Tải bản đầy đủ (.doc) (157 trang)

Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản lý các trường đại học cao đẳng tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (728.38 KB, 157 trang )

Phần Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ ngàn xa nhân dân Việt Nam đã có truyền thống hiếu học, nhng trải
qua ngàn năm dới chế độ phong kiến và hàng trăm năm dới ách thống trị của
thực dân Pháp, dân trí chậm phát triển và có nhiều hạn chế. Cách mạng Tháng
Tám thành công, nhà nớc Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời ngày 2 tháng 9
năm 1945, với mục tiêu dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc,
dân trí phát triển đã mở ra bớc ngoặt trọng đại cho nền giáo dục nớc nh.
Ngay trong những ngày đầu cách mạng, đất nớc còn bộn bề muôn vàn công
việc cần giải quyết, cùng với việc lo giữ vững chính quyền, Hồ Chủ tịch đã đề
ra nhiệm vụ: diệt giặc dốt, thực hiện bình dân học vụ, xoá nạn mù chữ rộng
rãi khắp cả nớc; đào tạo đội ngũ các thày giáo, cô giáo, mở mang trờng lớp
cũBộ Quốc gia giáo dục, Nha Bình dân học vụ là những cơ quan quản lý nhà
nớc về giáo dục đã đợc thành lập rất sớm, có nhiệm vụ tham mu giúp việc cho
Chính phủ lâm thời. Giáo dục và đào tạo đã trở thành quốc sách. Hiến pháp
năm 1946-bản Hiến pháp đầu tiên của nhà nớc Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
khẳng định: Nền sơ học cỡng bách và không học phí. ở các trờng sơ học địa
phơng, quốc dân thiểu số có quyền học bằng tiếng của mình. Học trò nghèo đợc Chính phủ trợ giúp. Trờng t đợc mở tự do và phải dạy theo chơng trình Nhà
nớc [29, tr. 10-11]. Bớc vào thời kỳ xây dựng Chủ nghĩa xã hội, đồng thời
thực hiện thống nhất nớc nhà, đặc biệt trong thời kỳ mới, giáo dục và đào tạo
nớc ta đã phát triển với những thành tựu to lớn, sự quan tâm của Đảng, của
toàn xã hội đối với giáo dục và đào tạo ngày càng lớn. Báo cáo Chính trị Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng khẳng định: Phát triển giáo dục
và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, là điều kiện để phát huy nguồn lực con ngời - yếu tố
cơ bản để phát triển xã hội, tăng trởng kinh tế nhanh và bền vững[20, tr.108109].
Cùng với sự phát triển của giáo dục nói chung, giáo dục đại học nói
riêng, theo chủ trơng của Đảng quản lý đất nớc bằng pháp luật chứ không chỉ
bằng đạo lý, hệ thống pháp luật về giáo dục đã đợc xây dựng và ngày càng
hoàn thiện. Ngày 2 tháng 12 năm 1998, Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ t đã
thông qua Luật Giáo dục. Luật đã khẳng định giáo dục và đào tạo là quốc sách


