Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

Sức sống của triết học mác trong xã hội hiện đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (52.34 KB, 7 trang )

Sức sống của triết học Mác trong xã hội hiện đại
Bản chất khoa học và cách mạng của triết học Mác được thể hiện trước hết ở
thế giới quan và phương pháp luận của triết học Mác là kim chỉ nam cho hoạt
động nhận thức và cải tạo xã hội. Thứ hai là sự thống nhất hữu cơ giữa lý luận
và thực tiễn là nguyên tắc nền tảng của triết học Mác. Thứ ba, triết học Mác là
sự thống nhất giữa tính mở, tính phát triển của hệ thống lý luận và tính ổn
định của lập trường duy vật biện chứng và những phương pháp luận cơ bản của
nó. Đó là những giá trị vĩnh hằng của triết học Mác. Những giá trị đó đã làm
nên sức sống của triết học Mác trong xã hội hiện đại, nhưng để giữ được sức
sống ấy, bản thân triết học Mác cũng phải được đổi mới trước những biến đổi
của đời sống xã hội hiện đại.
Với sự sụp đổ của Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu, CHXH đã lâm vào cuộc
khủng hoảng trầm trọng phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đứng trước
những khó khăn và thử thách to lớn. Trước hiện thực đó, các nhà tư tưởng và
chính trị tư sản đã lớn tiếng tuyên bố về “sự cáo chung" của chủ nghĩa Mác Lênin, ngay cả những người hôm qua còn được coi là người macxít thì nay,
cũng công kích và phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lêmn. Ở Việt Nam, trong mấy
năm gần đây, cũng đã xuất hiện một số bài viết bày tỏ quan điểm và thái độ
tương tự.
Những người phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin đã đưa ra những quan điểm khác
nhau, song khái quát lại, có 3 quan điểm chủ yếu sau:
Thứ nhất, chủ nghĩa Mác là sản phẩm của nền văn minh cơ khí, nó chỉ thích
hợp với thế kỷ XIX chứ không phù hợp với thời đại ngày nay là thời đại khoa
học - công nghệ, thời đại toàn cầu hoá và văn minh tin học.
Thứ hai, những sai lầm và thiếu sót trong các nước XHCN trước đây (nhất là ở
Liên Xô) là sản phẩm của chủ nghĩa Mác - Lênin. Sự sụp đổ của chế độ XHCN ở
một loạt nước trên thế giới đã chứng tỏ chủ nghĩa Mác - Lênin là một sai lầm.
Thứ ba, chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời ở phương Tây, nó chỉ phản ánh lịch sử
phương Tây mà không bao quát được lịch sử phương Đông và Việt Nam. Vì
vậy, ở Việt Nam chỉ cần tư tưởng Hồ Chí Minh là đủ.
Vậy, đâu là sự thật? Đâu là chân lý? Nghiên cứu này góp phần làm sáng tỏ bản
chất khoa học và cách mạng của triết học macxít cũng như vai trò của nó trong


xã hội hiện đại. Đồng thời, đề xuất phương hướng đổi mới lý luận triết học
macxít trong điều kiện hiện đại.
Bản chất khoa học và cách mạng của triết học Mác
Sự phát triển của khoa học và thực tiễn xã hội - lịch sử loài người gần 2 thế kỷ
qua đã minh chứng cho bản chất khoa học và cách mạng của triết học Mác.
Bản chất này của triết học Mác được thể hiện một cách sâu sắc trước hết, ở thế
giới quan và phương pháp luận của nó, ở các nguyên tắc thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn, giữa tính ổn định và tính mở, tính phát triển của nó.
Thế giới quan và phương pháp luận của triết học Mác - kim chỉ nam cho hoạt
động nhận thức và cải tạo xã hội


