MỤC LỤC
STT
NỘI DUNG
TRANG
A
ĐẶT VẤN ĐỀ
1
B
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1
1
Hoạt động phát triển con người trong cộng đồng văn hóa- xã 2
hội ASEAN dưới góc độ lý luận.
2
Hoạt động phát triển con người trong cộng đồng văn hóa- xã 4
hội ASEAN dưới góc độ pháp lý.
3
Các chương trình phát triển con người của cộng đồng văn hóa- 6
xã hội được triển khai trong thực tiễn.
4
Triển vọng hợp tác về phát triển con người trong cộng đồng 10
văn hóa- xã hội ASEAN.
C
KẾT THÚC VẤN ĐỀ
11
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
12
ĐẶT VẤN ĐỀ
1
Cộng đồng văn hóa –xã hội ASEAN là liên kết văn hóa xã hội của ASEAN
trên cơ sở một hệ thống các thể chế và thiết chế pháp lý, nhằm xây dựng ASEAN
trở thành một xã hội chia sẻ, đùm bọc và đoàn kết trong một bản sắc chung nơi mà
cuộc sống, mức sống và phúc lợi xã hội của người dân được nâng cao. Muốn thực
hiện các mục tiêu như vậy trong chương trình hành động của Cộng đồng văn hóaxã hội ASEAN không thể bỏ qua vấn đề phát triển con người bởi lẽ con người là
trung tâm của xã hội. Có con người mới có thể thực hiện được các mục tiêu đặt ra.
Các chính sách phát triển của mỗi quốc gia đều hướng tới phát triển con người.
Với tầm quan trọng như vậy trong bài tập nhóm tháng lần này nhóm chúng em đã
nghiên cứu đề tài “hoạt động phát triển con người trong cộng đồng văn hóa- xã
hội ASEAN dưới góc độ lý luận, các vấn đề pháp lý, Các chương trình triển khai
trong thực tiễn cũng như những triển vọng của nội dung hợp tác này” để có cái
nhìn sâu sắc hơn về hoạt động phát triển con người- hoạt động trọng tâm và quan
trọng của cộng đồng văn hóa-xã hội ASEAN.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Hoạt động phát triển con người trong cộng đồng văn hóa- xã hội ASEAN
dưới góc độ lý luận.
Con người là trung tâm của xã hội. Sự tồn tại và vận hành của xã hội đều do
con người và phục vụ con người. Như chúng ta đã biết, xã hội loài người tồn tại và
phát triển dựa vào hai nguồn tài nguyên là: thiên nhiên và con người. Tài nguyên
thiên nhiên là có hạn và có thể bị khai thác cạn kiệt. Trong khi đó trí tuệ con người
là vô tận. Tính vô tận của nguồn năng trí tuệ là nền tảng để con người nhận thức
tính vô tận của thế giới vật chất, tiếp tục nghiên cứu những nguồn tài nguyên thiên
nhiên chưa được khai thác và sử dụng, phát hiện ra những tính năng mới của
những dạng tài nguyên đang sử dụng hoặc sáng tạo ra những nguồn tài nguyên mới
vốn không có sắn trong tự nhiên, nhằm phục vụ cho sự phát triển của xã hội trong
những điều kiện mới. Bởi vậy có thể nói, trí tuệ con người là nguồn lực vô tận của
sự phát triển xã hội.
