Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Báo cáo cải cách hệ thống rd việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (958.06 KB, 116 trang )

BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
VIỆN NGHIÊN CỨU CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH KH&CN

BÁO CÁO CẢI CÁCH HỆ THỐNG R&D
VIỆT NAM

HÀ NỘI, 2000


LỜI MỞ ĐẦU
Quá trình hình thành và phát triển hệ thống tổ chức nghiên cứu và phát triển ở
Việt Nam là quá trình gắn liền với lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt
Nam. Chúng ta có thể chia quá trình phát triển đó thành 2 thời kỳ như sau.
- Thời kỳ trước năm 1945 - Việt Nam trải qua nhiều triều đại phong kiến với
nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu và liên tục chống lại quân xâm lược phong kiến
phương Bắc và ách đô hộ của thực dân Pháp. Trong sự nghiệp của dân tộc đã xuất
hiện nhiều danh nhân văn hoá, khoa học ..., dưới danh nghĩa cá nhân họ đã khái quát
và tổng kết thành nhiều công trình về văn hoá, sử học, địa lý, y dược, nông nghiệp,
ngôn ngữ v.v... rất có giá trị và lưu truyền cho đến ngày nay. Tuy vậy, mãi đến khi
người Pháp đến Việt Nam thì các tổ chức nghiên cứu và phát triển mới được hình
thành. Các tổ chức này đều do người Pháp đầu tư xây dựng và chủ trì mọi hoạt động
theo ý đồ của họ đối với Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng. Với các tổ
chức nghiên cứu và phát triển thời đó mang tính chất điều tra, thăm dò và nghiên cứu
các dạng tài nguyên, các đặc trưng của khí hậu và các bệnh tật của vùng nhiệt đới.
- Thời kỳ sau năm 1945, sau khi thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà, Chính phủ Việt Nam tiếp quản các cơ sở nghiên cứu và phát triển của chế độ cũ
để lại, và bắt đầu từ đó xây dựng cho mình một hệ thống tổ chức nghiên cứu và phát
triển. Hệ thống tổ chức nghiên cứu và phát triển được hình thành và phát triển trong
hoàn cảnh đất nước trải qua nhiều biến cố lịch sử: chiến tranh chống thực dân Pháp
và xâm lược Mỹ kéo dài trong 30 năm, đất nước tạm chia làm hai miền. Sau ngày
hoà bình và thống nhất, bước vào công cuộc dựng xây đất nước với rất nhiều khó


khăn, cuộc bao vây cấm vận của Mỹ kéo dài, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa tan
rã. Đứng trước những biến đổi lớn lao của đất nước và sự phát triển phù hợp các
nước trong khu vực chúng ta đã chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang
nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Cho đến nay, hệ thống tổ chức nghiên cứu và phát triển của Việt Nam được
hình thành và phát triển trên một bình diện theo năm lĩnh vực khoa học (khoa học tự
nhiên, khoa học kỹ thuật, khoa học nông nghiệp, khoa học y dược, khoa học xã hội
và nhân văn). Về phương diện cơ cấu của hệ thống có phần hợp lý đảm bảo khả năng
phân công và hiệp tác trong hoạt động nghiên cứu và phát triển. Trong vòng 55 năm
qua, hệ thống có một số lượng thành viên khá lớn, trong lúc đó khả năng đầu tư của
Nhà nước cho hệ thống còn hạn chế, do đó hiệu quả hoạt động của hệ thống vẫn còn
thấp. Cơ sở vật chất - kỹ thuật của hệ thống nghèo nàn và lạc hậu không đủ điều kiện
để đáp ứng nhu cầu nghiên cứu phục vụ công cuộc đổi mới của đất nước. Sự phân bố
của hệ thống quá chênh lệch giữa các vùng và lãnh thổ, hiện tượng này tạo ra sự mất
cân đối trong việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ theo
vùng và lãnh thổ.
2


Trong nhiều năm qua, Chính phủ đã tiến hành nhiều đợt sắp xếp và kiện toàn
hệ thống tổ chức nghiên cứu và phát triển, song các giải pháp thực hiện thiếu đồng bộ
giữa các lĩnh vực, do đó kết quả mang lại rất hạn chế. Ngày nay, công cuộc đổi mới
toàn diện đang diễn ra trên đất nước, việc chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập
trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, sự cần thiết phải
tiến hành cải cách hệ thống tổ chức nghiên cứu và phát triển cho phù hợp với điều
kiện mới. Trong bối cảnh thị trường, Nhà nước tạo dựng hành lang pháp luật để cho
các thành viên của hệ thống nghiên cứu và phát triển độc lập, tự chủ vận động để
chứng minh sự tồn tại trong thực tế hoạt động. Ngân sách Nhà nước tập trung đầu tư
cho những nhiệm vụ khoa học và công nghệ thuộc tầm vĩ mô và phục vụ cho cộng
đồng xã hội mà thị trường không có khả nằng đảm nhận. Các hoạt động khoa học và

công nghệ khác, các thành viên của hệ thống phải chịu sự điều tiết của cơ chế thị
trường, từ đó trong hoạt động của các tổ chức nghiên cứu và phát triển đều xuất phát
từ nhu cầu của thị trường đặt ra, và nguồn đảm bảo chính về lợi ích của tổ chức
nghiên cứu và phát triển là từ nhu cầu của thị trường.
Quá trình triển khai thực hiện chuyên đề “Cải cách hệ thống tổ chức nghiên
cứu và phát triển trong bối cảnh chuyển sang kinh tế thị trường" người chủ trì chuyên
đề nhận được sự cộng tác đầy nhiệt tình và có hiệu quả của cố giáo sư, Tiến sĩ Hồ
Quý Đạo về “hệ thống nghiên cứu và phát triển trong công nghiệp”, của Tiến sĩ
Trương Đình Kháng và Tiến sĩ Lê Thành Ý về “hệ thống nghiên cứu và phát triển
trong nông nghiệp”, của Tiến sĩ An Khang về “hệ thống nghiên cứu và phát triển Việt
Nam”, của chuyên viên cao cấp Lê Tâm Phát về “tổ chức khảo sát thực tế các tổ chức
nghiên cứu và phát triển thuộc Trung tâm Khoa học Tự nhiên và Công nghệ quốc
gia”.
Nhân dịp này, người chủ trì chuyên đề xin chân thành cảm ơn sự cộng tác nói
trên và sự tham gia Hội thảo khoa học của các đồng nghiệp trong Viện Nghiên cứu
Chiến lược và Chính sách khoa học và công nghệ.!

3


PHẦN THỨ I

TỔNG QUAN VỀ HỆ THỐNG TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU
VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC NƯỚC
Trong nửa cuối thế kỷ XX, loài người đã và đang chứng kiến sự phát triển rực
rỡ của khoa học với nhiều thành tựu phong phú và kỳ diệu. Nhiều phát minh khoa
học trên nhiều lĩnh vực đã phát hiện được sâu sắc các quy luật vận động cuả vật chất
trong tận cùng cấu trúc của chúng. Khoa học càng phát triển thì các kỹ thuật tiên tiến,
công nghệ mới được sáng tạo ra càng mang tính chất cách mạng đối với sản xuất và
đời sống của con người. Khoa học trở thành động lực thúc đẩy sản xuất phát triển,

nâng cao năng suất lao động, tạo tiền đề và điều kiện khách quan cho mọi đổi mới tư
duy, đổi mới mọi mặt đời sống xã hội.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ mang lại nhiều thành quả chung cho
nhân loại, song mỗi quốc gia có cách tiếp cận khác nhau. Ở các nước phát triển từ
việc tổ chức nghiên cứu và phát triển đến việc đầu tư đã tranh thủ mọi thời cơ và khả
năng ứng dụng nhanh chóng những thành quả đó và đã chuyển mạnh nền kinh tế
sang phát triển theo chiều sâu và tạo được năng lực đạt tới những tiến bộ lớn về phát
triển lực lượng sản xuất và nâng cao đời sống cho xã hội, đồng thời tạo điều kiện
vững chắc để chuyển dần xã hội sang thời kỳ hậu công nghiệp. Trong lúc đó ở các
nước đang phát triển thì khả năng đầu tư cho khoa học và công nghệ có hạn, tổ chức
nghiên cứu và phát triển không đủ điều kiện đảm bảo cho việc nghiên cứu, tiếp thu
và chuyển đổi các thành quả đó thành hiện thực phục vụ phát triển kinh tế và xã hội.
Trong hệ thống tổ chức khoa học và công nghệ của mỗi quốc gia thì hệ thống
tổ chức nghiên cứu và phát triển giữ vai trò quan trọng quyết định sự sáng tạo ra của
cải vật chất cho xã hội. Trong phạm vi của chuyên đề, chúng tôi xin giới thiệu về hệ
thống tổ chức nghiên cứu và phát triển của một số nước để có thêm tư liệu khi nghiên
cứu cải cách hệ thống tổ chức nghiên cứu và phát triển ở Việt Nam.
I. CỘNG HOÀ LIÊN BANG ĐỨC
Cộng hoà Liên bang Đức là một nước có nền công nghiệp phát triển đã hình
thành và phát triển một hệ thống tổ chức nghiên cứu và phát triển với nhiều loại hình
và hoạt động trong nền kinh tế thị trường thông qua các quy định của pháp luật chặt
chẽ.
1. Các Viện Hàn lâm khoa học
Theo truyền thống lịch sử, ở Cộng hoà Liên Bang Đức, phần lớn các Viện Hàn
lâm được thành lập là do sáng kiến của các nhà khoa học và được các Hoàng tử theo
vùng lãnh thổ quyết định và được Nhà nước bảo trợ. Viện Hàn lâm thực hiện nhiệm
4


