Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

thiền uyển tập anh từ góc nhìn văn chương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (875.92 KB, 108 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
___________________

Phạm Thị Bảo Trân

THIỀN UYỂN TẬP ANH
TỪ GÓC NHÌN VĂN CHƯƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh – 2011


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
___________________

Phạm Thị Bảo Trân

THIỀN UYỂN TẬP ANH
TỪ GÓC NHÌN VĂN CHƯƠNG
Chuyên ngành : Văn học Việt Nam
Mã số

: 60 22 34

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:


PGS.TS. ĐOÀN THỊ THU VÂN

Thành phố Hồ Chí Minh – 2011


LỜI CẢM ƠN
- Xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, phòng Khoa học Công nghệ và Sau
đại học, khoa Ngữ văn, các thầy cô trong tổ Văn học Việt Nam đã tạo điều kiện
cho tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu.
- Xin gửi đến GS.TS. Đoàn Thị Thu Vân lòng biết ơn sâu sắc.
- Cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp luôn động viên tôi trong thời gian vừa
qua.
Tác giả luận văn

Phạm Thị Bảo Trân


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cảm ơn
Mục lục
MỞ ĐẦU........................................................................................................... 1
Chương 1: THIỀN UYỂN TẬP ANH TRONG TIẾN TRÌNH VĂN XUÔI VIỆT
NAM THỜI TRUNG ĐẠI .......................................................... 6
1.1. Vài nét về Thiền uyển tập anh ................................................................ 6
1.2. Vị trí của Thiền uyển tập anh trong văn xuôi Phật giáo thời Lý Trần.......... 13
1.3. Vị trí của Thiền uyển tập anh trong văn xuôi trung đại ....................... 17
Chương 2: ĐẶC ĐIỂM KẾT CẤU .............................................................. 24
2.1. Cơ cấu nghệ thuật “đại đồng, tiểu dị” .................................................. 24
2.2. Nghệ thuật kết hợp giữa hành trạng và ngữ lục ................................... 29

2.3. Nghệ thuật kết hợp giữa truyện (văn xuôi) và thơ (văn vần) ............... 41
Chương 3: ĐẶC ĐIỂM HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT ............................... 48
3.1. Hình tượng và vai trò của hình tượng nhân vật trong tác phẩm thuộc loại hình
tiểu truyện nhân vật ............................................................................. 48
3.1.1. Hình tượng .................................................................................... 48
3.1.2. Vai trò của hình tượng nhân vật trong tác phẩm thuộc loại hình tiểu truyện
nhân vật ......................................................................................... 49
3.2. Bức chân dung con người lý tưởng ...................................................... 49
3.2.1. Vẻ đẹp của con người đạt đạo........................................................ 49
3.2.2. Vẻ đẹp của con người nhập thế...................................................... 55
3.2.3. Giá trị nhân văn trong những vẻ đẹp của hình tượng nhân vật ..... 59
3.3. Nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật ........................................... 63
3.3.1. Yếu tố kỳ ảo ................................................................................... 63
3.3.2. Thủ pháp tương hỗ ......................................................................... 68
3.3.3. Thủ pháp phác diễn ........................................................................ 72
Chương 4: ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ .......................................................... 76
4.1. Vai trò của ngôn ngữ - vai trò của ngón tay chỉ mặt trăng ................... 76


4.2. Ngôn ngữ hàm súc ................................................................................ 80
4.3. Ngôn ngữ vừa giản dị vừa uyên bác ..................................................... 88
KẾT LUẬN .................................................................................................... 97
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 99


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Chúng tôi chọn đề tài: “Thiền uyển tập anh – từ góc nhìn văn chương” vì
những lí do sau:
1.1 Lâu đài thơ văn Việt Nam ngày nay được xây nền móng từ xa xưa, trong

đó thơ văn Lý Trần là bộ phận giữ vai trò rất quan trọng. Đọc lại văn chương Lý Trần,
trong đó có Thiền uyển tập anh là nhớ câu “ôn cố nhi tri tân” bởi “tân tòng cố xuất”
“Nếu không đọc lại ông cha thì sao biết mình được?
Nếu không tìm về nguồn thì sao biết dòng sông đang chảy từ đâu?
Nếu không có thơ văn Lý Trần thì làm sao có thơ văn Nguyễn Trãi…” [25, 12]
1.2 Nằm trong dòng chảy của văn học trung đại khác, Thiền uyển tập anh mang
tính nguyên hợp văn – sử – triết bất phân. Từ một góc nhìn, chúng tôi bóc tách phần
“văn” trong đó để tìm thấy vẻ đẹp văn chương của một văn bản Phật giáo.
1.3 Sau một thời gian Phật giáo trượt dài trên con đường suy thoái, những
người quan tâm đến Phật học, yêu Thiền mến đạo đang ra sức chấn hưng Phật giáo.
Với công trình nghiên cứu này, người viết mong góp một phần bé nhỏ vào sự nghiệp
có ý nghĩa trên.
1.4 Trong thời hiện đại, với nền kinh tế thị trường, con người mải miết đua
chen chạy theo danh vọng, tiền bạc, địa vị, kiếm tìm cái mới. Gánh nặng của những
tham vọng đè trên vai dễ làm người ta mất thăng bằng. Để vơi đi những căng thẳng
tinh thần và tìm lại sự cân bằng cho tâm hồn, con người cũng có nhu cầu quay về
nguồn, tìm lại vẻ đẹp xưa trong những giá trị tinh thần mà cha ông để lại.
1.5 Chúng tôi viết luận văn này cũng là viết cho chính mình. Xứ sở của thiền
uyên áo và kì diệu là niềm hấp dẫn và say mê đối với người viết. Một quyển sách và
một sự hiểu biết còn nông cạn hẳn chưa đủ để mở lối vào thiền học. Trước các bậc
tiền bối, tôi vẫn chỉ là kẻ cầm roi đứng sau đuôi con ngựa. Thế nhưng, được đến với
thiền, buông bỏ và an lạc cùng thiền, đặc biệt là đến với thiền qua văn chương, thật
biết bao là thú vị.


2. Lịch sử vấn đề
Thiền uyển tập anh là văn bản văn học Phật giáo cổ có giá trị về nhiều mặt, thu
hút sự tìm kiếm khám phá của những người làm công tác nghiên cứu ở nhiều lĩnh vực,
trong đó có văn học.
Những công trình nghiên cứu chuyên biệt về Thiền uyển tập anh:

Từ thế kỷ XX về trước, chỉ có những công trình in, dịch, giới thiệu truyền bản
Thiền uyển tập anh.
Gần đây, xuất hiện hai công trình nghiên cứu rất công phu của Lê Mạnh Thát
và Nguyễn Hữu Sơn. Lê Mạnh Thát với cuốn sách Nghiên cứu về Thiền uyển tập anh
hơn 800 trang, làm rõ vấn đề truyền bản, niên đại, tác giả và phương pháp viết sử
truyền thừa của tác phẩm. Nguyễn Hữu Sơn với luận án tiến sĩ Khảo sát loại hình tiểu
truyện thiền sư trong Thiền uyển tập anh đã “góp phần tiếp cận tác phẩm từ góc độ
loại hình và tiến hành khảo sát các đặc điểm chung đó trên phương diện loại hình
học”.
Những công trình nghiên cứu về văn học Lý Trần trong đó Thiền uyển tập
anh là một bộ phận:
Trước thế kỷ XX, sách Đại Việt thông sử (thiên Văn nghệ chí) của Lê Quý Đôn,
Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú đã đề cập sơ nét về tác giả và nội
dung tác phẩm.
Về sau, các sách Thơ văn Lý Trần, Tuyển tập Văn học trung đại… giới thiệu và
trích tuyển tác phẩm Thiền uyển tập anh hoặc các bài thơ của các nhà sư được nhắc
tới trong tác phẩm.
Các bài viết: Tìm hiểu thơ văn của các nhà sư Lý Trần (tác giả Kiều Thu
Hoạch, đăng trên Tạp chí Văn học, số 6, năm 1965), Nghĩ về văn học đời Lý (tác giả
Nguyễn Huệ Chi, đăng trên Tạp chí Văn học, số 6, năm 1986), Một vài tìm tòi bước
đầu về văn bản thơ văn Lý - Trần (tác giả Trần Thị Băng Thanh, đăng trên Tạp chí
Văn học, số 5, năm 1972)… xa gần đề cập tới thơ văn của các nhà sư có tên trong tập
truyện. Công trình nghiên cứu Văn học Phật giáo thời Lý Trần – diện mạo và đặc
điểm của Nguyễn Công Lý đã điểm qua vài nét về đặc trưng thể loại của Thiền uyển
tập anh.