2
Con người - nguồn tiềm năng sức lao động, là nguồn năng phát triển của xã
hội. Con người đã làm nên lịch sử của chính mình bằng lao động được định hướng
bởi trí tuệ. Cho đến khi lực lượng sản xuất phát triển, đánh dấu bởi những phát
minh khoa học, những công nghệ hiện đại thì trí tuệ con người vẫn không có gì
thay thế được. Nhờ đến sự sáng tạo của con người mà tạo ra lực lượng sản xuất
mới, tuy vậy, nguồn lao động con người vẫn là cần thiết và quan trọng trong quá
trình sản xuất nói riêng và mọi hoạt động trong xã hội nói chung. Do đó, con người
là chủ thể duy nhất của mọi hoạt động trong xã hội. Trong tiến trình xây dựng cộng
đồng ASEAN nhân tố con người luôn đóng vai trò là trung tâm. Khi hoạt động
phát triển con người trong cộng đồng văn hóa –xã hội ASEAN đạt tới mức như
mong muốn thì sẽ thức đẩy cả hai trụ cột còn là cộng đồng chính trị-an ninh, cộng
đồng kinh tế phát triển theo chiều hướng tích cực hơn.
Mặt khác trong các nước ASEAN đang tồn tại sự chênh lệch trình độ phát
triển trong ASEAN, trình độ phát triển của công dân các nước không đồng đều vì
vậy có cách tiếp cận khác nhau về các chính sách mà ASEAN đưa ra, do đó, ảnh
hưởng tới định hướng phát triển của ASEAN. Chính vì điều đó đã đặt ra thách thức
cho ASEAN là làm thế nào để thu hẹp được khoảng cách phát triển giữa các quốc
gia thành viên trong khu vực? Hoạt động phát triển con người trong cộng đồng văn
hóa - xã hội ASEAN sẽ là một giải pháp hữu hiệu cho thách thức này.
Hoạt động phát triển con người không chỉ riêng có ở ASEAN mà ngay tại
Liên minh châu Âu EU cũng vậy. Trước khi cộng đồng châu Âu ra đời, châu Âu đã
thống nhất cơ bản về mặt văn hóa. Khi đã đạt tới đỉnh cao về văn hóa là xây dựng
được nền văn minh châu Âu thống nhất thì EU xây dựng chính sách văn hóa đề cập
nhiều tới lí tưởng của ng ười châu Âu, bản sắc của người châu Âu.
2. Hoạt động phát triển con người trong cộng đồng văn hóa - xã hội ASEAN
dưới góc độ pháp lý.
Nội dung của ASCC nói chung cũng như vấn đề phát triển con người nói riêng
3
được đề cập đến trong các văn kiện pháp lý quan trọng của ASEAN. Qua phân
tích, tìm hiểu các văn kiện pháp lý của ASEAN ta sẽ thấy được định hướng phát
triển con người của Cộng đồng văn hóa- xã hội ASEAN
Trước tiên là trong Hiến chương ASEAN, khoản 10 Điều 1 Hiến chương
ASEAN đã nêu rõ: “phát triển nguồn nhân lực thông qua hợp tác chặt chẽ hơn
trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo lâu dài, trong khoa học và công nghệ, để tăng
cường quyền năng cho người dân ASEAN và thúc đẩy cộng đồng ASEAN;”
Như vậy ngay trong Hiến chương ASEAN đã khẳng định phát triển con
người là một vấn đề quan trọng và cần thiết. Không những thế trong hiến chương
còn định hình, chỉ rõ vấn đề phát triển con người cần phải được thực hiện thông
qua việc hợp tác chặt chẽ giữa các nước trong khu vực ASEAN trong lĩnh vực giáo
dục và đào tạo lâu dài, trong khoa học công nghệ. Định hướng phát triển con người
như vậy là hoàn toàn phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn của các nước ASEAN. Bởi
lẽ nguồn lực con người là quan trọng, cần thiết đối với sự phát triển của mỗi nước.
Tuy nhiên giữa các nước ASEAN chỉ số phát triển con người còn có sự chênh lệnh
khá lớn giữa các nước phát triển, nhóm nước đang phát triển, nhóm nước kém phát
triển. Chính vì vậy sự hợp tác trong lĩnh vực giáo dục, khoa học và công nghệ để
phát triển con người giữa các nước trong khu vực là bước đi đúng đắn. Giải pháp
phù hợp để phát triển con người. Cũng từ qui định này trong hiến chương các nước
ASEAN đã triển khai rất nhiều các chương trình trong thực tiễn để phát triển con
người.