vụ phát triển khoa học và tri thức nói chung. Trong hoạt động, các Viện Hàn lâm đều

có thành lập các phòng thí nghiệm và các Viện trực thuộc. Ở thế kỷ XIX và XX các
Viện Hàn lâm đã đóng góp nhiệm vụ quan trọng là thông qua công tác kế hoạch hoá,
cấp phát tài chính và chỉ đạo các đề án lớn về khoa học.
Do phát triển nghiên cứu trong các trường đại học và thành lập các hiệp hội
nghiên cứu do đó khi bước sang thế kỷ XX vai trò của các Viện Hàn lâm thay đổi cơ
bản: việc nghiên cứu khoa học của các Viện Hàn lâm không còn đại diện duy nhất
như trước đây mà tự giới hạn mình trong thành lập các nhóm nghiên cứu theo các đề
án đặc biệt.
Sau đại chiến thế giới thứ II, Các Viện Hàn lâm chịu ảnh hưởng rất lớn về
chính trị và xã hội, các Viện Hàn lâm đã thành lập riêng một Hiệp hội gọi tên Cộng
đồng lao động các Viện Hàn lâm. Hiện nay các Viện Hàn lâm là cơ quan khoa học
với số lượng hạn chế các thành viên và chức năng được xác định là các đề án nghiên
cứu tự đề xướng hoặc đỡ đầu. Mỗi Viện Hàn lâm có tổ chức khác nhau, các Viện tự
cấp tài chính cho các công trình nghiên cứu của riêng mình và hỗ trợ một phần cho
các đề án của các thành viên.
2. Các Hiệp hội khoa học và hỗ trợ khoa học
Ở Cộng hoà Liên bang Đức có trên 500 hiệp hội trong lĩnh vực khoa học, nhân
văn và công nghệ với quy mô khác nhau. Dưới đây chúng tôi giới thiệu một số hiệp
hội:
2.1. Hội nghiên cứu Đức (DFG)
Năm 1920 Hội cứu trợ Đức được thành lập với sự sáng lập của 40 trường đại
học và các Viện Hàn lâm. Hội tiến hành tổ chức nghiên cứu tập trung dựa trên
nguyên tắc tự trị khoa học. Năm 1930 Hội đổi tên thành Hội nghiên cứu Đức. Sau
chiến tranh thế giới thứ II, Hội này được tái lập và lấy tên Hội cứu trợ Đức, nguồn tài
chính của Hội do khu vực công cộng cung cấp. Năm 1949 ba Viện Hàn lâm
Goettingen, Heidelberg và Muenchen cùng với Hội Max Plank thành lập Hội đồng
nghiên cứu Đức. Năm 1961 Hội cứu trợ và Hội đồng nghiên cứu Đức kết hợp với
nhau thành một tổ chức và trở lại tên cũ là Hội nghiên cứu Đức.
2.2. Hội hỗ trợ phát triển khoa học Max Plank
Hội thành lập năm 1911 với các Viện nghiên cứu đặc biệt của lĩnh vực khoa

học tự nhiên, nơi tập trung các nhà khoa học lỗi lạc của Đức chuyên về nghiên cứu
khoa học, mà không tham gia giảng dạy, Hội được tự do quyết định các mục tiêu và
các đề án nghiên cứu của riêng mình. Hội cung cấp cho các nhà khoa học có trình độ
cao các thiết bị khoa học cần thiết và tạo cho họ điều kiện để tập trung nghiên cứu
khoa học. Vì vậy nhiều kết quả khoa học tạo ra đạt giải thưởng Nobel (1/2 số giải
thưởng Nobel của người Đức thuộc người của Hội).
5


Hiện nay, Hội có tới 64 Viện và 31 tổ nghiên cứu trực thuộc và 34 tổ nghiên
cứu đặt bên cạnh các trường đại học tổng hợp. Các Viện tiến hành nghiên cứu cơ bản
theo các hướng lựa chọn của lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân
văn.
Hội Max Plank là một tổ chức tự quản, nguồn tài chính của Hội ban đầu do
các hãng tư nhân cung cấp, nay hội được ngân sách Nhà nước cấp (50% liên bang,
50% bang) theo các đề tài Nhà nước.
2.3. Hiệp hội Fraunhofer
Hiệp hội bao gồm khoảng 60 viện, hoạt động trong các lĩnh vực công nghệ
mới và được triển khai trong nhiều ngành sản xuất công nghiệp, cụ thể: điện tử, tin
học, tự động hoá, sản xuất, công nghệ chế biến, vật liệu, kỹ thuật năng lượng và xây
dựng, môi trường, bảo vệ sức khoẻ, xử lý thông tin v.v...
Các Viện hoạt động thông qua các hợp đồng kinh tế với các cơ sở kinh tế,
doanh nghiệp vừa và nhỏ, cơ quan nhà nước, các tổ chức nghiên cứu về quân sự, các
dịch vụ khoa học công nghệ v.v...
Thông qua hình thức hoạt động của các Viện có thể chia ra:
- Các Viện chuyên làm nghiên cứu theo hợp đồng phải tự chịu kinh phí 70%,
được Nhà nước cấp 30% (90% từ ngân sách Liên bang thông qua Bộ khoa học công
nghệ và 10% từ các bang).
- Các Viện chuyên phục vụ quốc phòng được cấp kinh phí 100% từ Liên bang,
thông qua Bộ Quốc phòng.

- Các Viện chuyên thực hiện các dịch vụ khoa học và công nghệ tự trang trải
25%, được Nhà nước cấp 75% (90% từ Liên bang thông qua Bộ KHCN, 10% từ các
bang).
3. Các Viện nghiên cứu Nhà nước trực thuộc Bộ
Là một loại hình Viện chuyên nghiên cứu những nhiệm vụ phục vụ trực tiếp
cho các Bộ, ngành dưới dạng hỗ trợ các hoạt động sự nghiệp. Các Viện loại này kinh
phí hoạt động được cấp từ ngân sách Liên bang. Hiện nay ở 16 Bộ ngành có tới 56
Viện với khoảng 18000 người đang làm việc.
4. Các Viện chung giữa Liên bang và bang

6


Các Viện dạng này được thành lập theo hiệp ước thoả thuận giữa Liên bang và
các bang. Hoạt động của các viện này mang tính chất dịch vụ và mang ý nghĩa vùng.
Nội dung hoạt động tập trung 8 vấn đề: xã hội - nhân văn, kinh tế, giáo dục, bảo vệ
sức khoẻ, sinh học, tự nhiên, thông tin - tư liệu, bảo tàng.
Theo nhu cầu giữa Liên bang và các bang, năm 1947 hiệp ước mới được ký
kết giữa các bang thống nhất cung cấp tài chính cho loại Viện này trở thành nhiệm vụ
Liên bang và các bang theo tỷ lệ 50/50.
5. Các tổ chức Khoa học lớn
Các tổ chức này được hình thành để tiến hành nghiên cứu những nội dung
ngoài phạm vi quan tâm của các trường đại học, những nội dung nghiên cứu dài hạn,
liên ngành và đòi hỏi trang thiết bị lớn. Chủ yếu là các lĩnh vực nghiên cứu hạt nhân,
vũ trụ, hàng không v.v..
Năm 1993 có 16 viện hoạt động trong lĩnh vực này, kinh phí được cấp từ Liên
bang 90%, từ bang 10%.
6. Tổ chức nghiên cứu của công nghiệp
Tổ chức hoạt động nghiên cứu phục vụ công nghiệp rất phong phú và đa dạng:
Trong các hãng lớn được tổ chức thành đơn vị nghiên cứu và phát triển đặc biệt,

người đứng đầu là thành viên của ban giám đốc, được hưởng quy chế tự do cao và
những vấn đề nghiên cứu thường được bàn và quyết định của ban giám đốc. Ngoài ra
còn có các hoạt động nghiên cứu ở các hãng riêng lẻ, hoạt động nghiên cứu của các
Viện, nhóm, phòng thí nghiệm phục vụ lợi ích của công nghiệp.
Việc điều hoà phối hợp nghiên cứu phục vụ công nghiệp được giao cho Liên
đoàn các Hội nghiên cứu công nghiệp. Liên đoàn tạo điều kiện trao đổi kinh nghiệm
giữa các thành viên, điều hoà phối hợp các đề án nghiên cứu, khuyến khích việc tập
trung nghiên cứu các lĩnh vực đặc biệt quan trọng, tư vấn và hỗ trợ cho các thành
viên tranh thủ các tài trợ công cộng, đại diện quyền lợi chung cho các thành viên và
làm cầu nối giữa các thành viên với Chính phủ.
Hình thức hoạt động nghiên cứu phục vụ công nghiệp:
*
*
*

Tổ chức nghiên cứu riêng của các hãng
Các Hội nghiên cứu công nghiệp khác nhau
Thông qua các hợp đồng nghiên cứu với các Viện của các Bang.

