Tải bản đầy đủ (.pdf) (141 trang)

vấn đề bản chất và đặc trưng của văn học trong giáo trình lý luận văn học việt nam từ những năm 1960 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (730.36 KB, 141 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Lê Thị Gấm

VẤN ĐỀ BẢN CHẤT VÀ ĐẶC TRƯNG
CỦA VĂN HỌC TRONG GIÁO TRÌNH
LÝ LUẬN VĂN HỌC VIỆT NAM
TỪ NHỮNG NĂM 1960 ĐẾN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh - 2012


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Lê Thị Gấm

VẤN ĐỀ BẢN CHẤT VÀ ĐẶC TRƯNG
CỦA VĂN HỌC TRONG GIÁO TRÌNH
LÝ LUẬN VĂN HỌC VIỆT NAM
TỪ NHỮNG NĂM 1960 ĐẾN NAY
Chuyên ngành: Lý luận văn học
Mã số : 60 22 32
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. Nguyễn Hoài Thanh


Thành phố Hồ Chí Minh - 2012


LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên: Lê Thị Gấm
Tôi thực hiện đề tài Vấn đề bản chất và đặc trưng của văn học trong
giáo trình lý luận văn học Việt Nam từ những năm 1960 đến nay dưới sự
hướng dẫn khoa học của Tiến sĩ Nguyễn Hoài Thanh, tại trường Đại học Sư
phạm thành phố Hồ Chí Minh, năm 2012. Tơi cam đoan việc sử dụng những
trích dẫn khoa học có liên quan theo đúng qui định của cơ sở đào tạo. Ngoài
ra, những nhận định, đánh giá, kết luận về vấn đề bản chất và đặc trưng văn
học trong giáo trình lý luận văn học Việt Nam là của tôi và chưa được cơng
bố ở bất cứ cơng trình khoa học nào khác.

Lê Thị Gấm


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................................. 3
MỤC LỤC ............................................................................................................................ 4
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề .............................................................................................. 2
3. Mục đích nghiên cứu đề tài ...................................................................... 10
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu................................................................ 11
5. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................... 13
6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài .................................. 13
7. Cấu trúc luận văn ...................................................................................... 14
Chương 1: SỰ VẬN ĐỘNG QUAN NIỆM VỀ VẤN ĐỀ BẢN CHẤT XÃ HỘI CỦA

VĂN HỌC ........................................................................................................................... 15

1.1. Vận động kế thừa ................................................................................... 15
1.1.1. Đối tượng của văn học ................................................................................17
1.1.2. Văn học là một hình thái ý thức thuộc thượng tầng kiến trúc ....................20
1.1.3. Văn học và hiện thực ..................................................................................22
1.1.4. Văn học và các hình thái ý thức thượng tầng kiến trúc ..............................24
1.1.5. Tính khuynh hướng của văn học ................................................................26
1.1.6. Chức năng của văn học ...............................................................................30

1.2. Vận động đổi mới tư duy về một số vấn đề cơ bản của bản chất xã hội
......................................................................................................................... 32
1.2.1. Vấn đề văn học và hiện thực .......................................................................33
1.2.2. Vấn đề văn học và chính trị ........................................................................36
1.2.3. Vấn đề chức năng của văn học ...................................................................40
Chương 2: SỰ VẬN ĐỘNG QUAN NIỆM VỀ BẢN CHẤT THẨM MỸ CỦA VĂN
HỌC .................................................................................................................................... 49

2.1. Quan niệm về bản chất thẩm mỹ của văn học trong giáo trình lý uận
văn học trước năm 1986 ............................................................................... 50
2.1.1. Hình tượng nghệ thuật ................................................................................51
2.1.2. Điển hình nghệ thuật ...................................................................................54


2.2. Quan niệm về bản chất thẩm mỹ của văn học trong giáo trình lý luận
văn học sau năm 1986 ................................................................................... 57
2.2.1. Lý tưởng thẩm mỹ và sáng tạo nghệ thuật..................................................58
2.2.2. Hình tượng nghệ thuật và phản ánh thẩm mỹ.............................................65
Chương 3: SỰ VẬN ĐỘNG QUAN NIỆM VỀ BẢN CHẤT NGÔN NGỮ CỦA VĂN
HỌC .................................................................................................................................... 69


3.1. Ngôn từ - chất liệu sáng tạo văn học..................................................... 72
3.2. Những nhận thức mới về bản chất ngôn ngữ của văn học ................. 78
3.2.1. Giáo trình Dẫn luận thi pháp học (2005) ....................................................81
3.2.2. Giáo trình Lý luận văn học (nhập môn) (2010) .........................................84
Chương 4: SỰ VẬN ĐỘNG QUAN NIỆM VỀ BẢN CHẤT VÀ ĐẶC TRƯNG VĂN
HỌC: NHỮNG GUYÊN NHÂN CƠ BẢN ...................................................................... 95

4.1. Điều kiện lịch sử xã hội và đường lối văn hóa văn nghệ của Đảng
Cộng sản Việt Nam........................................................................................ 95
4.1.1. Giai đoạn từ 1945 đến năm 1986 ................................................................95
4.1.2. Giai đoạn từ năm 1986 đến nay ..................................................................97

4.2. Sự phát triển của sáng tác văn học giai đoạn sau năm 1986............. 98
4.2.1. Bình diện ý thức nghệ thuật ........................................................................99
4.2.2. Bình diện nghệ thuật sáng tác ...................................................................104
4.2.3. Bình diện ngơn từ nghệ thuật ....................................................................106

4.3. Đổi mới tư duy lý luận văn học ........................................................... 107
4.3.1. Nhận thức mới về vị trí, đối tượng, nhiệm vụ của lý luận văn học ..........107
4.3.2. Đổi mới mô thức lý luận văn học .............................................................111
KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 125
THƯ MỤC THAM KHẢO ............................................................................................. 129