Bên cạnh Hiến chương ASEAN vấn đề phát triển nguồn lực con người còn
được đặt ra trong các văn kiện khác như: Tuyên bố hòa hợp ASEAN II (năm 2003)
( tuyên bố Bali 2) “Phù hợp với mục tiêu chương trình hành động ghi trong Tuyên
bố Hòa hợp ASEAN năm 1976, ASCC sẽ đẩy nhanh hợp tác phát triển xã hội nhằm
mục đích tăng tiêu chuẩn sống của các nhóm nghèo (thiếu thốn) và dân số khu vực
nông thông, và sẽ kêu gọi sự tham gia tích cực của mọi lĩnh vực của xã hội đặc
biệt về phụ nữ, thanh niên và các cộng đồng địa phương”. Như vậy vấn đề phát
triển con người tiếp tục được ASEAN đề cập tới trong vấn đề xây dựng cộng đồng
4
văn hóa- xã hội ASEAN. Trong tuyên bố này cũng đã chỉ rõ việc phát triển xã hội
hướng tới phát triển con người như nâng cao tiêu chuẩn sống của các nhóm nghèo
và khu vực nông thôn. Điều này là hoàn toàn phù hợp bởi lẽ đa số các nước trong
ASEAN vẫn còn là nước nghèo, chậm phát triển như Lào, Campuchia, Mianma…
đời sống của người dân còn ở mức thấp, trình độ học vấn còn hạn chế. Thực hiện
hợp tác phát triển xã hội giữa các nước trong ASEAN sẽ giúp các nước nghèo nâng
cao được mức sống, trình độ nhận thức cho người dân đặc biệt ở vùng nông thôn.
Một điểm đáng lưu ý trong tuyên bố Bali 2 này liên quan tới phát triển con người
đó là việc tuyên bố sẽ kêu gọi sự tham gia tích cực của mọi lĩnh vực của xã hội đặc
biệt về phụ nữ, thanh niên và các cộng đồng địa phương. Đây là một định hướng
đúng đắn của các nước ASEAN nó tạo điều kiện cho các nước ASEAN phát huy
tối đa được nguồn lực con người- nguồn lực quan trọng bậc nhất để phát triển đất
nước.
Hiến chương ASEAN và tuyên bố Bali 2 là hai văn kiện pháp lý quan trọng
của ASEAN đề cập tới vấn đề phát triển con người. Đều xác định vấn đề phát triển
con người là vấn đề cần thiết và quan trọng, các nước thành viên ASEAN phải đẩy
mạnh hợp tác về giáo dục, khoa học công nghệ, trú trọng tới phụ nữ và trẻ em. Từ
cơ sở pháp lý đó Bản kế hoặc tổng thể xây dựng cộng đồng văn hóa- xã hội
ASEAN đã cụ thể hóa về vấn đề phát triển con người: thông qua việc chỉ rõ mục
tiêu của phát triển con người: ASEAN sẽ nâng cao chất lượng cuộc sống của người
dân ASEAN thông qua việc tạo cách tiếp cận đồng đều đối với các cơ hội phát
triển con người, thúc đẩy và đầu tư vào giáo dục và học tập suốt đời, đào tạo nguồn
nhân lực và nâng cao năng lực, khuyến khích đổi mới và tinh thần doanh nghiệp,
thúc đẩy sử dụng sử dụng công nghệ thông tin và khoa học và công nghệ, thúc đẩy
sử dụng trong các hoạt động phát triển kinh tế- xã hội. Từ mục đích về phát triển
con người như vậy bản kế hoặc tổng thể xây dựng ASCC cũng đã đưa ra các biện
pháp cụ thể để thực hiện như: Thúc đẩy và ưu tiên phát triển giáo dục; phát triển
nguồn nhân lực; tăng cường việc làm tốt cho người lao động; Thúc đẩy công nghệ
thông tin và truyền thông; Tạo điều kiện thuận lợi để tiếp cận khoa học và công
5
nghệ ứng dụng; xây dựng năng lực tham gia kinh doanh cho phụ nữ, thanh niên,
người già và người tàn tật; xây dựng năng lực công vụ.