hàng đầu, quy định một hệ thống giáo dục quốc dân tơng đối hoàn chỉnh, đa


2
dạng về loại hình, với đầy đủ bậc học, cấp học và trình độ đào tạo từ giáo dục
mầm non đến giáo dục đại học; quy định quản lý nhà nớc về giáo dục. Qua 11
năm thực hiện Luật Giáo dục, ngành Giáo dục và đào tạo đã có bớc phát triển
đáng kể: cơ sở vật chất đợc cải thiện, đội ngũ giảng viên đại học trởng thành
nhanh về số lợng và trình độ, quy mô đào tạo, lực lợng đào tạo đợc mở rộng,
trình độ dân trí, chất lợng con ngời đợc nâng cao, chất lợng giáo dục có nhiều
chuyển biến tích cực, thực sự góp phần thúc đẩy tăng trởng, chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, phân công lao động xã hội.
Bên cạnh đó thì Luật Giáo dục cũng đã bộc lộ một số hạn chế nh: với
tình chất là một luật khung, tơng đối cụ thể, Luật Giáo dục còn có nhiều quy
định mang tính chung chung, khái quát dẫn đến việc hớng dẫn chi tiết gặp
nhiều khó khăn; hoặc nhiều quy định đã bất cập cần phải đợc sửa đổi, bổ sung
cho phù hợp theo hớng phân cấp mạnh hơn cho các cơ sở giáo dục nh việc
phân quyền cho các cơ quan nhà nớc có thẩm quyền quyết định thành lập các
trờng đại học, cao đẳng; xác định hình thức các trờng đại học, cao đẳng, vấn
đề vụ lợi và bất vụ lợi trong các trờng, việc phân cấp mạnh hơn cho các trờng
đại học, cao đẳngCùng với sự hạn chế của Luật Giáo dục thì những năm qua
cũng cho thấy nền giáo dục nớc nhà nói chung và giáo dục đại học nói riêng
đã bộc lộ nhiều yếu kém, lạc hậu trớc những yêu cầu phát triển của đất nớc.
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về giáo dục đại học còn nhiều bất cập,
thiếu cả về số lợng và chất lợng, tính khả thi cha cao, cha thực sự tạo đợc hành
lang pháp lý cho các trờng đại học, cao đẳng thực hiện đợc các quyền tự chủ,
tự chịu trách nhiệm trong việc triển khai các chức năng, nhiệm vụ của mình;
cha phát huy đợc tối đa tiềm năng của đội ngũ trí thức của các trờng đại học,
cao đẳng trong sự nghiệp xây dựng đất nớc.
Việc hoàn thiện các quy định của hệ thống pháp luật về quản lý các trờng đại học, cao đẳng càng trở lên cấp bách, đòi hỏi phải có sự nghiên cứu

toàn diện hơn, để góp phần đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách giáo dục,
thực hiện đổi mới về cơ bản giáo dục đại học và triển khai thực hiện Chiến lợc
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hớng đến năm 2020 tại Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ
Chính trị Ban Chấp hành Trung ơng (Khoá IX), thực hiện Nghị quyết số
14/2005/NQ-CP ngày 2/11/2006 của Chính phủ về đổi mới cơ bản và toàn
diện đại học Việt Nam giai đoạn 2006-2020. Trong đó xác định: Nhà nớc, trực
tiếp là Quốc hội, Chính phủ phải đẩy mạnh công tác xây dựng pháp luật, tăng
cờng năng lực xây dựng pháp luật về giáo dục của các cơ quan nhà nớc, u tiên


3
xây dựng và hoàn thiện các quy định của hệ thống pháp luật về quản lý các trờng đại học, cao đẳng nhằm bảo đảm về quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm
của các trờng đại học, cao đẳng.
Đất nớc ta sau hơn hai thập kỷ đổi mới đã có bớc phát triển mạnh mẽ
trong nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội. Trong bối cảnh cả xã hội
chuyển mình và đi tới, giáo dục đại học Việt Nam cũng đã có những thay đổi,
nhng những thay đổi đó vẫn cha đáp ứng đợc những yêu cầu và đòi hỏi bức
thiết của sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội, sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nớc đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân, cũng nh mở rộng
quan hệ hợp tác quốc tế.
Cho đến nay, giáo dục đại học Việt Nam vẫn là một nền giáo dục đóng,
cứng nhắc, cha tơng thích với những tiến bộ về khoa học công nghệ, xu thế
toàn cầu hoá và nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế của đất nớc. Chất lợng đào
tạo thấp, không có một trờng đại học đạt chất lợng quốc tế hay khu vực. Hiện
trạng này đang làm cho nhân dân không hài lòng, khi mà nhân dân luôn mong
muốn con em mình đợc giáo dục và đào tạo tốt hơn. Hiện trạng này có nhiều
nguyên nhân, trớc hết là sự yếu kém về công tác quản lý, cơ chế quản lý mang
nặng tính hành chính tập trung không phù hợp với sự phát triển của hệ thống
giáo dục đào tạo và hệ thống pháp luật. Cơ chế đó làm mất đi tính chủ động,
linh hoạt; làm mất đi khả năng sáng tạo và ý chí vơn lên, thậm chí gây nên sự
nản lòng trong đội ngũ trí thức, nhà giáo, sinh viên, nhà nghiên cứu, quản lý.