Phép biện chứng duy vật là tinh hoa của trí tuệ nhân loại được C.Mác và
Ph.Ăngghen đúc kết và V.I.Lênin phát triển trên cơ sở những thành tựu cao
nhất của triết học, của khoa học hiện đại và thực tiễn xã hội - lịch sử toàn
nhân loại. Những khái niệm, phạm trù nguyên lý, quy luật và những phương
pháp luận cơ bản của nó mang tính phổ quát. Chúng bao quát, tác động, chi
phối cả giới tự nhiên, đời sống xã hội và tư duy con người ở mọi nơi và trong
mọi giai đoạn lịch sử. Chính vì vậy, phép biện chứng duy vật trở thành thế giới
quan và phương pháp luận cho hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Nói ngắn gọn nó là kim chỉ nam cho suy nghĩ và hành động.
Gần 2 thế kỷ đã qua, kể từ khi phép biện chứng duy vật ra đời cho đến nay,
nhân loại đã chứng kiến những biến đổi lớn lao trong khoa học cũng như trong
đời sống xã hội. Những thành tựu của khoa học và công nghệ (thuyết tương
đối của Anhxtanh, thuyết vụ nổ lớn, di truyền học, cơ học lượng tử, công nghệ
thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ nanô... )
không chỉ đóng vai trò trọng yếu trong nền sản xuất xã hội, mà còn tác động
trực tiếp đến con người, làm biến đổi mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Có thể
nói, trong thời đại ngày nay khoa học về thực chất, đã và đang trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp như dự báo của C.Mac cách đây một thế kỷ rưỡi.

Theo dự báo của nhiều nhà khoa học hàng đầu thế giới, trong những thập niên
tới, khoa học tiếp tục phát triển mạnh mẽ và sẽ có những phát minh kỳ diệu,
những ứng dụng rộng rãi nhờ những biến đổi mang tính cách mạng trong 5 lĩnh
vực lớn: thế giới ảo, công nghệ gen, công nghệ phỏng sinh học, công nghệ
nanô và thế giới lượng tử. Đặc biệt là, với sự phát triển mạnh mẽ của công
nghệ thông tin (hiện nay, công nghệ mới cho phép một con "chíp" gắn 200
triệu tế bào bán dẫn với công suất 1 tỷ phép tính/giây, đến năm 2010, có thể
gắn 750 triệu tế bào bán dẫn/1 con “chíp" với công suất 10 tỷ phép tính/giây,
những phương tiện mới, như ngân hàng điện tử, tiền điện tử, thương mại điện
tử, dịch vụ điện tử... sẽ xuất hiện và ngày một trở nên phổ biến. Điều đó sẽ
thúc đẩy năng suất lao động tăng lên vượt bậc. Như vậy, có thể nói, sự phát
triển như vũ bão của khoa học và công nghệ cần chứng minh tính đúng đắn
của phép biện chứng duy vật càng làm sâu sắc hơn và thể hiện một cách sinh
động hơn tính vật chất và tính biện chứng của thế giới, đồng thời, nó cũng đặt
ra những cơ sở và điều kiện mới đòi hỏi triết học Mác phải khái quát, phải được
bổ sung và phát triển hơn nữa, như Ph.Ăngghen đã nhận xét, mỗi khi có những
phát minh lớn trong khoa học tự nhiên thì chủ nghĩa duy vật sẽ không tránh
khỏi phải thay đổi hình thức của mình.
Từ nửa sau thế kỷ XX trở lại đây, chủ nghĩa tư bản hiện đại đã có bước phát
triển mới từ chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước trong phạm vi quốc gia và
khu vực sang chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước trên phạm vi toàn cầu
(CNTB toàn cầu hoá). CNTB hiện đại do có sự điều chỉnh, cải cách nội bộ để
thích nghi với hoàn cảnh mới, do tận dụng được tối đa những thành tựu của
cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại và do biết sử dụng CNTB toàn
cầu hoá như một công cụ điều tiết vĩ mô, vận hành nền kinh tế theo quy luật
khách quan nên đã đạt được những thành tựu to lớn về phương diện kinh tế.
Trong những thập kỷ tới, chủ nghĩa tư bản hiện đại vẫn có khả năng tự điều
chỉnh và thích ứng với yêu cầu phát triển mới của lực lượng sản xuất và do
vậy, nó còn tiếp tục đem lại những thành quả kinh tế to lớn cho nhân loại.
Mặc dù có bước phát triển mới và đạt được những thành tựu to lớn, song bản