Nhìn chung những biện pháp để phát triển con người mà bản kế hoặc tổng thể xây
dựng ASCC đưa ra khá đầy đủ, toàn diện đã có sự quan tâm tới người tàn tật, thanh
niên, phụ nữ đúng với quan điểm trong tuyên bố Bali 2.
Qua sự phân tích trên ta có thể thấy rằng dưới góc độ pháp lý vấn đề phát
triển con người luôn luôn được quan tâm và coi trọng. Điều này được thể hiện
thông qua việc ghi nhận trong hiến chương ASEAN, tuyên bố Bali 2 và sau đó tiếp
tục được triển khai cụ thể thông qua bản kế hoặc tổng thể xây dựng ASCC năm
2009. Đây sẽ là cơ sở, định hướng để triển khai các chương trình phát triển con
người trong thực tiễn.
3. Các chương trình phát triển con người của cộng đồng văn hóa-xã hội được
triển khai trong thực tiễn.
Thông qua Hiến chương ASEAN, tuyên bố Bali 2, ta đã thấy rõ được định
hướng của ASEAN nói chung và Cộng đồng văn hóa xã hội ASEAN nói riêng
trong hoạt động phát triển con người. Từ cơ sở pháp lý đó các nước ASEAN đã
triển khai, thực hiện nhiều chương trình trong thực tiễn nhằm phát triển con người
theo như định hướng mà Hiến chương, Tuyên bố Bali 2 đã đề cập tới.
Về giáo dục con người: Các nước ASEAN khuyến khích phát triển giáo dục
suốt đời và sử dụng công nghệ thông tin như một phương tiện thúc đẩy nền giáo
dục ASEAN và nâng cao nhận thức về ASEAN. Đã có rất nhiều dự án khác nhau
dành cho các trường tiểu học và trung học cơ sở được triển khai, như xây dựng một
chương trình giảng dạy về ASEAN để các giáo viên tiểu học và trung học tham
khảo, tổ chức cuộc thi Ô-lym-píc thể thao cho học sinh tiểu học ASEAN (APSSO).
APSSO là sự kiện thi đấu thể thao do Bộ Giáo dục Indonesia tổ chức dành cho học
sinh tiểu học các nước Đông Nam Á nhằm tăng cường và đẩy mạnh các loại hình
thể thao dành cho lứa tuổi thiếu nhi với mục tiêu phát triển một thế hệ mới thông
minh, khỏe mạnh, trung thực, thân thiện và tôn trọng lẫn nhau. APSSO được tổ
6
chức lần đầu tiên vào năm 2007 và là sự kiện thường niên. Ở cấp độ đại học, cao
đẳng, Diễn đàn mạng lưới các trường Đại học ASEAN (AUN) là sự kiện thường
niên mang tính học thuật cao, có nhiệm vụ tăng cường sự hợp tác giữa các trường
đại học của các nước thành viên nhằm nâng cao hoạt động giáo dục ở đại học, góp
phần phát triển nguồn nhân lực trong tương lai. Diễn đàn này được được tổ chức
luân phiên tại mỗi quốc gia trong khối ASEAN kể từ năm 1995. Mỗi năm, Ban
quản trị sự kiện sẽ chọn ra một chủ đề khác nhau xuyên suốt cho toàn hoạt động
của sự kiện. Ngoài ra, Học bổng ASEAN là một chương trình học bổng
của Singapore dành cho 9 quốc gia thành viên khác của ASEAN về giáo dục trung
học, cao đẳng và đại học. Chương trình này bao gồm nơi ăn ở, các lợi ích y tế và
bảo hiểm, phí học tập và phí thi cử cho người học…
Về phát triển nguồn nhân lực: ASEAN cũng tổ chức thường xuyên Hội nghị
Nguồn nhân lực, tập trung vào tăng cường phát triển các nguồn nhân lực trong các
nước ASEAN để đáp ứng nhu cầu về chất lượng của thị trường lao động, tổ chức
Cuộc thi tay nghề ASEAN 2 năm một lần để hỗ trợ sự phát triển lực lượng lao
động ASEAN và đạt được tiêu chuẩn kỹ năng nghề khu vực. Cuộc thi tay nghề
ASEAN là sự kiện góp phần tăng cường sự giao lưu, hiểu biết lẫn nhau giữa những
lao động trẻ trong ASEAN và thúc đẩy tiến trình hội nhập của khối hướng tới
"ngôi nhà chung" vào năm 2015.
