Tải bản đầy đủ (.pdf) (157 trang)

tự truyện, hồi kí tự truyện của nguyên hồng, hồ dzếnh, tô hoài từ góc nhìn diễn ngôn nghệ thuật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 157 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Thị Thu Thủy

TỰ TRUYỆN, HỒI KÍ - TỰ TRUYỆN
CỦA NGUYÊN HỒNG, HỒ DZẾNH, TÔ HOÀI
TỪ GÓC NHÌN DIỄN NGÔN NGHỆ THUẬT

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh - 2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Thị Thu Thủy

TỰ TRUYỆN, HỒI KÍ – TỰ TRUYỆN
CỦA NGUYÊN HỒNG, HỒ DZẾNH, TÔ HOÀI
TỪ GÓC NHÌN DIỄN NGÔN NGHỆ THUẬT

Chuyên ngành: Lí luận văn học
Mã số: 60 22 01 20

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. NGUYỄN THÀNH THI


Thành phố Hồ Chí Minh – 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả
nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kì công trình nào
khác.
Người thực hiện

Nguyễn Thị Thu Thủy


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình hoàn thành luận văn, cùng với những nỗ lực của bản thân, người
viết đã nhận được sự động viên, giúp đỡ của rất nhiều người.
Người viết xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy Nguyễn Thành
Thi – Trưởng khoa Ngữ văn Trường Đại học Sư phạm Tp. HCM. Thầy đã tận tình chỉ
bảo và hướng dẫn người viết trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành
luận văn tốt nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong Khoa Ngữ văn, các thầy cô giáo ở
Phòng Sau Đại học trường Đại học Sư phạm Tp. HCM, Tổ thông tin Thư viện Đại học
Sư phạm Tp. HCM, Tổ thông tin Thư viện Khoa học Tổng hợp, cùng các anh (chị) lớp
Lí luận văn học K23 đã hướng dẫn, giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi để người viết
hoàn thành luận văn.
Xin cảm ơn Ban giám hiệu, các thầy cô giáo trường THPT chuyên Quang Trung
đã tạo mọi điều kiện thuận lợi trong công tác để người viết hoàn thành luận văn đúng
thời hạn.
Xin cảm ơn Cha Mẹ, đồng nghiệp và bạn bè đã động viên, khích lệ người viết
trong suốt quá trình làm luận văn.
Cuối cùng, xin kính gửi lời chúc sức khỏe và hạnh phúc đến tất cả mọi người.

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 9 năm 2014

Nguyễn Thị Thu Thủy


Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................1
Chương 1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU
ĐỐI TƯỢNG ............................................................................................15
1.1. Tự truyện, hồi kí - tự truyện như là những loại hình diễn ngôn .........................15
1.1.1. Khái niệm hồi kí; tự truyện ; hồi kí - tự truyện ...........................................15
1.1.2. Phương pháp nghiên cứu loại hình và việc phân xuất các loại hình diễn
ngôn nghệ thuật ..........................................................................................24
1.2. Diễn ngôn nghệ thuật và diễn ngôn tự truyện, diễn ngôn hồi kí - tự truyện ......26
1.2.1. Một số hướng tiếp cận diễn ngôn và hướng tiếp cận của tác giả luận văn .27
1.2.2. Sự hội tụ cái tôi tác giả, chủ thể viết, chủ thể kể trong diễn ngôn tự truyện,
hồi kí - tự truyện ........................................................................................33
1.2.3. Đặc điểm nội dung, cảm hứng, thế giới nghệ thuật của tự truyện, hồi kí - tự
truyện từ góc nhìn diễn ngôn .....................................................................38
1.2.4. Đặc điểm ngôn từ và phương thức thể hiện nội dung, cảm hứng của tự
truyện, hồi kí - tự truyện từ góc nhìn diễn ngôn ........................................41
1.2.5. Sự chi phối của thời - không gian trong tự truyện, hồi kí - tự truyện đối với
văn bản nghệ thuật: nét đặc trưng thi pháp thể loại nổi bật .......................45
1.3. Tự truyện, hồi kí - tự truyện trong sáng tác của Nguyên Hồng, Hồ Dzếnh, Tô
Hoài.....................................................................................................................47
1.3.1. Tự truyện, hồi kí - tự truyện của Nguyên Hồng ..........................................47
1.3.2. Tự truyện của Hồ Dzếnh .............................................................................48

1.3.3. Tự truyện, hồi kí - tự truyện của Tô Hoài ...................................................50
Tiểu kết chương 1 ........................................................................................................52


Chương 2. MÃ NỘI DUNG DIỄN NGÔN TRONG TỰ TRUYỆN, HỒI KÍ - TỰ
TRUYỆN CỦA NGUYÊN HỒNG, HỒ DZẾNH, TÔ HOÀI ..............53
2.1. Diễn ngôn tự truyện, hồi kí - tự truyện – diễn ngôn về “sự thật” nhằm thỏa mãn
nhu cầu nhận thức về cá nhân .............................................................................54
2.1.1. Suy ngẫm, đánh giá lại chính mình .............................................................54
2.1.2. Giải thích trình trạng hiện tồn của chủ thể kể .............................................62
2.2. Diễn ngôn tự truyện, hồi kí - tự truyện như là diễn ngôn về “sự thật” nhằm thể
hiện cái nhìn hồi quang về thế giới dĩ vãng ........................................................67
2.2.1. Bức tranh thiên nhiên, bức tranh sinh hoạt, đời sống xã hội .......................68
2.2.2. Sự xuất hiện của con người như là tâm điểm của hoạt động hồi tưởng ......75
2.3. Các yếu tố chi phối diễn ngôn về “sự thật” trong tự truyện, hồi kí - tự truyện của
Nguyên Hồng, Hồ Dzếnh, Tô Hoài ....................................................................82
2.3.1. Hoàn cảnh lịch sử, xã hội chi phối hệ tư tưởng ...........................................82
2.3.2. Cái nhìn sắc tộc, ý thức cội nguồn ..............................................................86
2.3.3. Dấu ấn của đức tin, tôn giáo ........................................................................89
2.3.4. Cái nhìn nữ quyền .......................................................................................91
2.3.5. Thời điểm sáng tác ......................................................................................94
2.3.6. Tự tạo cơ hội đối thoại trực tiếp với bạn đọc ..............................................95
Tiểu kết chương 2 ........................................................................................................97
Chương 3. MÃ NGHỆ THUẬT DIỄN NGÔN TRONG TỰ TRUYỆN, HỒI KÍ TỰ TRUYỆN CỦA NGUYÊN HỒNG, HỒ DZẾNH, TÔ HOÀI........98
3.1. Cấu trúc diễn ngôn của ý thức hồi tưởng ...........................................................98
3.1.1. Kết hợp linh hoạt các phương thức trần thuật .............................................98
3.1.2. Sự hòa phối điểm nhìn trong kiến tạo diễn ngôn ......................................102
3.1.3. Kĩ thuật tăng tốc, giảm tốc, đảo thuật, dự thuật ........................................106
3.2. Kĩ thuật tạo tác diễn ngôn trần thuật ................................................................112
3.2.1. Diễn ngôn của người kể chuyện ................................................................112



