Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

skkn dựng nền nếp và chất lượng thực hiện SKKN ở cấp tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.16 KB, 15 trang )

BM 01-Bia SKKN

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI
PHÒNG GIÁO DỤC TIỂU HỌC
Mã số: ................................

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

“Xây dựng nền nếp và chất lượng thực hiện SKKN
ở cấp Tiểu học”

Người thực hiện: NGUYỄN ĐẠT
Lĩnh vực nghiên cứu:
Quản lý giáo dục



Phương pháp dạy học bộ môn: ............................... 
Phương pháp giáo dục



Lĩnh vực khác: ......................................................... 
Có đính kèm:
 Mô hình
 Phần mềm

 Phim ảnh

 Hiện vật khác


Năm học: 2011 - 2012
1


BM02-LLKHSKKN

SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC
I. THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN
1. Họ và tên: NGUYỄN ĐẠT
2. Ngày tháng năm sinh: 11 – 4 - 1958
3. Nam, nữ: Nam
4. Địa chỉ: 1L Cư xá Phúc Hải, P. Tân Phong, Tp. Biên Hoà
5. Điện thoại:
6. Fax:
7. Chức vụ:

3842439 (CQ) / 3826878(NR); ĐTDĐ: 0913.755855
/

E-mail:

Trưởng phòng

8. Đơn vị công tác: Phòng GDTH – Sở GD&ĐT Đồng Nai
II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO
1. Học vị (hoặc trình độ chuyên môn, nghiệp vụ) cao nhất: Cử nhân khoa học
2. Năm nhận bằng: 1985, 2005
3. Chuyên ngành đào tạo: Ngữ văn Anh, Giáo dục chính trị
III. KINH NGHIỆM KHOA HỌC
- Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: Quản lí giáo dục tiểu học

- Số năm có kinh nghiệm: 30 năm
- Các sáng kiến kinh nghiệm đã có trong 5 năm gần đây:
1. Chỉ đạo và tổ chức các hoạt động giáo dục đa dạng trong trường tiểu học
(2009-2010)
2. Tham mưu chỉ đạo nâng cao chất lượng tổ chức hội thi GVDG các cấp ở
giáo dục tiểu học (2010-2011)

2


BM03-TMSKKN

Tên sáng kiến kinh nghiệm :

“Xây dựng nền nếp và chất lượng thực hiện SKKN
ở cấp Tiểu học”
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Từ nhiều năm nay, việc viết sáng kiến kinh nghiệm (SKKN) đã trở thành
một thông lệ vào dịp cuối năm học của cán bộ, giáo viên (CB-GV). Do một số
nguyên nhân khác nhau, một bộ phận không nhỏ CB-GV đã có nhận thức chưa đầy
đủ về việc thực hiện SKKN, xem SKKN hầu như chỉ dành riêng phục vụ cho công
tác xét danh hiệu thi đua. Từ đó, không ít CB-GV đã có một số thái độ, cách ứng
xử có tính đối phó, thiếu trung thực khoa học khi thực hiện SKKN. Hậu quả là
SKKN chưa thật sự phản ánh rõ nét quá trình tổ chức, hiệu quả thực hiện và chưa
gắn kết chặt chẽ với công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học sư phạm vào thực tế
công tác của cá nhân trong hoạt động giáo dục ở cơ sở. Điều quan trọng nhất là
SKKN chưa thực sự góp phần tạo chuyển biến tích cực cho chất lượng giáo dục và
nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng trong hệ thống giáo dục nói chung và giáo
dục tiểu học nói riêng.
Trước tình hình đó, rất cần thiết phải đặt ra vấn đề nâng cao nhận thức của

đội ngũ trong việc thực hiện SKKN sao cho gắn kết với nội dung sinh hoạt chuyên
môn, sinh hoạt chuyên đề và nghiên cứu, ứng dụng khoa học sư phạm của mỗi cá
nhân, mỗi cơ sở giáo dục và đặc biệt là gắn chặt quy trình tổ chức xét chọn giáo
viên dạy giỏi (GVDG) trong hội thi GVDG các cấp với quy trình xét danh hiệu thi
đua hàng năm.
Với lí do trên, nội dung SKKN với đề tài “Xây dựng nền nếp và chất
lượng thực hiện SKKN ở cấp Tiểu học” là đúc kết kinh nghiệm mà tôi đã nghiên
cứu và phối hợp với các phòng ban chức năng liên quan để tham mưu Lãnh đạo Sở
chỉ đạo củng cố nền nếp và từng bước nâng cao chất lượng thực hiện SKKN ở cấp
Tiểu học trong những năm gần đây.
I. THỰC TRẠNG TRƯỚC KHI THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP CỦA ĐỀ
TÀI
1. Thuận lợi
- Từ đầu năm 2007, Hội đồng khoa học ngành Giáo dục và Đào tạo đã
tham mưu Giám đốc Sở GD&ĐT ban hành công văn số 193/SGDĐT-VP ngày
25/01/2007 về việc triển khai viết và thẩm định SKKN để xét công nhận danh hiệu
3


thi đua. Nội dung công văn đã hướng dẫn chi tiết, cụ thể về quy trình thẩm định
SKKN và thể thức văn bản của SKKN. Đây là hướng dẫn rất quan trọng và lần đầu
tiên tạo được sự thống nhất về quy chuẩn trong quy trình viết và thẩm định SKKN,
chấm dứt tình trạng mơ hồ, thiếu đồng bộ giữa nhiều hình thức thể hiện khác nhau
của SKKN đã kéo dài trong nhiều năm trước.
- Từ năm học 2010-2011, theo Điều lệ hội thi GVDG các cấp giáo dục
phổ thông và giáo dục thường xuyên ban hành tại Thông tư 21/2010/TT-BGDĐT
ngày 20/7/2010 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT, báo cáo SKKN hoặc kết quả nghiên
cứu khoa học sư phạm ứng dụng là một trong 3 nội dung chính thức của hội thi
GVDG các cấp (SKKN, bài kiểm tra năng lực và thực hành giảng dạy). Điều này
đã đặt ra một yêu cầu rõ ràng, cụ thể và thiết thực đối với các CB-GV có tâm huyết