Về chính sách hướng đến nhóm đối tượng yếu thế: Đó là việc ASEAN thành
lập nên Ủy ban thúc đẩy và bảo vệ quyền con người của phụ nữ và trẻ em ASEAN
(ACWC) vào năm 2010. Theo đó, Ủy ban thúc đẩy và bảo vệ quyền của phụ nữ và
trẻ em ASEAN (ACWC) ra đời là sự khẳng định cam kết của các quốc gia thành
viên trong việc theo đuổi thực hiện những nghĩa vụ của mình theo những Công ước
về xoá bỏ tất cả những sự phân biệt đối xử chống lại phụ nữ và Công ước về quyền
trẻ em đã được số đông các quốc gia phê chuẩn và là quốc gia thành viên. Rõ ràng,
phụ nữ và trẻ em chiếm hơn ½ dân số ASEAN và được công nhận là các nhóm dễ
bị tổn thương, cần sự bảo vệ đặc biệt. Do vậy, hoạt động của ACWC sẽ thúc đẩy
7
hợp tác khu vực để hướng tới sự phát triển, tăng quyền năng và sự tham gia cho
phụ nữ và trẻ em.
Việc bảo vệ quyền con người của phụ nữ và trẻ em còn được ASEAN chú
trọng qua việc thành lập nên Ủy ban ASEAN về thực hiện Tuyên bố ASEAN về
bảo vệ và thúc đẩy quyền của người lao động di cư (ACMW), trong đó có các nội
dung như: bảo vệ người lao động di cư chống lại sự bóc lột, phân biệt và bạo lực,
quản lý lao động di cư và đấu tranh chống tệ buôn bán người. Hiện nay, trong số
các nước ASEAN, không nước nào không có lao động di cư. Hơn nữa, phụ nữ lại
chiếm tỷ lệ đáng kể và có xu hướng gia tăng nhanh chóng trong thập niên qua. Ở
In-đô-nê-xi-a, Phi-lip-pin, có 60% đến 80% số đi lao động ở nước ngoài là phụ nữ.
Mặc dù lao động nữ di cư có cơ hội có thu nhập, có thể nâng cao vị thế và độc lập
về kinh tế nhưng họ cũng chịu nhiều rủi ro và thách thức hơn nam giới cả về mức
thu nhập, khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội và pháp lý, điều kiện sống và làm
việc... Các lạm dụng tồi tệ nhất còn có thể đẩy người phụ nữ rơi vào cảnh nô lệ tình
dục, bóc lột và bạo lực.
Trước những thách thức lớn như: thiếu tiếp cận dịch vụ giáo dục, y tế, cơ hội
nghề nghiệp, tình trạng buôn bán người, nhiễm HIV/AIDS... các diễn đàn như
Diễn đàn Thanh niên ASEAN (AYF), Diễn đàn Nhân dân ASEAN (APF) đã được
tổ chức nhằm nâng cao vai trò của thanh niên trong tiến trình xây dựng cộng đồng
ASEAN, giúp các tổ chức xã hội, cá nhân có cơ hội được trao đổi thông tin và nói
lên tiếng nói của mình trước những vấn đề nổi cộm trong khu vực hiện nay. Đó là
tiếng nói của toàn thể nhân dân các nước ASEAN cùng xây dựng cộng đồng
ASEAN.