chất bóc lột và bất công của chủ nghĩa tư bản không những không thay đổi,
mà còn ngày càng thể hiện một cách tinh vi và sâu sắc hơn. Chủ nghĩa tư bản
toàn cầu càng phát triển thì tính phân cực các mặt đối lập, mâu thuẫn và
những khuyết tật vốn có của nó càng thêm trầm trọng (lao động và bóc lột,
giàu và nghèo, thất học, thất nghiệp, khủng hoảng môi trường, chiến tranh...).
Trong khuôn khổ của CNTB, những vấn đề này không thể giải quyết được. Nói
cách khác CNTB hiện đại đã và đang chuẩn bị những điều kiện cần thiết để
từng bước thay thế nó, phủ định nó bằng những phương thức thích hợp.
Như vậy có thể nói, sự phát triển của CNTB hiện đại với những thành tựu to lớn
và những mâu thuẫn, những khuyết tật không tránh khỏi của nó đã không
những không thể làm lu mờ mà trái lại, còn làm phong phú hơn, sâu sắc hơn
những nguyên lý và quy luật của phép biện chứng duy vật. Đồng thời nó còn
cung cấp những tư liệu quý báu, đòi hỏi phải được thẩm định và khái quát về
mặt triết học.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử - một trong hai phát kiến vĩ đại của C.Mác
Nó là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận khoa học của hoạt động nhận
thức và cải tạo xã hội hiện đại. Từ những thập niên cuối thế kỷ XX đến những
năm đầu thế kỷ XXI, thế giới đã có những biến đổi to lớn và đáng kinh ngạc
sức sống dai dẳng của CNTB hiện đại với những thành tựu to lớn của nó, sự
sụp đổ cua chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu. Sự ra đời của kinh tế tri thức
đánh dấu bước chuyển từ nền văn minh công nghiệp sang nền văn minh trí
tuệ, sự kiên trì con đường xã hội chủ nghĩa ở một số nước và thành công vượt
bậc của sự nghiệp cải cách, đổi mới ở Trung Quốc và Việc Nam: vai trò ngày
càng tăng với tốc độ liên tục cửa khoa học và công nghệ, cách cuộc khủng
hoảng kinh tế khu vực, chủ nghĩa khủng bố, xung đột sắc tộc tôn giáo và chiến
tranh khu vực... Tất cả những sự biến đổi đó không mâu thuẫn và xung đột với
những nguyên lý và quy luật của chủ nghĩa duy vật lịch sử với tư cách cơ sở
thế giới quan và phương pháp luận của nhận thức và cải tạo xã hội.

Trong xã hội hiện đại, sản xuất vật chất vẫn là nền tảng của dời sống xã hội.
Nhân tố quyết định trong lịch sử, xét đến cùng vẫn là sản xuất và tái sản xuất
ra đời sống xã hội. Nguồn gốc và động lực phát triển của toàn bộ đời sống xã
hội, xét đến cùng vẫn là sự tác động biện chứng của lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, tồn tại xã hội và ý
thức xã hội. Ngoài ra, trong xã hội có giai cấp thì đấu tranh giai cấp vẫn là một
trong những động lực phát triển của xã hội. Sự phát triển của xã hội từ hình
thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác được thực hiện
thông qua các cuộc cách mạng xã hội (với những hình thức và phương pháp
cách mạng phong phú và thích hợp) . Nói một cách ngắn gọn, quan điểm của
triết học Mác về hình thái kinh tế - xã hội, giai cấp và đấu tranh giai cấp, cách
mạng xã hội, Nhà nước, con người... vẫn là cơ sở khoa học cho việc xem xét và
giải quyết những vấn đề căn bản của xã hội hiện đại.
Sự thống nhất hữu cơ giữa lý luận và thực tiễn trong triết học Mác
Triết học Mác không chỉ là sự kế thừa những giá trị của các hệ thống triết học
trước đó, mà điều quan trọng là sự khái quát kinh nghiệm thực tiễn của loài
người, nhất là thực tiễn cách mạng. Chính C.Mác đã đưa phạm trù thực tiễn
vào triết học và coi đó là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức và là tiêu
chuẩn khách quan của chân lý. Chính vì vậy, sự thống nhất giữa lý luận và