và phấn đấu nâng cao trình độ, năng lực nghiệp vụ; đồng thời, cũng đã tạo một
động lực thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa cho công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học
sư phạm và viết SKKN ở các cơ sở giáo dục.
- Ngày 18/5/2012, Hội đồng khoa học ngành GD&ĐT đã tham mưu Giám
đốc Sở GD&ĐT ban hành Quy định thẩm định, đánh giá, công nhận sáng kiến, cải
tiến kĩ thuật, giải pháp công tác, áp dụng công nghệ mới, đồ dùng, đồ chơi trong
GD&ĐT và báo cáo nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng (Quyết định số
366/QĐ-SGDĐT). Điều mới và quan trọng nhất trong nội dung Quy định này là đã
xác định rõ các SKKN đã được xem xét, công nhận trong các hội thi GVDG thì
cũng có giá trị được công nhận trong việc xét danh hiệu thi đua cuối năm. Với quy
định này, ngành đã xác lập tính hệ thống hợp lí và liên tục từ công tác chuyên môn
trong năm học đến công tác xét danh hiệu thi đua vào cuối năm học, tạo nên thuận
lợi rất cơ bản và thiết thực giúp cho CB-GV gắn kết nỗ lực nghiên cứu đổi mới, cải
tiến phương pháp giảng dạy với việc phấn đấu đạt danh hiệu thi đua hàng năm.
2. Khó khăn
- Một bộ phận khá lớn trong đội ngũ CB-GVTH có khả năng thực hành sư
phạm tốt nhưng thiếu một số kĩ năng cần thiết trong việc tổng hợp, phân tích, đúc
kết kinh nghiệm và thực hiện nghiên cứu khoa hoc sư phạm ứng dụng. Nguyên
nhân một phần là do nội dung đào tạo những năm trước (và trong hệ Trung
cấp/Cao đẳng) chưa có học phần nghiên cứu khoa học; và phần lớn là trong quá
trình công tác hầu hết CB-GVTH tập trung nhiều nỗ lực học tập của mình vào các
kĩ năng thực hành sư phạm theo hướng “nghề dạy nghề” hơn là nghiên cứu tài liệu
khoa học về phương pháp dạy học.
- Việc thực hiện SKKN, nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng ở cơ sở
giáo dục chưa thực sự được quan tâm, tổ chức triển khai, theo dõi, hướng dẫn, và
quản lí thông qua nội dung sinh hoạt chuyên môn các cấp như tổ, khối chuyên
môn, hội đồng sư phạm nhà trường. Nhiều SKKN tuy có giá trị khoa học nhưng
vẫn mang đậm tính chất riêng lẻ của cá nhân có tâm huyết, trong quá trình nghiên
cứu, triển khai thực hiện ở cơ sở chưa thực sự được đồng nghiệp trong cùng đơn vị
chia sẻ, tham gia thực hiện có tính hỗ trợ, đối chứng. Việc kí xác nhận của tổ/khối

chuyên môn và nhà trường vào văn bản SKKN nhiều khi chỉ là thủ tục hành chính,
4


chưa đảm bảo thể hiện rõ quá trình theo dõi tiến trình và ghi nhận kết quả thực
hiện đề tài, nội dung SKKN của CB-GV tại đơn vị mình.
- Cách thức tổ chức xét duyệt SKKN theo hướng chỉ phục vụ cho công tác
thi đua kéo dài trong nhiều năm qua đã vô hình trung làm suy giảm chất lượng
khoa học của việc thực hiện SKKN, tăng tính hình thức và nặng phần báo cáo
thành tích của SKKN. Không ít CB-GV đã nảy sinh tâm lí làm SKKN theo kiểu
đối phó, sao chép lẫn nhau,...
II. NỘI DUNG ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lý luận:
a. Sáng kiến kinh nghiệm là gì?
- Sáng kiến là ý kiến sinh ra từ những nhận xét mới;
- Kinh nghiệm là những hiểu biết do trông thấy, nghe thấy, do từng trải mà
có.
Kinh nghiệm là những tri thức do qui nạp và thực nghiệm đem lại, đã được
chỉnh lý và phân loại để lập thành cơ sở của khoa học. Như vậy, nói tới kinh
nghiệm là nói đến những việc đã làm, đã có kết quả, đã được kiểm nghiệm
trong thực tế , không phải là những việc dự định hay còn trong ý nghĩ.
- “ Sáng kiến kinh nghiệm” là những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo mà người
viết tích lũy được trong thực tiễn công tác giảng dạy và giáo dục, bằng những hoạt
động cụ thể đã khắc phục được những khó khăn mà với những biện pháp thông
thường không thể giải quyết được, góp phần nâng cao hiệu quả rõ rệt trong công
tác của người giáo viên. (Phạm Phúc Tuy – Trưởng khoa CBQL& Nghiệp vụ
trường CĐSP Bình Dương)
b. Nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng là gì?
Nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng (NCKHSPƯD) là một loại hình
nghiên cứu trong giáo dục nhằm thực hiện một tác động hoặc can thiệp sư phạm và