Về khoa học, công nghệ, thông tin và truyền thông: Ở lĩnh vực này phải kể
đến đầu tiên là Cuộc thi sáng tạo công nghệ và khoa học kỹ thuật cho những tài
năng trẻ ASEAN do Viện Hàn lâm kỹ thuật và công nghệ Đông Nam Á (AAET)
hàng năm tổ chức, nhằm hỗ trợ và đẩy mạnh các sáng tạo khoa học, kỹ thuật và đổi
mới công nghệ. Tiếp đó là Giải thưởng Nhà khoa học xuất sắc của ASEAN ra đời
1986 được trao cho những nhà khoa học của các nước ASEAN có các công trình
8
nghiên cứu thành công trong lĩnh vực khoa học tự nhiên. Bên cạnh đó là Giải
thưởng Công nghệ thông tin ASEAN mới được tổ chức lần đầu vào năm 2012 vừa
qua. Mục tiêu của giải thưởng này là không chỉ ghi nhận thành tích nổi bật trong
việc ứng dụng công nghệ thông tin mà còn là định hướng, dự báo xu thế phát triển
và tiềm năng của công nghệ thông tin trong ASEAN, đồng thời ghi nhận vai trò
của công nghệ thông tin trong phát triển kinh tế các nước ASEAN.
Ngoài ra, ASEAN còn tổ chức nhiều hoạt động văn hóa thể thao nhằm tăng
cường sự hợp tác hơn nữa trong lĩnh vực văn hóa xã hội. Các hoạt động này đều
hướng đến việc phát triển con người về cả tinh thần, trí tuệ và sức khỏe. Đó là
Giải thưởng văn học ASEAN do Hoàng gia Thái Lan thành lập năm 1979. Giải
được tổ chức thường niên nhằm tôn vinh các nhà văn, nhà thơ có sáng tác tiêu biểu
trong khu vực Đông Nam Á. Các tác phẩm được trao giải rất đa dạng bao gồm
cả thơ ca, truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch bản, sân khấu, dân gian cũng như các tác
phẩm hàn lâm và tôn giáo. Các buổi lễ được tổ chức tại Bangkok, thủ đô Thái Lan
và được chủ trì bởi một thành viên của gia đình hoàng gia Thái Lan. Ngoài ra
không thể không kể đến SEA Games (Southeast Asian Games), ngày hội thể thao
lớn nhất khu vực Đông Nam Á. SEA Games được tổ chức hai năm một lần với các
vận động viên từ 10 quốc gia thành viên ASEAN và Đông Timor tham gia. Bên
cạnh SEA Games là Para Games, sự kiện thể thao được tổ chức hai năm một lần
sau mỗi kỳ SEA Games dành cho các vận động viên khuyết tật. Ngày hội lớn này
là minh chứng cho chính sách hướng đến nhóm đối tượng yếu thế là người khuyết
tật.