thực tiễn trở thành nguyên tắc nền tảng của triết học Mác. Sự thống nhất này
được thể hiện cả trong thời gian lẫn không gian.
Trong thời gian, tức là theo chiều đọc của lịch sử, triết học Mác luôn thể hiện
mình trong những giai đoạn lịch sử khác nhau của sự phát triển khoa học công nghệ, thực tiễn sản xuất, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế qua
các cuộc cách mạng xã hội... Trong các quá trình này, triết học Mác luôn giữ
vai trò định hướng thế giới quan và phương pháp luận cho hoạt động của con
người, đồng thời được thực tiễn lịch sử "phản biện” kiểm nghiệm, chứng minh
và làm phong phú thêm bằng chính "hơi thở" của thời đại. Chính vì vậy,
Ph.Ăngghen đã nhấn mạnh rằng, lý luận của các ông (của C.Mác và ông)

không phải là giáo điều, mà là kim chỉ nam cho hành động.
Trong không gian, tức là theo chiều ngang của lịch sử, đó là tính sáng tạo và
tính thích nghi của triết học Mác khi vận dụng vào thực tiễn cách mạng ở
những dân tộc và các quốc gia khác nhau. Về vấn đề này, Lênin đã chỉ rõ,
chúng ta tuyệt đối không coi lý luận của Mác là một cái gì đó nhất thành bất
biến và không thể xâm phạm mà trái lại, chúng ta tin rằng nó chỉ đặt cơ sở cho
một khoa học, và những người XHCN, nếu không muốn lạc hậu với đời sống
thực tế, cần đẩy môn khoa học này tiến lên phía trước trên mọi phương diện.
Sự thống nhất giữa tính mở, tính phát triển hệ thống lý luận và tính ổn định
của lập trường duy vật biện chứng và những phương pháp luận cơ bản
Toàn bộ các khái niệm, phạm trù, nguyên lý và quy luật của triết học Mác là hệ
thống lý luận mở và phát triển, không khép kín, không ngưng đọng và bất
biến. Tự khép kín, ngưng đọng, bất biến là siêu hình, tức phản biện chứng.
Trong Chống Đuyrinh, Ph.Ăngghen đã từng phê phán gay gắt ý đồ của Đuyrinh
muốn tạo ra một hệ thống chân lý tuyệt đối, cuối cùng.
Tính mở và phát triển của triết học Mác được thể hiện ở chỗ, thứ nhất, nó luôn
hướng về thực tiễn - xã hội và lịch sử (phát triển sản xuất, cải tạo xã hội, phát
triển khoa học - công nghệ,...), hướng về thời đại, về tương lai, chứ tuyệt
nhiên không phải là thứ lý luận thư phòng và kinh viện. Sinh thời, C.Mác đã chỉ
rõ rằng, mọi triết học chân chính đều là tinh hoa tinh thần của thời đại, chúng
đều cần tiếp xúc và tương tác với thế giới hiện thực của thời đại mình. Triết học
Mác là một lý luận như vậy. Nó không lảng tránh mà luôn nhìn thẳng vào hiện
thực, sử dụng thế giới quan duy vật biện chứng và phép biện chứng duy vật để
hướng dẫn, giải quyết những vấn đề cơ bản và bức thiết trong đời sống xã hội
ở các dân tộc khác nhau, đồng thời, nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, khái quát
lý luận và dự báo tương lai. Thứ hai, triết học Mác bác bỏ mọi chủ nghĩa bè
phái và luôn tỏ rõ thái độ đúng đắn với mọi triết học phi macxít. Chẳng hạn,
khi ra đời và phát triển, triết học Mác đã không phủ định sạch trơn di sản triết
học trước đó, mà kế thừa một cách có phê phán những tinh hoa của nó để xây
đựng hệ thống lý luận của mình. Hiện nay, đối với các trào lưu triết học phi