Những công trình nghiên cứu về giá trị văn chương của Thiền uyển tập anh
Nguyễn Hữu Sơn với bài viết Tìm hiểu những đặc điểm nghệ thuật của Thiền
uyển tập anh (Tạp chí Văn học, số 4, năm 1992), Nguyễn Tử Cường với bài viết Nghĩ

lại Phật giáo Việt Nam: Thiền uyển tập anh có phải là văn bản truyền đăng không?
(Tạp chí Văn học, số 1, năm 1997) đã bàn đến giá trị nghệ thuật của tác phẩm trên
nhiều phương diện từ kết cấu, ngôn ngữ đến các chi tiết nghệ thuật. Những tư liệu đó
đã cung cấp cái nhìn khái quát về đặc điểm nghệ thuật của tập truyện ký này.
Nhìn chung, Thiền uyển tập anh đã trải qua lịch sử nghiên cứu khá dày dặn.
Tuy nhiên, chưa có công trình nghiên cứu chuyên biệt tìm hiểu một cách toàn diện và
hệ thống vẻ đẹp của giá trị văn chương trong tác phẩm này.
3. Phạm vi nghiên cứu
Về tư liệu nghiên cứu: luận văn dùng bản dịch Thiền uyển tập anh của Ngô
Đức Thọ - Nguyễn Thúy Nga, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1993.
Về vấn đề nghiên cứu: luận văn tập trung làm rõ giá trị văn chương của tác
phẩm ở các phương diện: kết cấu, hình tượng nhân vật và ngôn ngữ.
4. Phương pháp nghiên cứu
Xuất phát từ yêu cầu của đối tượng nghiên cứu và mục đích hướng tới của luận
văn, chúng tôi đã vận dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp hệ thống: người viết xác định mỗi tiểu truyện là một hệ thống
nằm trong hệ thống lớn hơn là tập truyện Thiền uyển tập anh, tập truyện này lại được
đặt trong những hệ thống lớn hơn: văn xuôi Phật giáo Lý Trần, văn xuôi trung đại.
Thông qua chuỗi hệ thống đó, người viết xác định vị trí cũng như tìm hiểu đặc điểm
tác phẩm.
- Phương pháp thống kê: được dùng để khảo sát số lượng, mật độ xuất hiện của
các yếu tố, đưa ra những chứng cứ cụ thể, chính xác nhằm tăng sức thuyết phục cho
những kết luận được rút ra.
- Phương pháp so sánh: đặt đối tượng nghiên cứu vào hệ thống theo các cấp độ,
người viết nhìn nhận vấn đề trong sự đối sánh. Từ đó, rút ra được những điểm gặp gỡ,
kế thừa và cả vẻ đẹp riêng của tác phẩm.


- Phương pháp phân tích – tổng hợp: trên cơ sở những số liệu thống kê, kết
quả có được từ việc so sánh với những đối tượng trong và ngoài hệ thống, thông qua

việc phân tích những vấn đề cụ thể, chi tiết ở từng phương diện (kết cấu, hình tượng,
ngôn ngữ) người viết đi đến tổng hợp thành những kết luận khái quát về giá trị văn
chương của tác phẩm.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Ý nghĩa khoa học:
- Khám phá vẻ đẹp nghệ thuật của tác phẩm. Góp thêm tiếng nói cho hướng
nghiên cứu giá trị văn chương của những văn bản Phật giáo.
Ý nghĩa thực tiễn:
- Góp phần vào phong trào khôi phục, chấn hưng Phật giáo sau bước lùi từ thế
kỷ XIX đến giữa thế kỷ XX.
- Nâng cao sự hiểu biết của bản thân về văn học Phật giáo.
6. Cấu trúc luận văn
Cấu trúc luận văn gồm ba phần:
- Phần dẫn nhập
- Phần nội dung chính
- Phần kết luận
Phần nội dung chính được chia làm bốn chương:
Chương 1: Thiền uyển tập anh trong tiến trình văn xuôi Việt Nam thời trung
đại
Chương này nhằm giới thiệu về Thiền uyển tập anh, làm rõ vị trí của Thiền
uyển tập anh trong tiến trình phát triển của văn xuôi Việt Nam thời trung đại và trong
văn xuôi Phật giáo thời Lý Trần.
Chương 2: Đặc điểm kết cấu
Trong chương hai, chúng tôi tìm hiểu đặc điểm kết cấu của tập truyện. Đó là sự
kết hợp chặt chẽ giữa hành trạng và ngữ lục, sự kết hợp hài hòa giữa hình thức văn
xuôi và văn vần tạo nên sự xâu chuỗi chặt chẽ trong tác phẩm. Đặc điểm kết cấu này
là yếu tố thứ nhất làm hiện lên giá trị văn chương của tập truyện.
Chương 3: Đặc điểm hình tượng nhân vật



Đây là chương quan trọng nhất của luận văn
Chúng tôi làm rõ hai vấn đề cơ bản: vẻ đẹp của hình tượng nhân vật và nghệ
thuật xây dựng hình tượng nhân vật. Từ đó, thấy được sức sống của hình tượng nhân
vật từ “người thật việc thật” ngoài đời đến nhân vật trong văn chương.
Chương 4: Đặc điểm ngôn ngữ
Trong chương này, chúng tôi làm rõ tính hàm súc, giản dị và uyên bác rất đặc
trưng của ngôn ngữ thiền, của văn học Phật giáo thể hiện trong tác phẩm. Từ đó thấy
được vẻ đẹp văn chương thể hiện qua ngôn ngữ.


Chương 1:
THIỀN UYỂN TẬP ANH TRONG TIẾN TRÌNH VĂN XUÔI
VIỆT NAM THỜI TRUNG ĐẠI
1.1. Vài nét về Thiền uyển tập anh
1.1.1. Niên đại và tác giả
Thiền uyển tập anh là tư liệu quý về Phật học, lịch sử, triết học, văn học. Tập
sách vẫn được cho là tác phẩm khuyết danh vì các truyền bản hiện còn giữ được
không ghi rõ tên tác giả. Các nhà nghiên cứu đã tốn biết bao giấy mực để tìm hiểu về
thời điểm ra đời cũng như người có công chấp bút biên soạn quyển sách này. Những
bí ẩn như bức màn sương dày đặc bao phủ, tạo nên sức hút cho người ta tìm kiếm.
Về niên đại
Việc xác định thời điểm ra đời của tác phẩm đến nay vẫn còn nhiều ý kiến tranh
luận. Không ai có thể quay lại quá khứ để tìm hiểu những điều mình muốn biết. Vì
thế chỉ có thể nghiên cứu qua văn bản tác phẩm và những yếu tố liên quan với các tác
phẩm cùng thời đại.
Trong Đại Việt thông sử, bản thư tịch đầu tiên của nước ta, Lê quý Đôn ghi
“Thiền uyển tập anh, một quyển, người đời Trần soạn, ghi tông phái Thiền học và sự
tích các nhà sư nổi tiếng ở nước ta từ đời Đường, Tống, trải đến các đời Đinh, Lê, Lý,
Trần" [11, 111]. Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí cũng có nhận
định không khác với Lê Quý Đôn. Ghi chép của Lê Quý Đôn và Phan Huy Chú được