3.2.2. Diễn ngôn nhân vật ....................................................................................116
3.2.3. Vị thế tiếng nói của cái tôi tự truyện và sự đan bện, hòa phối các lớp diễn
ngôn trong tự truyện, hồi kí - tự truyện của ba nhà văn ..........................121
3.3. Xu hướng liên kết, tổng hợp và lấn át trong tương tác thể loại ........................126
3.3.1. Xu hướng tổng hợp hình thức tự sự cỡ nhỏ với tự sự cỡ lớn ....................126
3.3.2. Xu hướng liên kết, tổng hợp tự truyện với tiểu thuyết ..............................128
3.3.3. Xu hướng tổng hợp và lấn át giữa tự truyện và hồi kí ..............................131
3.3.4. Xu hướng xâm lấn, mở rộng của chất thơ .................................................135
Tiểu kết chương 3 ......................................................................................................138
KẾT LUẬN ................................................................................................................139
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................142


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Tự truyện, hồi kí - tự truyện là hai thể loại văn học không mới nhưng khi
nhìn vào thực tiễn sáng tác cũng như thực tiễn nghiên cứu văn học ở Việt Nam thì có
thể xem là đây là những thể loại ít được chú trọng. Trong những năm trở lại đây, cùng
với sự nở rộ của thể loại tự truyện trên văn đàn là nhu cầu cắt nghĩa lại đặc trưng của
thể loại văn học này. Cuộc tranh luận thực chất có tồn tại hay không thể loại tự truyện
trong văn học Việt Nam đã khơi dậy nhiều vấn đề cần bàn bạc. Thêm vào nữa, đường
biên thể loại giữa tự truyện và hồi kí, tự truyện và tiểu thuyết tự thuật, về xu hướng
tổng hợp, liên kết, lấn át trong tương tác thể loại của những tác phẩm chuyên viết về
“người thật việc thật”,… vẫn còn nhiều vấn đề bỏ ngỏ. Trung tâm của khái niệm tự
truyện, hồi kí - tự truyện là vấn đề “sự thật” cũng đang là vấn đề gây nhiều tranh cãi.
Những “nhập nhằng” về thể loại và “lỗ hổng” về tri thức xung quanh khái niệm “sự

thật” đã không ngừng kêu gọi giới nghiên cứu tham gia tìm hiểu, mổ xẻ, phân định.
1.2. Nghiên cứu diễn ngôn là một hướng nghiên cứu khá mới mẻ nở rộ vào thế
kỷ XX, xuất phát từ thành tựu của khoa nghiên cứu ngôn ngữ học. Sự xuất hiện của nó
đã làm cho tư duy lý thuyết của các ngành khoa học xã hội và nhân văn có một bước
chuyển biến mới. Đặc biệt là khái niệm “sự thật” trong văn học được cắt nghĩa lại. Các
hiện tượng văn học vì thế không còn được xem xét bằng cách quy chiếu nó với thực tại
có thật mà được xem xét trong mối quan hệ với các diễn ngôn lân cận. Tác phẩm văn
học lúc này không còn là một thực thể khép kín mà là sự kết hợp của các lớp diễn
ngôn, không còn là một thực thể tĩnh tại mà là một thực thể sinh động gắn với hoạt
động giao tiếp. Hệ quả là nghiên cứu văn học chuyển sang hướng nghiên cứu diễn
ngôn và các yếu tố chi phối việc hình thành, cấu trúc các lớp diễn ngôn ấy. Nền tảng lý
thuyết diễn ngôn cùng với cách cắt nghĩa về khái niệm “sự thật” của nó đã cung cấp
cho chúng tôi một cách tiếp cận mới về thể loại tự truyện, hồi kí - tự truyện nói chung
và tự truyện, hồi kí - tự truyện của ba tác giả Nguyên Hồng, Hồ Dzếnh, Tô Hoài nói
riêng, góp phần giải quyết những vấn đề cốt yếu của thể loại này như vai trò, khuynh
hướng, sắc thái, các yếu tố quyền lực chi phối lên khái niệm “sự thật” được xem là cốt


2

lõi của thể loại tự truyện, hồi kí - tự truyện và sự chi phối của nó đến quá trình kiến
tạo, cấu trúc các lớp diễn ngôn. Qua đó giúp chúng ta có một cái nhìn toàn diện hơn về
những thể loại văn học này.
1.3. Nguyên Hồng, Hồ Dzếnh, Tô Hoài là những cây bút văn xuôi tự sự tiêu biểu
của Việt Nam. Sự nghiệp sáng tác văn học của họ đã được khẳng định bằng những tập
tiểu thuyết, những tập truyện ngắn, tập thơ,… Và đặc biệt, trong hành trình sáng tác
ấy, họ đã ghi lại, hồi tưởng lại, cắt nghĩa lại tuổi thơ cũng như những khoảng thời gian
sống và làm việc đáng ghi nhớ của cuộc đời mình, mang đến cho độc giả những tác
phẩm tự truyện, hồi kí - tự truyện hấp dẫn, đặc sắc. Mỗi nhà văn có một quá khứ riêng,
hơn thế nữa họ lại có những cách cảm, cách nghĩ, cách đánh giá, giải thích, tái tạo

riêng về quá khứ của mình. Đặc biệt, trong khuôn khổ đặc điểm thể loại tự truyện và
hồi kí - tự truyện, họ đã có những nét riêng trong cách thức xây dựng tác phẩm, trong
cách kể chuyện,… Chính vì lẽ đó, mỗi trang truyện là một thế giới riêng, độc đáo,
không lặp lại ở bất kỳ ai. Nghiên cứu tự truyện và thể loại kế cận nó : hồi kí - tự truyện
của Nguyên Hồng, Hồ Dzếnh, Tô Hoài dưới góc độ diễn ngôn nghệ thuật sẽ mang lại
một cái nhìn mới, giúp cắt nghĩa lại những vấn đề đang bỏ ngõ và tìm ra phong cách
cũng như sự biến đổi trong quá trình sáng tác của ba nhà văn.

2. Lịch sử nghiên cứu
2.1. Các nghiên cứu lý thuyết về vấn đề diễn ngôn ở Việt Nam
Nghiên cứu diễn ngôn là một hướng nghiên cứu khá mới xuất hiện vào thế kỷ
XX ở phương Tây và bắt đầu nở rộ, ảnh hưởng đến khoa nghiên cứu văn học của các
nước khác trên thế giới. Lý thuyết về diễn ngôn đã được nhiều nhà nghiên cứu bàn
luận và hoàn thành bằng nhiều công trình được công bố. Ở Việt Nam, lý thuyết về
nghiên cứu diễn ngôn chủ yếu được dịch và giới thiệu ở lĩnh vực ngôn ngữ học. Có thể
kể đến những công trình như Phân tích diễn ngôn của Gillian Brown và George Yule
do Trần Thuần dịch. Riêng về lý luận văn học, có một số tác giả đã viết những bài viết
xác định đối tượng nghiên cứu cũng như các hướng nghiên cứu diễn ngôn. Có thể kể
đến một số bài viết sau:


3

Trần Đình Sử trong bài viết Khái niệm diễn ngôn trong nghiên cứu văn học hôm
nay đã cho người đọc một số tri thức về khái niệm diễn ngôn, tìm hiểu rõ căn nguyên
ra đời của vấn đề diễn ngôn và vai trò quan trọng của diễn ngôn trong tu từ học và thi
pháp học. Đặc biệt, tác giả đã nhấn mạnh đến những luận điểm quan trọng về diễn
ngôn dưới cái nhìn của ba nhà nghiên cứu đại diện cho ba lĩnh vực có liên quan đến
khái niệm này: F.de Sausure (ngôn ngữ học), M.Bakhtin (thi pháp học), M.Foucault
(xã hội học).