Nguồn tài chính của Liên đoàn được cung cấp từ các Bộ Liên bang về các vấn
đề kinh tế và các đóng góp của các thành viên, trích nộp của các đề án.
7. Tổ chức nghiên cứu trong các trường đại học
7


Các trường đại học ở Cộng hoà liên bang Đức được xây dựng trên cơ sở nhất
thể hoá giữa đào tạo với nghiên cứu tự do. Phần lớn các Viện nghiên cứu là một bộ
phận của trường hoặc là tổ chức cùng cấp với trường. Theo điều tra của Hội đồng
khoa học năm 1964 ở Cộng hoà liên bang Đức có 2916 Viện là tổ chức của trường và
316 Viện ở ngoài trường đại học.

8. Nhận xét hệ thống nghiên cứu và phát triển của CHLB Đức
- Hệ thống nghiên cứu và phát triển của CHLB Đức phong phú về loại hình
nghiên cứu và đa dạng hoá nguồn kinh phí cho hoạt động nghiên cứu.
- Các tổ chức nghiên cứu và phát triển được độc lập và tự chủ trong mọi hoạt
động của mình theo quy định của pháp luật.
- Nhà nước Cộng hoà liên bang Đức tập trung đầu tư cho những nhiệm vụ
thuộc tầm vĩ mô, còn việc điều chỉnh mọi hoạt động của hệ thống nghiên cứu và
phát triển thông qua hệ thống văn bản pháp luật.
II. TRUNG QUỐC
Hệ thống tổ chức nghiên cứu và phát triển của Trung quốc được hình thành và
phát triển qua các giai đoạn lịch sử khá phức tạp. Sự phức tạp đó tựu trung xung
quanh mối quan hệ giữa Nhà nước với các tổ chức khoa học. Qúa trình này đã biến
đổi và trải qua mang tính chất chủ quan, áp đặt của Nhà nước. Sự chuyển tiếp kỷ
nguyên Cộng hoà sang thời đại Cộng hoà nhân dân sau năm 1949, sự ảnh hưởng mô
hình Liên Xô, ảnh hưởng của cuộc đại nhảy vọt, sự tác động dai dẳng của một thập
niên cách mạng văn hoá và sự chuyển đổi hiện nay sang cơ chế thị trường, những sự
kiện đó đã lần lượt ảnh hưởng tới sự hình thành và phát triển của hệ thống tổ chức
nghiên cứu và phát triển của Trung quốc.
1. Giai đoạn trước năm 1949
Mãi đến thế kỷ XVIII, Trung quốc bắt đầu tiếp xúc với nền khoa học và công
nghệ hiện đại của phương Tây, nhưng đến thế kỷ XIX mới làm quen với toán học,
thiên văn hiện đại v.v.. Song, Trung quốc vẫn giữ những quan điểm bảo thủ, bế quan
toả cảng, hướng nội với ý thức tự cung tự cấp, ít chú trọng thương mại, coi nhẹ tầng
lớp trí thức.
Năm 1912 nước Cộng hoà Trung hoa được thành lập, tạo điều kiện chuyển đổi
hoàn cảnh xã hội, chính trị cho việc hình thành ban đầu những Học viện khoa học
hiện đại và Hiệp hội khoa học. Thành công quan trọng của Hiệp hội khoa học Trung
quốc là những ảnh hưởng về mặt khoa học góp phần xoá bỏ Nhà nước phong kiến
quan liêu, tổ chức ra các hội khoa học như Hội Y học Trung quốc (1915), Hội Nông
8



nghiệp Trung quốc (1917), Hội Địa chất Trung quốc (1922), Hội thiên văn học Trung
quốc (1924).. .
Cùng với sự ra đời của các Hiệp hội khoa học, Chính phủ thấy sự cần thiết
phải hình thành một Học viện khoa học mũi nhọn đó là việc lập 2 Viện Hàn lâm khoa
học ở Nam kinh và Bắc kinh (1928 - 1929). Có nhiều Học Viện và Viện nghiên cứu
đặt dưới sự bảo trợ của hai Viện hàn lâm khoa học này và được điều hành bởi các
nhà khoa học đã được đào tạo ở Hoa kỳ, Châu âu, Nhật bản... Cả hai Viện Hàn lâm
khoa học này tồn tại được 19 năm và sau đó được sáp nhập thành Viện Hàn lâm khoa
học Trung quốc (Chinese Academy of Science - CAS) vào năm 1949 sau khi thành
lập nước Cộng hoà nhân dân Trung hoa.
2. Giai đoạn sau năm 1949
2.1. Ngày 1/10/1949 Nhà nước Cộng hoà Nhân dân Trung hoa được thành lập
mở đầu giai đoạn mới, thay đổi căn bản nền kinh tế, chính trị và xã hội. Vào tháng 11
năm 1949 Viện Hàn lâm khoa học Trung quốc ra đời với 21 Viện nghiên cứu khoa
học trực thuộc. Viện Hàn lâm khoa học là cơ quan khoa học duy nhất đại diện cho
cộng đồng khoa học ở Trung quốc. Viện Hàn lâm khoa học Trung quốc tham gia
nghiên cứu cơ bản và những hoạt động nghiên cứu ứng dụng trên cơ sở kế hoạch của
Nhà nước, củng cố sự liên kết giữa các lĩnh vực khoa học khác nhau, thúc đẩy sự tác
động qua lại giữa hoạt động khoa học, ứng dụng và tiếp thu những thành tựu khoa
học công nghệ tiên tiến từ các nước phát triển trên thế giới. Đầu năm 1950, Viện Hàn
lâm Khoa học Trung quốc còn được giao nhiệm vụ xây dựng kế hoạch khoa học và
công nghệ, tham gia những dự án kinh tế quan trọng của đất nước. Tầm quan trọng
của Viện Hàn lâm Trung quốc trong hệ thống khoa học của Trung quốc có thể được
thấy rõ từ thực tế tỷ trọng đầu tư: chiếm 18% nguồn nhân lực khoa học và 70% tổng
vốn nghiên cứu khoa học của Trung quốc.
Các Hội khoa học trong giai đoạn này cũng được Chính phủ quan tâm phát
triển, từ 12 Hội trước năn 1949 lên 35 hội năm 1965. Các Hội chịu sự quản lý của
Liên đoàn các Hiệp hội khoa học quốc gia. Cùng với Viện Hàn lâm khoa học Trung

quốc, hoạt động nghiên cứu cơ bản ở các trường đại học cũng được Chính phủ
khuyến khích và hỗ trợ. Chính phủ chủ trương cho hình thành những Học viện
nghiên cứu thuộc các Bộ như Y tế, Nông nghiệp, Giao thông, Cơ khí, Luyện kim
v.v... ngoài ra còn hình thành các Viện nghiên cứu, Sở nghiên cứu ở các tỉnh, khu tự
trị, đặc biệt việc phát triển các Viện nghiên cứu trong khu vực quốc phòng, an ninh.
Cấu trúc tổng thể của hệ thống nghiên cứu và phát triển của Trung quốc vào
những năm 50 theo mô hình của Liên Xô với sự phân biệt nghiên cứu cơ bản và
nghiên cứu ứng dụng phản ánh phân chia chức năng và nhiệm vụ giữa Viện Hàn lâm
khoa học và các Viện thuộc các Bộ, ngành, địa phương. Về nội dung nghiên cứu
khoa học, Chính phủ thông qua kế hoạch phát triển khoa học công nghệ 12 năm.
Trong đó ưu tiên 4 lĩnh vực: máy vi tính, công nghệ chất bán dẫn, điện tử và tự động
9


hoá, năng lượng nguyên tử và công nghệ phản lực. Từ đó nhiều Viện mới của Viện
Hàn lâm khoa học được thành lập để đảm trách những mục tiêu phát triển liên quan
đến an ninh, quốc phòng, công nghệ vũ trụ và công nghệ hạt nhân.
2.2. Ý tưởng của cao trào đại nhảy vọt (Great leap forward) là nhấn mạnh sự
phát triển công nghiệp cũng như nông nghiệp thông qua việc ứng dụng và phổ biến
những thành tựu khoa học và công nghệ trong công nghiệp và nông nghiệp. Chủ
trương của Đảng Cộng sản Trung quốc làm cho những người trí thức trở thành “Đội
quân đỏ” và “Chuyên gia đỏ”. Bằng chiến lược kép vừa cải tạo tư tưởng vừa phát
triển toàn diện, do đó đông đảo các nhà khoa học từ thành phố được phái về các vùng
nông thôn để hỗ trợ cho phong trào cải tạo và đổi mới. Từ đó việc tổ chức lại cấu trúc
khoa học công nghệ theo kiểu thí điểm, mô hình thực nghiệm để lấp những chỗ trống
giữa lao động trí óc và lao động chân tay. Việc huy động một lực lượng lớn các nhà
khoa học nhằm tăng tốc của mục tiêu đại nhảy vọt bị thất bại, do đó Chính phủ Trung
quốc kịp thời đưa ra chính sách khôi phục lại cộng đồng khoa học.
Thất bại của cuộc đại nhảy vọt đã thúc đẩy việc cải tổ lại nền khoa học và
công nghệ của Trung quốc. Viện Hàn lâm khoa học Trung quốc là đối tượng được