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đại hội lần thứ VI (1986) của Đảng Cộng sản Việt Nam được coi là một

trong ba dấu mốc quan trọng nhất của nước ta ở thế kỷ XX. Từ đây, một
chặng đường mới, những vận hội mới được mở ra: giao lưu với các nền kinh
tế, văn hóa khác nhau trên thế giới. Mọi phương diện của đời sống thay đổi.
Văn học cũng không ngoại lệ.
Từ năm 1986 đến nay, đặc biệt là thời kỳ đầu đổi mới, hoạt động sáng
tác văn học có nhiều tìm tịi, mạnh dạn đổi mới và đạt được thành tựu quan
trọng trên nhiều bình diện. Kết quả là chúng ta có một bức tranh văn học đa
dạng đề tài phản ánh, phong phú thể loại, đặc sắc về phong cách và khuynh
hướng thẩm mỹ.
25 năm qua, lý luận văn học nước ta cũng có nhiều chuyển biến quan
trọng, trưởng thành hơn trong tư duy, nhuần nhị hơn trong kiến giải vấn đề.
Tuy nhiên, tình hình văn học trong nước và thế giới có chiều hướng vận động
biến đổi không ngừng, nhiều vấn đề đang đặt ra, đỏi hỏi lý luận văn học cần
giải quyết rốt ráo. Do đó, đổi mới lý luận hơn nữa là xu hướng tất yếu. Bên
cạnh đó, lý luận cũng có nhu cầu được “ngối nhìn” thường xun, để đánh
giá những thành tựu đạt được và nhận diện những khiếm khuyết ngay trên cơ
thể của mình, từ đấy mà xây dựng cơ sở vững chãi cho những thay đổi mới.
Trước yêu cầu như vậy, nhiều nhà nghiên cứu đã tiến hành khảo sát,
nắm bắt diện mạo nền lý luận văn học nước nhà trong chiều vận động lịch sử
của nó. Giáo trình lý luận văn học (bậc đại học) là một trong những bộ phận
quan trọng của diện mạo chung ấy. Trong xu hướng nhận thức lại, giáo trình
lý luận đã được nhiều người quan tâm đề cập, khảo sát chuyên sâu và cũng đã
đạt được một số thành quả nhất định, đáng trân trọng. Tuy nhiên, nhiều vấn
đề quan trọng khác chưa được quan tâm, hoặc đã được nêu ra nhưng chưa giải


2

quyết rốt ráo. Xuất phát từ tình hình thực tế, từ những yêu cầu nội tại của đối
tượng, chúng tôi cho rằng nghiên cứu đề tài Vấn đề bản chất và đặc trưng

của văn học trong giáo trình lý luận văn học Việt Nam từ những năm 1960
đến nay là cần thiết và có tính khả thi, nhằm góp một tiếng nói cụ thể, một
góc nhìn thiết thực vào việc đánh giá bức tranh tồn cảnh q trình vận động
đổi mới tư duy lý luận văn học Việt Nam trong hơn năm mươi năm qua.
2. Lịch sử vấn đề
Bước sang những năm cuối thế kỷ XX đầu của thế kỷ XXI, nhận thức
được vai trị vị trí của giáo trình lý luận văn học đối với sự nghiệp xây dựng
và phát triển nền văn học nước nhà, một số người trong giới chuyên môn đã
quan tâm nghiên cứu vấn đề nội dung giáo trình lý luận văn học nước ta.
Bước sang đầu thế kỷ XXI, vấn đề giáo trình lý luận văn học thu hút sự
quan tâm nghiên cứu của nhiều người trong giới học thuật. Năm 2003, Tập
san Khoa học Xã hội và Nhân văn, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn Thành phố Hồ Chí Minh đăng bài: Sự vận động của lý luận văn học mác
xít ở Việt Nam từ sau 1954 qua hệ thống giáo trình lý luận văn học của
Nguyễn Văn Hà. Tác giả khảo sát 8 bộ giáo trình lý luận văn học Việt Nam từ
1958 đến 1993. Từ những mô tả khái quát về hình thức và bố cục nội dung
các giáo trình, tác giả kết luận: hệ thống vấn đề của lý luận văn học mác xít ở
Việt Nam ngày càng hoàn thiện, cách kiến giải các luận điểm ngày càng
nhuần nhuyễn, khoa học, khách quan hơn. Bên cạnh đó, tác giả cũng cho rằng
hệ thống giáo trình lý luận văn học vẫn còn nhiều điều bất cập như: nặng về
lý thuyết khái qt trong khi đó tính thực tiễn hạn chế, ơm đồm q nhiều vấn
đề ngồi phạm vi văn học dẫn đến chồng chéo, trùng lặp nội dung. Những
mặt hạn chế này, theo tác giả là khiến cho giáo trình của nước ta trở nên nặng
nề, khơng kích thích được tinh thần học tập của đa số sinh viên, học viên.


3

Quan tâm đến vấn đề giáo trình lý luận văn học, nhà nghiên cứu
Nguyễn Ngọc Thiện có bài: Về việc biên soạn giáo trình lý luận văn học bậc

đại học ở ta năm mươi năm qua, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu văn học số
5/2006. Ở bài viết này ông không đi sâu nghiên cứu những vấn đề lý luận cụ
thể, mà chỉ dừng lại ở mức mô tả khái quát đặc điểm bố cục trình bày của các
giáo trình. Trên cở sở đó, ơng cho rằng mỗi bộ giáo trình lý luận văn học ở
nước ta đều có điểm mạnh, điểm yếu riêng và nhìn chung việc biên soạn giáo
trình lý luận có xu hướng ngày càng hiện đại hơn. Ông cũng đề xuất hướng
tiếp cận với các giáo trình ở các nước tiên tiến nhằm khắc phục hạn chế và
hiện đại hóa hơn nữa giáo trình trong nước.
Lấy hệ thống giáo trình lý luận văn học Việt Nam ở hai giai đoạn trước
và sau đổi mới (1986) làm đối tượng nghiên cứu, cả hai bài viết nêu trên đều
chỉ dừng lại ở mức mơ tả khái qt. Có thể tìm thấy ở đây một vài nhận xét về
vấn đề bản chất và đặc trưng của văn học được kiến giải trong các giáo trình,
tuy nhiên nhận xét cịn ở dạng sơ lược, minh họa, chưa được đào sâu, phân
tích kỹ lưỡng.
Quan tâm đến các vấn đề của giáo trình lý luận văn học bậc đại học,
nhà nghiên cứu Huỳnh Như Phương có bài: Mơn lý luận văn học trong nhà
trường đại học (Tạp chí Nghiên cứu văn học số 4/2006). Ơng cho rằng: “Mỗi
bộ đều có đều có những thế mạnh và ưu điểm riêng…”. Những giáo trình ra
đời ở thời kỳ sau, về nhiều mặt, đã hiện đại hóa hơn giáo trình ở thời kỳ trước.
Tuy nhiên, cũng theo ông, lý luận văn học ở ta, trong đó có giáo trình lý luận
văn học, đang “chậm trễ, nếu khơng muốn nói là tụt hậu, so với sáng tác” và
“so với chính nó, nghĩa là so với những u cầu đặt ra cho nó như một bộ
mơn khoa học, vừa quan hệ với sáng tác, mà cũng độc lập so với sáng tác”.
Trong khi đó “tỉ lệ người đọc sách lý luận văn học đông nhất hiện nay không
phải là những nhà sáng tác mà là sinh viên các ngành ngữ văn và văn hóa