macxít hiện đại, cả ở phương Đông lẫn phương Tây, chúng ta cần đứng trên lập
trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng để xem xét, tiếp thu một cách có phê
phán những giá trị của chúng để mở rộng tầm nhìn, phát triển và hoàn thiện
triết học khác. Thứ ba, với tư cách phép biện chứng duy vật, triết học Mác có
khả năng tự đổi mới và phát triển. Sinh thời cả C.Mác, Ph.Ăngghen và Lênin
đều cho rằng, không có học thuyết nào đạt tới chân lý tuyệt đích, cuối cùng và
triết học Mác cũng không phải là ngoại lệ. Lập trường, thế giới quan và phương
pháp luận cơ bản của triết học Mác là kim chỉ nam cho hành động, mở đường


và chỉ dẫn cho con người tiếp tục nhận thức chân lý chứ không đi tới chân lý
tuyệt đích, cuối cùng.
Tính mở, tính phát triển của triết học Mác không mâu thuẫn mà thống nhất
biện chứng với tính ổn định của lập trường duy vật biện chứng và những
phương pháp luận cơ bản của nó. Đây cũng là một nguyên tắc của triết học
Mác. Nó đấu tranh không khoan nhượng với chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa học
phiệt, chủ nghĩa cơ hội và mọi mưu toan hòng lợi dụng sự biến đổi của hoàn
cảnh để phủ nhận triết học Mác.
Từ những phân tích ở trên, có thể rút ra những kết luận sau: thử nhất, thế giới
đã, đang và tiếp tục có những biến đổi to lớn và phức tạp. Nhưng, triết học
Mác với tư cách thế giới quan và phương pháp luận khoa học vẫn là triết học
của thời đại ngày nay, vẫn là kim chỉ nam cho hoạt động nhận thức và cải tạo
xã hội (của công cuộc xây đựng chủ nghĩa xã hội, của phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế, của các lực lượng tiến bộ đang đấu tranh vì một thế giới
hoà bình, dân chủ, tiến bộ và phát triển bền vững). Thứ hai, những quan điểm
phủ nhận chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng (đã nêu ở trên) là
sai lầm đáng tiếc. Bởi lẽ, chủ nghĩa Mác không phải là sản phẩm của riêng một
nền văn minh nào, càng không phải là sản phẩm của nền văn minh cơ khí, mà
là tinh hoa trí tuệ của toàn nhân loại, là "hơi thở" của thời đại (cho đến nay
nhân loại vẫn chưa có học thuyết nào cao hơn và tốt hơn thay thế nó). Những