thừa hưởng của công cuộc cải tổ - một Uỷ ban năng lượng hạt nhân quốc gia được
thành lập. Nhiệm vụ chủ yếu của Uỷ ban là tổ chức nghiên cứu phục vụ quân sự,
Nhà nước đã huy động và chuyển phần lớn các nhà khoa học giỏi, đầu đàn của Viện
Hàn lâm sang phục vụ công nghiệp quốc phòng. Với sự tập trung này, Trung quốc đã
tạo nên sự phát triển mạnh mẽ những công nghệ cao và công nghệ phục vụ quốc
phòng. Bằng nỗ lực nội lực của mình, các nhà khoa học Trung quốc cho nổ thành
công bom nguyên tử đầu tiên ngày 16/10/1964 và nổ quả thứ hai vào năm sau đó.
Ngoài ra, công tác nghiên cứu và phát triển công nghệ vệ tinh cũng được tiến hành
vào thời điểm đó đã được quốc tế đánh giá cao về công nghệ phóng vệ tinh và khoa
học vũ trụ.
2.3. Để phát huy kết quả bước đầu đã giành được sau thất bại đại nhảy vọt,
Viện Hàn lâm khoa học Trung quốc đưa ra 14 quan điểm nhằm hiện đại hoá các Viện
nghiên cứu và phát triển để nâng cao năng lực nghiên cứu phục vụ kinh tế và xã hội
của đất nước. Trong đó, Viện Hàn lâm khoa học Trung Quốc yêu cầu Chính phủ
không can thiệp về chính trị trong hoạt động khoa học và công nghệ. Trước yêu cầu
đó, Chính phủ Trung quốc đã nhất trí tách các quan điểm chính trị ra khỏi hoạt động
nghề nghiệp, hoạt động chuyên môn. Thoả hiệp giữa Chính phủ và cộng đồng khoa
học Trung quốc tồn tại trong một thời gian ngắn ngủi. Năm 1966 Chủ tịch Mao Trạch
Đông phát động cuộc đại cách mạng văn hoá trong Đảng và trong cả nước. Kết quả,
các tổ chức nghiên cứu và phát triển được xây dựng của 15 năm về trước bị huỷ bỏ,
giải thể theo những chỉ thị mang tính chất mệnh lệnh của “Bộ tư lệnh cách mạng văn
hoá”. Theo chương trình của cách mạng văn hoá, phần lớn đội ngũ trí thức bị phê
phán, các giáo sư, cán bộ nghiên cứu khoa học được hạ phóng về các vùng nông thôn
xa xôi, các nông trại, nhà máy và những doanh nghiệp công cộng nhỏ liên quan đến

10


sản xuất thủ công để lao động cải tạo bằng những công việc chân tay khi mà cuộc
chuyển biến tư tưởng của “quân đỏ” và “chuyên gia đỏ” được sống lại mạnh mẽ.

Viện Hàn lâm khoa học Trung quốc người đại diện cho cộng đồng khoa học
lớn nhất ở Trung quốc trở thành nạn nhân chính của cuộc đại cách mạng văn hoá.
Viện bị xoá sổ tới 60% các học viện nghiên cứu chính, chỉ để lại khoảng 30% viện có
liên quan đến công nghệ quốc phòng. Trong giai đoạn này, những nhà khoa học
nghiên cứu lý thuyết, nghiên cứu cơ bản đều bị tố là ăn bám, vô tích sự và còn được
xem như là tội ác và còn bị dư luận xã hội coi thường.
2.4. Sau 10 năm đại cách mạng văn hoá, đất nước Trung quốc bước vào giai
đoạn khôi phục lại nền kinh tế và tiềm lực của khoa học và công nghệ với chiến lược
4 hiện đại hoá. Cơ sở để khôi phục lại cộng đồng khoa học Trung quốc, Chính phủ
dựa vào Viện Hàn lâm khoa học Trung quốc để từng bước ổn định lại tổ chức và
phục hồi chức vụ khoa học cho các nhà khoa học, đồng thời thành lập thêm Viện Hàn
lâm khoa học xã hội Trung quốc trên cơ sở tách Ban Khoa học xã hội, Ban Triết học
của Viện Hàn lâm khoa học và sáp nhập với Ban tuyên truyền của Đảng Cộng sản
Trung quốc.
Ngày 13/3/1985 Trung ương Đảng cộng sản Trung quốc quyết định cải cách
thể chế khoa học và công nghệ, trong đó có một số vấn đề liên quan cải cách hệ
thống nghiên cứu và phát triển:
- Tạo cho các Viện nghiên cứu và phát triển nhiều quyền lực trong tổ chức và
hoạt động khoa học và công nghệ:
- Thiết kế cấu trúc hệ thống nghiên cứu và phát triển gắn kết giữa nghiên cứu sản xuất và đào tạo. Đối với đơn vị sản xuất phải tăng cường năng lực để tiếp thu và
phát triển công nghệ.
- Thúc đẩy thương mại hoá các thành tựu công nghệ và khai thác thị trường
công nghệ để đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế hàng hoá xã hội chủ nghĩa.
3. Cải tổ hệ thống nghiên cứu và phát triển của Trung quốc
Sau khi hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa tan rã, Trung quốc giữ vững sự ổn
định chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội để từng bước tiến hành cải cách hệ thống nói
chung và hệ thống tổ chức nghiên cứu và phát triển nói riêng. Với hơn 1,4 tỷ dân,
Trung quốc là một nước có nguồn nhân lực dồi dào, trong đó có 22,9 triệu cán bộ
khoa học và công nghệ hoạt động trên các lĩnh vực khoa học. Vào thời điểm năm
1993, tổ chức nghiên cứu và phát triển ở trung quốc hình thành một hệ thống với quy

mô lớn, bao gồm hầu hết các lĩnh vực khoa học và công nghệ và giữ một vị trí quan
trọng trong nền kinh tế và xã hội của trung quốc. Về cơ cấu của hệ thống này có thể
chia thành 4 loại hình:
11


*
Các Viện nghiên cứu và phát triển thuộc Chính phủ (trên 6000 viện)
*
Các Viện nghiên cứu và phát triển thuộc các doanh nghiệp lớn, vừa,
nhỏ (trên 28000 Viện)
*
Các Viện nghiên cứu và phát triển thuộc các trường đại học và cao
đẳng (trên 1800 viện).
*
Các Viện nghiên cứu và phát triển phi lợi nhuận.
3.1. Vấn đề tồn tại của hệ thống nghiên cứu và phát triển
- Sự mất cân đối về mặt cấu trúc của hệ thống và sự bất hợp lý trong phân bố
nguồn nhân lực khoa học - số lượng Viện thuộc Chính phủ quá lớn, tập trung một lực
lượng cán bộ khoa học quá đông, Nhà nước không đủ khả năng để đáp ứng kinh phí.
Trong lúc đó các Viện của các trường đại học và cao đẳng quy mô nhỏ bé và không
có điều kiện sử dụng hết tiềm năng; các Viện thuộc doanh nghiệp năng lực yếu kém
lại đứng trước những vấn đề sản xuất thì không đủ trình độ để giải quyết những công
nghệ phục vụ sản xuất theo yêu cầu của thị trường.
- Tổ chức và hoạt động của mỗi viện mang tính khép kín, không những biệt
lập với nhau trong hệ thống nghiên cứu mà còn tách rời với sản xuất và đào tạo, thậm
chí còn chia tách giữa nghiên cứu phục vụ quân sự với phục vụ dân sự. Với tổ chức
và hoạt động như hiện nay, hệ thống trở nên phân tán, tản mạn và thiếu hiệp đồng đã
làm cho hệ thống không phát huy được hiệu quả.
- Ngân sách Nhà nước rất có hạn, trong lúc đó số lượng nghiên cứu thuộc

Chính phủ quá lớn, do đó không đủ khả năng đáp ứng nguồn kinh phí cho các Viện.
Vấn đề ở đây là khi thành lập các Viện chỉ chú trọng đơn thuần về mặt tổ chức mà
không tính toán đầy đủ về đảm bảo các nguồn lực cho các Viện hoạt động, do đó dẫn
đến tính trạng đông về số lượng nhưng hiệu quả hoạt động lại rất thấp.
- Cơ cấu của hệ thống cứng nhắc, do vậy khó có khả năng thay bằng một hệ
thống mới. Trong quản lý không những không tạo ra được cơ chế cạnh tranh giữa
Viện thuộc Nhà nước cấp trên và Viện Nhà nước cấp dưới, mà còn có sự bảo trợ của
cơ quan chủ quản đối với các Viện cấp dưới. Mặc dầu nhận được sự bảo trợ đó của
cấp trên, song các loại viện này không có khả năng chứng minh được sự tồn tại của
mình.
3.2. Các quan điểm của cải cách hệ thống nghiên cứu và phát triển
- Trung quốc là một quốc gia lớn, do đó cần xây dựng và phát triển nền khoa
học và công nghệ toàn diện, ngang tầm với các nước phát triển trên thế giới. Vì vậy
các hoạt động nghiên cứu và phát triển phải bao gồm hầu hết các lĩnh vực khoa học.