các nhà nghiên cứu coi là một trong những cơ sở đáng tin cậy nhất để xác định niên
đại của tác phẩm. Vấn đề tác phẩm ra đời vào thời Trần hầu như không có tranh luận.
Tuy nhiên, chứng cớ để xác định thời điểm ra đời đó thật không đơn giản. Trần Văn
Giáp đưa ra hai lý do. Thứ nhất, các nhà sư trong Thiền uyển tập anh không sống quá
năm 1228. Thứ hai, một số chữ trong tác phẩm được viết theo phép kị húy thời nhà
Trần. Chẳng hạn, họ Lý của sứ nhà Tống Lý Giác đã bị chuyển đổi thành họ Nguyễn.
Lê Mạnh Thát trong công trình nghiên cứu của mình lại tiếp tục đưa ra những chứng
cứ để làm rõ thời điểm ra đời của tác phẩm. Ông đã tìm ra chín sự kiện trùng hợp
giữa Thiền uyển tập anh và Đại Việt sử lược, một tác phẩm ra đời vào thời Trần và bị


giặc Minh tịch thu về Trung Quốc trong khoảng những năm đầu của thế kỷ XV, mãi
đến thế kỷ XX, các sử gia của ta mới biết đến và sử dụng. Chín sự kiện ấy không thấy
các sử gia của ta ghi lại hoặc ghi khác đi. Bên cạnh đó, ông còn chỉ ra nhiều chữ kỵ
húy khác phải đổi như: càn đổi thành cần (không rõ kỵ tên ai), đạo đổi thành pháp
(kỵ húy Trần Hưng Đạo), diệu đổi thành mậu (tên riêng của mẹ Trần Thái Tông là Lê
Thị Diệu)
Lê Mạnh Thát đã đặt ra vấn đề xác định một mốc thời gian ra đời cụ thể của tác
phẩm giữa chiều dài đăng đẳng của thời nhà Trần (gần 175 năm). Ông căn cứ vào
một câu trong Thiền uyển tập anh, lấy đó làm lý cứ để xác định thời điểm ra đời của
tác phẩm. Câu ấy nằm ở truyện về thiền sư Vô Ngôn Thông. Cuối truyện, sau khi
chép chuyện sư thị tịch, đệ tử thân tín là Cảm Thành hỏa táng, thu xá lợi, xây tháp thờ,
Thiền uyển tập anh viết: “Thời Đường Bảo lịch nhị niên Bính Ngọ chính nguyệt thập
nhị nhật, nhị thập bát niên, hựu chí Khai Hựu Đinh Sửu, nhị thập tứ niên, ngã Việt
thiền học tự sư chi thủy”. Theo cách phiên âm như trên, câu này có năm vế. Vế thứ
nhất, thứ ba và thứ năm rất rõ ràng về nghĩa. Vấn đề cần tìm hiểu nằm ở vế thứ hai và
thứ tư, Lê Mạnh Thát cho rằng một số chữ bị viết nhầm. Điều này cũng dễ chấp nhận
bởi các văn bản Hán Nôm thời trung đại luôn bị xáo trộn qua thời gian và không gian
bởi những bàn tay sao chép hoặc khắc in. Vế thứ hai, nhị thập bát niên là viết nhầm
của lục thập bát niên (lục viết nhầm thành nhị), đó chính là tuổi thọ của thiền sư, thọ

68 tuổi. (Năm Mã Tổ mất 788, thiền sư thọ giới được 10 hạ, tức là khoảng 30 tuổi.
Như vậy tính theo lối phương Đông, năm sinh của ông là 759, đến năm mất 826 quả
đúng 68 tuổi). Phần tiếp theo hựu chí Khai Hựu Đinh Sửu nhị thập tứ niên nhiều khả
năng là viết nhầm của hựu chí Khai Hựu Đinh Sửu bách thập nhị niên nghĩa là: lại
đến năm Đinh Sửu Khai Hựu (1337) phàm 512 năm. Đây là ảnh hưởng lối viết
Truyền đăng lục của Đạo Nguyên (đối với những vị tổ chính yếu của Thiền tông, ông
đều tính từ năm mất của họ đến năm ông biên soạn, Cảnh Đức thứ nhất (1004) là bao
nhiêu năm). Nếu theo cách đọc và hiểu như thế, ta biết năm Thiền uyển tập anh ra đời
là 1337. Một kết luận như thế chưa phải là dấu chấm hết cho những cuộc tranh luận.
Tuy nhiên, những giả thiết của nhà nghiên cứu này là những lý cứ khá xác đáng để ta


có thêm minh chứng về năm Thiền uyển tập anh ra đời, với thời điểm được nhiều nhà
nghiên cứu chấp nhận, năm 1337.
Về tác giả
Tác giả của Thiền uyển tập anh hẳn là một người yêu Thiền mến đạo. Bởi
không có lòng yêu thiền mến đạo thì họ đã không có ý thức sưu tầm, biên soạn để ghi
lại các tông phái, lịch sử truyền thừa nhà Phật cho đời sau được rõ. Hơn nữa, tác giả
có thể cũng là người từng gửi thân chốn am Thiền, thể hiện qua sự hiểu biết sâu sắc
về các nhà sư, các yếu chỉ Thiền tông.
Nguồn sử liệu được sử dụng để hoàn thành tập truyện vô cùng phong phú cho
thấy sự hiểu biết sâu rộng của người biên soạn. Sách Phật học có thể kể đến Chiếu
đối lục (tác phẩm của Thông Biện và Biện Tài), Nam tông tự pháp đồ (của Thường
Chiếu), Liệt tổ yếu ngữ (của Huệ Nhật). Các tài liệu này đã cung cấp thông tin về tiểu
sử, hành trạng cũng như các cơ duyên thoại ngữ, kệ thị tịch của các vị thiền sư. Bên
cạnh đó, người biên soạn còn sử dụng những tư liệu lịch sử xã hội: Sử ký (Đỗ Thiện),
Quốc sử (Đại Việt sử ký của Lê văn Hưu), Tự Ngu tập…và những tư liệu truyền khẩu
thể hiện quan niệm và đánh giá của quần chúng nhân dân. Nguồn tư liệu phong phú
ấy góp phần làm nên giá trị của Thiền uyển tập anh và cũng soi chiếu gương mặt
người đã chọn tuyển, góp nhặt để hoàn chỉnh bộ sách: phải là một học giả uyên bác

am tường Nho Phật, Hán Phạn. Nhưng điều mà người đọc mọi thời đại luôn trăn trở
khi tiếp xúc tác phẩm, đó là: ai là người đã có công chấp bút biên soạn Thiền uyển tập
anh?
Xưa nay các tài liệu vẫn ghi Thiền uyển tập anh là tác phẩm khuyết danh (vì
truyền bản hiện còn không ghi rõ tên tác giả) hoặc cụ thể hơn “do người đời Trần
soạn” (Lê Quý Đôn). Nhưng dường như không ai thấy đủ với câu trả lời đó. Gần đây,
các nhà nghiên cứu căn cứ vào các yếu tố cụ thể trong văn bản để xem xét, cho rằng
tác phẩm này do một số nhà sư biên soạn trong một thời gian dài. Nhà nghiên cứu Lê
Mạnh Thát xác định: “rất có thể Kim Sơn hay Cảnh Huy đã được giao phó một
nhiệm vụ tương tự, đấy là viết Thiền uyển tập anh”.[52, 101]
Việc xác định ai là người đã biên soạn Thiền uyển tập anh có thể căn cứ vào nội
dung một số tiểu truyện trong tác phẩm. Thứ nhất, căn cứ vào tiểu truyện về quốc sư


