” và “-ôc” có độ dài gần tương đương
nhau và ngắn hơn hẳn so với “-ôt”................................................................................119
6.1.4. [ɤ] và [ɐ] ...........................................................................................................120


6.1.5. “-anh, -ach”, “-ong, -oc” và [æ] [æ̆] ...............................................................122
6.1.6. [ɔ] “-on” và [æ̆] “-ong” ...................................................................................124


6.1.7. [ɔ] “-ot” và [æ̆] “-oc” ......................................................................................125
6.1.8. [ɯ] “-um” và [ɯ] “-ươm, -uôm”.....................................................................126
6.1.9. [ɯ] “-up” và [ɯ] “-ươp”.................................................................................127

6.2. Giải pháp âm vị học .................................................................................................128
6.2.1. Vấn đề âm sắc, trường độ và tư cách âm vị của các nguyên âm ......................128
6.2.2. Hệ thống nguyên âm trong tiếng Bình Định......................................................132

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 135
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 137


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
- Tiếng Việt là một ngôn ngữ có sự đa dạng về phương ngữ. Giữa các phương ngữ và
vùng phương ngữ thì sự khác biệt chủ yếu nhất và cũng dễ nhận thấy nhất là khác biệt về
mặt ngữ âm, kế sau đó mới là từ vựng, còn ngữ pháp thì hầu như không có gì khác biệt.
Ngay từ những công trình đầu tiên về phương ngữ học tiếng Việt của L. Cadière (1911), đặc
trưng ngữ âm của các phương ngữ đã là vấn đề nghiên cứu trọng tâm.
- Cadière chia tiếng Việt chia thành 3 vùng phương ngữ: Bắc, Trung, Nam. Phương ngữ
Nam tính từ phía nam Đà Nẵng cho đến hết Nam Bộ. Theo Hoàng Thị Châu (2004:96),
trong vùng phương ngữ Nam này lại có thể chia thành 3 nhóm phương ngữ: (1) Vùng
phương ngữ từ Quảng Nam đến Quảng Ngãi, (2) vùng phương ngữ từ Quy Nhơn đến Bình
Thuận, và (3) vùng phương ngữ Nam Bộ. Nếu như sự khác biệt về ngữ âm giữa phương ngữ
Nam với hai vùng phương ngữ còn lại chủ yếu nằm ở vấn đề thanh điệu và phụ âm thì tiêu
chí biệt ba nhóm phương ngữ trong Phương ngữ Nam lại là sự khác biệt về hệ thống nguyên

âm.
- Khi tìm hiểu các công trình nghiên cứu về nguyên âm tiếng Bình Định, chúng tôi nhận
thấy hướng nghiên cứu thực nghiệm về âm học chưa được chú ý. Phương pháp hay dùng để
miêu tả nguyên âm tiếng Bình Định là lắng nghe cách phát âm của người bản ngữ rồi ghi
chép lại. Khuyết điểm của việc nghiên cứu ngữ âm bằng cách này là nó thiếu tính chính xác
vì bị ảnh hưởng bởi các yếu tố chủ quan của nhà nghiên cứu. Trước tình hình đó, chúng tôi
nhận thấy rằng một nghiên cứu chuyên biệt về đặc trưng âm học của các nguyên âm trong
tiếng Bình Định là hết sức cần thiết.
- Việc nghiên cứu ngữ âm của một ngôn ngữ đòi hỏi nhiều thời gian để thu thập ngữ
liệu. Vốn sinh ra ở Bình Định và có nhiều người than sinh sống tại đây, người viết có nhiều
thuận lợi hơn trong việc lưu trú để thực hiện nghiên cứuu, cũng như có điều kiện để tiếp xúc
với các tư liệu viên.

2. Mục đích nghiên cứu
- Luận văn tập trung nghiên cứu các đặc trưng âm học của hệ thống nguyên âm tiếng
Bình Định. Trên cơ sở phân tích các bản ghi âm của các tư liệu viên nam và nữ, người viết
tiến hành xác định sự thay đổi về đặc trưng âm học của các nguyên âm trong tiếng Bình
Định so với tiếng Việt chuẩn và đưa ra hệ thống âm vị riêng cho tiếng Bình Định.


- Người viết hy vọng những kết quả nghiên cứu trong luận văn này có thể cung cấp nền
tảng ban đầu cho các nghiên cứu toàn diện hơn và sâu sắc hơn về tiếng địa phương Bình
Định nói riêng và tiếng địa phương khu vực duyên hải Nam Trung Bộ nói chung.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu đặc điểm âm học của các nguyên âm đóng vai trò âm
chính xuất hiện trong các từ đơn tiết. Một sự giới hạn như vậy nhằm bảo đảm tránh trường
hợp nguyên âm bị nhược hoá.
Các nguyên âm chủ yếu bị ảnh hưởng bởi phụ âm cuối, do đó các nguyên âm sẽ được
phân tích trong mối tương quan với các phụ âm sau nó.