12


- Trung quốc là một nước xã hội chủ nghĩa với sở hữu toàn dân là cơ bản, do
đó trong quản lý nền kinh tế và xã hội phải tập trung hơn so với các nước chịu sự
điều tiết của cơ chế thị trường. Trong thực tế hiện nay do sự phát triển mất cân đối
nên Chính phủ trung ương phải tiến hành cải cách sâu sắc hơn.
- Trong những năm đầu của thế kỷ XXI, Trung quốc vẫn đang ở giai đoạn đầu
của sự nghiệp công nghiệp hoá, vì vậy quy mô và cơ cấu của hệ thống nghiên cứu và
phát triển chưa thể phát triển như các nước phát triển, Ngân sách Nhà nước dành cho
khoa học và công nghệ khoảng 0,7 - 2% GDP. Đầu tư cho phân hệ nghiên cứu và
phát triển thuộc Chính phủ sẽ cao hơn hoặc bằng phân hệ nghiên cứu và phát triển
thuộc doanh nghiệp. Tỷ lệ chi cho nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng và triển
khai công nghệ sẽ là: 10 - 12%; 25- 35%; 40 - 65%.
- Đối với các doanh nghiệp trong quá trình cải cách và phát triển cần có một

thời gian và bước đi thích hợp trong việc tự đảm bảo hoạt động nghiên cứu và phát
triển và tiếp nhận công nghệ mới.
3.3. Dự án về mô hình cải cách
Mục đích và yêu cầu của quá trình cải cách hệ thống nghiên cứu và phát triển
của Trung quốc:
- Đổi mới chất lượng về cơ cấu và phân bố nguồn nhân lực khoa học trong hệ
thống nghiên cứu và phát triển theo 4 loại hình chủ yếu như sau: Viện nghiên cứu
thuộc Chính phủ, viện nghiên cứu thuộc doanh nghiệp, viện nghiên cứu thuộc trường
đại học và cao đẳng, viện nghiên cứu phi lợi nhuận.
Các Viện thuộc Chính phủ chủ yếu tiến hành nghiên cứu các lĩnh vực phi
thương mại phục vụ công ích và các nhu cầu chung của xã hội; một phần nghiên cứu
cơ bản phục vụ cho công nghiệp, nông nghiệp, các nghiên cứu công nghệ cơ sở phục
vụ nhu cầu công cộng.
Các Viện thuộc doanh nghiệp chủ yếu tiến hành nghiên cứu và phát triển công
nghệ trong khu vực sản phẩm thương mại. Đối với các doanh nghiệp lớn và mạnh có
vị trí quan trọng trong tiến hành nghiên cứu ứng dụng và thậm chí cả trong nghiên
cứu cơ bản. Trong hệ thống nghiên cứu và phát triển đã được cải cách, thì các doanh
nghiệp hoặc tập đoàn các doanh nghiệp trở thành lực lượng chính nghiên cứu sản
phẩm hàng hoá thương mại, đồng thời là nơi cung cấp công nghệ mới cho thị trường
trong và ngoài nước.
Các Viện thuộc trường đại học và cao đẳng là loại hình trung gian tiến hành
nghiên cứu cả những sản phẩm phi thương mại, bao gồm nghiên cứu cơ bản, nghiên
cứu ứng dụng và triển khai công nghệ, tuy nhiên cần chú trọng nghiên cứu cơ bản
13


hơn, đặc biệt đối với lĩnh vực công nghệ cao và mới. Trong hệ thống nghiên cứu và
phát triển thì Viện Hàn lâm khoa học Trung quốc và các trường đại học và cao đẳng
là 2 lực lượng chính trong lĩnh vực nghiên cứu cơ bản của Trung quốc.
Các Viện nghiên cứu phi lợi nhuận được thành lập do các hiệp hội thương

mại, các tập thể nghiên cứu hoặc các địa phương. Các Viện này tiến hành nghiên cứu
phục vụ công ích. Nguồn tài chính cho hoạt động được Chính phủ tài trợ một phần,
một phần được các doanh nghiệp hỗ trợ thông qua các hợp đồng và các nguồn của
nước ngoài. Trong quá trình hoạt động các Viện này có thể tiến hành một số hoạt
động thương mại, song không vì mục đích lợi nhuận mà thuần tuý để bổ sung kinh
phí cho nghiên cứu.
3.4. Xu hướng cải cách các viện nghiên cứu và phát triển thuộc Chính phủ
Hệ thống tổ chức nghiên cứu và phát triển quốc gia được đổi mới phải phù
hợp với điều kiện của nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa mang màu sắc của
Trung quốc. Vì vậy các viện thuộc Chính phủ phải tuân thủ các nguyên tắc chủ yếu
sau đây:
*
Nguyên tắc về chức năng: các cơ quan đại diện cho Chính phủ chỉ
thành lập Viện nghiên cứu và phát triển để nghiên cứu những vấn đề khoa học và
công nghệ mà thị trường không thể giải quyết được.
*
Nguyên tắc kinh tế: việc thành lập viện nghiên cứu và phát triển phải
căn cứ khả năng đảm bảo của nền kinh tế và hiệu quả hoạt động của Viện đó.
*
Nguyên tắc bổ sung (phụ): các cơ quan của Chính phủ chỉ thành lập
viện cần thiết cho nền kinh tế và xã hội và sự phát triển của nền khoa học và công
nghệ của đất nước, mà các cơ quan khác không có khả năng đảm nhận.
4. Nhận xét về hệ thống nghiên cứu và phát triển của Trung quốc
- Từ năm 1990 trở về trước hệ thống nghiên cứu và phát triển của Trung Quốc
nói chung chịu ảnh hưởng rất lớn theo các biến cố về chính trị và kinh tế xã hội, chỉ
trừ tổ chức nghiên cứu về lĩnh vực hạt nhân Chính phủ luôn luôn nhất quán giữ ổn
định về tổ chức và ưu tiên về đầu tư. Với chủ trương đó, sau 15 năm thành lập nước
Cộng hoà nhân dân Trung hoa, Trung quốc thử thành công 2 quả bom nguyên tử và
ngày nay Trung quốc trở thành một cường quốc trong nhiều lĩnh vực khoa học và
công nghệ.

- Từ năm 1991 đến nay, Trung quốc giữ ổn định về chính trị, kinh tế và xã hội
để tiến hành cải cách hệ thống nghiên cứu và phát triển theo quan điểm: “Phát triển
kinh tế phải dựa vào khoa học và công nghệ và khoa học và công nghệ phải hướng

14


tới phục vụ cho phát triển kinh tế”. theo quan điểm đó, Trung quốc định hướng cải
cách hệ thống nghiên cứu và phát triển:
*
Hệ thống nghiên cứu và phát triển có khả năng tự điều chỉnh thích nghi
và quá trình chuyển đổi phải có thời gian và bước đi thích hợp.
*
Đầu tư phải tương ứng với nhiệm vụ đã được lựa chọn theo mục tiêu
của từng phân hệ trong hệ thống.
- Cấu trúc của hệ thống nghiên cứu và phát triển theo xu hướng cải cách có 4
loại hình: viện thuộc Chính phủ, viện thuộc doanh nghiệp, viện thuộc trường đại học
và cao đẳng, viện phi lợi nhuận. Tỷ trọng đầu tư cho loại hình viện thuộc doanh
nghiệp ngày càng được nâng cao nhằm tạo ra nhiều sản phẩm phục vụ nhu cầu thị
trường.
III. NƯỚC CỘNG HOÀ LIÊN BANG NGA
Sau khi Liên bang Xô viết tan rã, Cộng hoà Liên bang Nga (CHLB Nga) tiếp
quản một hệ thống cơ quan nghiên cứu và phát triển đồ sộ với khoảng 3/4 trong tổng
số hơn 5300 cơ quan nằm trên lãnh thổ CHLB Nga. Việc chuyển đổi cả một hệ thống
chính trị, hệ thống kinh tế và xã hội, nước Nga gặp rất nhiều khó khăn, do đó đòi hỏi
phải trải qua một thời gian nhiều năm để thiết kế lại hệ thống, ổn định xã hội trong
điều kiện nền kinh tế thị trường. Tiếp quản một nền khoa học và công nghệ đã khẳng
định được vai trò và vị trí quan trọng về thứ hạng trên trường quốc tế, nước Nga tự
hào về những thành tựu khoa học trong lĩnh vực chinh phục vũ trụ, hạt nhân, quân sự
v.v... , ngoài ra còn đáng kể đến nhiều công nghệ đạt trình độ tiên tiến trên thế giới

cùng với khả năng đào tạo lực lượng lao động có kỹ năng và kỹ thuật.
Thừa hưởng một nền khoa học với nhiều thành tựu quan trọng tạo cho nước
Nga một sự hấp dẫn trên trường quốc tế. Đó là cơ sở để liên kết thuận lợi với thế
giới, đồng thời tạo điều kiện cho phát triển nghiên cứu và phát triển ở trong nước,
thông qua sự hợp tác với các nước, đặc biệt với các ngành công nghiệp của phương
Tây sẽ góp phần cải thiện và thúc đẩy phát triển nghiên cứu và phát triển cũng như
tăng trưởng nền kinh tế.
Đứng trước một hệ thống cơ quan nghiên cứu và phát triển của Liên Bang Xô
viết để lại với các đặc trưng.
- Hoạt động nghiên cứu và phát triển trong các trường đại học vừa yếu kém
vừa không liên kết được với các Viện và các cơ sở sản xuất.
- Năng lực nghiên cứu và phát triển trong các doanh nghiệp không đủ khả
năng cải tiến và đổi mới công nghệ để cạnh tranh với thị trường.

15


- Lĩnh vực nghiên cứu và phát triển phục vụ quốc phòng là một phân hệ được
tập trung ưu tiên đầu tư và hoạt động lại khép kín tách biệt với hệ thống.
- Hệ thống nghiên cứu và phát triển chịu sự quản lý tập trung và mọi hoạt
động đều trông chờ vào nguồn kinh phí từ ngân sách nhà nước cấp.
1. Quá trình chuyển đổi của hệ thống nghiên cứu và phát triển
Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, một gánh nặng đặt lên các Viện hàn
lâm khoa học, các Bộ và các Uỷ ban của Chính phủ trong việc thiết kế một hệ thống
cơ quan nghiên cứu và phát triển phù hợp với tình hình mới. Để tiến hành công cuộc
cải cách hệ thống này, Chính phủ CHLB Nga đã đưa ra các quan điểm thống nhất khi
tiến hành cải cách:
- Khẳng định hoạt động nghiên cứu và phát triển là một hoạt động vô giá trong
nhận thức của Chính phủ, trong các Viện hàn lâm khoa học và trong các cơ quan của
Nhà nước.