Thông Biện. Thiền sư có lời bàn về Phật và Thiền rất sâu, khi hoàng thái hậu, mẹ vua
Lý Nhân Tông hỏi ông:
- Phật và Tổ nghĩa thế nào? Ai hơn ai kém? Phật trụ phương nào? Tổ ở thành
nào? Đến nước ta từ bao giờ? Việc truyền đạo ai trước ai sau? Mà người niệm tên
Phật đạt tâm ấn của Tổ chưa rõ là những ai?
Sư đã trả lời đầy đủ và khúc chiết, rõ ràng.
Thứ hai, tiểu truyện sư Biện Tài: “nối pháp tự của Thông Biện quốc sư, từng
vâng sắc chỉ biên sửa sách Chiếu đối lục”.
Tiếp theo, tiểu truyện sư Thường Chiếu: “Sư từng làm sách Nam tông tự pháp
đồ, một quyển, lưu hành ở đời”.
Và cuối cùng, tiểu truyện sư Thần Nghi. “Sư (Thần Nghi) hỏi Thường Chiếu:
- Đệ tử theo hầu hòa thượng đã bao năm nay mà chưa biết ai là người đầu tiên
truyền đạo vào nước ta? Xin hòa thượng chỉ giáo cho đệ tử được biết thế thứ các đời
truyền pháp, ngõ hầu cho người học đạo ngày nay được biết nguồn gốc.
Thường Chiếu khen sư có lòng khẩn thiết, bèn lấy tập sách Chiếu đối bản (từng
được Biện Tài biên sửa thành Chiếu đối lục) của sư Thông Biện và những điều ghi

chép về các tông phái để phân biệt thế thứ nối pháp của các dòng (tức Nam tông tự
pháp đồ) đưa cho xem.
Ngày 18 tháng 2 năm Bính Tý niên hiệu kiến gia thứ 6 (1216) sư đem tập phả đồ
của Thường Chiếu trao cho mình truyền lại cho đệ tử là Ẩn Không, dặn rằng:
- Bây giờ tuy loạn, ngươi hãy giữ sách này, cẩn thận không để binh hỏa hủy
hoại thì tổ phong ta sẽ không mai một.”
Phần trích trên là những căn cứ khá xác đáng để giúp xác định tác giả tập sách.
Căn cứ vào nội dung nêu trên, có thể tạm đi đến kết luận rằng: tác phẩm này đã được
Thông Biện thiền sư khởi thảo từ đời Lý, sau đó Biện Tài, Thường Chiếu, Thần Nghi
lần lượt bổ sung thêm. Trải qua một quá trình lâu dài đến thiền sư Ẩn Không là người
hoàn tất việc biên soạn cuối cùng.
1.1.2. Truyền bản
Thiền uyển tập anh là một trong những tác phẩm mở đầu cho văn xuôi tự sự thời
trung đại. Tác phẩm đã có một bước đi khá dài trên lộ trình văn học. Thời gian với


những gập ghềnh của nó đã làm đổi thay mọi thứ. Đầu thế kỷ XV, giặc Minh ra tay
hủy diệt sách vở của ta, Thiền uyển tập anh nhờ lớp áo nhà chùa mới thoát khỏi bàn
tay đẫm máu ấy. Thế nhưng, cát bụi thời gian cũng làm cho nó ít nhiều đổi thay diện
mạo.
Thời gian gần nhất được đề cập trong truyện là nửa đầu thế kỷ XIII, trong
khoảng những năm 1230. Vì cư sĩ Ứng Vương, người cuối cùng của thiền phái Vô
Ngôn Thông được ghi tiểu truyện làm quan dưới triều Chiêu Lăng Trần Thái Tông (ở
ngôi 1225 – 1231). Thiền sư Y Sơn, người cuối cùng của Thiền phái Tì – ni – đa –
lưu – chi, mất năm 1213. Như vậy, tác phẩm ra đời sau đó ít lâu, khoảng năm 1337
như đã nói ở trên. Từ mốc thời gian đó, người ta có thể trực tiếp hoặc gián tiếp nhận
ra sự có mặt của Thiền uyển tập anh trong mối tương quan với các tác phẩm khác.
Lịch sử lưu truyền văn bản trải qua một thời gian lâu dài, từ thời Trần, Hồ, Lê,
Nguyễn cho đến ngày nay. Tác phẩm lưu truyền dưới hình thức khắc in và chép tay.
Đối chiếu Thiền uyển tập anh và Lĩnh nam chích quái, một tác phẩm được cho

là của Trần Thế Pháp viết vào thời Trần, người ta tìm thấy bốn truyện trong Lĩnh
Nam chích quái có nội dung và cách diễn đạt giống như của Thiền uyển tập anh. Đó
là truyện Không Lộ và Giác Hải của thiền phái Vô Ngôn Thông và truyện Đạo Hạnh,
Minh Không của thiền phái Tì – ni – đa – lưu – chi. Theo nhà nghiên cứu Lê Mạnh
Thát, nhiều khả năng Lĩnh Nam chích quái đã chép lại từ Thiền uyển tập anh. Thứ
nhất, “cái đầu đề “chích quái” thì khả năng trích dẫn và thu lượm các tiểu truyện từ
nhiều nguồn khác nhau là một sự thực”. Thứ hai, “đọc bốn truyện này, văn phong
của chúng tỏ ra thống nhất với văn phong của các truyện khác trong Thiền uyển tập
anh. Trong khi đó nếu so với các truyện khác của chính bản thân Lĩnh nam chích
quái thì không ăn khớp lắm”. [52, 29]
Đời Hồ, giặc Minh mượn cớ “phù Trần diệt Hồ” sang xâm lược Đại Việt.
Chúng cướp phá và tiêu hủy mọi sách vở, thư tịch, Thiền uyển tập anh nhờ gắn mình
nơi cửa Phật nên không bị tiêu hủy. Người phương Bắc đã thu lấy và dùng một phần
để viết An Nam chí nguyên. Trong mục Tiên Thích của sách này có ghi vắn tắt tiểu sử
của 14 vị thiền sư trong đó có 13 vị có tên trong Thiền uyển tập anh. “So sánh những
ghi chú của nó về 13 vị ấy, thì trừ Thảo Đường ra, mà Thiền uyển tập anh không có


truyện, số còn lại có văn cú hoàn toàn giống với một đoạn trong truyện của những
thiền sư ấy trong Thiền uyển tập anh”. [52, 32] Như vậy, An Nam chí nguyên đã lấy
trực tiếp từ Thiền uyển tập anh hoặc gián tiếp từ một nguồn sách nào đó đã sử dụng
Thiền uyển tập anh.
Sang đời Lê, xã hội Đại Việt có sự đổi khác. Nho học dần dần được xem trọng.
Phật giáo mất dần vị trí độc tôn. Tuy nhiên, những người nặng lòng với Phật pháp
vẫn nuôi khát vọng chấn hưng Phật học, nối tiếp con đường mà các thế hệ trước đã
qua. Thiền uyển tập anh đã được trích dẫn trong Tục Việt điện u linh tập của Nguyễn
Văn Chất. Sau đó lại được một người “vốn học sách Nho, tham cầu Phật điển” đã
“sửa lại chỗ sai, bổ vào chỗ sót” để Thiền uyển tập anh lại xuất hiện vào triều Lê,
niên hiệu Vĩnh Thịnh 11 (1715). Đây là bản cổ nhất, giá trị nhất hiện còn lại đến ngày
nay.