4. Lịch sử vấn đề
Việc nghiên cứu ngữ âm của các phương ngữ tiếng Việt được thực hiện từ khá sớm.
Vào đầu thế kỷ XX, Léopod Cadière (1911) với Le dialecte du Bas-Annam - Esquisse de
phonétique (Phương ngữ Nam – Sơ thảo về ngữ âm) đã trình bày những đặc trưng ngữ âm
của các tiếng địa phương khu vực từ phía nam Đà Nẵng đến Nam Bộ.
Nửa thế kỷ sau, М. В. Гордина (1959) là người đầu tiên nghiên cứu nguyên âm tiếng
Việt bằng phương pháp thực nghiệm với công trình: Về vấn đề âm vị trong tiếng Việt (trên
cơ sở khảo sát thực nghiệm các nguyên âm) và hàng loạt công trình sau đó trên cứ liệu các
phương ngữ khác nhau của tiếng Việt. Kể từ sau Гордина, hướng nghiên cứu ngữ âm học
thực nghiệm được tiếp tục phát triển bởi các nhà nghiên cứu như Nguyễn Hàm Dương
(1963), Hoàng Cao Cương (1984), Nguyễn Văn Lợi & Edmonson (1997),…
Riêng về tiếng Bình Định, có thể kể đến các công trình như Vần tiếng Việt qua các
phương ngữ, thổ ngữ (vùng từ Bình Định đến Thuận Hải) của Phạm Hồng Thuỷ (1993),
Đan xen văn hoá qua ngôn ngữ ở huyện Vân Canh, tỉnh Bình Định của Nguyễn Xuân Hồng
(1998), Đặc điểm ngữ âm, từ vựng của tiếng Bình Định của Huỳnh Thị Hồng Hạnh
(2007),… Các công trình trên đã cung cấp một cơ sở khá đầy đủ về đặc điểm chung và phần
nào trình bày các vấn đề về âm vị học của tiếng Bình Định, tuy nhiên các tác giả chỉ nghiên
cứu ngữ âm tiếng Bình Định bằng phương pháp phiên âm ngữ âm học, tuyệt nhiên không có
công trình nào sử dụng phương pháp phân tích âm học (acoustic analysis of speech) để phân
tích các đặc trưng ngữ âm.

5. Phương pháp nghiên cứu


5.1. Quy trình thu thập ngữ liệu
- Khu vực nghiên cứu được chọn lấy mẫu gồm 02 huyện là huyện An Nhơn và huyện
Tuy Phước. Lý do chọn các khu vực này là vì (1) cách phát âm ở đây khá tiêu biểu cho tiếng
Bình Định, không quá đặc biệt như các huyện ven biển hoặc huyện đảo; và (2) việc tìm tư
liệu viên ở ba khu vực này cũng dễ hơn ở những khu vực. khác.

-

Tư liệu viên: Đề tài này phân tích các mẫu thu âm của 12 tư liệu viên, trong đó bao

gồm 5 nam và 7 nữ; 6 người đến từ huyện Tuy Phước và 6 người đến từ huyện An Nhơn.
-

Ngữ liệu: Để thực hiện các bản ghi âm, chúng tôi sử dụng một danh mục các từ phổ

biến trong đời sống hằng ngày, chứa các nguyên âm trong các bối cảnh khác nhau.
5.2. Phương pháp xử lý ngữ liệu
-

Luận văn sử dụng phương pháp phân tích ngữ âm học bằng phần mềm Praat Praat

(phiên bản 5.3.17) trên cơ sở xác định các formant F1, F2, F3.
-

Ngoài ra luận văn còn sử dụng các phương pháp của thống kê để xử lý bộ số liệu thu

được sau khi phân tích ngữ âm học.

6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn này được bố cục thành 06 chương như sau:
Chương 1: Trình bày cơ sở lý thuyết về tín hiệu âm thanh của nguyên âm (sóng âm,
cộng hưởng, hoạ âm, âm sắc, formant,…) làm cơ sở cho việc phân tích ngữ âm ở các
chương sau.
Chương 2: Trình bày một số vấn đề về âm vị học tiếng Bình Định. Trong chương này
chúng tôi trình bày những vấn đề âm vị đáng chú ý trong tiếng Bình Định và đưa ra một số
nghi vấn cần làm rõ. Những nghi vấn này sẽ được giải quyết bằng việc phân tích ngữ âm

học ở các chương 4, 5, 6 tiếp theo.
Chương 3: Trình bày quy trình và phương pháp thu thập và xử lý ngữ liệu. Chương
này mô tả các bước thu thập, phân loại và xử lý ngữ liệu như: chọn vùng nghiên cứu, chọn
tư liệu viên, thiết bị dùng để nghiên cứu, phương pháp phân loại ngữ liệu và xử lý ngữ liệu.
Chương 4, 5: Trình bày kết quả phân tích giá trị formant của nguyên âm đơn và
nguyên âm đôi để từ đó làm rõ sự thay đổi âm sắc của nguyên âm trong tiếng Bình Định.
Những thay đổi này dẫn đến sự tách/ nhập nhóm của các nguyên âm vốn là những âm khác
nhau trong tiếng Việt chuẩn; đồng thời thay đổi bối xuất hiện và phân bố của các nguyên âm
với phụ âm cuối.