đánh giá ảnh hưởng của nó. Tác động hoặc can thiệp đó có thể là việc sử dụng
phương pháp dạy học (PPDH), sách giáo khoa, phương pháp quản lí, chính sách
mới, … của giáo viên (GV), cán bộ quản lí (CBQL) giáo dục. Người nghiên cứu
(GV, CBQL) đánh giá ảnh hưởng của tác động một cách có hệ thống bằng phương
pháp nghiên cứu phù hợp.
Hai yếu tố quan trọng của NCKHSPƯD là tác động và nghiên cứu.
- Tác động là vận dụng tư duy sáng tạo và thực hiện những giải pháp thay
thế nhằm cải thiện hiện trạng trong PPDH, chương trình, sách giáo khoa hoặc quản
lí.
- Nghiên cứu là vận dụng tư duy phê phán để so sánh kết quả của hiện
trạng với kết quả sau khi thực hiện giải pháp thay thế bằng việc tuân theo quy trình
nghiên cứu thích hợp.
( Nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng – NXB Đại học sư phạm – 2010)
c. Vì sao cần nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng?
5


NCKHSPƯD, khi được áp dụng đúng cách trong trường học sẽ đem đến
rất nhiều lợi ích, vì nó:
- Phát triển tư duy của CB, GV một cách hệ thống theo hướng giải quyết
vấn đề mang tính nghề nghiệp để hướng tới sự phát triển của trường học.
- Tăng cường năng lực giải quyết vấn đề và đưa ra các quyết định về
chuyên môn một cách chính xác.
- Khuyến khích CB, GV nhìn lại quá trình và tự đánh giá.
- Tác động trực tiếp đến việc dạy học và công tác quản lí giáo dục (lớp
học, trường học).
- Tăng cường khả năng phát triển chuyên môn của CB, GV. CB, GV tiến
hành NCKHSPƯD sẽ tiếp nhận chương trình, PPDH mới một cách sáng tạo và có
sự phê phán một cách tích cực. (Soh, K.C & Tan, C (2008), Hội thảo về
NCKHSPƯD. Hong Kong: EL21).

d. Chu trình nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng:
Chu trình NCKHSPƯD bao gồm: suy nghĩ, thử nghiệm và kiểm chứng.
- Suy nghĩ: Quan sát, phát hiện vấn đề và nghĩ đến giải pháp thay thế.
- Thử nghiệm: Thử nghiệm giải pháp thay thế trong lớp học, trường học.
- Kiểm chứng: Tìn xem giải pháp thay thế có hiệu quả hay không.
Chu trình NCKHSPƯD tiếp diễn không ngừng và dường như không có kết
thúc. Kết thúc một NCKHSPƯD này là khởi đầu một NCKHSPƯD mới. Điều này
làm cho NCKHSPƯD trở nên thú vị. CB, GV tham gia NCKHSPƯD có thể liên
tục làm cho bài giảng, công tác quản lí của mình cuốn hút hơn, hiệu quả hơn.
( Nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng – NXB Đại học sư phạm – 2010)
Trên cơ sở nắm vững cơ sở khoa học và mục đích, yêu cầu của việc thực hiện
SKKN và NCKHSPƯD, việc tổ chức thực hiện SKKN ở các cơ sở giáo dục cần
phải được tiến hành đảm bảo các yêu cầu và biện pháp như sau:
2. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài:
a) Tổ chức tập huấn về NCKHSPƯD:
Phòng GDTH đã phối hợp Trường Đại học Đồng Nai tổ chức lớp tập huấn
chuyên đề “Phương pháp nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng” cho 185 CB,
GV cốt cán là thành viên Hội đồng bộ môn Giáo dục tiểu học cấp tỉnh, lãnh đạo
phụ trách chuyên môn và cán bộ phụ trách GDTH các phòng GD&ĐT trong thời
gian 3 ngày, từ ngày 09/3/2011. Các thành viên tham dự lớp tập huấn đã được cấp
phát và nghiên cứu trước tài liệu NCKHSPƯD do Dự án Việt-Bỉ Bộ GD&ĐT cung
cấp.
Sau lớp tập huấn cấp tỉnh, các phòng GD&ĐT đã triển khai nội dung tập huấn
đến toàn bộ GVTH ở cơ sở và tài liệu NCKHSPƯD được cấp phát về thư viện các
6


trường học đã được CB, GV thường xuyên sử dụng. Phòng GDTH cũng đã thiết
lập một diễn đàn “Trao đổi chuyên môn” qua thư điện tử để tạo điều kiện cho CB,
GV trao đổi ý kiến về việc thực hiện SKKN, phân tích những điểm tương đồng và

dị biệt trong quy trình và thể thức văn bản giữa SKKN và đề tài NCKHSPƯD và đi
đến sự thống nhất quan điểm cơ bản về quy trình và thể thức SKKN.
Đây là lần đầu tiên CB, GVTH được chính thức học tập một cách có hệ thống
và bài bản về công tác NCKHSPƯD, qua đó nhận thức và kĩ năng thực hiện SKKN
được từng bước nâng cao và điều không kém phần quan trọng là đã xây dựng được
niềm tin vào chính bản thân là mỗi người đều có thể thực hiện đề tài SKKN, nâng
cao trình trình độ lí luận nghiệp vụ sư phạm một khi đã hiểu biết và vận dụng được
phương pháp nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng.
b) Chỉ đạo về yêu cầu và quy trình tổ chức đánh giá SKKN:
Để triển khai thực hiện Điều lệ hội thi GVDG các cấp ban hành theo Thông tư
21/2010/TT-BGDĐT ngày 20/7/2010 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT, Phòng GDTH
đã tham mưu Giám đốc Sở có văn bản số 1290/SGDĐT-GDTH ngày 17/8/2011
hướng dẫn tổ chức hội thi GVDG các cấp ở Giáo dục tiểu học; trong đó đã xác
định cụ thể các yêu cầu cần thiết đối với SKKN và chỉ đạo rõ về phương thức thực
hiện và quy trình tổ chức đánh giá SKKN; cụ thể như sau:
b.1) Về các yêu cầu đối với SKKN:
- Yêu cầu về đề tài (chủ đề, đề bài,…) và nội dung: SKKN phải do giáo
viên đúc rút từ thực tiễn công tác giảng dạy, giáo dục của chính mình hoặc phát
triển, ứng dụng SKKN của giáo viên khác hay nguyên lý, luận điểm khoa học giáo
dục được xác định rõ ràng và chính xác nguồn tham khảo, trích dẫn. Đề tài SKKN
cũng có thể là kết quả của việc nghiên cứu, thử nghiệm hay áp dụng có hiệu quả tốt
một chuyên đề đã được chính CB-GV, tổ khối, nhà trường hoặc các cấp quản lí
giáo dục đề xướng, triển khai.
Đây là yêu cầu nhằm thúc đẩy CB-GV nỗ lực tự học tập, tự nghiên cứu, biết
lắng nghe, tìm tòi, quan tâm chia sẻ chuyên môn với đồng nghiệp trong thực tế
công tác giảng dạy, giáo dục và quản lí ở cơ sở.
- Yêu cầu về thời điểm đăng kí: Đề tài SKKN phải được giáo viên đăng kí
chính thức với nhà trường (thông qua tổ khối) cùng lúc với đăng kí danh hiệu thi
đua vào đầu năm học. SKKN trong hội thi GVDG cũng chính là SKKN phục vụ
cho công tác bình xét danh hiệu thi đua hàng năm. Nếu là SKKN cần tiếp tục bổ