Thêm vào đó, trong bối cảnh ASEAN là khu vực bị ảnh hưởng nhiều nhất
của biến đổi khí hậu trên thế giới, ASEAN cũng nỗ lực trong việc giúp các quốc
gia nâng cao năng lực thích ứng trước những thiên tai và xây dựng cộng đồng an
toàn hơn. Hiệp định ASEAN về Quản lý Thiên tai và Ứng phó trong trường hợp
khẩn cấp (ADDMER) đã có hiệu lực vào tháng 12 năm 2009. Các nước đã xây
dựng Chương trình Công tác của ADDMER giai đoạn 2010-2012 để thực hiện các
nội dung trong ADDMER, bao gồm cả việc thành lập Trung tâm Điều phối Hỗ trợ
9
nhân đạo về quản lý thiên tai ASEAN (Trung tâm AHA) tại Hội nghị Cấp cao
ASEAN lần thứ 19 tại Indonesia. Theo trong đó, mỗi năm các nước sẽ đóng góp ít
nhất 30.000 đô la Mỹ để phục vụ cho việc vận hành Trung tâm này. ASEAN cũng
đã khởi động Mạng dữ liệu trên mạng về thiên tai khu vực Đông Nam Á vào năm
2007 và Bản đồ thiên tai Đông Nam Á trên mạng.
Một vấn đề khác được đặt ra khi các nước ASEAN hội nhập là vấn đề bản
sắc, để giải quyết vấn đề này thì cộng đồng văn hóa - xã hội đã thực hiện một số
hoạt động trên thực tiễn, cụ thể: Xây dựng bản sắc ASEAN là một trong những
lĩnh vực trọng tâm của ASEAN nhằm xây dựng Cộng đồng Văn hóa-Xã hội với
một ASEAN đa dạng trong thống nhất. Các nước thành viên đã nỗ lực thúc đẩy
nhận thức và ý thức về Cộng đồng ASEAN thông qua việc xuất bản các ấn phẩm,
phát hành các bản tin trên các phương tiện thông tin đại chúng về ASEAN, thực
hiện Chương trình ASEAN trong hành động và các chương trình tin tức truyền
hình ASEAN, nâng cao nhận thức của ASEAN trong các trường học, tổ chức
Chương trình câu đố về ASEAN; bảo tồn và thúc đẩy di sản văn hóa ASEAN với
các chương trình biểu diễn, giao lưu văn hóa…; thúc đẩy sự tham gia của cộng
đồng để xây dựng bản sắc ASEAN và một ASEAN hướng vào người dân.
Các nước thành viên ASEAN đều tăng cường hợp tác để giảm khoảng cách
phát triển, đặc biệt về khía cạnh xã hội của sự phát triển giữa nhóm 6 nước
ASEAN ban đầu và các nước CLMV (Campuchia, Lào, Myanmar và Việt Nam) và
trong ASEAN tại những vùng bị tách biệt và kém phát triển. Biên bản ghi nhớ giữa
ASEAN và Ủy ban sông Mekong đã được ký năm 2010 nhằm hỗ trợ Campuchia,
Lào và Việt Nam xây dựng kế hoạch phát triển lưu vực sông Mekong, thực hiện
các chương trình và dự án nâng cao năng lực và hỗ trợ cho các nước kém phát triển
hơn.
4. Triển vọng của nội dung hợp tác phát triển con người trong cộng đồng văn
hóa-xã hội ASEAN.
Từ những nội dung cụ thể được triển khai trên thực tiễn, hợp tác phát triển
con người trong cộng đồng văn hóa – xã hội ASCC đã đạt được những mục tiêu
10
nhất định, chất lượng cuộc sống của con người đã được tăng lên biểu hiện qua sự
tăng lên của chỉ số HDI bình quân của các nước trong khu vực từ 0,72 năm 2003
đến 0,748 năm 20071. Tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi đi học được đến trường cũng tăng
lên, đội ngũ cán bộ được đào tạo không chỉ trong nước mà được tạo điều kiện học
hỏi, nghiên cứu, tìm tòi ở các nước trong khu vực, số lượng và chất lượng của đội
ngũ này cũng được cải thiện đáng kể, các chương trình hợp tác về giáo dục ngày
càng trở nên có hiệu quả. Với sự hỗ trợ của các nước phát triển như Bruney,
Singgapor, Thái Lan về khoa học công nghệ đã thúc đẩy sự phát triển của khoa học
công nghệ, đồng thời đưa nó ứng dụng vào thực tế các nước chậm phát triển...Dựa
trên bản kế hoạch tổng thể xây dựng Cộng đồng ASCC các nước thành viên đã tự
hoạch định, xây dựng cho mình mục tiêu, kế hoạch thực hiện cụ thể để góp phần
thực hiện mục tiêu chung.