Đời Nguyễn, vì muốn xuất bản một bộ sử thiền tông Việt Nam, An Thiền đã
góp nhặt viết thêm hoàn thành một bộ 5 quyển (gọi là Đại Nam thiền uyển truyền
đăng tập lục hay Ngự chế thiền điển thống yếu kế đăng lục), trong đó Thiền uyển tập
anh là quyển thượng, đứng đầu bộ sách. Khi giặc Pháp sang xâm lược nước ta, bản
chép tay A2767 do trường Viễn Đông bác cổ thuê chép ra đời. Chiến tranh qua đi,
hòa bình lập lại, từ đó đến nay, Thiền uyển tập anh nhiều lần được dịch sang chữ
quốc ngữ.
Đời sống của Thiền uyển tập anh trong lòng dân tộc thể hiện ước vọng chấn
hưng Phật học và một phần cho thấy phong trào nghiên cứu và học tập lịch sử Phật
giáo Việt Nam rất sôi động và khởi sắc. Thiền uyển tập anh in bóng trong nhiều tác
phẩm văn xuôi cùng thời. Khi sưu tầm và tuyển chọn thơ văn thời Lý Trần, Lê Quý
Đôn và nhiều học giả khác đã tuyển và ghi lại thơ ca của các nhà sư có trong tập
truyện này.
Người viết chưa trả lời được câu hỏi Thiền uyển tập anh có bao nhiêu truyền
bản. Chỉ có thể biết được truyền bản xưa nhất ra đời vào thời Trần, năm 1337 và
truyền bản xưa nhất hiện còn là bản năm Vĩnh Thịnh thứ 11 (1715). Thiền uyển tập
anh đã có một bước đi lịch sử khá dài. Dù có đôi chỗ bị mất mát, bị thay đổi qua các


lần in khắc ghi chép lại nhưng đây vẫn là một trong số rất ít tác phẩm còn lưu lại khá
trọn vẹn truyền bản của nó.
1.1.3. Thể loại
Hệ thống thể loại văn học trung đại rất phong phú và phức tạp. Hiện nay chưa
có con số thống kê chính xác số lượng các thể loại văn học trung đại. Giữa các thể
loại không có sự khu biệt rạch ròi. Nhiều trường hợp, tên thể loại xuất hiện cùng với
nhan đề cho nhịp nhàng, cân đối, hoặc thể hiện chức năng, hoặc thể hiện một đặc
điểm nào đó của tác phẩm. Chính vì thế, các nhà thư tịch học Việt Nam vẫn hết sức
lúng túng khi phân loại tác phẩm văn học trung đại Việt Nam căn cứ vào thể loại.
Người sáng tác nhiều khi tự xác định thể loại cho tác phẩm của mình thông qua
tên thể loại đi kèm với tên tác phẩm (Dụ chư tì tướng hịch văn, Thiên đô chiếu, Lâm

chung chiếu, Bình Ngô đại cáo, Văn tế Trương Quỳnh Như,…). Tuy nhiên vẫn có
một số văn bản “lưỡng tính”, không thể căn cứ vào tên gọi để xác định thể loại (vì
phần lớn các tác phẩm trung đại vốn không thuần nhất về thể loại, tên thể loại trong
nhan đề chưa hẳn là thể loại vốn có của bản thân tác phẩm) hoặc không thuộc về một
thể loại nhất định. Đó là trường hợp của Thiền uyển tập anh.
Thiền uyển tập anh thường được gọi tên theo hai cách. Cách thứ nhất, gọi vắn
tắt là Thiền uyển tập anh. Cách thứ hai, gọi kèm theo tên thể loại: Thiền uyển tập anh
ngữ lục, Thiền uyển tập anh truyền đăng lục…
“Trần Văn Giáp xác định Thiền uyển tập anh ngữ lục là một trong những tài
liệu lịch sử xưa nhất của Việt Nam. Ngô Tất Tố xếp Thiền uyển tập anh vào loại sử
truyện. Học giả Dương Quảng Hàm giới thiệu Thiền uyển tập anh trong mục truyện
kí đời Trần. Các tác giả Văn Tân, Nguyễn Hồng Phong, Nguyễn Đổng Chi xác định
sách Thiền uyển tập anh thuộc loại sử truyện. Học giả Nguyễn Lang đánh giá Thiền
uyển tập anh là tài liệu sử cổ nhất về đạo Phật Việt Nam mà chúng ta hiện có. Học
giả Lê Mạnh Thát xem đây là một cuốn sử nhà chùa. Nguyễn Huệ Chi xác định nó là
tác phẩm ngữ lục thuộc loại tản văn. Đinh Gia Khánh xếp Thiền uyển tập anh trong
dòng văn học tự sự thời Lý - Trần. Nguyễn Tử Cường xác định Thiền uyển tập anh
nghiêng về thể loại cao tăng truyện. Nguyễn Hữu Sơn xác định Thiền uyển tập anh
thuộc loại hình tiểu truyện Thiền sư. Nguyễn Công Lý cho rằng đây là tác phẩm có sự


pha tạp, đan xen giữa các thể loại như hành trạng, tiểu truyện, truyền đăng, ngữ
lục...” [23, 2]. Có nhiều ý kiến khác nhau trong cách xác định thể tài tác phẩm như
trên là do đứng ở những góc độ nhìn nhận, đánh giá khác nhau, hoặc căn cứ vào
những tiêu chí cụ thể phục vụ cho những mục đích nghiên cứu khác nhau. Hơn nữa,
đây là một tác phẩm có giá trị về nhiều mặt: tôn giáo, triết học, sử học, văn học… nên
có nhiều cách quan niệm về thể tài tác phẩm. Từ những ý kiến nêu trên cho thấy,
đứng ở góc độ văn chương, tác phẩm được xác định là văn xuôi tự sự, truyện, truyện
ký, tiểu truyện nhân vật, tản văn.
Có nhiều yếu tố đóng vai trò làm căn cứ trong việc xác định đặc trưng thể loại

của tác phẩm văn học: chức năng, thể văn, đặc điểm thi pháp… Để khu biệt các thể
loại, văn học dân gian dựa vào chức năng trong khi văn học viết trung đại căn cứ vào
đặc điểm thi pháp. Về bản chất nghệ thuật, theo quan điểm của người viết, Thiền uyển
tập anh mang đặc trưng thi pháp của thể loại truyện ký, thuộc tiểu loại tiểu truyện
thiền sư, tức truyện kể về cuộc đời, tiểu sử của các thiền sư. Đặc trưng đó được thể
hiện trên nhiều phương diện: từ tính chất ghi chép người thật việc thật cho đến kết
cấu, hình tượng nhân vật và ngôn ngữ. Đây là một tập truyện ký đậm chất văn
chương. Và chỉ cần gọi “Thiền uyển tập anh” là đã đủ thấy vẻ đẹp cũng như màu sắc
văn chương của nó.
Người xưa làm văn chương bị chi phối bởi thể loại là chính. Một số thể loại văn
học trung đại hiện nay đã vắng bóng trên văn đàn “một đi không trở lại”. Riêng
truyện ký với tiểu loại tiểu truyện nhân vật vẫn còn thịnh hành. Nó vừa là văn vừa là
sử, lưu giữ kho tàng tri thức về các danh nhân.
1.2. Vị trí của Thiền uyển tập anh trong văn xuôi Phật giáo thời Lý Trần
Văn học Phật giáo thời Lý Trần là tinh hoa, đỉnh cao của văn học Phật giáo Việt
Nam. Văn học Phật giáo thời Lý Trần để lại khối lượng tác phẩm khá đồ sộ. Đó là
nguồn di sản góp phần làm phong phú thêm các thể loại, đề tài cho văn học nước ta.
Theo thống kê của tác giả Nguyễn Công Lý trong công trình Văn học Phật giáo thời
Lý Trần – diện mạo và đặc điểm, có 16 thể loại với 471 đơn vị tác phẩm trong đó đời
Lý 179 tác phẩm, đời Trần 292 tác phẩm. Nếu lấy tiêu chí phân chia là vần thì: sấm
vĩ, từ khúc, kệ, thơ Thiền, ca, ngâm, phú, minh được viết bằng văn vần; ngữ lục, tụng