sung, hoàn thiện hay phát triển (mở rộng, nâng cao,..) thì đăng kí lại như đăng kí
lần đầu.
Đây là yêu cầu nhằm đảm bảo CB-GV xác định chủ ý vấn đề nghiên cứu, đề
tài SKKN và đăng kí đề tài SKKN với nhà trường để tạo nên sự công khai, minh
bạch trong tập thể CB-GV, giảm thiểu được sự trùng lắp không cần thiết về đề tài
nghiên cứu và đồng thời cũng để cho tập thể, nhà trường có thể tạo điều kiện hỗ trợ
thực hiện SKKN.
- Yêu cầu về thể thức: Văn bản báo cáo SKKN phải đảm bảo quy định về
cấu trúc và thể thức quy định tại công văn số 193/SGDĐT-VP ngày 25/01/2007
7


của Sở GD&ĐT về việc triển khai viết và thẩm định SKKN. SKKN được in thành
3 bộ, mỗi bộ có độ dài từ 4 đến 8 trang giấy A4 với cỡ chữ 14, kiểu Times New
Romans, mã Unicode và chép trên đĩa CD.
Đây là yêu cầu nhằm bảo đảm cho CB-GV tập dượt và thực hiện đúng thể
thức văn bản báo cáo khoa học; đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho công tác lưu
trữ và phổ biến, chia sẻ tài nguyên chất xám trong cộng đồng sư phạm.
b.2) Về tổ chức thực hiện và đánh giá sáng kiến kinh nghiệm
Quá trình thực hiện SKKN diễn ra chủ yếu ở cơ sở giáo dục, nơi xuất phát
của hầu hết mọi vấn đề trong giáo dục cũng là nơi đầu tiên tiếp nhận và thể hiện cụ
thể các thành tựu và hiệu quả tốt đẹp mà SKKN có thể mang đến. Vì vậy, xây
dựng nền nếp và chất lượng thực hiện SKKN trước hết phải đặt nền tảng ở cơ sở
giáo dục và đảm bảo quy trình và nguyên tắc như sau:
b.2.1) Nguyên tắc chung:
- Đối với cấp trường, SKKN là điều kiện đủ để công nhận danh hiệu GVDG.
Do đó, việc đánh giá SKKN có thể được tiến hành sau khi đã tiến hành các nội
dung thi khác. Nhà trường tổ chức đánh giá SKKN một lần trong mỗi năm học.
- Đối với cấp huyện và tỉnh, SKKN là điều kiện cần để giáo viên có thể tham
gia các nội dung thi khác. Kết quả công nhận, xếp loại SKKN quyết định việc giáo

viên được hay không được tham gia các nội dung thi khác trong hội thi GVDG cấp
huyện, tỉnh.
- Việc đánh giá, xếp loại SKKN phải đảm bảo tính công khai và khả năng
kiểm chứng tính thực tiễn, hữu dụng.
b.2.2) Quy trình thực hiện và đánh giá:
+ Ở cấp trường:
- Kể từ khi đăng kí chính thức SKKN, giáo viên phải định kì báo cáo trong
sinh hoạt chuyên môn tổ khối về tiến độ và kết quả sơ bộ việc nghiên cứu, áp dụng
SKKN,… cũng như trong việc trao đổi, góp ý các tiết dạy (hoặc hoạt động giáo
dục) có vận dụng, thử nghiệm SKKN của bản thân nhằm công khai việc nghiên
cứu, triển khai SKKN cho đồng nghiệp và cán bộ quản lí biết và tham gia đóng
góp, chia sẻ, phản biện,… giúp giáo viên từng bước đúc rút và hoàn thiện SKKN.
Đây là quy định nhằm tăng khả năng kiểm soát quy trình thực hiện SKKN,
gắn chặt nỗ lực nghiên cứu của CB-GV vào thực tế công tác và đồng thời giúp làm
tăng hàm lượng khoa học không chỉ cho chính nội dung SKKN mà còn cho nội
dung các buổi sinh hoạt chuyên môn, sinh hoạt chuyên đề các cấp ở cơ sở.
- Đến thời điểm nhà trường quy định (tuỳ theo kế hoạch tổ chức hội thi
GVDG hàng năm ở cơ sở), giáo viên dự thi có trách nhiệm hoàn chỉnh SKKN và
trình bày trước tập thể tổ khối, nhà trường về quá trình, nội dung và kết quả nghiên
cứu, vận dụng SKKN. Tập thể tổ khối, nhà trường thảo luận, phản biện và nhận
xét, góp ý công khai. Hiệu trưởng (hoặc Phó hiệu trưởng) tổng hợp, phân tích các ý
kiến trao đổi, nhận xét và chính thức đánh giá, xếp loại SKKN.
8


+ Ở cấp huyện, tỉnh:
- Các thành viên tổ giám khảo do Phòng, Sở thành lập nghiên cứu SKKN
của giáo viên dư thi trong thời gian ít nhất là 2 tuần. Vào thời điểm quy định, giáo
viên dự thi có trách nhiệm trình bày tóm tắt SKKN và trao đổi bổ sung, làm rõ nội
dung của 1 hoặc 2 vấn đề do giám khảo đặt ra liên quan đến nội dung SKKN.