Chương 6: Trình bày kết quả phân tích trường độ của các nguyên âm. Dựa vào các kết
quả này và các kết quả đã có ở chương 4, 5, luận văn đưa ra giải pháp âm vị học cho toàn bộ
hệ thống nguyên âm của tiếng Bình Định.


CHƯƠNG 1: TÍN HIỆU ÂM THANH CỦA NGUYÊN ÂM
1.1. Một số vấn đề về sóng âm
1.1.1. Sự hình thành của sóng âm
Khi ta gõ chiếc thìa vào chiếc cốc thuỷ tinh thì sẽ có một âm được tạo ra bởi sự va
chạm đó. Nguồn của âm là điểm va chạm giữa chiếc thìa và chiếc cốc, nơi tạo ra âm. Âm tại
nguồn âm có thể truyền đến tai người nghe là nhờ không khí. Bởi vì âm thanh thực chất là
các dao động cơ học của các phân tử, nguyên tử trong không khí và lan truyền như các sóng
từ nguồn âm, đập vào màng nhĩ làm rung màng nhĩ và truyền tín hiệu đến não bộ. Cụ thể
hơn, khi vật dao động chuyển động về một phía nào đó thì lớp không khí liền trước hướng
chuyển động của nó bị nén lại và lớp không khí liền sau nó giãn ra. Sự nén và giãn của các
lớp không khí này lặp đi lặp lại tuần hoàn và tạo ra trong không khí một sóng cơ học dọc có
tần số bằng tần số dao động của nguồn và sóng này truyền tới tai người. Khi truyền tới tai
người thì sóng này làm cho màng nhĩ dao động với tần số bằng tần số của sóng và gây ra
cảm giác âm. Tuy nhiên, không phải bất kì dao động nào trong không khí cũng là sóng âm.

Chẳng hạn, một chiếc quạt cũng có thể tạo ra dao động trong không khí nhưng dao động đó,
mặc dù vẫn được cảm nhận, tuyệt nhiên không phải là âm thanh (Peter Ladefoged 1996: 8).
Tiếng nói của con người chính là các sóng âm được tạo ra bởi hoạt động của cơ quan cấu
âm, mà trong đó đáng kể nhất là sự đóng mở của dây thanh. Dây thanh đóng tạo nên một áp
lực không khí từ phổi đưa lên, áp lực này được giải phóng khi dây thanh mở. Việc đóng mở
dây thanh liên tục tạo nên một nguồn dao động, chính là nguồn sóng âm của tiếng nói.
1.1.2. Cộng hưởng và họa âm
Mỗi nguồn âm đều là một thể rung động (moving body). Sự lan truyền rung động từ
thể này sang thể khác có thể làm nảy sinh hiện tượng cộng hưởng, theo đó âm thanh phát ra
sẽ được khuếch đại. Chẳng hạn, dây đàn kéo căng khi rung động có thể tạo ra âm thanh, tuy
nhiên âm thanh đó rất nhỏ nếu không có thùng đàn. Bởi vì với sự rung động nhỏ của dây
đàn, có rất ít phân tử không khí chuyển động quanh dây đàn. Trong khi đó nếu có thùng đàn
thì rung động của không khí do dao động của dây đàn gây ra sẽ lan truyền tới khối không
khí trong thùng đàn, làm cho dao động trở nên lớn hơn nhiều lần, theo đó, âm thanh cũng
lớn hơn nhiều lần. Hiện tượng như vậy gọi là cộng hưởng, thùng đàn gọi là hộp cộng hưởng.
Bên cạnh việc khuếch đại âm thanh thì hộp cộng hưởng còn có tác dụng tạo nên âm sắc của
âm, tức là nét đặc trưng phân biệt âm này với âm khác.