Nguyễn Thị Ngọc Minh trong bài viết Giới thiệu cuốn “Diễn ngôn tự sự” của
Gerard Genette đã trình bày một cách sơ lược nhất quan điểm của Genette về diễn
ngôn tự sự. Ông cho rằng “Diễn ngôn tự sự chính là con đường trực tiếp nhất để phân
tích văn bản, là công cụ trực tiếp nhất để nghiên cứu tự sự văn học, đặc biệt là sự hư
cấu. Thực chất, nghiên cứu về diễn ngôn tự sự là nghiên cứu về mối quan hệ giữa ba
thuật ngữ: câu chuyện (nội dung kể - story), tự sự (văn bản tự sự - narrative) và hoạt
động kể (narrating)”. Genette đã nghiên cứu diễn ngôn tự sự dựa trên ba phạm trù cơ
bản đó là Tense (thời: mối liên hệ thời gian giữa câu chuyện và diễn ngôn), Mood
(thức: những phương thức trình bày), Voice (giọng: cách thức biểu hiện của người trần
thuật trong câu chuyện).
Nguyễn Mạnh Quỳnh trong bài viết Một số luận điểm cơ bản trong Diễn ngôn tự
sự của G. Genette (in trong Tạp chí khoa học trường Đại học Sư phạm Hà Nội, số 5
năm 2006) đã tóm tắt một số luận điểm cơ bản được Genette trình bày trong cuốn Diễn
ngôn tự sự. Bằng việc tuyển dịch và tóm tắt, tác giả đã cho người đọc hiểu được một
số khái niệm cơ bản của Genette như: THỜI (trình tự, khoảng thời gian, tần số),
THỨC (khoảng cách, tụ điểm), GIỌNG KỂ (thời gian kể chuyện, các cấp độ trần
thuật, ngôi). Công trình cũng giới thiệu cho người đọc biết về những kĩ thuật tạo tác
diễn ngôn trần thuật như đảo thuật, dự thuật, tóm tắt, tỉnh lược, ngừng nghỉ,...
Trong bài viết Ba cách tiếp cận khái niệm diễn ngôn, Nguyễn Thị Ngọc Minh
cũng đã trình bày cho người đọc một cách khá chi tiết về ba quan điểm cơ bản, đại
diện cho ba trường phái tiếp cận khái niệm diễn ngôn này. Một là cách tiếp cận theo
hướng ngôn ngữ học của F.de Sausure, Todorov, Genette, Roland Barthes,… Thứ hai


4

là cách tiếp cận theo hướng phong cách học của M.Bakhtin. Thứ ba là cách tiếp cận
theo hướng xã hội học của M.Foucault.
2.2. Các nghiên cứu vận dụng lý thuyết diễn ngôn ở Việt Nam
Mặc dù mới được giới thiệu trong thời gian gần đây nhưng lý thuyết diễn ngôn

đã được vận dụng khá rộng rãi trong nhiều công trình nghiên cứu khoa học lớn nhỏ
trong cả nước. Có thể kể đến một số công trình nổi bật sau:
Luận án Tiến sĩ mang tên Kí như một loại hình diễn ngôn (2013) của Nguyễn
Thị Ngọc Minh đã vận dụng khái niệm diễn ngôn để phân tích đặc điểm thể loại văn
học kí nói chung và kí trong văn học Việt Nam nói riêng. Bằng công trình nghiên cứu
của mình, tác giả đã đưa ra những nhận xét thích đáng về thể loại kí, đặc biệt là sự tác
động, chi phối của mã sự thực và mã thể loại đã tạo nên những đặc trưng riêng của thể
kí: “Kí là loại hình văn học có mã thể loại kép: vừa chịu sự chi phối của những mã
ngoài nghệ thuật, vừa chịu sự chi phối của mã thể loại nghệ thuật. Mã thể loại ngoài
nghệ thuật đã khiến cho trong bộ khung cấu trúc của kí có tồn tại những mã thể loại
biên niên, kỉ truyện, khảo cứu lịch sử,… Mã thể loại nghệ thuật lại khiến cho các sự
kiện trong kí được tổ chức thành một khung truyện kể, có một câu chuyện, một ý nghĩa
thống nhất, các sự vật, sự kiện được khắc họa sinh động bằng các chi tiết, các đoạn
miêu tả chân dung, phong cảnh…, lời văn của kí là lời văn nghệ thuật được lạ hóa, có
một giọng điệu cảm xúc riêng, tất cả những yếu tố làm nên sức sống, sức hấp dẫn và
giá trị lâu bền của kí” [55].
Nguyễn Thị Hải Phương trong luận án Tiến sĩ Tiểu thuyết Việt Nam đương đại
nhìn từ góc độ diễn ngôn (2012), đã vận dụng lý thuyết diễn ngôn vào nghiên cứu tiểu
thuyết Việt Nam đương đại. Trong công trình này, tác giả luận án đã chỉ ra hai khuynh
hướng cơ bản trong diễn ngôn tiểu thuyết đương đại đó chính là diễn ngôn thế tục và
diễn ngôn chấn thương. Trong mỗi phần, Nguyễn Thị Hải Phương đã vận dụng hướng
tiếp cận xã hội học của Foucault để nghiên cứu cơ chế văn hóa – xã hội chi phối lên
việc hình thành các khuynh hướng diễn ngôn đó, đồng thời cho thấy hệ thống nhân vật
được các tác giả xây dựng tương ứng.


5

Nguyễn Thị Ngọc Minh trong bài nghiên cứu Diễn ngôn về xứ thuộc địa trong
tác phẩm Người tình của M.Duras đã vận dụng khái niệm diễn ngôn để nghiên cứu các

yếu tố chi phối cái nhìn, cách cảm, cách nghĩ của tác giả đối với thiên nhiên, con
người Việt Nam trong những năm tháng mà tác giả lưu lạc lại mảnh đất này. Đó chính
là mối quan hệ nước đôi giữa diễn ngôn thực dân và thuộc địa, cùng với đó là diễn
ngôn về giới nhằm khẳng định quyền bình đẳng của người phụ nữ.
Trong công trình Về một diễn ngôn tính dục trong văn xuôi nghệ thuật Việt Nam
(từ đầu thế kỉ XX đến 1945) (2009), Trần Văn Toàn vận dụng lí thuyết diễn ngôn của
Foucault để triển khai đề tài. Theo Foucault, bản chất người sinh ra dựa trên những
quan niệm hợp thức chịu sự chi phối của những mối quan hệ quyền lực, thể chế xã hội.
Vì vậy, câu hỏi mà người ta đặt ra không phải là “cái tôi, con người, bản chất người
đã được khám phá như thế nào mà là những phạm trù trên đã được tạo lập như thế
nào” [83, tr.250]. Trên cơ sở đó, Trần Văn Toàn đã đưa ra những dẫn liệu chứng minh
diễn ngôn trong văn học có sự chuyển đổi từ diễn ngôn đạo đức sang diễn ngôn khoa
học về tính dục. Tác giả khẳng định : “Văn học là một diễn ngôn trong hệ thống diễn
ngôn xã hội. Một cách tự nhiên chịu sự tương tác của những diễn ngôn khác. Bằng
cách ấy, tính dục trở thành đối tượng đặc biệt của diễn ngôn văn học” [83, tr.295].
Nguyễn Đăng Vy với bài viết Đặc điểm diễn ngôn trần thuật trong truyện ngắn
Nhất Linh, Khái Hưng đã vận dụng lý thuyết tự sự học để nghiên cứu những tác phẩm
của hai nhà văn nổi tiếng của Tự lực văn đoàn. Theo đó, tác giả đã chia diễn ngôn
thành hai lớp: diễn ngôn nhân vật và diễn ngôn người kể chuyện và tiến hành khảo sát
ngôi kể, hình thức kể, tần suất sử dụng lời thoại và đưa ra những kết luận khoa học về
phong cách trần thuật của Nhất Linh và Khái Hưng. Một đóng góp của tác giả cũng
cần phải kể đến đó là việc nghiên cứu sự tương tác giữa diễn ngôn của người kể
chuyện, diễn ngôn của nhân vật và vai trò điều phối của tác giả trong quá trình kiến
tạo, tổ chức các lớp diễn ngôn.
Đi sâu vào hướng nghiên cứu diễn ngôn trần thuật, Lâm Thị Liên Lan trong công
trình Về diễn ngôn người kể chuyện trong truyện ngắn Trang Thế Hy đã tập trung thu
nhỏ phạm vi nghiên cứu của mình chỉ xoay quanh diễn ngôn người kể chuyện. Theo