- Mỗi SKKN được 2 giám khảo nhận xét, đánh giá. Bình quân tổng điểm của
các giám khảo là điểm số chính thức của SKKN.
Thực hiện đầy đủ quy trình này sẽ bảo đảm chất lượng SKKN thật sự là kết
quả đúc kết của quá trình suy nghĩ, thử nghiệm và kiểm chứng; đồng thời không
chỉ có thể giúp CB-GV ngày càng nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học sư phạm
ứng dụng mà còn giúp phát triển kĩ năng trình bày, thuyết trình và hướng dẫn đồng
nghiệp, đáp ứng yêu cầu bậc cao của quy định về năng lực nghiệp vụ của Chuẩn
nghề nghiệp GVTH.
c. Tổ chức hội thi SKKN cấp tỉnh:
Liên tục trong hai năm học (2010-2011 và 2011-2012), Phòng GDTH đã đề
xuất và tham mưu Lãnh đạo Sở tổ chức hội thi SKKN cấp tỉnh nhằm mục đích:
- Chuẩn bị các điều kiện về tâm thế và thử nghiệm năng lực thực hiện Điều
lệ Hội thi giáo viên dạy giỏi các cấp học phổ thông và giáo dục thường xuyên ban
hành kèm theo Thông tư số 21/2010/TT-BGDĐT ngày 20/7/2010 của Bộ Giáo dục
và Đào tạo; trong đó, chú trọng triển khai đảm bảo thực hiện tốt khâu thực hiện và
đánh giá, xếp loại SKKN là một yêu cầu mới trong 3 nội dung chính thức của hội
thi GVDG các cấp (SKKN, bài kiểm tra năng lực và thực hành giảng dạy); tích cực
chuẩn bị về số lượng và chất lượng thực hiện đề tài – SKKN cho Hội thi GVDG
cấp tỉnh sẽ tổ chức vào năm học 2014-2015.
- Góp phần nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ quản lí, hội đồng bộ môn và
giáo viên tiểu học trong công tác nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng, tạo nên
chuyển biến làm cải thiện chất lượng và hiệu quả của công tác sinh hoạt chuyên đề,
sinh hoạt chuyên môn các cấp.
- Chuẩn bị đội ngũ tham gia Liên hoan CBQL giỏi cấp tiểu học toàn quốc do
Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức vào tháng 3 năm 2012.
Để phù hợp với năng lực đội ngũ và đảm bảo quy trình thử nghiệm, hội thi
SKKN đã có sự giới hạn về số lượng và thành phần tham dự hội thi: 24 CBQL
giỏi cấp cơ sở và 50 GV đã đạt danh hiệu GVDG cấp tỉnh trong năm học 20082009.
Cán bộ, giáo viên tham gia Hội thi phải thực hiện 2 nội dung đảm bảo các
yêu cầu như sau:

(1) Bài báo cáo về SKKN:
- Chủ đề (đề tài/đề bài) và nội dung của báo cáo phải xuất phát từ thực tế
hoạt động dạy học và công tác giáo dục, đã được cá nhân, tập thể (tổ khối, nhà
trường,…) tổ chức thử nghiệm, phổ biến áp dụng, đúc rút kinh nghiệm và đánh giá
kết quả.
9


- Đảm bảo cấu trúc và thể thức quy định; phần nội dung chính có độ dài từ 4
đến 8 trang giấy A4, cỡ chữ 14 kiểu Times New Roman, Unicode; không kể các
phụ lục, thống kê minh họa, minh chứng,…đính kèm (nếu có).
- Mỗi báo cáo thực hiện thành 3 bộ in (có cùng hình thức, nội dung và các
phần phụ lục đính kèm) và 1 bộ chép vào đĩa CD.
(2) Trình bày báo cáo về SKKN:
Trong thời gian 15 phút, cán bộ, giáo viên dự thi có trách nhiệm:
- Trực tiếp trình bày tóm tắt nội dung báo cáo, tập trung chủ yếu vào nội
dung và hiệu quả của giải pháp; kĩ thuật trình chiếu được khuyến khích sử dụng để
đảm bảo thời gian trình bày không quá 10 phút;
- Trao đổi thêm về 1 đến 2 vấn đề (do Ban giám khảo nêu) để làm rõ hơn nội
dung và hiệu quả của giải pháp trong thời gian không quá 5 phút.
III. KẾT QUẢ
1. Kết quả các Hội thi SKKN cấp tỉnh:
a) Đối với CBQL:
Tổng số SKKN tham gia Hội thi: 24.
Ban Giám khảo tuyển chọn 6 đề tài, SKKN đề cử xét khen thưởng và giới
thiệu 5 CBQL chính thức tham gia Giao lưu CBQL Giỏi cấp tiểu học toàn quốc:
(1) SKKN “Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng các hoạt động
trường tiểu học Trưng Vương” – Nguyễn Văn Đôn, Hiệu trưởng trường TH Trưng
Vương, Định Quán.
(2) SKKN “Một số giải pháp đẩy mạnh việc thực hiện chủ trương XHHGD,