4

nghệ thuật”. Để đáp ứng yêu cầu đổi mới nền lý luận nước nhà như hiện nay

thì việc đổi mới chương trình và giáo trình lý luận văn học bậc đại học giữ vai
trò quan trọng trong việc giúp sinh viên văn khoa sửa chữa những khiếm
khuyết trong tiếp nhận, hình thành cơng chúng lý tưởng cho đời sống văn học,
từ đó đổi mới tồn bộ cơ thể văn học của chúng ta. Vì vậy, ơng nêu ra mấy đề
nghị cải tiến chương trình giảng dạy và cấu trúc giáo trình. Về cấu trúc nội
dung, theo ơng, “giáo trình lý luận văn học nên tập trung vào bốn chủ điểm là
văn học và xã hội, văn học và văn hóa, văn học và cái đẹp, văn học và ngôn
ngữ”, giải quyết được các mối quan hệ này sẽ đồng thời giải quyết sáng tỏ vấn
đề cơ bản nhất là bản chất và đặc trưng của văn học.
Vẫn với vấn đề thay đổi hệ hình biên soạn giáo trình lý luận văn học,
nhà nghiên cứu Trần Đình Sử chọn góc quy chiếu khác. Trong bài: Lý luận
văn học nước ngoài hiện nay và phương hướng biên soạn giáo trình lý luận
văn học Việt Nam trong tương lai (Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 12/2009),
ơng cho rằng để có những đánh giá thỏa đáng đối với hệ thống giáo trình lý
luận văn học của nước ta hiện nay, việc tham bác hướng biên soạn giáo trình
ở các nước khác là điều cần thiết. Ơng viết: “Để có cơ sở đánh giá và xây
dựng chương trình cũng như giáo trình lý luận văn học nước nhà hiện nay,
một cơng cụ cần kíp là tìm hiểu chương trình và giáo trình lý luận văn học ở
các nước có nền lý luận văn học phát triển”. Cũng trong bài viết này, ơng đã
tìm hiểu hiện tình biên soạn giáo trình lý luận văn học ở các nước tiên tiến
như Nga, Anh, Pháp, Mỹ, Trung Quốc. Trên cơ sở tiếp nhận những hạt nhân
hợp lý từ nhiều nguồn giáo trình trên thế giới, ơng đề xuất hướng biên soạn
mới đối với giáo trình lý luận văn học Việt Nam theo 5 điểm: cắt bỏ các vấn
đề lý luận văn học lỗi thời, thay vào đó là những vấn đề lý luận văn học hiện
đại; nâng cao tính vấn đề và tính nghiên cứu của khái niệm lý luận nhằm kích
thích tư duy người học; cấu trúc hệ thống vấn đề linh hoạt; đa dạng hóa hệ


5


thống giáo trình lý luận theo mục đích đào tạo của mỗi trường, mỗi cấp học;
nội dung giáo trình cần được đầu tư nghiên cứu, kiến giải vấn đề phù hợp
thực tiễn văn học Việt Nam.
Được đề xuất từ những nhà giáo nhiều năm giảng dạy môn lý luận văn
học ở trường đại học đồng thời là những nhà nghiên cứu nhiều kinh nghiệm,
những kiến giải nói trên có ý nghĩa quan trọng để cho việc tham khảo hướng
hợp lý hóa việc biên soạn giáo trình lý luận văn học bậc đại học. Trên thực tế,
hai nhà nghiên cứu Trần Đình Sử và Huỳnh Như Phương cũng đã biên soạn
những giáo trình lý luận văn học ít nhiều theo hướng giải quyết vấn đề mà các
ông đã đặt ra (Trần Đình Sử viết Giáo trình lý luận văn học, tập 1 Bản chất và
đặc trưng văn học, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội, 2007; Huỳnh Như Phương
viết Lý luận văn học (nhập môn), Nxb Đại học Quốc gia Thành phố HCM,
Tp. HCM, 2010).
Ngồi những cơng trình và bài báo khoa học lấy giáo trình lý luận văn
học làm đối tượng nghiên cứu chính như đã nói ở trên, chúng tơi cũng tìm
thấy ở một số cơng trình, bài báo khoa học khác đã thực hiện khảo sát, tổng
quan, đánh giá các chặng đường phát triển của nền lý luận văn học Việt Nam,
trong đó có đề cập đến giáo trình lý luận bậc đại học như là một bộ phận của
đối tượng cần được nghiên cứu.
Nhà nghiên cứu Phương Lựu – người chủ biên đã hai bộ giáo trình lý
luận văn học lớn (biên soạn năm 1986-1988 và năm 2002-2006) – ln quan
tâm nhìn nhận, đánh giá mỗi chặng đường phát triển của nền lý luận văn học
nước nhà, trong đó có việc biên soạn giáo trình giảng dạy. Bởi, theo ông, “khi
phải tiến hành một phong trào cải cách thay đổi mạnh mẽ, thì cần phải kiểm
kê lại trước đó, nhất là giai đoạn cận kề đã có những tiền đề gì, những dự báo
trăn trở như thế nào, khơng phải chỉ vì cơng bằng đối với lịch sử, mà chủ yếu
là để xác định cho thật trúng những bước đi tiếp theo”. Năm 2005 chẳng hạn,


6


khi đã có một độ lùi thời gian nhất định, ông nhìn lại Những trăn trở tiến
bước của lý luận văn học giai đoạn 1975-1985 (Tạp chí Giáo dục – Thời đại,
số 12, tháng 5/2005). Trong bài viết, ông đã dành một phần để bàn về những
vấn đề “chung quanh tình hình nghiên cứu giảng dạy lý luận văn học ở đại
học” của một thời “vang bóng”. Vì, theo ơng, “cho dù xét nghiêng ở khía
cạnh nào, thì khi nói về tình hình học thuật chung, cũng khơng thể bỏ qua
trường Đại học có thể và cần trở thành một trung tâm khoa học theo đúng mơ
hình tổ chức khoa học của xã hội hiện đại”. Ngồi những phân tích, lý giải
tình hình giảng dạy, biên soạn giáo trình lý luận văn học ở Đại học Sư phạm
Hà Nội, chúng ta có thể tìm thấy ở đây những dẫn chứng được phân tích, đối
sánh giữa phần nguyên lý tổng quát của giáo trình Lý luận văn học do ơng chủ
biên, xuất bản năm 1986 với giáo trình do Nguyễn Lương Ngọc chủ biên,
xuất bản nhiều lần ở thời kỳ trước đó. Ơng chỉ ra một số điểm khác biệt, tiến
bộ trong cách bố cục, kiến giải vấn đề bản chất và đặc trưng văn học giữa
giáo trình của Đại học Sư phạm Hà Nội xuất bản năm 1986-1988 với những
giáo trình lý luận giai đoạn trước. Cụ thể là “khắc phục mạnh mẽ căn bệnh xã
hội học thường thể hiện bằng lắm thứ “tính”, đặc biệt “khơng hề nêu tính
đảng” ở phần nguyên lý tổng quát mà chuyển nó vào chương “Chủ nghĩa hiện
thực xã hội chủ nghĩa” ở tập sau (Phương pháp sáng tác và các trào lưu văn
học), nghĩa là khơng cịn coi nó như một khía cạnh cố hữu của bản chất và
đặc trưng văn học. Những vấn đề khác, ơng cho rằng, khơng cịn như cũ. Tính
giai cấp chẳng hạn, giáo trình đã lý giải “một cách biện chứng”. Quan trọng
hơn, giáo trình này đã “thêm vào những vấn đề đặc trưng văn học” và là giáo
trình đầu tiên ở Việt Nam “đề cập đến đặc trưng của văn học với tư cách là
một bộ môn nghệ thuật”. Sự tiến bộ tư duy lý luận trong giáo trình văn học
cũng từng được ơng nhấn mạnh ở Lời nói đầu của giáo trình Lý luận văn học,
tập 1, Văn học, nhà văn, bạn đọc (Nhà xuất bản Đại học Sư phạm, Hà Nội,