cổ, niệm tụng kệ, bi, ký, tự, luận thuyết tôn giáo, truyện ký được viết bằng văn xuôi.
Tuy nhiên sự phân chia đó chỉ mang tính tương đối vì đường biên ranh giới giữa các
thể loại vốn không rạch ròi. Một số thể loại thường được phối hợp, gắn kết với nhau
như minh, bi ký, ngữ lục và kệ. Một số khó phân định thể loại như kệ và thơ Thiền,
ngữ lục và truyện ký… chỉ có thể xác định thể loại khi đứng ở một góc độ nhất định.
Thiền uyển tập anh là tác phẩm văn xuôi. Thiền uyển tập anh vẫn có tên gọi là
Thiền uyển tập anh ngữ lục bên cạnh những tác phẩm ngữ lục, tụng cổ, niệm tụng kệ,

bi ký, tự, luận thuyết tôn giáo, truyện ký khác. Xét về mặt nội dung, nó đúng là ngữ
lục với rất nhiều đoạn thoại vấn đáp về Phật, pháp, tăng, Phật học, Thiền học. Lại có
ý kiến cho rằng: đây là văn bản truyền đăng vì ghi lại các thế hệ thiền gia theo thế thứ.
Nhưng ở khía cạnh khác, nó lại mang đặc điểm của tiểu loại khác (như đã trình bày ở
phần trên). Mỗi góc nhìn, Thiền uyển tập anh lại có một tên gọi thể loại tương ứng.
Chính vì thế, đây là tác phẩm gây tranh luận nhiều nhất về vấn đề loại thể của nó.
Trong khoảng 40 tác phẩm văn xuôi thuộc văn học Phật giáo thời Lý Trần,
Thiền uyển tập anh có vị trí đặc biệt quan trọng. Đó là văn bản Phật giáo cổ vào bậc
nhất, có nhiều điểm gặp gỡ với Thánh đăng lục và Tam tổ thực lục vì đó không phải
là những tác phẩm ngữ lục, hay truyền đăng thuần túy. Lục vốn là thể loại sử. Thực
lục nhấn mạnh tính chất “ghi lại sự thật” hướng đến sự việc. Ngữ lục nhấn mạnh
“ghi lại ngôn ngữ” hướng đến lời nói. Thánh đăng nhấn mạnh “ghi lại lịch sử truyền
thừa” hướng đến thứ tự các đời nối tiếp nhau. Tuy nhiên, nhiều trường hợp, tên gọi
thể loại trong tựa đề chưa thể hiện rõ hết đặc trưng tác phẩm.
Ba tác phẩm Thiền uyển tập anh, Thánh đăng lục và Tam tổ thực lục cùng viết
theo lối chép sử biên niên (theo thế thứ các đời, theo sự việc xảy ra trong cuộc đời
mỗi vị, có tầm quan trọng trong lịch sử tư tưởng triết lý) xét từ bản chất là những bộ
sử chuyên môn về lịch sử Phật giáo thiền tông Việt Nam. Mà Phật giáo thiền tông
Việt Nam vào mấy trăm năm ấy giữ địa vị của một hệ tư tưởng chiếm ưu thế, có thể
nói là hệ tư tưởng chủ đạo của lịch sử Việt Nam. Tam tổ thực lục chép lại tiểu sử của
ba vị tổ sư thiền phái Trúc Lâm Yên Tử: đệ nhất tổ Trần Nhân Tông, đệ nhị tổ Pháp
Loa, đệ tam tổ Huyền Quang. Thánh đăng lục (Thánh đăng ngữ lục) chép về năm vị
vua – năm vị Phật tử - thiền sư đời Trần: Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông, Anh


Tông, Minh Tông. Thiền uyển tập anh ghi lại tiểu sử của 68 vị thiền sư thuộc ba dòng
phái Vô Ngôn Thông, Tì – ni – đa – lưu – chi và Thiền Thảo Đường. Việc ghi chép
lại lịch sử truyền thừa qua các đời theo thế thứ, có yếu tố của văn học chức năng,
đóng vai trò quan trọng đối với lịch sử truyền thừa nhà Phật. Tác phẩm, do đó, là một
pho sử liệu đồ sộ giúp cho các thế hệ sau biết được căn nguyên cội rễ của Phật giáo

cũng như những người đã giữ ngọn lửa nhà Thiền và lưu truyền đến ngày nay. Với
người biên soạn, chủ ý là văn học chức năng, phục vụ cho mục đích tôn giáo.
Cả ba tập sách đều có đặc điểm của truyền đăng. Thế hệ trước nối tiếp thế hệ
sau, người trước truyền cho người sau ngọn đèn Thánh, biểu trưng cho trí tuệ sáng
suốt của người ngộ đạo. Những vị được ghi lại tiểu sử trong ba tập sách đều là vua
hoặc thiền sư có công đức lớn trong tu hành giáo hóa, là người truyền lửa để nối tiếp
thế hệ này sang thế hệ kia lưu truyền và phát triển Phật học. Tuy nhiên, Thiền uyển
tập anh có dung lượng đồ sộ nhất viết về 68 vị và không ghi đầy đủ các vị theo thế
thứ, chỉ chọn một số gương mặt anh tú trong vườn thiền. Đây là một tập sách nói về
các vị thiền sư Việt Nam từ cuối thế kỷ thứ VI đến đầu thế kỷ thứ XIII, cũng là tài
liệu cổ nhất về đạo Phật Việt Nam mà chúng ta hiện có. Thiền uyển tập anh đóng vai
trò là người mở đường trong so sánh với Tam tổ thực lục và Thánh đăng lục. Tuy là
người mở đường, tuy không ghi chép đầy đủ theo thế thứ, nhưng lại đạt đến đỉnh cao
bởi sự thống nhất về văn phong cũng như bút pháp nghệ thuật.
Bên cạnh đó, cả ba đều mang đặc điểm của ngữ lục. Đó là những lời nói pháp,
những lời giảng đạo, hay những lời khai thị của các thiền sư về yếu chỉ của đạo Phật,
được xuất hiện dưới hình thức chuyện trò, trao đổi, vấn đáp giữa thầy và trò, giữa
thiền sư này với thiền sư khác. Cấu trúc mỗi truyện trong các tác phẩm gồm hai phần,
phần ghi chép hành trạng của các vị thiền sư và phần ghi chép các lời vấn đáp, đối
thoại của các thiền sư với đồng đạo. Phần ghi chép hành trạng các Thiền sư thường
được bố trí ở đầu và cuối mỗi truyện, chủ yếu sử dụng hình thức ngôn ngữ văn ngôn.
Phần ghi chép các câu vấn đáp, những lời bàn luận của thiền sư với một nhân vật xác
định như vua, sư thầy, đạo hữu, đệ tử, tăng chúng... thường sử dụng vốn ngôn từ nhà
Phật và cả vốn ngôn từ thông tục thường ngày, sử dụng đồng thời hình thức ngôn ngữ
văn ngôn và bạch thoại trung đại, đặc biệt còn có các bài kệ, thi ca, thơ viếng tế mang


cảm quan Thiền học.
Hình thức kết cấu các tác phẩm cũng khá giống nhau. Những lời nói, những lời
vấn đáp có khi được diễn đạt bằng hình thức văn xuôi, cũng có khi được diễn đạt