huy động các nguồn lực XH góp phần “xây dựng trường học thân thiện, học sinh
tích cực” – Lê Văn Đông, Hiệu trưởng trường TH Hoà Bình, Biên Hoà.
(3)SKKN “Một số biện pháp chỉ đạo tổ chức có hiệu quả hoạt động giáo dục
ngoài giờ lên lớp ở trường TH Cây Gáo A” – Nguyễn Thị Ánh Linh, Hiệu trưởng
trường TH Cây Gáo A, Vĩnh Cửu.
(4) SKKN “Một vài giải pháp tổ chức thực hiện phong trào “Trường học
thân thiện – học sinh tích cực” ở trường TH Hùng Vương” – Vũ Văn Minh, Hiệu
trưởng trường TH Hùng Vương, Xuân Lộc.
(5) SKKN “Một số biện pháp nâng cao chất lượng tổ chức các hoạt động
GDNGLL trong trường tiểu học” – Võ Thần Tiên, Phó hiệu trưởng trường TH Kim
Đồng, thị xã Long Khánh.
(6) SKKN “Một số biện pháp bồi dưỡng đội ngũ giáo viên dạy giỏi ở trường
tiểu học Chu Văn An” – Vũ Thị Mận, Phó hiệu trưởng trường TH Chu Văn An,
Định Quán.
b) Đối với GVDG:
+ Hội thi SKKN năm học 2010-2011:
Tổng số SKKN tham gia Hội thi: 25, được đánh giá, xếp loại như sau:
+ Khá: 11 + Đạt yêu cầu: 13
+ Không đạt: 01
+ 5 đề tài, SKKN chuẩn bị tham gia Giao lưu GVDG Toàn quốc:
10


(1) SKKN “Nâng cao hiệu quả việc dạy học buổi 2 cho học sinh lớp 3
ở trưòng tiểu học bán trú Cao Bá Quát” – GV Phạm Thị Ngọc Bích (H. Trảng
Bom) – Xếp loại Khá
(2) SKKN “Một số biện pháp hướng dẫn học sinh lớp 4 cách lựa chọn
đối tượng và sử dụng từ ngũ trong làm văn miêu tả” – GV Bùi Thị Mai Xoan (Tp.
Biên Hoà) – Xếp loại Khá
(3) SKKN “Xây dựng và sử dụng bài giảng điện tử trong dạy học môn

Địa lí ở Tiểu học” – GV Trương Thị Kim Thoa (Tp. Biên Hoà) – Xếp loại Khá
(4) SKKN “ Làm thế nào cho học sinh yêu thích và hát đúng âm nhạc
dân tộc trong trường tiểu học” – GV NguyễnThị Đoan Trang (H. Long Thành) –
Xếp loại Khá
(5) SKKN “Kinh nghiệm giúp đỡ học sinh yếu môn Toán lớp 4” – GV
Lê Thị Bích Hà (H. Vĩnh Cửu) – Xếp loại Khá
(Đính kèm Bảng tổng hợp kết quả Hội thi SKKN năm học 2010-2011)

+ Hội thi SKKN năm học 2011-2012:
Tổng số SKKN tham gia Hội thi: 25, được đánh giá, xếp loại như sau:
+ Khá: 12 + Đạt yêu cầu: 11
+ Không đạt: 02
+ 6 đề tài, SKKN được chọn đề nghị xét khen thưởng:
(1) SKKN “Ứng dụng sơ đồ tư duy vào Dạy- Học một số môn học ở
lớp 4 ” – GV Trần Thị Thuý Vân , TH Trần Quốc Toản, H. Tân Phú – Xếp loại
Khá
(2) SKKN “Một số kinh nghiệm dạy học hòa nhập cho học sinh chậm
phát triển trí tuệ. ” – GV Trần Thị Hoàng Anh , TH Trần Qúy Cáp, H. Trảng Bom
– Xếp loại Khá
(3) SKKN “Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học Địa lý ở lớp 4 ” – GV
Dương ĐìnhThục Nhi, TH Võ Thị Sáu, H. Cẩm Mĩ – Xếp loại Khá
(4) SKKN “Đưa trò chơi dân gian vào tiết hoạt động ngoài giờ lên lớp
của học sinh lớp 53 - Trường TH Xuân Thạnh ” – GV Hoàng Thị Phương Thảo,
TH Xuân Thạnh, H. Thống Nhất – Xếp loại Khá
(5) SKKN “Kinh nghiệm rèn chữ đẹp cho học sinh trường tiểu học ” –
GV Nguyễn Thị Lệ Tuyền, TH Trịnh Hoài Đức, TP. Biên Hoà – Xếp loại Khá
(6) SKKN “Hướng dẫn học sinh Tiểu học sử dụng ngữ liệu vào đàm
thoại Tiếng Anh” – GV NguyễnThị Kim Phượng, TH Tân Phú, H. Vĩnh Củu.
(Đính kèm Bảng tổng hợp kết quả Hội thi SKKN năm học 2011-2012)