Trong một thế giới đang biến đổi và phát triển vô cùng nhanh chóng, chúng ta
đang tụt dần lại phía sau.
Ngay bây giờ nếu không sẽ là quá chậm, giáo dục đại học Việt Nam
cần phải đợc đổi mới toàn diện, triệt để. Đó không chỉ là để đáp ứng đợc nhu
cầu của nền kinh tế xã hội hiện tại mà còn nhằm mục đích góp phần thúc
đẩy sự phát triển nhanh chóng và bền vững của một đất nớc để trở thành một
quốc gia công nghiệp và hiện đại. Kinh tế thế giới đang chuyển dần sang kinh
tế tri thức, trong đó vốn tri thức đang thay thế dần vốn vật chất, vốn trí thức trở
thành nguồn gốc của sự thịnh vợng, đóng vai trò vô cùng quan trọng. Điều đó
khiến cho giáo dục đại học đang trở thành một lĩnh vực thiết yếu hơn bao giờ
hết.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài


4
Giáo dục đại học và hệ thống pháp luật về quản lý các trờng đại học,
cao đẳng ở Việt Nam hiện nay là một vấn đề đang đợc nhiều nhà khoa học,
nhà quản lý giáo dục quan tâm, nghiên cứu. Đến nay, đã có rất nhiều công
trình nghiên cứu nhng phần lớn đều tập trung vào nội dung chuyên môn giáo
dục đại học, nh quan điểm phát triển giáo dục đại học, chiến lợc phát triển
giáo dục đại học, chất lợng giáo dục đại học; nội dung, chơng trình, cơ chế
quản lý, đội ngũ giảng viên, đào tạo học viên, sinh viênCó thể nêu một số
công trình nghiên cứu khoa học điển hình nh sau:
Ngành giáo dục đào tạo thực hiện Nghị quyết Trung ơng 2 (Khoá
VIII) và triển khai Nghị quyết Đại hội IX (GS.TS Nguyễn Minh Hiển Tạp
chí cộng sản số 22 tháng 8/2002), trong đó đã nêu lên nhng thành tựu và
những hạn chế của ngành giáo dục từ mầm non đến sau đại học trong một giai
đoạn thực hiện Nghị quyết của Đảng.
Đổi mới giáo dục đại học Việt Nam (GS. TSKH Bành Tiến Long
năm 2005), tác giả đã khái quát cụ thể yêu cầu của việc đổi mới giáo dục đại

học Việt nam trên cơ sở phân tích những hạn chế, bất cập trong giáo dục đại
học, trong đó tập trung vào công tác đào tạo, hợp tác quốc tế, nghiên cứu khoa
học dới góc độ của một nhà khoa học giáo dục, nhà quản lý giáo dục.
Một số vấn đề đổi mới trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo (GS Trần
Hồng Quân - Nhà XB Giáo dục -1995), tác phẩm đã đề cập tới một số biện
pháp nhằm đổi mới phơng thức quản lý giáo dục nói chung từ quản lý nhà trờng, nhà giáo và ngời học, trong đó tập trung vào đổi mới phơng thức điều
hành của các cán bộ quản lý giáo dục.
Lý luận về Quản lý giáo dục và đào tạo (GS. Đặng Bá Lãm-Nhà
xuất bản Chính trị Quốc gia -2005), đây có thể coi là cuốn giáo trình để giảng
dạy trong các cơ sở đào tạo, bồi dỡng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục, trong
đó đề cập tới những nội dung cơ bản về lý luận quản lý giáo dục và đào tạo từ
mầm non, tiểu học, trung học, trung cấp chuyên nghiệp đến đại học, cao đẳng.
Giáo dục đại học Việt Nam tiếp tục đổi mới để phát triển và hội nhập
(GS.TSKH Trần Văn Nhung-2003), trong bài viết này, GS Trần Văn Nhung đã
tập trung viết về sự cần thiết và nêu một số giải pháp để giáo dục Việt Nam có
thể đổi mới đáp ứng theo yêu cầu quốc tế hóa;
Đề tài nghiên cứu cấp nhà nớc Quản lý nhà nớc về giáo dục-lý luận
và thực tiễn (Viện Nghiên cứu chiến lợc giáo dục năm 2003), đây là cuốn