sai lầm và thiếu sót ở các nước XHCN và sự sụp đổ của chế độ XHCN ở Liên Xô
và Đông Âu không phải là sản phẩm của triết học Mác, mà chính là sản phẩm
của sự kết hợp "hổ lớn" giữa các loại chủ nghĩa khác nhau (siêu hình, giáo
điều, kinh nghiệm, cơ hội, chủ quan, duy ý chí, quan liêu...) và có phần đóng
góp không nhỏ của chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa tư bản toàn cầu hoá. Cũng
là sai lầm khi cho rằng, chủ nghĩa Mác ra đời ở phương Tây nên chỉ ứng dụng
được ở phương Tây, còn ở Việt Nam thì không ứng dụng được. Nói như vậy
chẳng khác nào cho rằng, thuyết tiến hoá giống loài của Đácuyn chỉ có ý nghĩa
riêng đối với các giống loài sinh vật ở phương Tây. Thứ ba, yêu cầu phát triển
nội tại của bản thân triết học Mác (vốn mang trong mình bản chất khoa học và
cách mạng) và đòi hỏi bức thiết của thực tiễn thời đại tất yếu dẫn đến việc phải
đổi mới lý luận triết học macxít. Việc đổi mới lý luận này không phải là xét lại,
phủ định nó, mà là tiếp tục khẳng định và làm sâu sắc hơn bản chất khoa học
và cách mạng của nó trong điều kiện mới.
Vai trò của triết học Mác trong xã hội hiện đại
Như đã nhận xét, thế giới đã, đang và sẽ còn có những biến đổi lớn lao và
nhanh chóng, trong đó lĩnh vực xã hội luôn có diễn biến phức tạp. Quá trình đó
đặt ra những vấn đề bức thiết thúc đẩy triết học phải vượt lên để giải đáp. Mặt
khác, nó cũng tạo ra những tiền đề và điều kiện để triết học có thể thực hiện
được vai trò của mình. Trong xã hội hiện đại, vai trò của triết học Mác được thể
hiện tập trung ở những điểm chủ yếu sau:
Nhận thức cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại và những thành tựu
của nó, tìm ra bản chất đích thực của cách mạng này, xem xét quy luật phát
triển và dự báo tương lai của nó. Trên cơ sở đó, khái quát lý luận, bổ sung và
phát triển hệ thống phạm trù, khái niệm, nguyên lý và quy luật của phép biện
chứng duy vật.
Nhận thức quá trình toàn cầu hoá (về nguyên nhân, bản chất, quy luật, mâu
thuẫn, xu hướng...) để trên cơ sở đó, đánh giá hiệu quả tác động của nó đối



với đời sống con người và mọi lĩnh vực khác của đời sống xã hội, bổ sung
những yếu tố cần thiết cho chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Nhận thức chủ nghĩa tư bản hiện đại, nhất là chủ nghĩa tư bản toàn cầu hoá
(về bản chất, quy luật, khả năng điều chỉnh và thích ứng mâu thuẫn, xu hướng
vận động khủng hoảng và quá trình phủ định biện chứng của nó để chuyển
sang CHXH).
Nhận thức sự khủng hoảng của CHXH hiện thực (thành tựu và khuyết tật,
nguyên nhân khủng hoảng, con đường và giải pháp thoát khỏi khủng hoảng).
Nhận thức phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, "ba dòng thác cách
mạng" trên thế giới và dự báo về các phong trào cách mạng này. Đồng thời
nhận thức sâu sắc quá trình cải cách, đổi mới CHXH ở một số nước và đưa ra
dự báo về tương lai của nó.
Phân tích một loạt vấn đề triết học như:
Những vấn đề triết học trước kia là đúng nhưng nay do thực tiễn biến đổi, cần
phải bổ sung phát triển.
Những vấn đề triết học mà các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênnin chưa
giải quyết hoặc chưa có điều kiện chín muồi để giải quyết.
Những vấn đề cấp bách do thời đại ngày nay đặt ra.
Phân tích các trào lưu triết học phương Tây hiện đại những vấn đề lý luận và
thực tiễn của cuộc sống hiện nay, tiến hành cuộc đấu tranh chống mọi quan
điểm thù địch, bảo vệ bản chất khoa học và cách mạng của triết học Mác, góp
phần thúc đẩy khoa học và thực tiễn phát triển.
Đổi mới triết học Mác
Đổi mới triết học Mác là yêu cầu khách quan của phép biện chứng duy vật và
đòi hỏi bức thiết của thời đại. Đó không phải là xét lại, phủ nhận triết học Mác,
mà là quá trình bổ sung, phát triển, làm sâu sắc hơn, cao hơn và sống động
hơn bản chất khoa học và cách mạng của nó.
Đổi mới triết học Mác phải đứng trên lập trường duy vật biện chứng và sử dụng
phương pháp biện chứng duy vật để xác định cần khẳng định cái gì, bổ sung
cái gì và phát triển cái gì trong triết học Mác, đồng thời, tránh xu hướng giáo