2. Đánh giá kết quả, tác động của các hội thi SKKN cấp tỉnh:
a) Ưu điểm:
- Hấu hết SKKN đã thể hiện khá rõ sự đầu tư, chăm chút về hình thức trình
bày; bố cục rõ ràng, tương đối đảm bảo thể thức quy định; nội dung nghiên cứu sát
hợp với yêu cầu và nhiệm vụ cụ thể trong công tác soạn giảng và chủ nhiệm lớp ở
cấp Tiểu học.
- Phần lý do chọn đề tài và cơ sở lý luận của nhiều SKKN đã cơ bản nêu
được tầm quan trọng, ý nghĩa và nhận thức của bản thân giáo viên về đề tài đã
11


chọn; xác định được cụ thể những hạn chế, yếu kém trong công tác dạy học và
những khó khăn thực tế của giáo dục hiện nay.
- Tuy đa số các SKKN chưa có tính mới hoàn toàn, nhưng hầu hết đã tiếp
thu, bước đầu cải tiến và phát triển các ý tưởng và giải pháp tốt đã có; từ đó, xây
dựng được các giải pháp có tính hệ thống, cụ thể, thực tế và khá sát hợp với các
loại đối tượng học sinh. Đặc biệt đáng biểu dương là đã có một số đề tài, SKKN
thể hiện được sự phối hợp các phương pháp dạy học để nâng cao hiệu quả giáo
dục, đã đưa ra một số ví dụ điển hình về thực hiện giải pháp nhằm nâng cao hứng
thú học tập của học sinh cũng như đã minh họa được rõ cách vận dụng, phối hợp
nhiều phương pháp/kĩ thuât dạy học vào một số hình thức tổ chức dạy học phù hợp
trong một tiết dạy hoặc hoạt động giáo dục cụ thể (như các SKKN “Một số biện
pháp hướng dẫn học sinh lớp 4 cách lựa chọn đối tượng và sử dụng từ ngữ trong
làm văn miêu tả” - GV Bùi Thị Mai Xoan –BH; “Làm thế nào cho học sinh yêu
thích và hát đúng âm nhạc dân tộc trong trường tiểu học” – GV Nguyễn Thị Đoan
Trang – LT); “Kinh nghiệm giúp đỡ học sinh yếu môn Toán lớp 4” – GV Lê Thị
Bích Hà –VC; …)
- Là những SKKN đúc rút từ thực tế công tác cũng như có cơ sở khoa học và
thực tiễn khá vững chắc, đồng thời đã được trải qua thử nghiệm của bản thân giáo
viên nên đa số SKKN tương đối đảm bảo tính hiệu quả, và do đó, khả năng áp

dụng, phổ biến rộng rãi trong toàn ngành là rất hiễn nhiên.
- Nhiều giáo viên trong Hội thi đã thực hiện khá tốt phần tóm tắt, trình bày
SKKN, trao đổi rõ ràng, mạch lạc một số vấn đề về nội dung, giải pháp và hiệu quả
của SKKN. Điều này đã chứng tỏ nhiều giáo viên nắm khá chắc vấn đề nghiên cứu
và thực sự có năng lực nghiên cứu khoa học.
b. Tồn tại:
- Một số SKKN chưa đảm bảo thể thức quy định; cấu trúc và bố cục chưa
hợp lý, phần giải pháp được trình bày ít hơn khá nhiều so với phần lí do chọn đề tài
và cơ sở lí luận, không có phần tài liệu tham khảo. Tranh ảnh và bảng biểu chưa có
chú thích rõ ràng.
- Cơ sở lí luận của một số đề tài còn chung chung, sao chép dài dòng mà
chưa nêu bật được sự liên quan thiết yếu với nội dung trọng tâm của đề tài.
- Một số đề tài xác định phạm vi, đối tượng áp dụng quá rộng trong khi đó
việc giải quyết nội dung của đề tài thì mới chỉ được vận dụng một phần vào thực tế
lớp dạy của giáo viên.
- Tuy hầu hết các SKKN đều có dẫn chứng số liệu về chất lượng nhưng chưa
xác định thời gian cụ thể bắt đầu áp dụng thử nghiệm cho đề tài; công cụ đo đạc,
khảo sát, đánh giá hiệu quả chưa được quan tâm xây dựng đúng mức dẫn đến việc
đánh giá hiệu quả rất phiến diện, chưa ghi nhận được sự chuyển biến về thái độ lao
động, học tập, vui chơi.
- Không ít SKKN còn trình bày khá mờ nhạt phần các biện pháp đã áp dụng,
chưa nêu được cụ thể một số việc đã làm, kinh nghiệm đúc rút còn chung chung.
Sự phân chia nhóm các giải pháp trong đề tài có sự trùng lắp và định hướng giải
quyết vấn đề của đề tài chưa được cụ thể. Phần lớn các giải pháp của GV trình bày
chủ yếu thực hiện trên một loại đối tượng học sinh mang tính giả định, thiếu thực
12


tế trải nghiệm để đánh giá hiệu quả. Cá biệt, có một số biện pháp tổ chức hoạt
động dạy học trên lớp của một số đề tài chưa tạo được hứng thú học tập bởi việc

lựa chọn trò chơi chưa phù hợp, chưa đảm bảo rèn đúng kĩ năng cho học sinh theo
mục tiêu bài tập.
- Nhiều SKKN có kế hoạch nghiên cứu chỉ trong vòng một vài tháng trong
năm học. Như vậy, quá trình thực hiện có thể chưa đảm bảo thời gian tích lũy kinh
nghiệm, đối chiếu giữa lí thuyết với thực hành, giữa ý tưởng nghiên cứu với thực
tiễn sinh động của công tác giáo dục. Vai trò tư vấn, hỗ trợ, tham gia thử nghiệm
và chia sẻ kinh nghiệm của đồng nghiệp, tổ khối chuyên môn và nhà trường còn
mờ nhạt.
- Điều đáng tiếc là trong 2 hội thi SKKN cấp tỉnh vẫn còn tồn tại tình trạng
(02 SKKN) sao chép gần như nguyên văn các SKKN đã đăng tải trên các trang
thông tin điện tử và (01 SKKN) chế biến thô sơ, vụng về các đề tài, SKKN đã đạt
giải cao trong hội thi khác.
IV. BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Hội thi SKKN cấp Tiểu học ở cấp tỉnh trong 2 năm học vừa qua, tuy với quy
mô giới hạn và có tính chất thử nghiệm, đã thực hiện thành công mục tiêu đặt ra và
khẳng định một số ý nghĩa nhất định.
1. Kết quả Hội thi đã xác quyết một niềm tin là đội ngũ CB-GVTH hoàn
toàn có thể làm và làm tốt công tác nghiên cứu khoa học nói chung và khoa học
giáo dục ứng dụng nói riêng.
2. Hội thi khẳng định yêu cầu tiếp tục quán triệt và vận dụng đúng đắn,
nhuần nhuyễn phương pháp và quy trình thực hiện nghiên cứu khoa học trong đội
ngũ nhà giáo. Trên phương diện này, Hội thi đã thực sự là một đợt tổng dợt quan
trọng nhằm chuẩn bị thực hiện tốt công tác thi chọn GVDG các cấp theo Thông tư
21/2010 ngày 20/7/2010 của Bộ GD&ĐT.
3. Qua Hội thi, mỗi cá nhân, đơn vị tham gia Hội thi nhất định đã tự rút ra
cho mình một số nhận thức và kinh nghiệm cần thiết để có thể tham gia và tổ chức
ngày càng nền nếp, khoa học và hiệu quả hơn công tác nghiên cứu khoa học, làm
đề tài, SKKN cũng như tổ chức đánh giá, công nhận kết quả nghiên cứu khoa học
của giáo viên tại địa phương.
V. KẾT LUẬN