5
sách tập hợp của nhiều bài viết trong Đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nớc
mà Nghiên cứu sinh cũng là một tác giả có một chủ đề về quản lý giáo dục đại
học, các bài viết đã nêu lên các vấn đề lý luận và thực tiễn trong công tác quản
lý giáo dục và đào tạo;
Cơ sở xây dựng và hoàn thiện Điều lệ trờng đại học, cao đẳng (Dự
án Giáo dục đại học Bộ Giáo dục và Đào tạo năm 2004), đây là đề tài do
Ngân hành Thế giới đặt hàng, gồm các chủ đề liên quan trực tiếp đến giáo dục
đại học Việt Nam, trong đó có một chủ đề rất quan trọng do Nghiên cứu sinh
tham gia đó là khái quát thực trạng của hệ thống pháp luật về giáo dục đại học

hiện hành và đề xuất các nội dung để xây dựng Điều lệ trờng đại học, cao
đẳng;
Hoàn thiện pháp luật về giáo dục ở Việt Nam hiện nay (Lê Thị Kim
Dung - Luận văn thạc sĩ luật học Học viện CTQG Hồ Chí Minh năm
2005), Luận văn đã nêu lên những vấn đề khái quát về hệ thống pháp luật về
giáo dục và đào tạo của cả hệ thống, trong đó có các khía cạnh pháp lý cụ thể
về nhà trờng, nhà giáo, ngời học từ thực trạng, đến giải pháp nhằm hoàn thiện
hệ thống pháp luật về giáo dục của Việt nam.
Hoàn thiện các bảo đảm pháp luật về quyền tự chủ và tự chịu trách
nhiệm của các trờng đại học, cao đẳng của Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay (Nguyễn Đức Cờng Luận văn thạc sĩ luật học Học viện CTQG Hồ
Chí Minh năm 2006), Luận văn đã nêu lên những vấn đề về lý luận và thực
tiễn về quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của các trờng đại học, cao đẳng
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, từ việc phân tích thực trạng hệ thống các
bảo đảm pháp luật về quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm xã hội đến việc đề
xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện các bảo đảm pháp luật đó.
Các công trình nghiên cứu trên chủ yếu tập trung vào các vấn đề lý
luận và thực tiễn về chính sách hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân, cải
cách hệ thống thi cử, đào tạo, cấp phát văn bằng của giáo dục đại học, chính
sách nhằm mở rộng quy mô và nâng cao chất lợng giáo dục, đổi mới phơng
pháp quản lý giáo dục đại học, chính sách đối với giáo viên, cán bộ quản lý
giáo dục, hoặc cả hệ thống pháp luật về giáo dục cha có công trình nghiên
cứu nào một cách toàn diện, có hệ thống về hoàn thiện pháp luật về quản lý
các trờng đại học, cao đẳng ở Việt Nam hiện nay.