6


đó, tác giả đã đi sâu khảo sát các lớp diễn ngôn cấu thành diễn ngôn của người kể
chuyện như diễn ngôn tả, diễn ngôn kể, diễn ngôn bình luận.
Ngoài ra còn có thể kể đến một số công trình khác như: Diễn ngôn gián tiếp tự
do trong truyện ngắn Cá sống của Nguyễn Ngọc Thuần (Hoàng Tố Mai); Nghệ thuật
xây dựng diễn ngôn tình yêu trong tương quan giữa văn bản tiểu thuyết Tình yêu thời
thổ tả với tiểu sử tự truyện của G.G.Marquez (Phan Tuấn Anh); Quy ước diễn ngôn
văn chương giai đoạn 1986-1991 (Hồng Duy); Lớp văn bản ngôn từ của truyện ngắn
cách mạng Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975 nhìn từ góc độ lý thuyết diễn ngôn (Hoàng
Thị Thu Giang);...
Qua việc thống kê, phân tích, mô tả những công trình nghiên cứu trên, chúng tôi
nhận thấy các tác giả chủ yếu vận dụng hướng nghiên cứu xã hội học (Nguyễn Thị Hải
Phương, Trần Văn Toàn, Phan Tuấn Anh,...) hoặc khai thác diễn ngôn theo khía cạnh
trần thuật với quy mô nhỏ như diễn ngôn người kể chuyện, diễn ngôn đối thoại, độc
thoại,... mà chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, tổng thể những
yếu tố cụ thể chi phối đến quá trình tạo lập diễn ngôn hoặc vận dụng đồng thời các
hướng nghiên cứu diễn ngôn vào một tác phẩm cụ thể. Có thể nói, trong những công
trình trên, Kí như một loại hình diễn ngôn là công trình vận dụng hướng nghiên cứu
diễn ngôn một cách sâu rộng nhất, xác lập được đặc trưng thể loại kí dựa trên cơ sở
phân tích diễn ngôn. Mặc dù sự vận dụng hướng nghiên cứu diễn ngôn trong khoa học
nghiên cứu văn học ở Việt Nam chưa trở nên phổ biến, rộng rãi và thực sự sâu rộng.
Tuy vậy, những công trình trên đã định hướng cho chúng tôi rất nhiều trong việc triển
khai đề tài.
2.3. Các nghiên cứu về tự truyện, hồi kí - tự truyện Việt Nam và tự truyện,
hồi kí - tự truyện của Nguyên Hồng, Hồ Dzếnh, Tô Hoài
Nghiên cứu về tự truyện và hồi kí - tự truyện cũng là một đề tài thu hút đối với
giới nghiên cứu văn học ở Việt Nam. Có thể kể đến một số công trình tiêu biểu như:
Phạm Ngọc Lan trong luận án Tiến sĩ Tự truyện trong văn học Việt Nam (2006)
là một công trình nghiên cứu khá toàn diện về thể loại tự truyện trong văn học Việt
Nam. Tác giả luận văn đã xác lập nên khung thể loại tự truyện, đưa ra những nhận



7

định khá thuyết phục về lý thuyết tự truyện, phân định nó với các thể loại kế cận như
hồi ký, tiểu thuyết tự thuật. Quan trọng hơn, tác giả đã chỉ ra mối quan hệ về sự thay
đổi quan niệm về cái tôi trong văn học hiện đại Việt Nam với sự ra đời và phát triển
của thể loại tự truyện. Đặc biệt, tác giả luận văn đã có những đóng góp lớn trong việc
nghiên cứu sự chuyển dịch kết cấu và cốt truyện, sự đan cài các lớp không - thời gian
và giọng điệu trần thuật trong tự truyện Việt Nam. Theo chúng tôi, đây là một công
trình khoa học có đóng góp lớn không chỉ về mặt lý thuyết bằng việc xác lập khung
thể loại tự truyện, một công việc chưa được nghiên cứu triệt để và toàn diện ở Việt
Nam, mà còn đã góp phần chỉ ra những dấu hiệu, đặc điểm nổi bật của tự truyện Việt
Nam qua các thời kỳ cũng như những yếu tố chi phối sự thay đổi đó.
Dương Thị Thu Hiền trong luận văn Thạc sĩ Tô Hoài với hai thể văn: chân dung
và tự truyện (2007) đã chỉ ra một số đặc điểm về cả phương diện nội dung và nghệ
thuật của hai thể văn chiếm vị trí không nhỏ trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn này.
Trong đó, tác giả đã nêu lên hai đặc điểm khá nổi bật trong tự truyện của Tô Hoài đó
chính là nhãn quan thế sự, sinh hoạt và dấu ấn của nghệ thuật tiểu thuyết. Không chỉ
vậy, tác giả luận văn còn trình bày cho người đọc những đặc sắc về phương diện ngôn
ngữ và nghệ thuật kể chuyện của Tô Hoài.
Đỗ Thị Vân Oanh trong luận văn Thạc sĩ Đặc điểm của tự truyện và hồi ký
Nguyên Hồng (2005), đã nghiên cứu hai thể loại tự truyện và hồi ký của Nguyên Hồng
ở hai mặt nội dung và hình thức. Đặc biệt trong thể loại tự truyện, tác giả luận văn đã
nhận ra hai đặc điểm tiêu biểu của tự truyện Nguyên Hồng đó là bi kịch tuổi thơ và
tiếng nói cảm thông, tình thương yêu sâu sắc của tác giả đối với con người. Về phương
diện nghệ thuật, Đỗ Thị Vân Oanh đã tiến hành nghiên cứu những đặc điểm về cái tôi
tác giả - nhân vật, nghệ thuật xây dựng cốt truyện và lời văn trần thuật.
Nguyễn Thị Ái Vân trong luận văn Thạc sĩ Đặc điểm nghệ thuật tự truyện và hồi
ký của Tô Hoài (2011) đã nghiên cứu hai thể loại tự truyện và hồi ký của Tô Hoài dưới

hai góc độ. Thứ nhất, tác giả luận văn đã tiến hành nghiên cứu nghệ thuật tái hiện, tái
tạo hồi ức và tiếng nói của cái tôi. Thứ hai, tác giả tập trung tìm hiểu nghệ thuật trần
thuật với những phương diện chính như: kết hợp trần thuật theo diễn biến sự kiện và