- Chính phủ xây dựng chính sách “dân chủ hoá” trong quản lý của Nhà nước
đối với hệ thống nghiên cứu và phát triển.
- Thực hiện việc phân công và phân cấp hợp lý trong quản lý hệ thống nghiên
cứu và phát triển nhằm phát huy năng lực hoạt động của hệ thống đáp ứng được nhu
cầu của nền kinh tế thị trường.
Trong bối cảnh hệ thống chính trị chưa ổn định, nền kinh tế trong tình trạng
khủng hoảng, nước Nga đã tiến hành một bước cải cách hệ thống cơ bản nghiên cứu
và phát triển của Nhà nước theo hướng tiêu chuẩn hoá, cổ phần hoá, tư nhân hoá, cho
đến nay chia thành 3 loại hình sở hữu:
+ Khu vực Nhà nước
*
*
nhuận)

Cơ quan nghiên cứu và phát triển thuộc Nhà nước (phi lợi nhuận)
Cơ quan nghiên cứu và phất triển thuộc doanh nghiệp Nhà nước (lợi

+ Khu vực Nhà nước kiểm soát
*
Cơ quan nghiên cứu và phát triển Nhà nước có 51% cổ phần đặc biệt
quy định theo thời gian.
*
Cơ quan nghiên cứu và phát triển có 100% cổ đông là nhân viên của
cơ quan nghiên cứu và phát triển.
+ Khu vực ngoài Nhà nước
16


*
*


Tư nhân hoá hoặc trách nhiệm hữu hạn
Các loại hình khác

Qua phân chia đó, các cơ quan nghiên cứu và phát triển của Nhà nước dưới
dạng các Trung tâm nghiên cứu quốc gia là 62 cơ quan, chiếm 1/6 tổng số các cơ
quan nghiên cứu và phát triển toàn Liên bang, 50% tổng số cơ quan nghiên cứu và
phát triển được cổ phần hoá dưới dạng khác nhau.
Trong quá trình cải cách hệ thống nghiên cứu và phát triển ở CHLB Nga thì
các Viện Hàn lâm khoa học được xem như nòng cốt của hệ thống và có tính lịch sử
lâu đời của một nền khoa học, do đó Viện Hàn lâm khoa học Nga (PAH), Viện Hàn
lâm khoa học nông nghiệp Nga (PACXH), Viện Hàn lâm Y học Nga (PAMH), Viện
Hàn lâm giáo dục Nga (PAO), Viện Hàn lâm kiến trúc và xây dựng Nga (PAACH),
Viện Hàn lâm nghệ thuật Nga (PAX) được thành lập để thay thế cho các Viện Hàn
lâm tương ứng dưới nền khoa học Xô viết. Các thành viên của các Viện Hàn lâm
khoa học Nga đã được chọn theo hình thức dân chủ và các Viện Hàn lâm khoa học
trở thành tổ chức tự quản cao, đồng thời định hướng hoạt động theo xu thế cạnh tranh
trong điều kiện thị trường.
Đối với các doanh nghiệp Nhà nước phấn đấu nhanh chóng hội nhập với hệ
thống kinh tế thế giới, hàng hoá sản xuất ra đạt tiêu chuẩn quốc tế và được thị trường
trong và ngoài nước chấp nhận. Vì vậy, vấn đề buộc các doanh nghiệp phải nâng cao
năng lực nghiên cứu và phát triển để nhanh chóng đổi mới công nghệ tạo thế đứng
của sản phẩm trên thị trường. Xu hướng hiện nay của các doanh nghiêp được xác
định theo cơ thế thị trường là dựa trên cơ sở cạnh tranh để khuyến khích đầu tư hợp
lý cho tổ chức nghiên cứu và phát triển của từng doanh nghiệp.
Đối với tổ chức nghiên cứu và phát triển trong các trường đại học - cho đến
nay xu hướng tổ chức nghiên cứu và phát triển tại các trường đại học chưa có tư cách
pháp nhân rõ ràng. Các hoạt động nghiên cứu khoa học được các tập thể các nhà
khoa học thực hiện tại các phòng thí nghiệm của trường, các phòng thí nghiệm với
các doanh nghiệp, với các viện.

2. Giải pháp cải cách hệ thống nghiên cứu và phát triển
- Nhà nước có nhiều giải pháp khác nhau được đặt ra theo chức năng nghiên
cứu:
Đối với nghiên cứu cơ bản: các vấn đề mang tầm quan trọng quốc gia thường
được giao cho Viện Hàn lâm khoa học tổ chức thực hiện, còn các vấn đề nghiên cứu
cơ bản khác do các Viện Hàn lâm khoa học ngành đảm nhận. Nguồn kinh phí dành
cho nghiên cứu cơ bản phần lớn được tài trợ từ ngân sách nhà nước.

17


Đối với nghiên cứu ứng dụng, ngày nay thuộc trách nhiệm doanh nghiệp, các
doanh nghiệp tổ chức các phòng nghiên cứu và thí nghiệm để nâng cao hiệu quả các
sản phẩm được sản xuất ra đủ sức cạnh tranh trên thị trường. Nguồn kinh phí dành
cho nghiên cứu ứng dụng được xác định bởi cơ chế thị trường.
Đối với các doanh nghiệp quốc phòng trước đây chỉ tập trung phục vụ quân
sự, nay được chuyển tiềm năng nghiên cứu và phát triển to lớn này sang nghiên cứu
và sản xuất nhiều mặt hàng phục vụ khu vực dân sự.
- Nhà nước xây dựng cấp bách công cụ pháp lý đảm bảo cho môi trường hoạt
động nghiên cứu và phát triển:
*
*
hoạt động.
*

Bảo hộ quyền tự do cá nhân của nhà khoa học.
Xác lập cơ sở pháp lý cho thị trường lao động trí tuệ hình thành và
Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, nhãn hiệu hàng hoá, v.v..

3. Nhận xét

- Sau khi Liên xô tan rã, CHLB Nga được thừa hưởng một thành quả to lớn
của nền khoa học và công nghệ Xô viết để lại với nhiều thành tựu khoa học và một
tiềm năng nghiên cứu và phát triển đồ sộ trên nhiều lĩnh vực khoa học. Trong tình
hình chính trị chưa ổn định, kinh tế khủng hoảng, CHLB Nga đã tiến hành cải cách
hệ thống nghiên cứu và phát triển theo hướng của nền kinh tế thị trường nhằm mục
đích tăng tính chịu trách nhiệm, tính cạnh tranh để nâng cao hiệu quả hoạt động và
giảm nhẹ phụ thuộc vào nguồn kinh phí từ ngân sách nhà nước.
- Khởi đầu của cải cách hệ thống nghiên cứu và phát triển là hoàn thiện các
Viện Hàn lâm khoa học vừa mang tính chất lịch sử lâu đời của nền khoa học để làm
nòng cốt cho việc sắp xếp tổ chức lại các thành viên khác trong toàn bộ hệ thống.
- Giao cho các Bộ, ngành sắp xếp và trực tiếp quản lý các Viện, phục vụ cho
các định hướng kinh tế mũi nhọn của nhà nước.
- Chuyển các Viện chuyên ngành vào các doanh nghiệp để gắn nghiên cứu với
sản xuất, phục vụ trực tiếp cho sản phẩm của doanh nghiệp.
- Chuyển một số Viện thành các Công ty tự quản tài chính, mở rộng phạm vi
hoạt động và dịch vụ khoa học và công nghệ.
- Cổ phần hoá các Viện để đa dạng hoá kinh phí phục vụ sự tồn tại và phát
triển của Viện.

18


- Tư nhân hoá các Viện không có điều kiện bao cấp kinh phí từ ngân sách Nhà
nước.
IV. CỘNG HOÀ ẤN ĐỘ
Nước Cộng hoà Ấn Độ ở khu vực Nam Á, có diện tích trên 3 triệu km2 đứng
thứ 7 trên thế giới và dân số 890 triệu người đứng thứ 2 trên thế giới. Tổng sản phẩm
GNP khoảng 250 tỷ USD, kim ngạch xuất khẩu 20 tỷ USD/năm. Thu nhập bình quân
300USD/người/năm. Ấn Độ có 5000 năm lịch sử, là một trong những nôi văn minh
của loài người.