6
Khi Việt nam đã gia nhập Tổ chức thơng mại Thế giới (WTO) thì vấn
đề mở của hội nhập, đa hệ thống giáo dục đại học nớc nhà cạnh tranh, hội
nhập với hệ thống các cơ sở giáo dục đại học khu vực và thế giới là tất yếu. Do

vậy, việc hoàn thiện pháp luật về quản lý các trờng đại học, cao đẳng ở nớc ta
hiện nay là một vấn đề bức thiết. Luận án là công trình nghiên cứu mới, góp
phần tăng cờng quản lý nhà nớc về giáo dục đại học, hoàn thiện pháp luật tạo
điều kiện cho các trờng đại học, cao đẳng phát huy quyền tự chủ và tự chịu
trách nhiệm của mình; góp phần đa giáo dục đại học sớm bắt nhập với nền
giáo dục đại học khu vực và thế giới.
3. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu của Luận án
- Về đối tợng nghiên cứu của Luận án là hệ thống pháp luật hiện hành
về quản lý các trờng đại học, cao đẳng ở Việt Nam. Qua nghiên cứu cơ sở lý
luận và thực trạng pháp luật về quản lý các trờng đại học, cao đẳng, Luận án
đề xuất hệ thống các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về quản lý các trờng
đại học, cao đẳng.
- Về phạm vi nghiên cứu: Luận án tập trung nghiên cứu các quy định
của pháp luật trong Luật Giáo dục và một số văn bản quy phạm pháp luật khác
trực tiếp điều chỉnh các trờng đại học, cao đẳng. Luận án có phân tích và khái
quát hoá các yêu cầu thực tế của các lĩnh vực cụ thể liên quan đến giáo dục
đại học để làm nổi bật vấn đề quan tâm chủ yếu: hoàn thiện pháp luật về quản
lý các trờng đại học, cao đẳng.
4. Mục đích và nhiệm vụ của Luận án
- Về mục đích: Luận án trên cơ sở phân tích những vấn đề về lý luận
và thực tiễn để đề xuất các quan điểm và giải pháp hoàn thiện các hệ thống
pháp luật về quản lý các trờng đại học, cao đẳng ở Việt Nam hiện nay.
- Về nhiệm vụ: Phù hợp với mục đích trên, Luận án giải quyết các
nhiệm vụ sau:
Một: Phân tích cơ sở lý luận về pháp luật về quản lý các trờng đại học,
cao đẳng, đồng thời khái quát về pháp luật về quản lý các trờng đại học, cao
đẳng một số quốc gia trên thế giới, trên cơ sở đó luận chứng các giải pháp
hoàn thiện hệ thống pháp luật này ở Việt Nam;
Hai: Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về quản lý các trờng đại
học, cao đẳng và thực tiễn thực hiện pháp luật đó trong thời gian qua;



7
Ba: Đề xuất các quan điểm, giải pháp hoàn thiện nội dung, hình thức
pháp luật về quản lý các trờng đại học, cao đẳng ở Việt Nam hiện nay, trong
đó tập trung vào việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về quản lý các trờng đại học, cao đẳng nhằm bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của
các trờng đại học đáp ứng yêu cầu đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại
học Việt Nam và hội nhập quốc tế.
5. Cơ sở lý luận và phơng pháp nghiên cứu
- Luận án dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác Lênin và t tởng
Hồ Chí Minh, các chủ trơng, đờng lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nớc và pháp luật, đặc biệt là các quan điểm của Đảng ta về giáo dục đại học đợc
thể hiện trong các văn kiện Nghị quyết TW2 (Khoá VIII), Nghị quyết Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ IX, X, Kết luận của Hội nghị TW 6 (Khoá IX).
- Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã vận dụng các phơng
pháp nghiên cứu khoa học nh: phơng pháp luận duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử xã hội để làm rõ sự vận động, phát triển của pháp luật về giáo dục đại
học nớc ta trong đó tập trung vào pháp luật về quản lý các trờng đại học, cao
đẳng; phân tích, tổng hợp, đối chiếu so sánh, kết hợp giữa phơng pháp thống
kê, phơng pháp hệ thống, phơng pháp phân tích mô tả để nêu lên thực trạng
pháp luật về quản lý các trờng đại học, cao đẳng hiện nay, từ đó có thể đề xuất
các quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật đó; đặc biệt là so sánh luật học
để phân tích bức tranh pháp luật qua các giai đoạn cũng nh kinh nghiệm của
luật pháp quốc tế, từ đó giải quyết các vấn đề về lý luận và thực tiễn mà đề tài
đặt ra.
6. Những điểm mới và đóng góp của Luận án
Luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diện, tập
trung và trực tiếp vấn đề lý luận về pháp luật về quản lý các trờng đại học, cao
đẳng Việt Nam nhằm mục đích đề xuất các quan điểm và giải pháp hoàn thiện
pháp luật đó của nớc nhà hiện nay. Cụ thể:
- Xác định phạm vi điều chỉnh của pháp luật đối với các trờng đại học,