8

trần thuật theo dòng hồi ức; sự hòa phối điểm nhìn; kỹ thuật giảm tốc, tăng tốc, đảo
thuật, dự thuật; kết hợp ưu thế của các loại diễn ngôn, phát huy sức mạnh ngôn từ và
đặc điểm giọng điệu trần thuật;…
Lê Thị Lan trong luận văn Thạc sĩ Thể loại tự truyện qua Những ngày thơ ấu của
Nguyên Hồng và Sống nhờ của Mạnh Phú Tư đã tiến hành nghiên cứu trên cơ sở so
sánh hai phong cách tiêu biểu trong làng văn học Việt Nam trong việc sử dụng chung
một thể loại để tái hiện lại hai số phận trẻ thơ có phần nào bất hạnh giống nhau. Về
mặt nội dung, tác giả đã đặt hai nhà văn với hai tác phẩm trên trục so sánh với những
tiêu chí: cảm hứng, cái nhìn hiện thực, sự khẳng định của cái tôi tác giả. Về mặt nghệ
thuật, tác giả đã tiến hành so sánh về kết cấu cốt truyện, nghệ thuật trần thuật và giọng
điệu, ngôn ngữ. Từ việc nghiên cứu theo hướng so sánh trên, tác giả đã chỉ ra được
những nét đặc trưng trong phong cách tự truyện của hai nhà văn, đồng thời phần nào
khái quát được những đặc điểm chung của thể loại tự truyện về cả phương diện nội
dung và nghệ thuật.
Còn có những công trình luận văn khác khai thác những khía cạnh khác nhau
trong tự truyện, hồi kí của Nguyên Hồng, Tô Hoài như Cái nhìn, không gian và thời
gian nghệ thuật trong hồi kí của Tô Hoài (Nguyễn Hoàng Hà); Nghệ thuật trần thuật
trong hồi kí của Tô Hoài (Lê Thị Hà); Hai phong cách hồi kí: Những ngày thơ ấu
(Nguyên Hồng) và Cỏ dại (Tô Hoài) (Phạm Thị Hiền); ... Ngoài những luận án, luận
văn trên, nghiên cứu tự truyện và hồi kí - tự truyện còn được thể hiện ở nhiều bài viết,
bài báo khác. Có thể kể đến như bài viết Tự truyện trong văn xuôi Đoàn Lê (Bùi Thanh
Truyền); Khuynh hướng tự truyện trong tiểu thuyết Một mình một ngựa của Ma Văn
Kháng (Đỗ Hải Ninh); Phan Bội Châu niên biểu (Phan Bội Châu) và Giấc mộng lớn

(Tản Đà) – những bước đi đầu tiên của tự truyện Việt Nam (Lê Tú Anh); …
Qua khảo sát chúng tôi nhận thấy những công trình trên chủ yếu nghiên cứu tự
truyện, hồi kí của Nguyên Hồng, Tô Hoài dưới góc độ thi pháp hoặc trần thuật học.
Các tác giả đều đã có những đóng góp lớn trong việc tìm hiểu và chỉ ra những đặc sắc
về nội dung, về nghệ thuật của tự truyện, hồi kí - tự truyện của Nguyên Hồng và Tô
Hoài. Riêng với Hồ Dzếnh, tác phẩm Chân trời cũ chủ yếu được nghiên cứu trên góc


9

độ thể loại truyện ngắn hoặc khai thác trên phương diện trữ tình như trong công trình
Ba phong cách truyện ngắn trữ tình (Phạm Thị Thu Hương). Qua quá trình nghiên
cứu, các công trình trên đã cho người đọc thấy được những nét riêng trong phong cách
tự sự của ba nhà văn, đồng thời thấy được đóng góp của họ trong nền văn học nước
nhà. Tuy nhiên, về đại thể, chúng tôi nhận thấy chưa hề có công trình nào đặt vấn đề
nghiên cứu tự truyện, hồi kí - tự truyện dưới góc độ diễn ngôn. Trong một số công
trình, các tác giả đã phần nào chỉ ra được những yếu tố chi phối đến quá trình sáng tác
tự truyện, hồi kí của họ. Tuy nhiên, những khảo sát đó chưa mang tính đồng bộ, hệ
thống và toàn diện. Các công trình nghiên cứu tự truyện, hồi kí - tự truyện theo hướng
trần thuật cũng đã chỉ ra được những đặc điểm trong nghệ thuật tổ chức điểm nhìn,
ngôi kể, giọng điệu, ngôn ngữ trần thuật nhưng chưa chỉ ra được cơ chế nào chi phối
việc chủ thể kể vận dụng cách thức trần thuật đó. Những công trình trên cũng chưa chú
trọng nghiên cứu cơ chế tác động của khung thể loại đến quá trình kiến tạo diễn ngôn
tự truyện, hồi kí - tự truyện. Những điều chúng tôi vừa nêu lên không phải là hạn chế
mà là những điều mà các tác giả chưa chú trọng nghiên cứu bởi sự khác biệt về góc độ
quan sát, tìm hiểu: họ chưa xem xét các tác phẩm như một loại hình diễn ngôn trong
mối tương quan giao tiếp của con người.
Như vậy, tính đến thời điểm này, đã có rất nhiều những bài viết, công trình
nghiên cứu tự truyện, hồi kí - tự truyện của Nguyên Hồng, Hồ Dzếnh, Tô Hoài trên
nhiều khía cạnh, trong đó có đề cập đến khía cạnh ngôn ngữ và thể loại. Tuy nhiên,

chúng tôi vẫn chưa thấy có công trình nào trực tiếp tiếp cận tự truyện, hồi kí - tự
truyện của Nguyên Hồng, Hồ Dzếnh, Tô Hoài theo hướng nghiên cứu diễn ngôn một
cách có hệ thống và toàn diện. Xuất phát từ thực tế đó, chúng tôi đã đặt vấn đề tìm
hiểu: Tự truyện, hồi kí - tự truyện của Nguyên Hồng, Hồ Dzếnh, Tô Hoài dưới góc
nhìn diễn ngôn nghệ thuật.

3. Mục đích nghiên cứu
3.1. Bằng mô hình lý thuyết diễn ngôn nghệ thuật, chúng tôi mong muốn có thể
cắt nghĩa, lý giải vai trò, ý nghĩa của yếu tố “sự thật” được xem là cốt lõi, là hạt nhân
của thể loại tự truyện và hồi kí - tự truyện trong sáng tác của Nguyên Hồng, Hồ


10

Dzếnh, Tô Hoài. Từ đó, chúng tôi hướng tới việc nghiên cứu những yếu tố quyền lực,
những động cơ, mục đích, những yếu tố ngoài thể loại chi phối đến cách cảm, cách xây
dựng, cách kể về “sự thật” đó của mỗi tác giả. Tự truyện, hồi kí - tự truyện là những
thể loại tự thuật về quá khứ của mỗi tác giả. Tiếp cận những thể loại này theo hướng
diễn ngôn sẽ giúp chúng tôi trả lời những câu hỏi như: Tại sao chủ thể kể lại hướng sự
hồi tưởng về sự việc đó? Hồi tưởng về sự việc đó nhằm mục đích gì? Việc hồi tưởng
có đơn thuần để thỏa mãn nhu cầu nhận thức? Hồi tưởng về quá khứ đó có mối liên hệ
gì với hiện tại? Những yếu tố ngoài thể loại góp phần chi phối sắc thái diễn ngôn như
thể chế xã hội, sắc tộc, tôn giáo,... Qua đó, chúng tôi mong muốn có thể đem lại một
cách tiếp cận mới mẻ, rõ ràng hơn, góp phần lý giải phần nào những vấn đề mà giới
nghiên cứu còn tranh luận về thể loại này, góp phần hoàn thiện hơn những đặc trưng
nội dung của thể loại tự truyện, hồi kí - tự truyện.
3.2. Luận văn được thực hiện còn nhằm mục đích tìm ra dấu hiệu sự chi phối của
mã thể loại đến quá trình tạo tác diễn ngôn tự truyện, hồi kí - tự truyện. Mã thể loại là
một cơ chế tác động kép đên quá trình tạo lập diễn ngôn. Trong đó, nó vừa quy định
ngòi bút sáng tạo phải tuân thủ những yêu cầu đặc trưng của thể loại vừa hướng tới sự