7

2001). Ơng viết: “Quy luật là cứ 10 năm trơi qua, thì tư duy lý luận văn học
mới mẻ, mà nghiêm chỉnh có thể vận dụng vào việc giảng dạy trong nhà
trường, khơng thể hồn tồn chứa đựng trong cái khung của giáo trình cũ
nữa”. Điều này cũng có nghĩa, sự thay đổi, tiến bộ trong cách kiến giải các
vấn đề lý luận, trong đó có vấn đề bản chất và đặc trưng của văn học ở các
giáo trình là tất yếu.
Giáo trình lý luận văn học cũng được Nguyễn Thị Hồng Hạnh quan
tâm, khảo sát trong luận văn Vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong lý luận văn
học ở Việt Nam từ 1975 đến nay (Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ
Chí Minh, năm 2008). Như đã nói ở phần Mở đầu, để phục vụ cho mục đích
nghiên cứu chính của luận văn tác giả chỉ tập trung khảo sát những bộ giáo
trình lý luận văn học có liên quan tới vấn đề chủ nghĩa hiện thực giai đoạn từ
1975 đến nay, mà không đề cập đến các vấn đề nguyên lý tổng quát của văn
học ở các bộ giáo trình khác. Tuy nhiên ở luận văn này, để làm sáng tỏ vấn đề
chủ nghĩa hiện thực tác giả cũng đồng thời khảo sát khái niệm “văn học phản
ánh hiện thực” trong các tiểu luận, chuyên khảo về lý luận văn học ở Việt
Nam thuộc giai đoạn nói trên. Vì vậy, thành quả nghiên cứu của luận văn ít
nhiều cho ta một góc nhìn về vấn đề bản chất và đặc trưng văn học trong lý
luận văn học Việt Nam giai đoạn sau 1975.
Ngồi những cơng trình nói trên, giáo trình lý luận văn học cũng được
nhắc đến trong các bài báo khoa học, chuyên luận: Một chặng đường đổi mới
lý luận văn học Việt Nam (1986-2011) của Cao Hồng (Nxb Hội Nhà văn, H,
2011), Góp phần bàn về lý luận văn học ở Việt Nam trong lịch sử của nó của
Phong Lê (in trong Về văn học Việt Nam hiện đại nghĩ tiếp…, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội, H, 2005), Lý luận văn học trước yêu cầu đổi mới và phát
triển của Phan Trọng Thưởng (Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 12/2004),…
Tuy nhiên, ở những chuyên luận, bài viết này giáo trình lý luận văn học chỉ



8

được nhắc đến như những ví dụ minh họa riêng lẻ, rời rạc, không tập trung soi
rọi bất cứ vấn đề chuyên biệt nào của giáo trình. Riêng ở chuyên luận Một
chặng đường đổi mới lý luận văn học Việt Nam (1986-2011), tác giả Cao
Hồng cung cấp cho người đọc cái nhìn từ bao quát đến chi tiết các vấn đề vận
động của lý luận văn học Việt Nam giai đoạn sau 1986, trong đó có một số
khía cạnh thuộc về vấn đề bản chất và đặc trưng văn học như: mối quan hệ
giữa văn học và chính trị, văn học và hiện thực. Vì vậy, dù chun luận này
khơng nghiên cứu chuyên sâu về bản chất và đặc trưng văn học trong lý luận
văn học Việt Nam, nhưng một số vấn đề lý luận cơ bản mà tác giả khảo sát có
thể cung cấp cho chúng tơi một số thông tin cần thiết để tham bác, đối sánh
khi đi vào nghiên cứu sự vận động quan niệm vấn đề bản chất và đặc trưng
của văn học trong các giáo trình lý luận bậc đại học.
Như vậy, theo khảo sát của chúng tôi, hiện nay nghiên cứu về lý luận
văn học Việt Nam có khoảng 10 cơng trình, bài báo khoa học đề cập đến giáo
trình lý luận văn học trên cả hai phương diện tổng quát và cụ thể. Đấy chưa
phải là con số lớn, nhưng qua các công trình, chun luận, bài báo nói trên
cho thấy một số nhà nghiên cứu đã nỗ lực bao quát đối tượng và mang đạt
được những thành tựu nhất định, đáng trân trọng.
Thứ nhất, các nhà nghiên cứu đã hướng tới bao quát hệ thống giáo trình
lý luận văn học Việt Nam trong lịch sử hình thành và phát triển của ngành,
đồng thời nghiên cứu phân tích bố cục giáo trình trong mối quan hệ với
chương trình đào tạo thực tế của bậc đại học.
Thứ hai, từ chỗ bao quát đối tượng, các nhà nghiên cứu đã hướng tới
khái quát thành tựu và hạn chế của giáo trình lý luận văn học bậc đại học,
đồng thời phóng chiếu những đặc điểm ấy lên quá trình hình thành và phát
triển của nền lý luận văn học Việt Nam. Nhìn chung, các nhà nghiên cứu đều
thống nhất cho rằng hệ vấn đề và cách luận giải vấn đề trong giáo trình lý