cao đẳng; mức độ can thiệp của các cơ quan quản lý nhà nớc đối với các trờng
đại học, cao đẳng; đa ra các tiêu chí hoàn thiện pháp luật đó đối với các trờng
đại học, cao đẳng;


8
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản có tính pháp lý về pháp luật
quản lý các trờng đại học, cao đẳng nh: pháp luật về quản lý giáo dục đại học,
các chủ thể, khách thể tham gia quan hệ pháp luật;
- Khái quát, hệ thống hóa thực trạng pháp luật về quản lý các trờng đại
học, cao đẳng ở Việt Nam trong các giai đoạn (khái quát giai đoạn trớc 1976)
và tập trung vào giao đoạn từ 1976 đến nay, từ đó đánh giá những bất cập, tồn
tại cũng nh những mặt đợc trong hệ thống văn bản hiện hành về quản lý các
trờng đại học, cao đẳng; đề xuất các quy định cần chỉnh sửa, bổ sung, ban
hành mới phù hợp với tình hình phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam, yêu
cầu đổi mới giáo dục đại học Việt Nam và đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế
trong giai đoạn hiện nay.
- Phân tích một số kinh nghiệm quốc tế về quản lý các trờng đại học,
cao đẳng của một số quốc gia đại diện cho các khu vực và gần với điều kiện
của Việt Nam để có thể vận dụng có chọn lọc kinh nghiệm đó vào thực tiễn
của nớc nhà.
- Trên cơ sở lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật về quản lý các trờng
đại học, cao đẳng ở Việt Nam giai đoạn qua, Luận án đã đề xuất các quan
điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản lý đối với các trờng đại học,
cao đẳng, trong đó xác định và đề xuất từng nội dung cụ thể trong quản lý
giáo dục đại học trong đó nêu và phân tích từng mặt cụ thể về hình thức và nội
dung trong các lĩnh vực: quản lý quá trình đào tạo, nghiên cứu khoa học, tổ
chức nhân sự, tài chính, hợp tác quốc tế...đáp ứng yêu cầu đổi mới cơ bản và
toàn diện giáo dục đại học Việt Nam, trong đó tập trung vào việc hoàn thiện
các quy định của pháp luật về quản lý các trờng đại học, cao đẳng nhằm bảo

đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của các trờng đại học đáp ứng yêu
cầu hội nhập quốc tế.
7. ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Luận án
- Thông qua việc làm rõ các vấn đề lý luận của pháp luật về quản lý
các trờng đại học, cao đẳng, Luận án góp phần làm sáng tỏ những vấn đề về
pháp luật quản lý các trờng đại học, cao đẳng hiện hành. Phần lý luận này là
tiền đề quan trọng cho việc thực hiện hoàn thiện pháp luật về quản lý các trờng đại học, cao đẳng một bộ phận pháp luật trong hệ thống pháp luật của
Việt Nam hiện nay.