vượt thoát khỏi ranh giới quy phạm đó để mở rộng phạm vi, khả năng phản ánh. Trung
tâm của vấn đề này là vai trò điều phối, tổ chức, sắp xếp, điều khiển các lớp diễn ngôn
của chủ thể kể. Nghiên cứu cơ chế tác động kép này, chúng tôi hy vọng đem đến một
cái nhìn mới, đầy đủ, toàn diện hơn về thể loại tự truyện – vốn chưa được nghiên cứu
một cách sâu rộng và thể loại kế cận của nó: hồi kí - tự truyện.
3.3. Chọn lựa tự truyện, hồi kí - tự truyện của Nguyên Hồng, Hồ Dzếnh, Tô Hoài
để khảo sát, trước hết, chúng tôi mong muốn có thể khám phá được những động cơ,
mục đích và những yếu tố khác chi phối đến quá trình tự thuật của các nhà văn. Từ đó,
ngoài việc thấy được những sắc thái, khuynh hướng chủ đạo trong diễn ngôn tự truyện,
hồi kí - tự truyện, chúng tôi còn hướng tới khám phá, tìm ra những điểm riêng, độc đáo
của họ trong mảng sáng tác tự truyện và hồi kí - tự truyện cũng như những đóng góp
của họ đối với mảng sáng tác tự truyện, hồi kí - tự truyện nói riêng và nền văn học
nước nhà nói chung.


11

4. Phương pháp nghiên cứu
Để triển khai đề tài Tự truyện, hồi kí - tự truyện của Nguyên Hồng, Hồ Dzếnh, Tô
Hoài, chúng tôi đã vận dụng những phương pháp nghiên cứu sau:
4.1. Phương pháp nghiên cứu loại hình: Tự truyện, hồi kí - tự truyện là những
thể loại trong hệ thống tổng thể các thể loại văn xuôi tự sự. Khi nghiên cứu tự truyện,
hồi kí - tự truyện của Nguyên Hồng, Hồ Dzếnh, Tô Hoài, chúng tôi luôn quan tâm đến
những đặc trưng nghệ thuật của những thể loại này nhằm tìm ra những quy ước nghệ
thuật của thể loại đã chi phối đặc điểm cũng như quy trình kiến tạo diễn ngôn. Bên
cạnh đó, phương pháp nghiên cứu loại hình cũng hỗ trợ chúng tôi phân xuất các loại
hình diễn ngôn trong từng cấp độ khảo sát. Ví dụ như trong diễn ngôn người kể
chuyện, phương pháp loại hình giúp chúng tôi phân xuất thành những tiểu loại nhỏ
hơn như diễn ngôn tả, diễn ngôn kể, diễn ngôn bình luận để việc khảo sát sẽ đi sâu,
rộng, đúng đối tượng, đúng mục tiêu.

4.2. Phương pháp nghiên cứu hệ thống: Để triển khai luận văn, chúng tôi đặt
những tự truyện của Nguyên Hồng, Hồ Dzếnh, Tô Hoài trong hệ thống tự truyện của
Việt Nam và hệ thống các thể loại khác trong sự nghiệp sáng tác của ba nhà văn này .
Điều này giúp chúng tôi tìm hiểu và làm rõ các đặc điểm riêng, độc đáo, cách tân của
loại hình diễn ngôn nghệ thuật trong tự truyện, hồi kí - tự truyện của Nguyên Hồng,
Hồ Dzếnh, Tô Hoài. Từ đó, tránh đưa ra những kết luận sai lệch, chủ quan.
4.3. Phương pháp phân tích diễn ngôn: Chúng tôi sử dụng hệ phương pháp
hình thức phân tích văn bản trong ngôn ngữ để phân tích tác phẩm thành các đơn vị
nhỏ hơn. Từ đó đặt ngôn ngữ trong hành động nói, trong bối cảnh giao tiếp sinh động
để giải quyết nội dung mà luận văn cần đạt. Đặc biệt là gắn diễn ngôn với hoạt động
giao tiếp của con người, từ đó truy tìm những yếu tố và quá trình, hệ quả chi phối đến
quá trình giao tiếp theo nghĩa rộng và quá trình kiến tạo diễn ngôn theo nghĩa hẹp của
nhà văn. Phương pháp phân tích diễn ngôn cũng giúp chúng tôi tìm hiểu cấu trúc, kĩ
thuật tạo tác diễn ngôn và đặc biệt là vai trò điều phối, tổ chức của chủ thể kể.
4.4. Phương pháp liên ngành văn học và ngôn ngữ: Bởi vì diễn ngôn ra đời
từ Ngữ học, sau đó được vận dụng vào nhiều ngành khoa học khác nhau. Văn học là


12

nghệ thuật ngôn từ, nó có liên quan mật thiết đến ngôn ngữ học. Vận dụng phương
pháp liên ngành văn học và ngữ học giúp tìm hiểu mối quan hệ giữa văn học và ngôn
ngữ, qua đó làm cơ sở để tìm hiểu rõ và triển khai các luận điểm của luận văn.
4.5. Phương pháp so sánh: Trong quá trình triển khai luận văn, muốn làm rõ
hơn đặc điểm diễn ngôn nghệ thuật trong tự truyện, hồi kí - tự truyện của Nguyên
Hồng, Hồ Dzếnh, Tô Hoài, chúng tôi có so sánh họ với nhau và so sánh với một số tác
phẩm của những nhà văn khác trên cùng một trục chủ đề hoặc thể loại hoặc thời điểm
sáng tác,... Từ đó có cơ sở khẳng định nét độc đáo trong cách xây dựng diễn ngôn
nghệ thuật trong tự truyện, hồi kí - tự truyện của họ. Phương pháp so sánh cũng giúp
chúng tôi trong việc đối chiếu các khung thể loại tự truyện, hồi kí, tiểu thuyết, truyện

ngắn,...để vừa thấy được đặc trưng của từng thể loại, vừa thấy được quá trình liên kết,
tổng hợp, xâm lấn trong tương tác thể loại.
Ngoài những phương pháp chính được sử dụng trong luận văn như đã trình bày
ở trên, chúng tôi còn sử dụng những thao tác sau:
-

Sử dụng thao tác phân tích: Trong quá tình thực hiện luận văn, chúng tôi vận
dụng thao tác phân tích để minh họa cho những nhận xét, lập luận của mình trên
cơ sở phân tích những dẫn chứng trích ra từ các tác phẩm tự truyện, hồi kí - tự
truyện của Nguyên Hồng, Hồ Dzếnh, Tô Hoài.

-

Sử dụng thao tác thống kê, mô tả: Chúng tôi sử dụng thao tác thống kê ở một
chừng mực nhất định nhằm phân loại các kiểu diễn ngôn trần thuật trong tự
truyện, hồi kí - tự truyện của Nguyên Hồng, Hồ Dzếnh, Tô Hoài, để xem xét
những hiện tượng có tính tập trung cao, có tần suất xuất hiện nhiều lần, mong tìm
ra những đặc điểm riêng, ổn định trong tự truyện, hồi kí - tự truyện của Nguyên
Hồng, Hồ Dzếnh, Tô Hoài.