9

luận văn học ở nước ta ngày càng hoàn diện, nhuần nhuyễn, khách quan, và
khoa học hơn. Ngày nay ở các giáo trình lý luận văn học, giọng điệu chính
luận khơng cịn là chủ âm và tư duy lý luận quanh những vấn đề căn bản của
văn học cũng có nhiều chuyển biến quan trọng. Tuy nhiên, nội dung kiến thức
cũng như bố cục của giáo trình vẫn cịn nhiều hạn chế cho thấy một khoảng
cách không nhỏ giữa lý luận giáo khoa với thực tiễn sáng tác văn học trong
nước và trình độ lý luận văn học thế giới.
Thứ ba, trước yêu cầu của thực tiễn văn học và đời sống, nhìn chung
các nhà nghiên cứu đều nhận thức: đổi mới là nhu cầu thiết yếu của nền lý
luận văn học Việt Nam, trong đó có giáo trình lý luận văn học bậc đại học.
Nhiều đề xuất, giải pháp đã được đưa ra nhằm hướng đến cải tiến việc biên
soạn giáo trình sao cho vừa bắt nhịp đặc thù riêng của đời sống văn học Việt
Nam vừa tiến gần nền trình độ chung của lý luận văn học thế giới, mà vẫn
phù hợp và đạt hiệu quả tiếp nhận đối với đa số người học.
Mặc dù hệ thống giáo trình đã được quan tâm nghiên cứu và đạt được
một số thành tựu nhất định, song những cơng trình, bài viết nói trên vẫn chưa
cung cấp đủ cứ liệu cho phép chúng ta hình dung bức tranh cụ thể, tồn diện
về vấn đề bản chất và đặc trưng của văn học trong suốt lịch sử biên soạn giáo
trình lý luận văn học bậc đại học ở nước ta.
Theo khảo sát của chúng tơi, hiện nay ở nước ta chưa có một cơng trình
chun biệt nào nghiên cứu sự vận động tư duy lý luận xung quanh vấn đề
bản chất và đặc trưng của văn học trong lịch sử lý luận văn học Việt Nam nói
chung, giáo trình lý luận văn học nói riêng. Trong khi đó, bản chất và đặc
trưng của văn học là những vấn đề cơ bản, trọng yếu và bao trùm với bất cứ
nền lý luận văn học nào. Thông qua quan điểm và cách kiến giải những vấn
đề này có thể nhận thấy diện mạo, tính chất của một mô thức lý luận văn học

được xây dựng trên nền tảng triết học, mỹ học nào, đồng thời cũng thấy được


10

ở đấy phần nào đặc điểm tính cách và đặc điểm tư duy của một cộng đồng,
dân tộc. Tình hình hiện nay của nền lý luận văn học nước nhà đang đặt ra
nhiều câu hỏi cần được giải quyết bài bản, rốt ráo. Tuy nhiên, chúng tôi cho
rằng mọi vấn đề của lý luận văn học chỉ có thể giải quyết thỏa đáng khi mà
những vấn đề thuộc bản chất và đặc trưng của văn học được kiến giải một
cách nhuần nhị, thống nhất. Vì vậy, chúng tơi thiết nghĩ đã đến lúc cần có một
cơng trình nghiên cứu sự vận động tư duy về vấn đề bản chất và đặc trưng của
văn học trong lịch sử lý luận Việt Nam. Tuy nhiên, trong khuôn khổ một luận
văn, chúng tôi giới hạn nghiên cứu vấn đề này trong giáo trình lý luận văn học
Việt Nam từ thập kỷ 60 của thế kỷ XX đến nay (2012). Kế thừa thành tựu
khoa học của những người đi trước, chúng tôi kỳ vọng nghiên cứu Vấn đề
bản chất và đặc trưng của văn học trong giáo trình lý luận văn học Việt
Nam từ những năm 1960 đến nay một cách thấu đáo, có hệ thống nhằm tái
hiện phần nào quá trình vận động tư duy của lý luận văn học nước ta hơn 50
năm qua, góp phần nhận diện, đánh giá một cách khoa học, khách quan về
nền lý luận văn học Việt Nam, trong đó có giáo trình lý luận văn học bậc đại
học.
3. Mục đích nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu Vấn đề bản chất và đặc trưng của văn học trong giáo trình
lý luận văn học Việt Nam từ những năm 1960 đến nay, chúng tơi nhằm
hướng đến các mục đích sau:
• Phác họa q trình vận động quan niệm về vấn đề bản chất và đặc trưng
văn học qua các giáo trình lý luận văn học được biên soạn và giảng dạy
phổ biến ở Việt Nam, bậc đại học, từ những năm 60 của thế kỷ XX đến
nay (2012).



11

• Xác định được những điểm tiến bộ và những hạn chế của các giáo trình
lý luận văn học Việt Nam trong quan niệm về vấn đề bản chất và đặc
trưng văn học.
• Cuối cùng, thơng qua kết quả nghiên cứu quá trình vận động quan niệm
về bản chất và đặc trưng văn học, chúng tôi kỳ vọng xác định và lý giải
được xu hướng vận động tư duy lý luận văn học ở nước.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, người viết đặt trọng tâm nghiên cứu ở những vấn
đề bản chất và đặc trưng của văn học trong lý luận văn học. Đây là vấn đề căn
bản nhưng phức tạp luôn thu hút sự quan tâm, bàn luận của giới học thuật thế
giới và trong nước. Trong khuôn khổ luận văn, người viết cố gắng khu biệt
vấn đề trên ba phương diện cơ bản: phương diện xã hội, phương diện thẩm
mỹ - nghệ thuật, và phương diện ngôn ngữ. Những vấn đề khác của lý luận
văn học nếu có nhắc đến ở đây thì chỉ nhằm mục đích minh chứng vai trị
“rường cột” của vấn đề bản chất, đặc trưng đối với chúng.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là các giáo trình lý luận văn học Việt
Nam được xuất bản từ năm những 1960 đến nay (2012). Giáo trình lý luận
văn học theo chúng tơi quan niệm là những cơng trình lý luận đã, đang được
sử dụng vào mục đích giảng dạy ở khoa văn của các trường đại học Việt Nam,
đặc biệt ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh – hai trung tâm học thuật lớn
của nước ta. Giáo trình có thể được biên soạn bởi những tác giả là nhà nghiên
cứu, nhà giáo đang giảng dạy tại các trường đại học. Căn cứ theo hai tiêu chí
như vậy, chúng tơi thống kê có khoảng 30 giáo trình lý luận được biên soạn
trong suốt hơn 50 năm qua. Tuy nhiên, xuất phát từ mục đích nghiên cứu của
đề tài, chúng tôi chỉ tập trung khảo sát nội dung đối với các giáo trình trình
bày những vấn đề nguyên lý lý luận văn học và giáo trình chuyên đề (dành