Ấn Độ được trả độc lập từ thực dân Anh ngày 15/8/1947, ngày 26/1/1948 Ấn
Độ tuyên bố thành lập nước Cộng hoà, phát triển theo con đường độc lập, chủ trương
xây dựng nền kinh tế dân chủ tự lực, tự cường, thi hành chính sách đối ngoại hoà
bình, không liên kết, hữu nghị với tất cả các nước.
Ngày 4/3/1958 Chính phủ Ấn Độ thông qua Nghị quyết đầu tiên về chính sách
khoa học, trong đó có đoạn: “.. chiếc chìa khoá dẫn tới sự phồn vinh của một nước,
ngoài tinh thần của nhân dân, đặt ở sự kết hợp có hiệu quả 3 nhân tố: kỹ thuật,
nguyên liệu và vốn; trong đó nhân tố kỹ thuật là quan trọng nhất, vì sự tạo ra và sử
dụng được những kỹ thuật và khoa học mới trên thực tế có thể bù đắp được sự thiếu
thốn về tài nguyên thiên nhiên và giảm bớt được yêu cầu về vốn. Song kỹ thuật chỉ
có thể được phát triển thông qua nghiên cứu và ứng dụng khoa học..”.
Với sự quan tâm thật sự và sự vun trồng thường xuyên cho sự nghiệp khoa
học, kỹ thuật từ các nhà lãnh đạo và Chính phủ, trong 5 thập kỷ qua Ấn Độ đã giành
được những tiến bộ to lớn về mọi mặt, trong đó có phần không nhỏ do khoa học và
kỹ thuật đóng góp.
1. Qúa trình xây dựng và phát triển hệ thống nghiên cứu và phát triển
Nhà nước Ấn Độ được tổ chức theo hình thức Liên bang, theo chế độ dân chủ
đại nghị. Hiện nay Ấn Độ có 25 bang và 6 lãnh thổ trực thuộc Liên bang, Thủ tướng
là người đứng đầu Chính phủ, vừa là người đứng đầu hệ thống khoa học và công
nghệ, giúp việc Thủ tướng về khoa học và công nghệ có Hội đồng tư vấn khoa học và
một cố vấn khoa học.
- Từ năm 1947 đến cuối những năm 60, Chính phủ Ấn Độ ưu tiên đầu tư xây
dựng đội ngũ cán bộ khoa học, hệ thống rộng lớn của các Viện, các phòng thí nghiệm
quốc gia. Theo ý tưởng của Pandit Jawaharlal Nehru là thiết lập các cơ sở nghiên cứu
và phát triển trong mối liên kết chặt chẽ và gắn bó với các trường đại học của Ấn Độ.
Song, trong quá trình thực hiện thì người ta đã lập nên hàng trăm cơ sở nghiên cứu và
phát triển độc lập với các trường, do đó không tận dụng được đội ngũ cán bộ giảng
dạy tham gia công tác nghiên cứu khoa học, và dẫn đến tình trạng ít quan tâm và đầu
19



tư đến thí nghiệm ở các trường đại học. Chỉ khoảng 9% kinh phí cấp cho nghiên cứu
và phát triển ở các trường đại học và cho đến nay vẫn chưa khắc phục được thiếu sót
này.
- Trong những năm 70 đặc trưng bởi sự liên kết chặt chẽ giữa khu vực nghiên
cứu và phát triển với phát triển kinh tế, mà cốt lõi là các ngành công nghiệp. Do thay
đổi chính sách trong công nghiệp tạo ra tác động lớn tới việc tận dụng năng lực
nghiên cứu và phát triển trong nước. Theo quy định mới về nhập công nghệ đã thúc
đẩy một bước việc nghiên cứu các mặt hàng thay thế nhập khẩu.
- Từ những năm 80 trở đi, khả năng nghiên cứu của Ấn Độ đủ sức thực hiện
toàn bộ dây chuyền đổi mới. Từ đây nền kinh tế của Ấn Độ có xu thế hướng ngoại
nhiều hơn và mở đầu thực hiện được ý tưởng cuả Thủ tướng Nehru là xây dựng một
cơ cấu công nghiệp tự lực cánh sinh thông qua việc nhanh chóng công nghiệp hoá mà
trọng tâm là phát triển công nghiệp nặng và chế tạo tư liệu sản xuất bằng chương
trình thay thế nhập khẩu quy mô lớn.
Bên cạnh thành công trong nghiên cứu phục vụ công nghiệp, Ấn Độ cũng
thành công trong cuộc “cách mạng xanh”, thực hiện được mục tiêu tự túc lương thực.
Việc tăng sản lượng lương thực từ 55 triệu tấn (1951) lên 167 triệu tấn (1988) là kết
quả tổng hợp hàng loạt biện pháp như sinh học (tạo giống lúa năng suất cao, ngắn
ngày, chống chịu sâu bệnh và thời tiết khắc nghiệt v.v..), thuỷ lợi (tăng diện tích tưới
nước lên 4 lần), quy hoạch (bố trí lại đồng ruộng với các khối chữ nhật 4000m2), sử
dụng phân sinh học, phân hoá học, thuốc trừ sâu, điện khí hoá nông thôn, giao thông,
cơ giới hoá nông nghiệp, cho vay tín dụng v.v.. Ngày nay Ấn Độ đang tiến hành giai
đoạn hai của cuộc “cách mạng xanh” là cuộc “cách mạng sinh học”.
- Năm 1993, Chính phủ Ấn Độ ban hành chính sách công nghệ mới:
*
Các công nghệ nhập hoặc đầu tư của nước ngoài phải là những công
nghệ chưa có ở Ấn Độ hoặc Ấn Độ không có khả năng nghiên cứu.
*
Đầu tư cho công nghệ có khả năng cạnh tranh và tăng khả năng xuất

khẩu, công nghệ phục vụ từ công nghiệp hạ tầng đến công nghiệp khai khoáng, chế
biến.
*
Phấn đấu tăng ngân sách đầu tư cho nghiên cứu và phát triển của quốc
gia từ 0,8% hiện nay lên 2% GNP năm 2000.
*
Sản phẩm khoa học công nghệ được xem như hàng hoá đặc biệt, gắn
người sử dụng với người thực hiện bằng các hợp đồng kinh tế. Phát triển thị trường
công nghệ trong nước.
2. Hệ thống nghiên cứu và phát triển của Ấn Độ
20


Cho đến nay, nước Cộng hoà Ấn Độ có khoảng 1455 viện nghiên cứu và các
phòng thí nghiệm, cùng với một đội ngũ cán bộ khoa học trên 300.000 người đang
hoạt động trên các lĩnh vực nghiên cứu khoa học, trong đó số người nghiên cứu trong
công nghiệp khoảng 65 nghìn người. Bên cạnh hệ thống nghiên cứu và phát triển,
Cộng hoà Ấn Độ còn có 180 trường đại học thuộc loại truyền thống và tính lịch sử
của các dân tộc Ấn Độ.
Đối với hệ thống nghiên cứu và phát triển của Ấn Độ được tổ chức theo các
loại hình như sau:
2.1. Các cơ quan nghiên cứu và phát triển thuộc Chính phủ trung ương
gồm có: Cục năng lượng nguyên tử (DAE), Cục vũ trụ (DS), Hội đồng nghiên cứu
khoa học công nghiệp (CSIR), Hội đồng nghiên cứu nông nghiệp (ICAR), Hội đồng
nghiên cứu Y học. Trong mỗi Cục cũng như mỗi Hội đồng nghiên cứu nói trên có
nhiều Viện để tiến hành nghiên cứu những vấn đề có liên quan đến tầm Liên bang.
2.2. Các cơ quan nghiên cứu và phát triển thuộc các Bộ của Chính phủ
Trung ương. Các cơ quan này nghiên cứu và giải quyết những vấn đề chuyên môn
thuộc phạm vi ngành mà Bộ phụ trách.
2.3. Các cơ quan nghiên cứu và phát triển thuộc Chính phủ bang, các tổ

chức này chủ yếu quan tâm đến các lĩnh vực truyền thống như nông nghiệp, chăn
nuôi, y tế, thuỷ lợi, lâm nghiệp.
2.4. Tổ chức nghiên cứu trong các trường đại học đặt dưới sự bảo trợ của
Uỷ ban trợ cấp cho các trường đại học (UGC).
2.5. Tổ chức nghiên cứu tư nhân. Các tổ chức này cũng nhận được một phần
tài trợ của Chính phủ.
2.6. Các cơ quan nghiên cứu và phát triển có quy mô khá lớn thuộc các đơn
vị sản xuất phục vụ khu vực công cộng.
3. Nhận xét
- 50 năm qua bằng những nỗ lực toàn diện, kiên trì và nhất quán, Ấn Độ xây
dựng được nền khoa học và công nghệ đủ sức giải quyết những vấn đề chủ yếu của
đất nước. Trong hệ thống nghiên cứu và phát triển, Ấn Độ tập trung giải quyết thành
công: năng lượng hạt nhân, khoa học vũ trụ, viễn thông, điện tử, máy tính, sinh học
v.v.., đặc biệt sự thành công trong cuộc “cách mạng xanh” ở giai đoạn 1 và tạo ra
nhiều hứa hẹn ở giai đoạn 2 mở ra nhiều triển vọng cho nền nông nghiệp Ấn Độ.