Đối với quá trình tạo tiếng nói thì khoang mũi và khoang miệng đóng vai trò hộp cộng
hưởng (gọi là “khoang cộng hưởng”). Sự thay đổi hình dáng và kích thước của khoang cộng
hưởng có thể ảnh hưởng đến âm sắc của âm, do đó khi phát âm các âm khác nhau thì kích
thước và hình dạng khoang miệng có thể thay đổi (nhờ vào sự kết hợp và thay đổi vị trí của
các bộ phận cấu âm bên trong như răng, lưỡi, môi, v.v.), khiến cho dao động phức tạp của
không khí thay đổi, từ đó tạo nên các âm khác nhau.
Một sóng âm, chẳng hạn như tiếng nói hoặc âm thanh của các nhạc cụ, được tạo ra bao
gồm nhiều sóng thành phần, trong đó có một sóng âm chính có tần số thấp nhất f0, gọi là âm
cơ bản, và nhiều hoạ âm (hay còn gọi là bội âm) có tần số cao hơn tần số cơ bản (là bội số
nguyên của tần số sóng âm chính). Các hoạ âm này chủ yếu phụ thuộc vào hình dạng và
kích thước của các khoang cộng hưởng tạo nên âm sắc của từng âm.

Đối với tiếng nói, âm cơ bản thể hiện cao độ thực chất khi âm được phát ra do sự rung
của dây thanh. Do đó, khi nghiên cứu thanh điệu, người ta chủ yếu dựa vào tần số của âm cơ
bản f0. Trong khi đó, các hoạ âm lại đóng vai trò đặc biệt với việc hình thành âm sắc, tức là
hình thành nên đặc trưng phân biệt các âm khác nhau.

1.2. Đặc trưng âm học của nguyên âm
1.2.1. Âm sắc của nguyên âm
Đối với một số âm (từ đây vấn đề “âm” được xét đến chỉ là âm trong tiếng nói) thì việc
mô tả ở phương diện cấu trúc âm học (acoustic structure) sẽ cho cái nhìn đầy đủ hơn mô tả
ở phương diện cấu âm (Peter Ladefoged 2001a: 6). Nguyên âm là một trong số những âm
như vậy. Theo truyền thống, người ta thường xác định nguyên âm căn cứ trên vị trí của lưỡi.
Tuy nhiên thực tế là rất khó để biết chính xác vị trí của lưỡi khi phát âm một nguyên âm nào
đó. Trên lý thuyết mà nói, một nguyên âm hàng cao hoàn toàn có thể được phát âm như một
nguyên âm hàng giữa và việc chuyển từ nguyên âm này sang nguyên âm kia là khá dễ dàng
vì nguyên âm là một thể liên tục (a continuum). Do đó, việc gọi một nguyên âm là “cao,
giữa, thấp” hay “trước, giữa, sau” thực ra là cách gọi trên phương diện thính giác học nhiều
hơn là trên phương diện cấu âm học (Peter Ladefoged 2001a: 85, 86).
Để mô tả nguyên âm thì vấn đề trọng yếu chính là xác định được cấu trúc âm học của
nó. Một âm bất kì được xác định bởi 3 yếu tố chính sau đây:
- Tần số: là tần số dao động của nguồn âm, liên quan đến độ cao của âm


- Cường độ: là năng lượng mà sóng âm tải qua trên một đơn vị diện tích, liên quan
đến độ to của âm
- Âm sắc
Đối với nguyên âm, chỉ có âm sắc mới là yếu tố quan trọng nhất. Hoàn toàn có thể
phát âm một nguyên âm ở nhiều độ cao (và độ to) và phát âm nhiều nguyên âm khác nhau ở
cùng một độ cao (và độ to). Bởi lẽ độ cao và âm sắc chịu sự chi phối bởi các cơ chế sinh lý
khác nh au. Cụ thể là, độ cao liên quan đến hoạt động của dây thanh (chủ yếu thể hiện qua
tần số của âm cơ bản), trong khi đó âm sắc lại liên quan đến các hoạ âm tạo nên bởi hình

dạng và kích thước khác nhau của bộ máy cấu âm. Những âm khác nhau ở âm sắc thì các
họa âm có biên độ khác nhau làm cho đồ thị dao động âm của các âm không giống nhau,
mặc dù độ cao và độ to của chúng có thể như nhau.
1.2.2. Formant
Như đã nói ở trên, âm sắc của các nguyên âm phụ thuộc vào cấu trúc các hoạ âm do sự
cộng hưởng của cơ quan cấu âm. Vì thế một trong những cách tốt nhất để mô tả nguyên âm
là xác định tần số của các hoạ âm – các formant – mà quan trọng nhất là ba formant đầu
tiên. Formant đầu tiên là formant có tần số thấp nhất, kí hiệu là F1, kế đến là formant F2 cao
hơn và cuối cùng là F3 cao hơn nữa. Ngoài ra, còn có các formant cao hơn nhưng những
formant này không nhiều giá trị về mặt ngôn ngữ học vì nó chỉ liên quan chủ yếu đến
“giọng” riêng của từng người nói chứ không tiêu biểu cho âm sắc đặc trưng của các nguyên
âm khác nhau. Trong các ngôn ngữ có số lượng nguyên âm lớn thì ngoài formant, độ dài
cũng là yếu tố dùng để khu biệt các nguyên âm.
Các formant sẽ có giá trị nhất định tương ứng với mỗi hình dạng kích thước của bộ máy
cấu âm. Hình dạng và kích thước đó có thể được thay đổi thông qua việc dịch chuyển vị trí
của lưỡi, ngạc mềm và hình dạng môi. Các phổ (spectrogram) sau đây cho thấy formant của
các nguyên âm trong các từ “bê, be, bư, bơ, ba, bu, bô, bo” do tác giả phát âm:


Hình 1.1. Phổ của từ “bê”

Hình 1.2. Phổ của từ “be”

Hình 1.3. Phổ của từ “bơ”


Hình 1.4. Phổ của từ “ba”

Hình 1.5. Phổ của từ “bư”


Hình 1.6. Phổ của từ “bu”


Hình 1.7. Phổ của từ “bô”

Hình 1.8. Phổ của từ “bo”

Giá trị formant F1, F2 của nguyên âm trong các từ trên lần lượt là:


Be





Ba

Bu



Bo

F1

1250

640


590

870

1340

600

650

1040

F2

2020

2960

1370

1490

2230

900

880

1330


Sơ đồ nguyên âm (vowel chart) dựa trên các giá trị F1, F2 này như sau:


F2

3500

"be"

3000
2500
2000
1000

"bu"

500

0

"bơ"

"bư"

1500

0

200


400

"bê"
"bo"

"bô"
600

800

"ba"

1000

1200

1400

1600
F1

Hình 1.9a. Sơ đồ các nguyên âm trong “bê, be, bư, bơ, ba, bu, bô, bo”

Nếu ta đảo các trục F1, F2, sơ đồ trên sẽ thành:
3500

3000

2500


2000

1500

1000

500

0

0

200


be

400



800

ba

1200



600




1000

bu

1400

bo

1600

Hình 1.9b. Sơ đồ các nguyên âm trong “bê, be, bư, bơ, ba, bu, bô, bo”

Ta thấy, có sự tương quan nhất định giữa F1, F2 và vị trí của nguyên âm. Nguyên âm
hàng trước như [i], [e], [ɛ], [a] có F2 cao hơn các nguyên âm hàng sau [u], [o], [ɔ]. Trong
khi đó, các nguyên âm có độ nâng lưỡi cao như [i], [ɯ], [u] có F1 thấp hơn hẳn các nguyên
âm có độ nâng lưỡi thấp như [a]. Nói cách khác, khi lưỡi nâng lên cao thì giá trị của formant
F1 sẽ giảm; lưỡi đưa về trước thì giá trị formant F2 sẽ tăng.


F2

0

F1
Hình 1.10. Hình thang nguyên âm biểu diễn quan hệ của các nguyên âm với giá trị F1, F2

Tuy nhiên, có những trường hợp mà F1 và F2 vẫn chưa đủ để phân biệt các nguyên âm,

đặc biệt là đối với các nguyên âm tròn môi hoặc các nguyên âm “r hoá” như trong tiếng Anh
Mỹ. Khi đó, formant F3 đóng vai trò rất quan trọng.
Giá trị formant không chỉ phụ thuộc vào vị trí của lưỡi khi cấu âm nguyên âm mà còn
phụ thuộc vào giới tính. Nam giới có cơ quan cấu âm lớn hơn của nữ giới, do đó rung động
chậm hơn, đồng nghĩa với việc tần số formant thấp hơn. Tuy nhiên, mô hình các nguyên âm
ở cả nam và nữ đều giống nhau, chỉ có giá trị tuyệt đối là khác nhau.


CHƯƠNG 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ HỆ THỐNG ÂM VỊ TIẾNG
BÌNH ĐỊNH
Hiện nay chưa có công trình chuyên biệt nào về âm vị học nghiên cứu phương ngữ Bình
Định. Chính vì vậy, hệ thống âm vị vùng này vẫn chưa được xây dựng một cách đầy đủ.
Những hiểu biết về âm vị tiếng Bình Định chủ yếu được mô tả một cách chung chung trong
các công trình nghiên cứu về phương ngữ Nam. Bên cạnh những đặc điểm phổ biến cho cả
vùng phương ngữ này như sự biến mất của âm đệm [-w], sự biến đổi của cặp âm cuối [ŋ],
[k]; hệ thống âm vị tiếng Bình Định có những điểm khác biệt rất đáng chú ý nhưng chưa
được lưu tâm tới, chẳng hạn như sự biến đổi hoàn toàn của nguyên âm hàng trước [e], sự
nhập một của ba nguyên âm [ɤ], [o] và [ɔ] thành [o] trong một số bối cảnh ngữ âm nhất
định, sự tỉnh lược yếu tố thứ hai và âm cuối trong kết hợp của nguyên âm đôi [ɯɤ] với bán
âm cuối [j], v.v. Dựa vào các công trình nghiên cứu về ngữ âm phương ngữ Nam và phương
ngữ Nam Trung Bộ, chúng tôi bổ sung thêm một số đặc điểm đáng chú ý khác của phương
ngữ Bình Định và bước đầu xây dựng một cách khái quát hệ thống âm vị của tiếng Bình
Định làm cơ sở cho các chương tiếp theo.