điều, cơ hội nhằm lợi dụng đổi mới để di đến bác bỏ triết học Mác. Trên tinh
thần đó, phương hướng đổi mới triết học Mác được thể hiện ở những điểm chủ
yếu sau:
Nhận thức sâu sắc, phát triển và hoàn thiện hệ thống các khái niệm, phạm trù,
nguyên lý, quy luật của phép biện chứng duy vật. Trong đó, cần chú trọng quy
luật mâu thuẫn nhất là việc phân loại mâu thuẫn trong đời sống xã hội. Hiện
nay, trong các tài liệu triết học còn tồn tại nhiều cách lý giải rất khác nhau về
mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng. Cần chuẩn xác hoá định
nghĩa về các cặp phạm trù, nhất là cặp phạm trù khả năng và hiện thực. Hiện
nay, trong các giáo trình triết học, việc định nghĩa các phạm trù này cũng khác
nhau, thậm chí còn mơ hồ, thiếu chính xác. Không thể đồng ý với ý kiến cho
rằng, khả năng là cái chưa có nhưng nó vẫn tồn tại và sẽ trở thành hiện thực.
Nếu như vậy thì làm sao cái "chưa có” lại tồn tại được và nó tồn tại như thế
nào? Làm thế nào để cái "chưa có" trở thành cái "có" được? Cách lập luận như
trên sẽ gây ra trạng thái mơ hồ trong nhận thức và rất dễ đi đến chủ nghĩa duy
tâm và tôn giáo.
Nhận thức lại, bổ sung và phát triển các khái niệm, phạm trù nguyên lý, quy


luật của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đồng thời, vận dụng chúng vào việc phân
tích CNTB hiện đại và CHXH. Trước hết, cần phải chuẩn xác hoá và làm sâu sắc
một loạt vấn đề, như hình thái kinh tế - xã hội (chú trọng quy luật quan hệ sản
xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất), đấu tranh giai cấp
(nhất là đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân trong điều kiện hiện nay
cách mạng xã hội, vấn đề Nhà nước (nhất là phạm trù Nhà nước XHCN trong
điều kiện hiện nay). Cần bổ sung vào chủ nghĩa duy vật lịch sử một số phạm
trù quan trọng như lợi ích" với tư cách vừa là nguồn gốc, vừa là động lực của
hoạt động người, “ khoa học và công nghệ, dân chủ hoá, văn hoá"... với tư
cách những động lực của sự phát triển xã hội và phạm trù "Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa". Đồng thời, cần nhận thức sâu hơn về bản chất con

người và xem xét một cách toàn diện (các khía cạnh tâm - sinh lý, ý thức, tư
tưởng, kinh tế, chính trị, văn hoá, đạo đức...), vấn đề con người trong xã hội
hiện đại.
Nhận thức lại CHXH về phương diện lý luận và về hiện thực đề tổng kết, rút ra
những bài học có ý nghĩa lý luận, thực tiễn phục vụ cho sự nghiệp cải cách, đổi
mới CHXH, đặc biệt là để vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết Mác về
con đường quá độ lên CHXH ở nước ta và dự báo mô hình CHXH trong tương
lai.
Như vậy có thể nói đổi mới triết học Mác, trước hết cần phải chuẩn xác hoá các
khái niệm, phạm trù, nguyên lý, quy luật của nó để trên cơ sở đó, vận dụng và
phát triển một cách sáng tạo vào thục tiễn cách mạng Việt Nam. Điều đó có
nghĩa là làm cho bản chất khoa học và cách mạng của triết học Mác phát triển
lên một trình độ cao hơn sâu sắc hơn và sống động hơn.
Nguồn: Tạp chí Triết học



×