5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu:
Trong luận văn này chúng tôi khảo sát hầu hết các tác phẩm tự truyện và thể loại
kế cận hồi kí - tự truyện của ba tác giả Nguyên Hồng, Hồ Dzếnh, Tô Hoài:
- Nguyên Hồng: Những ngày thơ ấu; Những nhân vật ấy đã sống với tôi


13

- Hồ Dzếnh: Chân trời cũ

- Tô Hoài: Cỏ dại; Tự truyện ;Cát bụi chân ai; Chiều chiều
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn với tên “Tự truyện, hồi kí - tự truyện của Nguyên Hồng, Hồ Dzếnh, Tô
Hoài dưới góc độ diễn ngôn nghệ thuật”, chúng tôi tiến hành nghiên cứu những vấn đề
xoay quanh diễn ngôn tác phẩm về hai mặt nội dung và hình thức. Cốt lõi của đề tài là
khám phá quy trình, hệ quả chi phối của những yếu tố trong và ngoài thể loại, khách
quan và chủ quan đến nội dung và hình thức diễn ngôn đó, cách nhà văn nhìn nhận lại
quá khứ, đánh giá lại quá khứ và kể lại quá khứ ấy bằng con người của hiện tại.

6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, phần nội dung chính của luận
văn gồm ba chương:
Chương 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU
ĐỐI TƯỢNG. Trong chương này, chúng tôi tập trung trình bày khái quát những tiền
đề lý thuyết là cơ sở để chúng tôi tiến hành nghiên cứu. Đó là lý thuyết về đặc điểm
của hai thể loại kế cận nhau : tự truyện và hồi kí - tự truyện; lý thuyết về nghiên cứu
diễn ngôn nghệ thuật, diễn ngôn tự truyện và diễn ngôn hồi kí - tự truyện về các mặt
như nội dung, cảm hứng, các phương thức biểu hiện, ngôn từ, không - thời gian,… Và
một phần không thể thiếu đó chính là vị trí, vai trò của thể loại tự truyện, hồi kí - tự
truyện trong sự nghiệp sáng tác của Nguyên Hồng, Hồ Dzếnh, Tô Hoài.
Chương 2: MÃ NỘI DUNG DIỄN NGÔN TRONG TỰ TRUYỆN, HỒI KÍ - TỰ
TRUYỆN CỦA NGUYÊN HÔNG, HỒ DZẾNH, TÔ HOÀI. Trong chương này,
chúng tôi tập trung nghiên cứu diễn ngôn tự truyện, hồi kí - tự truyện của Tô Hoài, Hồ
Dzếnh, Nguyên Hồng về phương diện nội dung, đặc biệt nhấn mạnh vai trò của yếu tố
“sự thật” cũng như các “quyền lực”, các yếu tố trong và ngoài thể loại đã chi phối đến
tái hiện những “sự thật” trong quá khứ đó. Trung tâm là sự chi phối của động cơ, mục
đích và các yếu tố có cơ chế tác động gián tiếp như thể chế kinh tế, xã hội, sắc tộc, tôn
giáo,... Chúng tôi sẽ đặt những diễn ngôn nghệ thuật trong tương quan với hoàn cảnh



14

sáng tác, hoàn cảnh tiếp nhận, tất cả các yếu tố có ảnh hưởng tới việc nhà văn nói hay
không nói một vấn đề, cách nói…
Chương 3: MÃ NGHỆ THUẬT DIỄN NGÔN TRONG TỰ TRUYỆN, HỒI KÍ TỰ TRUYỆN CỦA NGUYÊN HÔNG, HỒ DZẾNH, TÔ HOÀI. Trong chương này
chúng tôi tiến hành phân tích diễn ngôn nghệ thuật trong tự truyện, hồi kí - tự truyện
của Nguyên Hồng, Hồ Dzếnh, Tô Hoài về các phương diện cấu trúc diễn ngôn, kĩ
thuật tạo tác các loại diễn ngôn cũng như sự pha trộn, lấn át thể loại kề cận.


15

Chương 1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN
CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU ĐỐI TƯỢNG
1.1. Tự truyện, hồi kí - tự truyện như là những loại hình diễn ngôn
1.1.1. Khái niệm hồi kí; tự truyện ; hồi kí - tự truyện
Trong những thập kỉ gần đây, hướng nghiên cứu thể loại trở thành một trong
những xu thế nổi bật của khoa nghiên cứu văn học. Theo Bakhtin: “Đằng sau cái mặt
ngoài sặc sỡ và đầy tạp âm ồn ào của tiến trình văn học, người ta không nhìn thấy vận
mệnh to lớn và cơ bản của văn học và ngôn ngữ, mà những nhân vật chính nơi đây
trước hết là các thể loại, còn trào lưu, trường phái chỉ là những nhân vật hạng nhì và
hạng ba” 1. Phân xuất và xác lập đặc trưng của từng thể loại là một công việc vô cùng
0F

cần thiết. Nguyễn Thành Thi trong công trình Văn học thế giới mở đã nhận định: “Nhà
văn khi sáng tác tác phẩm bao giờ cũng sáng tác theo một mô hình thể loại xác định.
Thể loại tác phẩm văn học, thường được hiểu là khái niệm chỉ quy luật loại hình của
tác phẩm trong đó ứng với một loại nội dung nhất định có một loại hình thức nhất
định, tạo cho tác phẩm một hình thức tồn tại chỉnh thể” [79, tr.12].
1.1.1.1. Hồi kí

Hồi kí là một thể loại văn học thuộc loại hình kí, ghi chép một cách chân xác
người thật việc thật, nó gắn liền với một thời điểm lịch sử xã hội nhiều biến động và
qua hồi kí, người đọc không chỉ hình dung được cuộc đời của nhân vật kể chuyện mà
còn có thể hình dung được một cách khái quát bức tranh xã hội, lịch sử thời kì ấy. Có
nhiều tài liệu đã đưa ra định nghĩa về thể loại này, có thể kể đến:
Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Hồi kí là một thể loại thuộc loại hình kí, kể lại
những biến cố đã xảy ra trong quá khứ mà tác giả là người tham dự hoặc chứng
kiến… Xét về phương diện quan hệ giữa tác giả với sự kiện được ghi lại về tính chính
xác của sự kiện, về góc độ và phương thức diễn đạt, hồi kí có nhiều chỗ gần với nhật
kí. Còn về phương diện tư liệu, về tính xác thực và không có hư cấu thì hồi kí lại gần
1

Vũ Tuấn Anh, Quá trình văn học đương đại nhìn từ phương diện thể loại, TCVH số 9/1996, tr.28.