2.1. Cấu trúc âm tiết tiếng Bình Định
Cấu trúc âm tiết lý tưởng của tiếng Việt gồm có hai bậc, với sáu bộ phận, được tóm tắt
như sau:
Thanh điệu
Âm đầu


Vần
Âm đệm

Âm chính

Âm cuối

Tuy nhiên, sơ đồ âm tiết lý tưởng của tiếng Việt như trên chỉ phản ánh đúng cấu trúc
âm tiết trong phương ngữ Bắc và phương ngữ Trung. Ở phương ngữ Nam, trong đó có tiếng
Bình Định, sơ đồ âm tiết tiếng Việt đơn giản hơn, trong đó phần vần chỉ gồm hai bộ phận là
âm chính và âm cuối. Âm đệm [-w-] không tồn tại trong cấu trúc âm tiết ở vùng này.
Thanh điệu
Âm đầu

Vần
Âm chính

Âm cuối


Cụ thể là, các âm tiết có âm đệm ở phương ngữ Bắc và Trung ở Bình Định được phát
âm theo hai xu hướng:
- Xu hướng thứ nhất là triệt tiêu hoàn toàn âm đệm, các thành phần còn lại của âm
tiết giữ nguyên.
- Xu hướng thứ hai là triệt tiêu âm đệm, nhưng sự triệt tiêu này gây ra ảnh hưởng đến
các thành phần còn lại của âm tiết, cụ thể là âm đầu và âm chính, tạo nên những âm đầu và
âm chính khác so với âm tiết gốc ở phương ngữ Bắc và Trung (Hoàng Thị Châu 2004: 121124).
Xu hướng thứ nhất chiếm đa số trong các trường hợp phát âm âm tiết vốn có âm
đệm. Chẳng hạn, âm tiết “xoăn” [swăn1] được phát âm thành “xăn” [săn1], “tuyển” [twiɤn4]
phát âm thành “tiển” [tiɤn4], “loè loẹt” [lwɛ2 lwɛt6] thành “lè lẹt” [lɛ2 lɛt6].

Xu hướng thứ hai xảy ra khi phụ âm đầu là âm mạc và ngạc; hoặc âm chính là [a]
hoặc [ɤ̆ ].
Trong những trường hợp phụ âm đầu là các âm mạc và ngạc [k, ŋ, ɣ, χ,h] thì âm đệm

gây ra sự biến đổi âm đầu theo hai cách (Hoàng Thị Châu 2004: 121):

- Cách thứ nhất là đồng hoá hoàn toàn phụ âm đầu để tạo ra phụ âm đầu mới là [w-].
Sự xuất hiện của [w-] với tư cách âm đầu chỉ có thể tìm thấy trong vùng phương ngữ Nam
mà thôi. Chẳng hạn, “hoa” [hwa1] được đọc thành [wa1], “qua” [kwa1] đọc thành [wa1],
“nguậy” (trong “ngọ nguậy”) [ŋwɤ̆ j6] đọc thành [wɤ̆ j6].
- Cách thứ hai là đồng hoá bộ phận, nghĩa là “phụ âm bị môi hoá, những tính chất
khác được giữ lại”. Hoàng Thị Châu đưa ra hai trường hợp cho hiện tượng âm đầu bị đồng
hoá bộ phận: [χ] chuyển thành [f] (“khoai lang” đọc thành “phai lang”), và [ɣ] chuyển thành
[v] rồi sau đó thành [j] (“bà goá” đọc thành “bà dá”). Cũng theo Hoàng Thị Châu, âm đệm
còn gây ảnh hưởng đến âm chính bằng cách đồng hoá nguyên âm [a] theo sau nó và thay đổi
âm chính trong kết hợp với [ɤ̆ ]. Cụ thể là: “toàn” [twan2] được đọc thành [tɔ:n2], “tuần”
[twɤ̆ n2] được đọc thành [tɯŋ2].
Tuy nhiên, những nhận định trên đây chưa hoàn toàn chính xác cũng như chưa đủ chi
tiết và cụ thể để có thể giúp chúng ta hình dung về cách xử lý âm đệm trong tiếng Bình
Định. Theo quan sát của chúng tôi, ở Bình Định có các hiện tượng sau đây:
1. Trong tiếng Bình Định, xu hướng sự triệt tiêu âm đệm mà vẫn giữ nguyên các
thành phần còn lại có thể xảy ra thậm chí đối với âm tiết có âm đầu là âm hầu [h]. Điều này
phân biệt phương ngữ Bình Định với các phương ngữ khác. Cụ thể là, đối với âm đầu là âm


[h], không có lý do rõ ràng cho việc chọn lựa đồng hoá hoàn toàn âm đầu thành [w] hay triệt
tiêu âm đệm. “Huyện” [hwi͜ɤn6] có thể được phát âm theo cả hai cách: [hi͜ɤn6] và [wi͜ɤn6],
“hoay” [hway1] được phát âm thành [hăj1] hoặc [wăj1], “hoe” [hwɛ1] phát âm thành [wɛ1]

hay [hɛ1] đều được.