bằng những câu thơ bóng bẩy, giàu hình ảnh sinh động, lối ẩn dụ kín đáo, những
nghịch ngữ nhằm thể hiện sự “ngộ đạo” của nhà sư hay nhằm mục đích “truyền đạo”,
“khai thị” cho đệ tử bằng các hình thức gợi mở hoặc đánh mạnh vào tâm thức người
hỏi, người cầu đạo giúp họ giác ngộ, bừng tỉnh, thông tỏ chân lí. Các lời vấn đáp
thường xoay quanh những vấn đề thuộc lĩnh vực Phật học như Phật tính, Phật tâm,
chân như, niết bàn, sinh tử, vô thường, hằng thường, sắc không,... nhằm đưa đệ tử xa
bến mê về bờ giác. Những lời ấy đúc kết thật ngắn gọn, cô đọng và sinh động những
tín điều, giáo lý uyên áo của nhà Phật. Mỗi vị thiền sư là một ngọn đèn thắp sáng
vườn thiền và họ truyền lại tư tưởng mẫn tuệ cho các thế hệ tiếp sau. Khi Phật giáo
thịnh hành và trở thành quốc giáo ở Việt Nam từ thế kỷ X, đã có rất nhiều tác phẩm
ngữ lục Thiền tông ra đời: Thượng sĩ ngữ lục (Tuệ Trung thượng sĩ Trần Tung),
Thạch thất mị ngữ, Thiền lâm thiết chuỷ ngữ lục (Trần Nhân Tông), Đoạn sách lục
(Pháp Loa), Phổ Tuệ ngữ lục (Huyền Quang)... Trong đó, Thánh đăng ngữ lục, Thiền
uyển tập anh, Tam tổ thực lục là ba tác phẩm tiêu biểu xét về phương diện giá trị văn
chương và vai trò bảo tồn thơ ca dân tộc.
Truyền đăng ghi chép các thế hệ truyền thừa của nhà Phật. Ngữ lục ghi chép các
lời truyền dạy của thầy với trò, của đức chí tôn với đệ tử. Đây là những thể loại đặc
trưng của văn xuôi Phật giáo. Trong Thiền uyển tập anh, có “truyền đăng”, có “ngữ
lục” nhưng nó không mang tính chất truyền đăng hay ngữ lục thuần túy. Đó là những
tên gọi căn cứ vào chức năng tôn giáo của nó.
Thời Lý Trần là thời kỳ mà văn học Phật giáo có thành tựu sáng giá nhất, hấp
dẫn nhất. Đoạn đường đi càng dài, văn học Phật giáo càng đánh rơi những giáo lý
uyên áo để trở nên mềm mại uyển chuyển, gần gũi với đời thường; nghĩa là phương
diện văn chương càng rõ, giá trị văn chương càng đậm. Thiền uyển tập anh, Thánh
đăng lục và Tam tổ thực lục là bộ ba tác phẩm có đặc điểm nghệ thuật khá giống
nhau và gần với thể loại truyện ký. So ba tác phẩm với nhau, Thiền uyển tập anh là
gần với thể loại truyện ký, tiểu loại tiểu truyện thiền sư hơn cả. Nghĩa là nó rời xa văn


học chức năng, gần với văn chương nghệ thuật. Vẻ đẹp văn chương ấy sẽ được làm rõ

trong những chương tiếp theo.
1.3. Vị trí của Thiền uyển tập anh trong văn xuôi trung đại
1.3.1. Văn xuôi Việt Nam thời trung đại – quá trình hình thành và phát triển
Từ trước thế kỉ thứ X, thời Bắc thuộc, người Việt đã biết chữ Hán, đi thi, sáng
tác văn chương. Vì mục đích chính trị, người phương Bắc dạy chữ Hán cho người
Nam, từ đó xuất hiện nhiều nhân vật uyên bác, nổi tiếng hay chữ: Lữ Gia, Lý Tiến,
Lý Cầm, Khương Công Phụ, Khương Công Phục,… Sự việc đó đồng thời góp phần
làm nảy nở nền văn chương nước Việt. Theo Nguyễn Đổng Chi, Lý Tiến đời Hán, Sĩ
Nhiếp đời Tam Quốc, Khương Công Phụ đời Đường là ba điểm tựa cho văn học
vươn mình lớn dậy. Tuy nhiên, số lượng thơ văn ít ỏi, hiện nay hầu như chẳng còn lại
gì, chính là nguyên nhân chưa thể khẳng định được hình dáng của một nền văn học
đã mở đầu từ đấy. Dù vậy, đó chính là quá trình lấy đà để chuẩn bị cho bước nhảy vọt
trong những thế kỉ tiếp sau.
Thế kỉ thứ X được xem là điểm mốc cho sự ra đời của văn học viết dân tộc. Nền
độc lập dân tộc được xây dựng lại, nền văn hóa được cởi trói khỏi sự nô dịch của
người phương Bắc. Văn học được xác nhận chủ quyền. Nhân tài xuất hiện. Văn
chương ươm mầm nảy nở. Từ đó, hình thành nền văn học trung đại khá rạng rỡ với
bước đi lịch sử một nghìn năm.
Theo quy luật phát triển của một nền văn học, thơ ca ra đời trước văn xuôi.
“Thơ bắt nguồn từ lời ca tiếng hát của nhân dân
từ cội nguồn ấy trở thành dòng thác
trở thành dòng sông
Có thơ rồi mới có văn xuôi, mặc dầu tiếng nói đầu miệng có trước
lời ca tiếng hát có sau.” [25, 9]
Ngô Thì Nhậm, trong lời đề tựa tập thơ Tinh sà kỉ hành của Phan Huy Ích, có
viết: “Nước Việt ta là một nước thơ”. Câu nói ấy khẳng định vai trò mở đường, thành
tựu rực rỡ của thơ ca, sự đóng góp to lớn của thơ ca trong việc làm phong phú nền
văn học nước nhà. Trong tiến trình phát triển của nền văn học dân tộc, nước ta cũng
xứng danh là một “thi quốc”. Tuy nhiên, nếu lấy mốc thời gian là thế kỷ thứ X, thực



tế đã chứng minh ở thời điểm đó nước ta đã có cả thơ và văn xuôi. Trần Đình Sử cho
rằng: “Văn học trung đại Việt Nam có bước đi khác: ngay từ khi mới ra đời – thế kỷ
thứ X – dường như cùng một lúc cả thơ và văn xuôi tự sự đều xuất hiện”. [13, 20].
Nguyễn Đăng Na cũng đồng quan điểm, rằng do thói quen ngôn ngữ, người ta gọt
giũa văn thành thơ, vừa ra đời văn xuôi đã được thơ hóa. “Nhờ thói quen sử dụng văn
bản truyền miệng mang hình thức câu văn ngắn gọn, có nhịp, có vần và thời gian sử
dụng loại văn bản kiểu đó kéo quá dài khiến người ta dần dần quên đi văn bản thành
văn – văn xuôi – ban đầu, để rồi, lại cho rằng, thơ ca ra đời trước văn xuôi. Vậy là,
đồng thời với quá trình dân gian hóa văn học thành văn thì quá trình văn vần hóa và
nhịp điệu hóa văn xuôi cũng diễn ra”.[37, 11]. Như vậy, cùng với thơ, văn xuôi đã
xuất hiện từ thời điểm bắt đầu nền văn học trung đại.
Dù có kém phần rực rỡ so với thơ, nhưng văn xuôi vẫn có giá trị riêng. Với vẻ
đẹp riêng của mình, văn xuôi song hành với thơ cùng góp phần hoàn chỉnh bộ mặt
nền văn học dân tộc. Tiến trình văn học 10 thế kỷ được chia ra làm bốn giai đoạn,
tương ứng với bốn giai đoạn ấy là bốn chặng đường phát triển của văn xuôi. Giai
đoạn thứ nhất từ thế kỷ X đến thế kỷ XIV là giai đoạn lấy văn học dân gian và văn
học chức năng làm cơ sở. Trong văn xuôi hình thành hai bộ phận văn học chức năng
và văn học nghệ thuật, có quan hệ chặt chẽ với nhau. Văn học nghệ thuật tuy phát
triển nhưng chưa hoàn toàn tách khỏi văn học chức năng. Các thể loại chủ yếu của
văn học chức năng là: hịch, cáo, chiếu, biểu, văn giảng sách, luận thuyết tôn giáo.
Trong bộ phận văn học chức năng giai đoạn đầu có thể kể đến: Thiên đô chiếu (1010)
của Lý Thái Tổ, Lâm chung chiếu (năm 1128) của Lý Nhân Tông, Hịch tướng sĩ văn
(năm 1282) của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, Thượng sĩ ngữ lục của Tuệ
Trung cùng nhiều thư từ ngoại giao, văn bia… ở thời Lý cũng như thời Trần. Các
sáng tác này nhằm phục vụ mục đích chính trị hoặc tôn giáo. Thiết chế phong kiến
cùng với tư tưởng tôn giáo là hai giềng mối thống trị xã hội nên các sáng tác cũng tập
trung phục vụ cho mục đích ấy của các vương triều. Bên cạnh đó, văn xuôi tự sự, với
tư cách là văn học nghệ thuật cũng xuất hiện nhưng còn ít ỏi. Đó chỉ là các tuyển tập
ghi chép, sưu tầm truyện dân gian, truyện lịch sử. Các tác phẩm văn xuôi tự sự có thể