21


- Hoạt động của hệ thống nghiên cứu và phát triển khép kín, chưa xuất phát từ
đòi hỏi của thị trường, chưa gắn nhiều với sản xuất, tổ chức nghiên cứu còn nặng về
nghiên cứu cơ bản, nhẹ về nghiên cứu ứng dụng, do đó làm ảnh hưởng đến vai trò
của khoa học và công nghệ trong phát triển kinh tế và xã hội trên một số khía cạnh
sau:
*
Khoảng cách về mặt đầu tư cho khoa học, đặc biệt đầu tư từ các doanh
nghiệp so với các nước công nghiệp phát triển còn rất xa.
*
Sự gắn bó giữa cơ quan nghiên cứu và phát triển với các doanh nghiệp
chưa chặt chẽ, do vậy nhiều công nghệ hoặc kỹ thuật được tạo ra nhưng không đưa

vào được sản xuất.
*
Tổ chức nghiên cứu và phát triển chưa lôi cuốn được lực lượng cán bộ
giảng dạy ở các trường đại học tham gia hoạt động nghiên cứu phục vụ nhu cầu của
xã hội.
V. CỘNG HOÀ SINGAPORE
Cộng hoà Singapore là một quốc gia nhỏ với diện tích 639 km2 và dân số 3,3
triệu người. Trong 4 thập kỷ vừa qua, Singapore có bước tiến kỳ diệuvề kinh tế, thu
nhập bình quân đầu người một năm lên tới 31.000USD. Với sự thành công của
Singapore gắn liền với sự phát triển nền khoa học và công nghệ, trong đó việc xây
dựng và phát triển hệ thống tổ chức nghiên cứu và phát triển hoạt động có nền nếp
trong điều kiện nền kinh tế thị trường.
Theo báo cáo thống kê của Bộ khoa học và công nghệ Singapore tính đến cuối
năm 1997, toàn bộ hệ thống tổ chức nghiên cứu và phát triển đã hình thành và phát
triển trên các mặt sau đây:

1. Về phát triển tổ chức nghiên cứu và phát triển
Theo số liệu thống kê từ năm 1984 đến năm 1997 ở Singapore hình thành và
phát triển một hệ thống tổ chức nghiên cứu và phát triển với 543 (tính đến cuối năm
1997) viện, trung tâm ... và được phân chia như sau:
1.1. Phân chia theo quyền sở hữu
- 508 tổ chức nghiên cứu và phát triển thuộc khu vực tư nhân, con số này được
tăng dần từ 143 (năm 1984) tăng lên 508 (năm 1997).

22


- 6 tổ chức nghiên cứu và phát triển thuộc khu vực các trường đại học, con số
này được tăng từ 4 (năm 1984) lên 6 (năm 1997).
- 14 tổ chức nghiên cứu và phát triển thuộc khu vực Nhà nước, con số này

giảm dần từ 20 (năm 1984) xuống 14 (năm 1997).
- 15 tổ chức nghiên cứu và phát triển thuộc khu vực công cộng, con số này
được tăng từ 0 (năm 1984) lên 15 (năm 1997).
1.2. Phân chia theo loại hình nghiên cứu và phát triển
Ở Singapore trong đầu tư tài chính cho nghiên cứu và phát triển người ta còn
chia mạng lưới thành 4 loại hình như sau:
- Nghiên cứu cơ bản thuần tuý: bao gồm những nghiên cứu lý thuyết hoặc
thực nghiệm ở mức độ khái niệm cơ bản mà, ít có hoặc hầu như không có triển vọng
và lợi ích kinh tế trong thời gian dài.
- Nghiên cứu cơ bản mang tính chất chiến lược: sử dụng hệ thống kiến thức để
nghiên cứu các giải pháp nhằm định hướng các vấn đề ứng dụng mang tầm quốc gia.
- Nghiên cứu ứng dụng: Xem xét mang tính quyết định theo mục tiêu phát
triển để đưa các kết quả nghiên cứu ứng dụng tạo ra sản phẩm mới hoặc nâng cao
chất lượng để kéo dài sự tồn tại của sản phẩm đó.
- Triển khai thực nghiệm: Hoạt động mang tính hệ thống sử dụng kiến thức
thu được từ hoạt động nghiên cứu hoặc kinh nghiệm thực hành nhằm ứng dụng kiến
thức vào các quá trình hoặc sản phẩm mới.
1.3. Nội dung nghiên cứu và phát triển
Trong những năm vừa qua mọi hoạt động của hệ thống nghiên cứu và phát
triển được tập trung giải quyết 6 lĩnh vực:
- Đối với khoa học nông nghiệp bao gồm: nông học, công nghệ nông nghiệp,
chăn nuôi gia súc, nghề cá, lâm nghiệp, nghề làm vườn, thú y ..
- Đối với khoa học y sinh học gồm: y học cơ bản (giải phẫu học, dược lý, sinh
lý học), y học lâm sàng (kỹ thuật gây mê, nha khoa, nội khoa, phụ khoa, nhi khoa,
hồi sức cấp cứu), khoa học về sức khoẻ (chăm sóc sức khoẻ cộng đồng và bệnh học)
và các ngành có liên quan khác.

23



- Đối với khoa học máy tính và các ngành có liên quan: Chương trình máy
tính, các nghiên cứu về máy tính, khoa học thông tin, phân tích hệ thống và phát triển
phần mềm trong các lĩnh vực có liên quan.
- Đối với khoa học tự nhiên: ngành sinh học (vi khuẩn, hoá sinh, lý sinh, di
truyền, vi sinh vật, thực vật, động vật) ngành hoá học (hoá học và các môn liên
quan), khoa học liên quan đến môi trường và trái đất (địa chất học, vật lý địa cầu, địa
vật lý, khí tượng), khoa học vật lý và toán học (thiên văn học, vật lý và các môn khoa
học liên quan).
- Công nghệ: hàng không, biển, cơ khí, y sinh, điện tử, viễn thông, kiến trúc,
vật liệu, hoá chất, luyện kim.
- Đối với sản xuất và dịch vụ:
. Sản xuất: điện tử, hoá chất, cơ khí, công nghiệp nhẹ và sản xuất khác.
. Dịch vụ: công nghệ thông tin và viễn thông, tài chính và doanh nghiệp v.v...
1.4 Kết quả của hoạt động nghiên cứu và phát triển
Số lượng Patent được áp dụng trong năm 1997 là 490, tăng 55% so với năm
1996. Số lượng Patent được cấp giấy chứng nhận đạt con số 132, tăng 45% so với
năm 1996.
Trong năm 1996 và năm 1997 theo thống kê của các doanh nghiệp, nguồn thu
từ hoạt động nghiên cứu và phát triển mang lại 6,1 tỷ đôla Singapore, tương ứng với
10% thu nhập của các doanh nghiệp ở Singapore.
2. Đầu tư cho nghiên cứu và phát triển
Theo báo cáo của Bộ khoa học và công nghệ Singapore hàng năm Nhà nước
dành một khoản ngân sách tăng dần để đầu tư cho hoạt động nghiên cứu và phát
triển: Từ 0,54% GDP năm 1984 tăng lên 1,47% GDP năm 1997 và phấn đấu đến năm
2005 đạt 2%GDP. Trong đó phần đầu tư của khu vực tư nhân cho hoạt động nghiên
cứu và phát triển chiếm 61% và xu hướng này đang được Nhà nước Singapore
khuyến khích nhằm tăng cường năng lực cạnh tranh trên thị trường thế giới. Bộ khoa
học và công nghệ Singapore tiếp tục các biện pháp trợ giúp mạnh mẽ cho các doanh
nghiệp, các Viện nghiên cứu và các Trung tâm nghiên cứu đẩy mạnh nghiên cứu các
lĩnh vực công nghệ tiềm tàng nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và sức mạnh kinh

tế của Singapore.
- Mức đầu tư bình quân năm cho mỗi cán bộ nghiên cứu khoa học cũng được
tăng dần từ 89.250 đôla Singapore năm 1984 tăng lên 186.210 đôla năm 1997

24


(125.400USD). Chỉ số này năm 1996 ở Hàn Quốc 102.410 USD, Đài Loan
93.510USD, Thuỵ Điển 394.830USD, Nhật Bản 194.180USD.
- Cơ cấu đầu tư cho hoạt động nghiên cứu và phát triển:
*
Khu vực tư nhân từ 106,7 triệu đôla năm 1984 tăng lên 1314,5 triệu đô
la năm 1997 và chiếm 13,2% tổng kinh phí đầu tư cho nghiên cứu và phát triển.
*
Khu vực Nhà nước từ 38 triệu đôla năm 1984 tăng lên 216,1 triệu đôla
năm 1997 và chiếm 10,3% tổng kinh phí đầu tư cho nghiên cứu và phát triển.
*
Khu vực công cộng từ 43,1 triệu đôla năm 1990 tăng lên 296,2 triệu
đôla năm 1997 và chiếm 14,1% tổng kinh phí đầu tư cho nghiên cứu và phát triển.
3. Nhân lực nghiên cứu và phát triển
- Ở Singapore, nguồn nhân lực nghiên cứu và phát triển chia 3 loại:
*
*
*

Nghiên cứu viên
Kỹ thuật viên
Phục vụ nghiên cứu

Trong nghiên cứu viên chia 2 loại:

*
*

Các nhà khoa học có bằng cấp (Tiến sỹ, thạc sỹ, đại học)
Loại không có bằng cấp chính quy

Tính đến cuối năm 1997, tổng số người tham gia hoạt động nghiên cứu và
phát triển là 17.219 người, bằng 11,7% so với năm1996. Trong đó các nhà khoa học
và kỹ sư 11.302 người chiếm 65,6% tổng số, kỹ thuật viên chiếm 13,3% tổng số,
người nghiên cứu không có bằng đại học chính quy 11,8% tổng số, nhân viên hỗ trợ
hoạt động nghiên cứu và phát triển khác 9,2% tổng số.
- Phân bố nguồn nhân lực nghiên cứu và phát triển
*
Số nhân lực hoạt động nghiên cứu và phát triển ở khu vực tư nhân năm
1997 là 9749 người, chiếm 56,6% tổng số.
*
Số nhân lực hoạt động nghiên cứu và phát triển ở khu vực các Viện
nhà nước chiếm 9,0%.
*
Số nhân lực hoạt động nghiên cứu và phát triển ở các Viện và trung
tâm thuộc khu vực công cộng chiếm 10,9%.

25


×