2. Đối với trường hợp âm đệm kết hợp với âm chính là [a] mà âm đầu không phải là
âm mạc, xu hướng đồng hoá nguyên âm mặc dù chiếm đa số nhưng bên cạnh đó vẫn xuất
hiện xu hướng triệt tiêu âm đệm. Chẳng hạn, “soạn” [ʂwan6] được đọc là [ʂɔ:n6], nhưng vẫn
có người đọc là [ʂan6].
3. Đối với trường hợp âm đầu là zero, âm chính là [a] thì mặc dù xu hướng đồng hoá
nguyên âm nổi trội hơn, vẫn có trường hợp âm đầu zero bị chuyển thành âm [w-]. Nghĩa là
“oán” ngoài cách phát âm phổ biến [ɔ:n5] vẫn có cách phát âm [wan5]. Trong khi đó, ở Nam
Bộ, cách phát âm chủ đạo lại là [wan5].
4. Các âm tiết bắt đầu bằng âm [χ] và âm chính là [a], như “khoai”, ở Bình Định,
được phát âm theo cả hai cách: đồng hoá âm [χ] thành [f] (thành [faj1]) và giữ lại âm [χ]
nhưng đồng hoá nguyên âm (thành [χɔ:j1]). Theo quan sát của chúng tôi và nhận xét của
nhiều người địa phương, ở Bình Định hiện nay, cách đọc chuyển “kh” thành “ph” chủ yếu
gặp ở người già và các vùng kém phát triển hơn của tỉnh. Đa số các tư liệu viên mà chúng
tôi tiếp xúc đều đọc theo cách thứ hai, tức là đồng hoá nguyên âm [a]. Cách đọc thứ hai này
không tìm thấy ở Nam Bộ.
Từ ba trường hợp vừa nêu ở trên, chúng tôi cho rằng trong những âm tiết có âm
chính là [a], tiếng Bình Định có xu hướng xử lý âm đệm bằng cách đồng hoá nguyên âm [a]
hơn là triệt tiêu hẳn âm đệm hoặc đồng hoá phụ âm đầu như ở Nam Bộ. Đây là một trong
những đặc trưng hết sức đáng chú ý.

2.2. Hệ thống âm đầu tiếng Bình Định
Trong bảng phụ âm đầu của tiếng Việt chuẩn (chủ yếu dựa theo cách phát âm của Hà
Nội), âm [z] bao gồm cả phụ âm đầu trong các âm tiết “da” (trong “da thịt”), “gia” (trong
“gia đình”). Cách phát âm “da” [ja1] như ở phương ngữ Nam không tồn tại trong cách phát
âm ở phương ngữ Bắc. Ở vùng phương ngữ Nam, âm [z] được nhất loạt đổi thành [j]. Nói
cách khác, hệ thống âm vị của phương ngữ Nam thay thế âm [z] thành [j]. Ngoài ra, sự phân
biệt giữa [v] và [j] cũng mất đi. Do đó các từ “già”, “dà”, “và” được đọc giống nhau, thành
[ja2] (Hoàng Thị Châu 2004: 148). Ngoài đặc điểm trên, âm đầu trong tiếng Bình Định còn
mang một đặc điểm khác nữa của khu vực Nam Trung Bộ, hoàn toàn khác với các phương



ngữ khu vực Nam Bộ và Bắc Bộ. Đó là nó giữ được tính chất quặt lưỡi của hai phụ âm [t]
và [ʂ] như ở các phương ngữ Trung (Hoàng Thị Châu 2004: 150). Ở phương ngữ Bắc Bộ và
Nam Bộ, “tre” và “che” “sao” và “xao” đọc giống nhau, do đó trên thực tế, ở hai vùng này,
2 âm vị [ʈ] và [c[, [s] và [ʂ] nhập làm một. Trong khi đó, người Bình Định phân biệt rất rõ
“tre” [ ʈɛ1] và “che” [cɛ1], “sao” [ʂaw1] và “xao” [saw1]. Ngoài ra, ở Bình Định, phụ âm [ʐ]