Viết SKKN tuy không phải là việc hoàn toàn mới lạ đối với cán bộ, giáo
viên tiểu học, nhưng cũng không phải đơn giản, dễ dàng để có những SKKN có giá
trị chất lượng xứng đáng thể hiện đầy đủ tâm huyết và trình độ lao động sư phạm
của đội ngũ và đáp ứng yêu cầu nâng cao chất giáo dục hiện nay.
Để từng bước xây dựng nền nếp và chất lượng thực hiện SKKN ở cấp Tiểu
học, điều quan trọng là các cấp QLGD và bản thân mỗi CB, GVTH cần tiếp tục
quán triệt và kiên trì vận dụng đúng đắn, nhuần nhuyễn phương pháp và quy trình
13


nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng, tổ chức thực hiện đầy đủ, nghiêm túc và
gắn kết các bước quy định trong công tác nhận xét, đánh giá quá trình và kết quả
thực hiện SKKN với quy trình bình xét các danh hiệu thi đua hàng năm, đảm bảo
tính khoa học và công khai, dân chủ nhằm tạo được hiệu ứng lan tỏa hứng thú
nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng, khoa học quản lí giáo dục trong đội ngũ
CB-GVTH, góp phần trực tiếp vào việc nâng cao năng lực đội ngũ và cải thiện
chất lượng giáo dục ở cơ sở./.
VI. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng – NXB Đại học sư phạm – 2010)
2. Công văn số 193/SGDĐT-VP ngày 25/01/2007 của Sở GD&ĐT về việc
triển khai viết và thẩm định SKKN.
3. Điều lệ Hội thi giáo viên dạy giỏi các cấp học phổ thông và giáo dục
thường xuyên ban hành kèm theo Thông tư số 21/2010/TT-BGDĐT ngày
20/7/2010 của Bộ Giáo dục và Đào tạo
4. Công văn số 1290/SGDĐT-GDTH ngày 17/8/2011 của Sở GD&ĐT
hướng dẫn tổ chức hội thi GVDG các cấp ở Giáo dục tiểu học.
5. Quyết định số 366/QĐ-SGDĐT ngày 18/5/2012 chủa Giám đốc Sở
GD&ĐT ban hành Quy định thẩm định, đánh giá, công nhận sáng kiến, cải
tiến kĩ thuật, giải pháp công tác, áp dụng công nghệ mới, đồ dùng, đồ chơi
trong GD&ĐT và báo cáo nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng.

6. Một số trang thông tin điện tử: tailieu.vn; box.math.vn; cdspbinhduong…
NGƯỜI THỰC HIỆN
(Ký tên và ghi rõ họ tên)

Nguyễn Đạt

14


BM04-NXĐGSKKN

SỞ GD&ĐT ĐỒNG NAI
PHÒNG GD TIỂU HỌC

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Đồng Nai, ngày 30

tháng 5

năm 2012

PHIẾU NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Năm học: 2011 - 2012
–––––––––––––––––

Tên sáng kiến kinh nghiệm: “Xây dựng nên nếp và chất lượng thực hiện sáng
kiến kinh nghiệm ở cấp Tiểu học”
Họ và tên tác giả:


Đơn vị (Tổ):.....................................

NGUYỄN ĐẠT

Lĩnh vực:
Quản lý giáo dục



Phương pháp dạy học bộ môn: ........................... 

Phương pháp giáo dục



Lĩnh vực khác: .................................................... 

1. Tính mới
- Có giải pháp hoàn toàn mới



- Có giải pháp cải tiến, đổi mới từ giải pháp đã có



2. Hiệu quả
- Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng trong toàn ngành có hiệu quả cao 
- Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai áp
dụng trong toàn ngành có hiệu quả cao 

- Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng tại đơn vị có hiệu quả cao 
- Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai áp
dụng tại đơn vị có hiệu quả 
3. Khả năng áp dụng
- Cung cấp được các luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính
sách:
Tốt 
Khá 
Đạt 
- Đưa ra các giải pháp khuyến nghị có khả năng ứng dụng thực tiễn, dễ thực
hiện và dễ đi vào cuộc sống: Tốt 
Khá 
Đạt 
- Đã được áp dụng trong thực tế đạt hiệu quả hoặc có khả năng áp dụng đạt
hiệu quả trong phạm vi rộng: Tốt 
Khá 
Đạt 
XÁC NHẬN CỦA TỔ CHUYÊN MÔN
(Ký tên và ghi rõ họ tên)

THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
(Ký tên, ghi rõ họ tên và đóng dấu)

15



×