12

cho hệ đại học) có nội dung gần với vấn đề bản chất văn học, nhìn từ góc độ
lý luận. Theo đó, chúng tơi tiến hành khảo sát vấn đề bản chất và đặc trưng
văn học ở 8 giáo trình, xuất bản ở cả hai giai đoạn trước và sau năm 1986. Cụ
thể: Sơ thảo nguyên lý văn học (Nguyễn Lương Ngọc biên soạn, 1961),
Nguyên lý văn học, tập 1 (tập thể tổ lý luận văn học các trường đại học sư
phạm biên soạn,1965; năm 1976 đổi tên là Cơ sở lý luận văn học, tập 1), Cơ
sở lý luận văn học, tập 1(Nguyễn Lương Ngọc chủ biên, 1980), Lý luận văn
học, tập 1(Phương Lựu chủ biên, 1986), Lý luận văn học (Hà Minh Đức chủ
biên, 1992), Lý luận văn học, tập 1: Văn học, nhà văn, bạn đọc (Phương Lựu
chủ biên, 2002), Giáo trình Dẫn nhập thi pháp học (Trần Đình Sử biên soạn,
2005) Lý luận văn học (nhập mơn) (Huỳnh Như Phương biên soạn, 2010).
Trong q trình nghiên cứu đề tài, chúng tơi gặp khó khăn trong việc tiếp cận
với những văn bản xuất bản lần đầu, đặc biệt là các giáo trình xuất bản từ năm
1986 về trước. Trong trường hợp này, để đạt được mục đích nghiên cứu,
chúng tôi chọn cách tiếp cận với các văn bản tái bản.
Ngồi những giáo trình khảo sát chính như trên, người viết cũng quan
tâm đến một số cơng trình, chuyên luận lý luận văn học được xuất bản ở Việt
Nam, bao gồm cả những cơng trình lý luận văn học nước ngoài đã được dịch
ra tiếng Việt. Nghiên cứu những cơng trình này sẽ giúp chúng tơi có cái nhìn
bao qt, có cơ sở cho những nhận định, đánh giá về vị trí, vai trị cũng như
các bước vận động của đối tượng nghiên cứu theo chiều đồng đại và lịch đại.
Tuy nhiên, khi nghiên cứu những cơng trình lý luận ngồi giáo trình, chúng
tơi chỉ chọn lọc những quan niệm, kiến giải có liên đến vấn đề bản chất và đặc
trưng văn học. Và như vậy, mức độ nghiên cứu đối với loại cơng trình, tài liệu
này chỉ mang tính chất tham khảo, đối sánh, góp phần làm sáng tỏ đối tượng
mà chúng tôi đang khảo sát: vấn đề bản chất và đặc trưng của văn học trong

giáo trình lý luận văn học Việt Nam từ những năm 1960 đến nay.


13

5. Phương pháp nghiên cứu
Xuất phát từ yêu cầu của bản thân đối tượng nghiên cứu và theo mục
đích của cơng trình, chúng tơi thực hiện cơng việc nghiên cứu theo các
phương pháp sau:
• Phương pháp lịch sử – phát sinh: nhằm tìm hiểu sự vận động của việc
biên soạn giáo trình lý luận văn học dưới tác động của lịch sử chính trị,
xã hội.
• Phương pháp hệ thống – cấu trúc: nghiên cứu từng vấn đề bản chất và
đặc trưng văn học trong mối quan hệ với tổng thể của nó (hệ thống vấn
đề, mỗi giáo trình và giữa các giáo trình).
• Phương pháp lịch sử – chức năng: đánh giá vai trị, vị trí của đối tượng
nghiên cứu (các giáo trình ở các trường đại học) cũng như của các nhà
biên soạn trong giai đoạn văn học có nhiều biến động này.
• Phương pháp so sánh được sử dụng để đối chiếu các giáo trình lý luận
khác nhau theo chiều đồng đại và lịch đại.
6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Luận văn thành cơng có có thể làm tài liệu tham khảo học tập cho sinh
viên, học viên cao học khi tiếp cận vấn đề bản chất và đặc trưng của văn học.
Đồng thời, luận văn cũng có thể được sử dụng như một nguồn tham khảo cho
các nhà nghiên cứu để thực hiện biên soạn giáo trình chun mơn trong thời
gian tới.
Về mặt khoa học, vấn đề bản chất và đặc trưng văn học là một hệ vấn
đề cơ bản nhưng phức tạp. Cơ bản, bởi nó xác định bản thể của đối tượng.
Phức tạp, bởi bản thân văn học là một loại hình nghệ thuật đa biến, khơng dễ
dàng có được sự nhất quán giữa các nhà nghiên cứu, giữa các thời kỳ khác

nhau; mặt khác, lý luận văn học, đặc biệt là vấn đề bản chất và đặc trưng văn
học, còn chịu sự tác động lớn từ những yếu tố ngồi nó như chính trị, lịch sử -


14

xã hội, triết học, văn hóa,... Muốn đánh giá, cải biến một đối tượng khơng gì
hơn là xuất phát từ những vấn đề thuộc bản thể của chính nó, rồi lấy đó làm
nền tảng, cơ sở để phát triển những vấn đề liên quan. Đề tài tuy chỉ giới hạn
phạm vi nghiên cứu ở giáo trình lý luận văn học bậc đại học nhưng cũng góp
một tiếng nói, một góc nhìn vào việc đánh giá tồn diện nền lý luận văn học
nước ta hơn nửa thế kỷ qua.
7. Cấu trúc luận văn
Luận văn gồm 3 phần
Phần mở đầu
Các chương
Chương 1: Sự vận động quan niệm về bản chất xã hội của văn học
Chương 2: Sự vận động quan niệm về bản chất thẩm mỹ của văn học
Chương 3: Sự vận động về bản chất ngôn ngữ của văn học
Chương 4: Sự vận động quan niệm về bản chất và đặc trưng của văn
học: Những nguyên nhân cơ bản
Phần kết luận


15

Chương 1: SỰ VẬN ĐỘNG QUAN NIỆM VỀ VẤN ĐỀ BẢN
CHẤT XÃ HỘI CỦA VĂN HỌC
Hơn nửa thế kỷ qua, vấn đề bản chất xã hội của văn học trong lịch sử lý
luận văn học Việt Nam nói chung, giáo trình lý luận nói riêng ln thu hút sự

quan tâm đặc biệt của các nhà nghiên cứu. Không kể đến các chuyên luận, các
bài báo lẻ, chỉ nhìn vào bố cục chương mục của các giáo trình lý luận văn học
Việt Nam cũng có thể nhận diện sự ưu tiên, thậm chí tơn xưng bản chất xã hội
trong khi trình bày những vấn đề nguyên lý chung của văn học. Những vấn đề
mang tính chất xã hội chứ khơng phải những vấn đề mang tính thẩm mỹ nghệ
thuật hay ngơn ngữ luôn được đặt ra và giải quyết trước hết. Ở góc độ tổng
quát, có thể phác thảo một bộ khung vấn đề bản chất xã hội của văn học được
triển khai gần như đồng bộ trong hầu hết giáo trình lý luận văn học Việt Nam
từ những năm 1960 đến nay, gồm các luận điểm: nguồn gốc, đối tượng của
văn học; văn học với hiện thực đời sống xã hội; văn học với các hình thái ý
thức xã hội khác; tính khuynh hướng; chức năng của văn học.
Mặc dù vậy, quan niệm, cách kiến giải vấn đề bản chất xã hội trong
giáo trình lý luận khơng phải ln bị đóng khung một chỗ, mà có những bước
vận động đáng ghi nhận trên cả hai mạch kế thừa và đổi mới.
1.1. Vận động kế thừa
Khơng có gì khởi đi bằng con số khơng. Sự hình thành và phát triển của
giáo trình lý luận văn học Việt Nam cũng vậy, là sự kết hợp và tác động qua
lại giữa nhiều yếu tố khách quan, chủ quan trong đó có sự kế thừa những
luồng tư tưởng, tri thức trước nó.
Phần này, từ góc nhìn lịch đại, chúng tơi chú ý những điểm tương đồng
trong quan điểm và cách giải quyết vấn đề bản chất xã hội của văn học giữa
các giáo trình, điều mà nhiều người cực đoan gọi là sự “rập khuôn” của hệ