được phát âm giữ tính chất rung chứ không chuyển thành [ɣ] như một số vùng ở Nam Bộ
(“rổ rá” đọc thành “gổ gá”), hay thành [z] như ở Bắc Bộ (“rổ rá” đọc thành “giổ giá”).
Ngoài ra, trong hệ thống âm đầu tiếng Bình Định còn có thêm một bán âm là [w] xuất hiện
trong những trường hợp âm đệm đồng hoá phụ âm đầu như đã trình bày ở phần trên. Theo
đó, trong hệ thống âm đầu phương ngữ này sẽ có thêm hai bán âm là [w] và [j] nhưng lại
mất đi hai âm [v] và [z].
Như vậy, hệ thống âm đầu của tiếng Bình Định sẽ bao gồm các âm như sau:
Bảng 2.1. Hệ thống âm đầu trong tiếng Bình Định

Điểm cấu âm

Môi

Bật hơi

Tắc

Không bật

thanh

hơi


Hữu

Xát

Cuối

Thanh

Thẳng Cong

lưỡi

lưỡi

hầu

t

b

d

Vang

m

n

Vô thanh


f

s

thanh

Ồn

Mặt




Ồn

Đầu lưỡi

Hữu thanh
Vang
Bán nguyên âm

l
w

ʈ

ʂ

c


k

ɲ

ŋ

ʐ

χ

h

ɣ
j

2.3. Hệ thống âm cuối tiếng Bình Định
So với hệ thống 8 âm cuối trong phương ngữ Bắc thì hệ thống âm cuối của tiếng Bình
Định chủ yếu khác biệt ở hai cặp âm [n] - [t] (biểu hiện trên chữ viết là “n” và “t”) và [ŋ] [k] (biểu hiện trên chữ viết là “nh, ng” và “c, ch”).
Trước hết, chúng ta hãy xem xét cặp phụ âm [ŋ] - [k] trong phương ngữ Bắc khi được
phát âm bởi ngưởi Bình Định. Bảng sau đây cho thấy sự khác biệt trong cách phát âm của


tiếng Bình Định so với phương ngữ Bắc và phương ngữ Nam Bộ khi kết hợp với 3 nguyên
âm đơn hàng trước:
Phương ngữ Bắc

Tiếng Bình Định

Phương ngữ Nam Bộ


Banh [bɛŋ1]

[băn1]

[băn1]

Binh [biŋ1]

[bɪn1]

[bɪn1]

Bênh [beŋ1]

[bɤn1]

[bɤn1]

Bạch [bɛk6]

[băt6]

[băt6]

Bích [bik6]

[ bɪt6]

[ bɪt6]


Bệch [bek6]

[bɤt6]

[bɤt6]

Như vậy, trong trường hợp kết hợp với âm chính là các nguyên âm hàng trước [i, ɛ,

e] thì phụ âm cuối [ŋ] và [k] bị chuyển thành [n], [t] đồng thời với việc dịch chuyển nguyên

âm vào hàng giữa. Như vậy, sự biến mất của kết hợp [i, e, ɛ] với [ŋ] và [k] trong tiếng Bình
Định dẫn đến sự biến mất của một biến thể [ŋ’] và [k’] ngạc hoá vốn có trong tiếng Việt
chuẩn.
Các âm tiết được phát âm với âm cuối [ŋ] và [k] trong tiếng Bình Định còn bao gồm
cả các âm tiết mà trong phương ngữ Bắc được phát âm với âm cuối [n], [t]. Sau đây là tình
hình biến đổi của cặp [n], [t] trong phương ngữ Bắc khi được người Bình Định phát âm:
Phương ngữ Bắc

Tiếng Bình Định

Phương ngữ Nam Bộ

Mịn [min6]

[min6]

[mɪn6]

Men [mɛn1]


[mɛŋ1]

[mɛŋ1]

Mến [men5]

[mɤn5]

[mɤn1]

Bít [bit5]

[bit5]

[bɪk5]

Bét [bɛt5]

[bɛk5]

[bɛk5]

Bết [bet5]

[bɤt5]

[bɤt5]

Ở phương ngữ Nam Bộ, rõ ràng cặp âm cuối [n], [t] chỉ giữ được trong trường hợp
kết hợp với hai nguyên âm hàng trước [i] và [e], mặc dù hai nguyên âm đó cũng có sự thay

đổi. Tất cả những trường hợp còn lại [n], [t] đều nhất loạt chuyển thành [ŋ], [k]. Do đó chỉ
có trong tiếng Bình Định và các phương ngữ thuộc nhóm phương ngữ Nam khác, [ɤ] mới
có thể đi với [ŋ] (“mơn trớn” [mɤn1 ʈɤn5] đọc thành “mơng trớng” [mɤŋ 1 ʈɤŋ 5]).

Như vậy, ta có quy trình hình thành hai cặp âm [n], [t] và [ŋ], [k] trong tiếng Bình

Định như sau:


×