xem là văn xuôi nghệ thuật như: Báo cực truyện, Việt điện u linh tập, Thiền uyển tập


anh, Lĩnh Nam chích quái… chỉ là tập hợp những mẩu truyện ngắn từ lịch sử dân tộc
hoặc lịch sử tôn giáo biên soạn thành tuyển tập. Chưa có truyện dài. Tác giả chỉ là
người biên soạn, chưa phải là người sáng tác. Văn xuôi tự sự giai đoạn này dù là sơ
khai nhưng có vị trí rất quan trọng, nó làm nhiệm vụ đặt nền móng cho văn xuôi
trung đại về nội dung và phương thức tư duy nghệ thuật.
Giai đoạn thứ hai từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVII, được đánh dấu bởi bước phát
triển của truyện truyền kỳ. Thành tựu nổi bật phải kể đến Thánh Tông di thảo (tương
truyền của Lê Thánh Tông) và Truyền kỳ mạn lục (của Nguyễn Dữ). Ngoài ra còn có:
Nam Xương tứ quái truyện (khuyết danh), Ngọc Thanh u minh thần lục (khuyết danh),
Nam ông mộng lục (Hồ Nguyên Trừng)… Những tác phẩm này vẫn dùng yếu tố kỳ
ảo làm phương thức chuyển tải nội dung, nhưng đã tiến xa hơn một bước, lấy con
người làm đối tượng và trung tâm phản ánh nghệ thuật.
Giai đoạn thứ ba, từ thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX, văn xuôi tiến thêm
một bước với sự xuất hiện của tiểu thuyết chương hồi và ký sự. Có thể kể đến: Nam
triều công nghiệp diễn chí của Nguyễn Khoa Chiêm, Thiên Nam liệt truyện (chưa rõ
tác giả), Hoàng Lê nhất thống chí (Ngô gia văn phái)… Đây là những tác phẩm dài,
phần lớn viết về lịch sử, bao quát một diện rộng lịch sử dân tộc trong thời gian dài
với kết cấu theo lối chương hồi kiểu như Tam Quốc và Thủy hử truyện của Trung
Quốc. Bên cạnh đó, những tác phẩm ký sự nổi tiếng như Thượng kinh ký sự (Lê Hữu
Trác), Vũ trung tùy bút (Phạm Đình Hổ), Tang thương ngẫu lục (Phạm Đình Hổ và
Nguyễn Án) cũng góp phần nâng văn xuôi tự sự lên một tầm cao mới.
Giai đoạn thứ tư, nửa cuối thế kỷ XIX, là nửa thế kỷ chuyển mình sang văn xuôi
hiện đại, đón nhận sự ra đời của những tác phẩm mang dáng dấp tiểu thuyết hiện đại,
trong đó nổi bật nhất là Thầy Lazarô Phiền của Nguyễn Trọng Quản.
Với bước đi mười thế kỷ, văn xuôi trung đại khá đặc sắc nhưng hiện nay còn lại
rất ít, một số chỉ còn tên gọi, không còn truyền bản. Có nhiều nguyên nhân đưa đến
sự mất mát của thơ văn. Trước nhất là do chiến tranh. Năm 1406, Minh Thành Tổ

lệnh cho tì tướng: “Một khi binh lính vào nước Nam, trừ các sách kinh và bản in của
đạo Phật, đạo Lão thì không tiêu hủy, ngoài ra, hết thảy mọi sách vở, một mảnh một
chữ đều phải đốt hết. Khắp trong nước, phàm những bia do Trung Quốc dựng từ xưa


đến nay thì giữ gìn cẩn thận, còn các bia do An Nam dựng thì phá hủy tất cả, một chữ
chớ để còn.” [66, 30] Trong mười thế kỷ đó, biết mấy lần binh lửa can qua nên sách
vở hầu như chẳng còn lại gì. Bên cạnh đó còn nhiều nguyên nhân khác khiến thơ văn
bị mất mát. Với các văn nhân thời ấy, văn chương như thú tiêu dao “…để di dưỡng
tính tình, chứ cũng không công bố cho quốc dân đồng lãm, nên những lời châu ngọc
của các bậc hiền triết mai một ở chỗ nhà cỏ lều tranh, ngày một hao mòn, khó mà tìm
lại được…” [64, 7]. Một số tác giả (như Trần Anh Tông, Trần Minh Tông), có lẽ
cũng vì đức khiêm tốn, đã cho đốt cháy những sáng tác của mình trước khi mất.
Trong di sản còn lại hiện nay, văn vần chiếm số lượng nhiều hơn so với văn
xuôi. Thứ nhất, do đặc điểm của chữ Hán có nhiều hạn chế cho việc viết và truyền bá
những tác phẩm dung lượng dài trong hoàn cảnh đất nước trải nhiều binh lửa như
nước ta nên số lượng tác phẩm văn xuôi ít. Chính vì dung lượng dài, khó nhớ nguyên
vẹn văn bản nên khi mất mát một vài phần cũng không thể “trùng san” được. Hơn
nữa, công việc sao chép, khắc in văn xuôi trong điều kiện chữ viết và nghề in chưa
phát triển khó khăn nhiều so với thơ.
Đến nay, phần di cảo chỉ là một hai phần trong muôn vạn nhưng vẫn đủ làm nên
vẻ đẹp riêng của thời kỳ văn học một đi không trở lại. Diện mạo văn học Việt Nam
không thể hoàn mỹ nếu thiếu đi những giá trị, cái “đẹp xưa” của văn xuôi thời kỳ này.
1.3.2. Vị trí của Thiền uyển tập anh
Văn học trung đại Việt Nam phát triển liền mạch trong khoảng mười thế kỷ (từ
thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX) để lại khối lượng đồ sộ với hàng ngàn tác gia và tác
phẩm. Trong kho tàng phong phú ấy, để hiểu một tác phẩm, như Thiền uyển tập anh
chẳng hạn, cần đặt trong tiến trình văn học trung đại nói chung, văn xuôi tự sự nói
riêng với những chặng đường phát triển của nó. Đặt trong hệ thống, soi chiếu với
những tác phẩm cùng loại hình (tự sự), thể loại (truyện ký) sẽ giúp ta hiểu và đánh giá

về tác phẩm có căn cứ hơn, thuyết phục hơn.
Căn cứ vào hình thức tổ chức ngôn ngữ (vần – đối) người ta chia ra văn vần và
văn xuôi. Trong bộ phận văn xuôi, chia ra truyện (văn xuôi tự sự) và các loại văn
khác (biền văn, tản văn, tạp văn,…). Hầu hết các tác phẩm truyện thiên về văn
chương nghệ thuật. Hầu hết các thể văn còn lại thiên về văn học chức năng. Đối với


×