Tuy nhiên, trong quá trình hợp tác cũng không thể không kể đến các rào cản
như: sự chênh lệch về khoảng cách phát triển giữa các quốc gia thành viên, sự đa
dạng về tín ngưỡng tôn giáo, hay ý thức về chủ quyền, về bản sắc riêng của quốc
gia, của dân tộc… Chính những rào cản đó đã làm chậm quá trình hợp tác, dẫn đến
việc thực hiện các mục tiêu chưa được triệt để, hiệu quả, một số chương trình chưa
được tổ chức và vẫn còn “trên giấy” như: xây dựng Tổ chức giáo dục và mạng lưới
Trường Đại Học ASEAN, đưa công nghệ thông tin tới mọi người kể cả người già
và trẻ em…
Với những thành tựu bước đầu của chương trình hợp tác, xác định được tầm
quan trọng của con người – là trung tâm của các chương trình phát triển. Trong
những năm tới ASEAN hướng tới hoàn thành các mục tiêu chiến lược một cách
hiệu quả hơn. Hứa hẹn năm 2015 sẽ tiến hành xóa mù chữ, phổ cập tiểu học ở tất
cả các quốc gia thành viên và tiến xa hơn phổ cập trung học cũng như các bậc học
cao hơn, và từ những bước đệm, cơ sở vật chất hiện có cũng như đầu tư trong
những năm tới mạng lưới giáo dục, công nghệ thông tin sẽ được cải thiện ở các
quốc gia, số lượng và chất lượng của nguồn nhân lực sẽ tăng lên đáng kể sau quá
trình học tập, giao lưu, hợp tác. Đồng thời, trong mối tương quan với các nội dung
1
/>
11
khác, khi hoạt động bảo trợ và phúc lợi xã hội, các quyền và công bằng xã hội,
đảm bảo môi trường bền vững, thu hẹp khoảng cách phát triển được quan tâm đúng
mức và thực hiện có hiệu quả sẽ góp phần thực hiện tốt nội dung hợp tác phát triển
con người trong Cộng đồng ASCC và tiến tới tạo dựng một bản sắc riêng – bản sắc
ASEAN. Để thực hiện được điều đó, vấn đề đặt ra cho ASEAN là phải có những
hoạt động mang tính chiến lược và toàn diện để không chỉ thực hiện tốt việc phát
triển con người mà còn thực hiện tốt các nội dung hợp tác khác của ASCC.
KẾT THÚC VẤN ĐỀ.
Có thể nói rằng vấn đề phát triển con người là một hoạt động chính, hoạt
động trọng tâm của cộng đồng văn hóa- xã hội ASEAN. Hoàn thành tốt vấn đề
phát triển con người sẽ giúp cộng đồng văn hóa- xã hội ASEAN thực hiện tốt các
hoạt động khác. Bởi lẽ các hoạt động của cộng đồng văn hóa-xã hội ASEAN đều
hướng tới vấn đề phát triển con người. Không những thế xây dựng thành công
cộng đồng văn hóa xã hội sẽ thúc đẩy sự phát triển của cộng đồng chính trị an ninh
ASEAN, cộng đồng kinh tế ASEAN. Như vậy sẽ đạt được mục tiêu là xây dựng
một cộng đồng ASEAN ổn đinh- hòa bình- hợp tác và phát triển.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.
12
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, giáo trình pháp luật cộng đồng ASEAN, Nxb Tư
pháp, năm 2013
2. Hiến chương ASEAN
3. Tuyên bố Ba li 2 năm 2003
4. Bản kế hoặc tổng thể xây dựng cộng đồng văn hóa- xã hội ASEAN
13