16

thống giáo trình lý luận văn học Việt Nam. Nhưng theo ý chúng tôi, đấy là
một trong hai mạch vận động đồng hành trong lịch sử biên soạn giáo trình lý
luận ở nước ta: vận động kế thừa. Gọi là vận động kế thừa, chúng tôi muốn
nhấn mạnh đến sự chuyển biến nhất định trong những quan điểm tưởng như

ổn định. Hay nói cách khác, kế thừa ở đây khơng có nghĩa là lặp lại giản đơn,
rập khn máy móc như nhiều người nhận xét, mà là sử dụng và cắt nghĩa lại
vấn đề đã được nêu ra.
Trước khi trình bày những vấn đề về bản chất xã hội của văn học trong
mạch vận động kế thừa, chúng tôi muốn nói đến vai trị của giáo trình Sơ thảo
ngun lý văn học do Nguyễn Lương Ngọc biên soạn, năm 1961, với tư cách
là cuốn giáo trình lý luận văn học đầu tiên ở nước ta. Ngay trong lời tựa, tác
giả đã thông báo với người đọc rằng đây là “cuốn sách nhỏ” chỉ đề cập đến
“một số vấn đề chính yếu của văn học”, mà trọng tâm là vấn đề bản chất xã
hội của loại hình nghệ thuật này. Cuốn sách tuy ngắn gọn, sơ lược nhưng đã
trình bày được những vấn đề cơ bản nhất của lý luận văn học theo tinh thần
mỹ học mác xít và có ảnh hưởng khơng nhỏ đến quan điểm của các giáo trình
khác. Vì vậy, có người đã ví vai trị của nó như là “khai sơn phá thạch, xây
nền đắp móng” cho việc biên soạn giáo trình lý luận văn học ở nước ta, mà
những người đồng nghiệp và học trò của ông đã thực hiện trong các giai đoạn
sau.
Kể từ Sơ thảo nguyên lý văn học năm 1961 cho đến nay (2012), việc
triển khai vấn đề bản chất xã hội của văn học trong hầu hết giáo trình lý luận
ở nước ta đều lấy triết học, mỹ học mác xít làm nền tảng. Dĩ nhiên, tùy theo
biên độ cho phép của điều kiện chính trị, lịch sử xã hội và mức độ thẩm thấu
tư tưởng mà có sự khác nhau nhất định trong cách diễn giải vấn đề ở mỗi giáo
trình. Trên cơ sở triết học Marx –Lenin, các giáo trình thống nhất quan điểm
coi lao động là nguồn gốc của văn học và văn học là một hình thái ý thức xã


17

hội thuộc kiến trúc thượng tầng. Từ đó, văn học được nhìn nhận như là một
lĩnh vực ý thức có khả năng “cải tạo hiện thực xã hội”. Những vấn đề khác
của văn học như đối tượng phản ánh, quan hệ giữa văn học với hiện thực, văn

học các hình thái ý thức xã hội khác, tính khuynh hướng, chức năng của văn
học,…đều được triển khai xoay quanh trục mỹ học xã hội học mác xít.
Riêng giáo trình Lý luận văn học (nhập môn) của tác giả Huỳnh Như
Phương, xuất bản năm 2010, được viết ở góc nhìn khác – góc nhìn của
ngun lý mỹ học sự sáng tạo. Dù vậy, ông vẫn khẳng định bản chất xã hội
của văn học với sự tương tác của những yếu tố thiết thân, như: nguồn gốc
phát sinh, nhà văn – chủ thể sáng tạo, độc giả - chủ thể tiếp nhận, điều kiện
kinh tế xã hội,…
1.1.1. Đối tượng của văn học

Vấn đề văn học phản ánh cái gì ln được các tác giả quan tâm trình
bày trước hết. Nói đối tượng văn học, tức là nói đến cái mà văn học quan tâm
phản ánh và chiếm lĩnh. Trên lập trường mỹ học mác xít, giáo trình lý luận
văn học Việt Nam từ những năm 1960 đến nay luôn khẳng định: con người
cùng các mối quan hệ phức tạp của nó là đối tượng phản ánh chủ yếu của văn
học.
Tác giả Nguyễn Lương Ngọc viết trong giáo trình lý luận Sơ thảo
nguyên lý văn học (1961): “Đối tượng chủ yếu của văn học là con người. Văn
học miêu tả chủ yếu con người, hoàn cảnh của con người và thái độ của con
người đối với hồn cảnh… Cũng có thể có những tác giả không trực tiếp biểu
hiện và miêu tả con người; song, nói chung, tác phẩm của họ vẫn nói đến con
người, đến sự liên hệ và quan hệ giữa người với sinh hoạt xã hội” [51, tr.112].
Tác giả Nguyễn Vịnh trong giáo trình Cơ sở lý luận văn học (1976), tức
Nguyên lý văn học, 1965) khẳng định: “Hình ảnh con người luôn luôn là trung