16

với văn xuôi lịch sử, tiểu sử khoa học” [23, tr.152]. Hồi kí giống với nhật kí ở hình
thức giãi bày, tâm sự, cách kể chuyện theo trình tự thời gian, chú ý đến các sự kiện
mang tính chất tiểu sử. Còn về phương diện chất liệu, tính xác thực, không sử dụng hư
cấu thì hồi kí lại gần với văn xuôi lịch sử, tiểu sử khoa học, kí sự tư liệu lịch sử. Tuy
nhiên, khác với các thể loại vừa nhắc đến, hồi kí chỉ tái hiện lại những gì gây ấn tượng
sâu đậm trong lòng tác giả, chỉ kể lại những gì nằm trong tầm quan sát của chủ thể kể,
vì thế, những sự kiện trong hồi kí không thể chuẩn xác và toàn diện, đầy đủ như trong
các tư liệu gốc, các chứng tích. Hơn thế nữa, hồi kí là một thể loại văn học, đã là văn
thì dù ít hay nhiều, dù thể hiện qua phương diện không dễ nhận thấy đi chăng nữa thì
hồi kí cũng in đậm dấu ấn của tác giả, được thể hiện bằng phong cách ngôn ngữ văn
chương, một lối văn sinh động, hình tượng, biểu cảm.
Theo Từ điển văn học của Đỗ Đức Hiểu, hồi kí là “thuật ngữ chỉ một thể loại
nằm trong nhóm thể tài ký. Tác phẩm hồi ký là một thiên trần thuật từ ngôi tác giả, kể

về những sự kiện có thực xảy ra trong quá khứ mà tác giả tham dự hoặc chứng kiến”
[29, tr.648]. Theo chúng tôi nhận thấy, định nghĩa này của Đỗ Đức Hiểu nhấn mạnh
vai trò của chủ thể trần thuật. Trong những tác phẩm hồi kí, người kể chuyện đó cũng
chính là tác giả tiến hành một cuộc hồi tưởng, kể lại những chuyện mà mình đã trải
qua hoặc chính bản thân mình chứng kiến. Đương nhiên, những sự kiện đó là những sự
kiện gây ấn tượng sâu đậm trong lòng tác giả và nằm trong mạch kể, là một mảnh ghép
góp phần hoàn thành chỉnh thể tác phẩm, chứ không phải những mảnh hồi ức đứt
đoạn, không có liên hệ nào với những mảnh hồi ức còn lại.
Trong bài Kí và giảng dạy Kí, Hoàng Như Mai định nghĩa: “Hồi kí ghi lại những
sự việc đã qua, nhưng những sự việc ấy không phải thuộc vào một thời kì lịch sử xa
xôi mà phải gần gũi, có liên quan khá mật thiết với hiện tại. Hồi kí thường là do những
người đang còn sống kể lại” [53, tr.218]. Một luận điểm đáng lưu ý của Hoàng Như
Mai đó chính là tính liên hệ của ý thức hồi tưởng với những gì đang xảy ra trong hiện
tại. Người viết hồi kí không chỉ nhằm mục đích kể lại, tái hiện lại quá khứ mà sâu xa
hơn là giải thích cho những gì trong hiện tại, có mối liên hệ gần gũi với thực tại.


17

Như vậy, nói một cách khái quát, cô đọng – theo tổng hợp của người thực hiện
luận văn này – hồi kí có các đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, hồi kí là những tác phẩm mà ở đó người kể chuyện cũng chính là tác
giả đang viết lại, kể lại về cuộc đời thực tại, về người thật, việc thật có liên quan đến
bản thân mình nhưng thường được viết như là sự phản ứng với những biến cố thời sự
nóng bỏng đang đặt ra trong cuộc sống. Vì thế mà ngôn ngữ của hồi kí phải đảm bảo
tính xác thực, tôn trọng sự kiện của cuộc đời thực. Tính thông tin sự kiện và tính thời
sự là hai đặc điểm nổi bật của hồi kí.
Thứ hai, tác phẩm hồi kí phải thể hiện được mối quan hệ giữa “tính truyện” và
“tính nghiên cứu”, giữa tư duy sáng tạo văn học và tư duy nghiên cứu khoa học. Tác
giả không chỉ viết những điều mình trông thấy, mình nghiền ngẫm mà còn phải tìm

hiểu, phân tích, nghiên cứu, lý giải do đâu mà có như vậy. Hơn nữa, những lý giải đó
còn phải thuyết phục người đọc.
1.1.1.2. Tự truyện
Cũng nằm trong hệ thống những thể loại viết về lịch sử - chuyện đời như một
“dòng chảy”, nhưng là thể trung gian giữa tự sự hư cấu và tự sự phi hư cấu, tự truyện
mang trong mình những đặc trưng thể loại riêng.
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, “Tự truyện là tác phẩm văn học thuộc thể loại
tự sự do tác giả viết về cuộc đời mình…” [23, tr.389]. Có thể thấy, đặc trưng lớn nhất
của thể loại tự truyện đó chính là chủ thể trần thuật tự kể lại chính câu chuyện cuộc đời
mình.
Theo Từ điển văn học do Đỗ Đức Hiểu chủ biên: “Tự truyện là những câu
chuyện viết bằng văn xuôi, kể lại dĩ vãng của chính tác giả… Theo Lơjon, bởi vì, về
quá khứ, kỷ niệm bị xóa mờ với thời gian, vì tư duy khi viết tự truyện đã trải qua biết
bao cảnh đời, và vì các sự kiện được sắp xếp, bố cục lại, suy ngẫm lại, nên khó mà
trùng hợp với sự thật… Tự truyện không phải là một tập hợp những kỷ niệm tản mạn,
mà được bố trí như một truyện, một tiểu thuyết…” [29, tr.1905-1906]. Đây chính là


18

những căn cứ xác thực để xác lập sự khu biệt giữa tự truyện và các loại văn chân dung,
hồi kí.
Trong bài viết Phan Bội Châu niên biểu (Phan Bội Châu) và Giấc mộng lớn (Tản
Đà) – những bước đi đầu tiên của Tự truyện Việt Nam, Lê Tú Anh đã nêu ra ba quy
ước để một tác phẩm được xem là tự truyện, chúng tôi xin được tóm tắt lại:
1/ Tự truyện là chuyện đời của chính người viết. Có một lưu ý cho quy ước này,
chuyện đời của người viết phải là những chuyện có thực, là cuộc đời nhà văn đã
nghiệm sinh. Nói cách khác, tác giả tự truyện phải là con người hữu thể, đã sống thật.
2/ Người viết tự truyện phải đặt cái “tôi” của mình ở vị trí trung tâm tác phẩm để
tự quan sát, đào xới, lý giải bằng nhãn quan cá nhân. Nghĩa là, nhà văn viết tự truyện

phải sử dụng điểm nhìn nội quan trong trần thuật. Tuy nhiên, trong khi đi tìm cái “tôi”,
một tự truyện đích thực phải đạt tới cái “chúng ta”.
3/ Nhà văn kể lại chuyện đời mình trong tinh thần tự phán xét, tự chất vấn lương
tâm. Có nhà nghiên cứu cho rằng, tự truyện in dấu nếp sống của tín đồ Thiên Chúa
giáo, rõ nhất là việc xưng tội.
Theo tác giả Phạm Ngọc Lan trong luận văn Tự truyện trong văn học Việt Nam
hiện đại, những tự truyện đầu tiên xuất hiện từ thời cận đại ở Tây Âu, tuy nhiên danh
từ “tự truyện” mãi đến cuối thế kỉ XVIII mới được sử dụng, khi thể loại này bắt đầu nở
rộ ở châu Âu và châu Mĩ. Luận văn cũng trích dẫn định nghĩa của nhiều nhà nghiên
cứu trên thế giới về thể loại này. Hiểu một cách đơn giản, tự truyện là tự thuật về chính
cuộc đời của mình từ cái nhìn của thời hiện tại, lấy tọa độ hiện tại để soi sáng những
sự kiện trong quá khứ, thông qua quá trình hồi tưởng, tái hiện và phản ánh lại trên
trang giấy. Đây chính là lý do mà có người gọi tiểu thuyết mang yếu tố tự truyện là
tiểu thuyết tự thuật.
Năm 1974 trong Hiệp ước tự thuật, Philipple Lejeune đã đưa ra một định nghĩa
nổi tiếng về tự truyện, định nghĩa này được khá nhiều nhà nghiên cứu xem là định
nghĩa kinh điển cho thể tự truyện truyền thống. Lejeune cho rằng tự truyện là: “thể loại
tự sự tái hiện dĩ vãng, trong đó một người có thật kể lại cuộc sống của mình, nhấn


×