18

tâm chú ý của văn học nghệ thuật… Con người được phản ánh trong văn học
nghệ thuật là con người tồn vẹn, sinh động, với mọi đặc tính và quan hệ

phức tạp của nó như chính trong đời sống thực” [82, tr.24, 25]. Ông cũng
nhấn mạnh: “Văn học là một ngành nghệ thuật, và các ngành nghệ thuật có
chung một bản chất, một đối tượng” [82, tr.21]. Năm 1980, giáo trình Cơ sở
lý luận văn học (tập 1), do Nguyễn Lương Ngọc chủ biên, được xuất bản, vẫn
tiếp tục đặt ra và phát triển vấn đề này đi xa hơn. Đối tượng trung tâm của văn
học vẫn là con người, nhưng, tác giả Bùi Ngọc Trác nhấn mạnh, đấy là “con
người xã hội” chứ không phải con người sinh lý như là đối tượng tiếp cận của
các hình thái ý thức khác. Ơng lập luận: “Tất cả các hình thái ý thức xã hội
đều có một nguồn gốc chung là thực tại” [52, tr.56]. Nhưng, “do phương tiện
phản ánh cuộc sống riêng biệt” nên mỗi hình thái “đều có một lĩnh vực hiện
thực đặc biệt làm đối tượng ưu tiên của nó”. Trong thế giới hiện thực mn
màu mn vẻ ấy, văn học quan tâm trước hết đến “những số phận con người,
những thách thức và những mối quan hệ của con người. Những cái đó tạo
thành đối tượng chủ yếu của văn học nghệ thuật” [52, tr.57]. Nói như vậy,
khơng có nghĩa là văn học tự hạn chế mình trong một phạm vi nhất định. Ông
nhấn mạnh: “Đối tượng của văn học không chịu sự ràng buộc về không gian
và thời gian của thế giới tự nhiên và đời sống xã hội”; “văn học nhận thức và
phản ánh hiện thực trong tính tổng thể, tồn vẹn, phong phú và phức tạp của
nó” [52, tr.58]. Trong đó, con người, với vị thế trung tâm, xuất hiện trong văn
học với tư cách là đối tượng phản ánh cơ bản và có tính chất quyết định của
sự phản ánh chứ khơng phải ở chỗ văn học miêu tả một cách trực tiếp cuộc
sống con người” [52, tr.59]. Cịn thiên nhiên, theo ơng: “Thiên nhiên được
miêu tả trong văn học nghệ thuật là thiên nhiên đã được khúc xạ qua tấm lăng
kính cảm thụ của nghệ sĩ giữ một vai trị khơng nhỏ trong việc làm phong phú
thêm thế giới tinh thần, đời sống tâm hồn của con người, giúp con người phát


19

huy thêm cảm xúc thẩm mỹ, biết trân trọng và yêu quý thêm mọi vẻ đẹp trên

đời” [52, tr.61]. Cuộc sống xã hội, mà trong đó con người là trung tâm, là
nguồn ni dưỡng của văn học nghệ thuật nói chung. Nhưng đối tượng của
văn học nghệ thuật, theo ông, “cũng không phải là cái vĩnh hằng, bất biến, mà
luôn luôn biến đổi cùng với sự biến đổi của thực tại xã hội” [52, tr.68].
Luận điểm con người là đối tượng phản ánh trung tâm của văn học tiếp
tục được các tác giả giáo trình lý luận văn học thời đổi mới khẳng định và
phát triển lập luận. Tác giả Trần Đình Sử, trong giáo trình Lý luận văn học,
năm 1986, cũng khẳng định con người là đối tượng phản ánh chủ yếu của văn
nghệ. Bên cạnh đó, ơng cịn cho rằng trong mn mặt vấn đề của con người
thì tính cách của con người là trung tâm của đối tượng của văn nghệ. Ông
viết: “Văn nghệ phản ánh các quan hệ hiện thực mà trung tâm là con người xã
hội. Văn nghệ không miêu tả thế giới như khách thể tự nó, mà tái hiện chúng
trong tương quan với lý tưởng, khát vọng, tình cảm của con người. Văn nghệ
không phải ánh hiện thực dưới dạng những bản chất trừu tượng, mà tái hiện
nó trong tính tồn vẹn, cảm tính sinh động. Khái niệm trung tâm của đối
tượng của văn nghệ là các tính cách của con người, những con người sống,
suy nghĩ, cảm xúc, hành động mang bản chất xã hội, lịch sử” [41, tr.127].
Phần biên soạn này được tiếp tục sử dụng trong giáo trình Văn học, nhà văn,
bạn đọc, do Phương Lựu chủ biên, nhà xuất bản Đại học Sư phạm ấn hành
năm 2002.
Năm 1992, dưới sự chủ biên của Hà Minh Đức và sự tham gia biên
soạn của nhóm giảng viên trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà
Nội, một giáo trình Lý luận văn học mới được ra đời và tiếp tục khẳng định
con người xã hội là trung tâm phản ánh của văn học. Tác giả Trần Khánh
Thành viết: “Đối tượng chủ yếu của nghệ thuật là con người… Nghệ thuật
quan tâm trước hết đến bản chất xã hội của con người. Bản chất đó thể hiện


20


qua tinh thần, đạo đức, tác phong, hành vi xã hội, tình cảm, cảm xúc và đời
sống tâm linh của con người” [19, tr.16].
1.1.2. Văn học là một hình thái ý thức thuộc thượng tầng kiến trúc

Xác định lao động là nguồn gốc hình thành và con người với đời sống
xã hội muôn màu vạn sắc là đối tượng phản ánh chủ yếu của văn học, các tác
giả giáo trình, trên cơ sở tư tưởng mỹ học mác xít, tiếp tục phân tích bản chất
xã hội của văn học ở vị thế là một hình thái ý thức xã hội thuộc thượng tầng
kiến trúc, chịu sự chi phối của hạ tầng cơ sở và phản ánh đời sống xã hội qua
sự tương tác với các hình thái ý thức khác.
Trong chương II, Văn học là một hình thái ý thức thuộc thượng tầng
kiến trúc, giáo trình Sơ thảo nguyên lý văn học (1961), Nguyễn Lương Ngọc
khẳng định: “Khơng có lý do gì mà phủ nhận tính chất thượng tầng của văn
học nghệ thuật”, bởi ai trong chúng ta cũng có thể nhận thấy “những biến đổi
căn bản trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật thường trùng với những biến đổi
căn bản trong chế độ kinh tế của xã hội”, và “chịu ảnh hưởng của sự biến đổi
của hạ tầng cơ sở” [51, tr.88, 90]. Ông phản đối quan điểm xuất phát từ tính
chất trung gian của ngơn ngữ để phủ nhận tính thượng tầng của văn học:
“Ngơn ngữ chỉ là phương tiện của văn học chứ không phải là văn học. Ngôn
ngữ là công cụ giao tiếp của con người, bất kể con người thuộc giai cấp nào;
trái lại, văn học nói chung là một vũ khí đấu tranh giai cấp sắc bén” [51,
tr.86]; và nhấn mạnh: “Không công nhận tính thượng tầng của văn học, khơng
những là sai lầm lớn về phương diện lý luận mà còn là “nối giáo cho giặc” và
rơi thỏm vào chủ nghĩa “nghệ thuật vị nghệ thuật” phản động nữa [51, tr.90].
Thừa nhận “văn học là một hình thái ý thức nằm trong thượng tầng
kiến trúc, do cơ sở kinh tế quy định”, tác giả Trần Văn Bính, trong giáo trình
Cơ sở lý luận văn học (1976), cho rằng: “Phải hiểu mối quan hệ này một cách



×