9
- Luận án góp phần hoàn thiện pháp luật về quản lý các trờng đại học,
cao đẳng nhằm phát huy vai trò, vị trí của các trờng đại học, cao đẳng, đồng
thời giúp cho việc hoàn thiện pháp luật ngày càng toàn diện, tạo hành lang
pháp lý cho các trờng hoạt động một cách hiệu quả góp phần thực hiện Chiến
lợc phát triển giáo dục và đào tạo giai đoạn 2001-2010, thực hiện Đề án Đổi
mới cơ bản và toàn diện Giáo dục Đại học Việt Nam giai đoạn 2006-2020,
chuẩn bị cho hệ thống giáo dục đại học nớc ta hoà nhập với hệ thống giáo dục
đại học khu vực và thế giới .
- Luận án là nguồn tài liệu tham khảo cần thiết, cho các cơ quan thực
hiện, ban hành chính sách, pháp luật, các cơ quan quản lý nhà nớc, các trờng
đại học, cao đẳng nghiên cứu áp dụng, để nghiên cứu, giảng dạy về pháp luật
giáo dục đại học nói riêng và pháp luật giáo dục nói chung ở Việt Nam hiện
nay theo hớng ngày càng chuẩn hoá, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật Việt Nam theo Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị Ban chấp hành
Trung ơng Đảng vừa qua.
8. Bố cục của Luận án:
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của Luận án đợc kết cấu làm 3 chơng:
Chơng 1: Những vấn đề lý luận về việc hoàn thiện pháp luật về

quản lý các trờng đại học và cao đẳng ở Việt Nam.
Chơng 2: Thực trạng hệ thống pháp luật về quản lý các trờng đại
học, cao đẳng ở Việt nam.
Chơng 3: Phơng hớng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản lý
các trờng đại học, cao đẳng ở Việt Nam hiện nay.


10

Chơng 1: những vấn đề lý luận
về việc hoàn thiện pháp luật về quản lý
các trờng đại học và cao đẳng ở Việt Nam
1.1. Quản lý nhà nớc bằng pháp luật đối với các trờng đại học, cao đẳng ở
Việt Nam
1.1.1. Quản lý nhà nớc đối với các trờng đại học, cao đẳng gắn liền
với việc xây dựng và hoàn thiện nhà nớc pháp quyền
Các cơ quan quản lý nhà nớc trong lĩnh vực giáo dục nói chung và giáo
dục đại học nói riêng nằm trong bối cảnh Việt Nam đang trong quá trình xây
dựng và hoàn thiện nhà nớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do vậy các cơ quan
đó phải tuân theo các nguyên tắc sau:
Quản lý nhà nớc đối với các trờng đại học, cao đẳng phải bằng pháp
luật, tuân theo pháp luật và bảo đảm tính tối thợng của pháp luật trong quản lý
các trờng đại học, cao đẳng;
Trong việc quản lý các trờng đại học, cao đẳng phải bảo đảm nguyên
tắc và những đặc điểm của nhà nớc pháp quyền đó là: thống nhất, tập trung,
phối hợp và cụ thể hóa quyền hạn, trách nhiệm trên cơ sở phân cấp rõ tràng;
Bảo đảm mở rộng và phát huy quyền học tập, giáo dục của con ngời,
nhất là đối với thể hệ trẻ.
Để có thể bám sát việc xây dựng nhà nớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
cần phải nắm chắc một số đặc điểm quan trọng vic xõy dng nh nc phỏp

quyn XHCN ca nhõn dõn, do nhõn dõn, vỡ nhõn dõn nc ta trong giai
on ny:
Th nht, Nht quỏn ch rừ bn cht ca Nh nc ta l Nh nc ca
nhõn dõn, do nhõn dõn, vỡ nhõn dõn; tt c quyn lc nh nc u thuc v
nhõn dõn.
Th hai, Xỏc nh rừ trong t chc v hot ng ca b mỏy nh nc
ta phi tuõn th nguyờn tc quyn lc nh nc thng nht cú s phõn cụng,


11
phối hợp giữa các cơ quan thực hiÖn các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Thứ ba, Khẳng định vai trò, vị trí của pháp luật trong quản lý nhà nước
và xã hội; bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp trong đời sống xã hội.
Thứ tư, Bảo đảm quyền con người, quyền công dân, nâng cao trách
nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân; mở rộng dân chủ đồng thời với
tăng cường kỷ cương, kỷ luật.
Thứ năm, Từng bước ý thức được đầy đủ trách nhiệm của Nhà nước
trong việc thực hiện các cam kết quốc tế trong quá trình hội nhập quốc tế và
khu vực.
Thứ sáu, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với
Nhà nước trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do
dân, vì dân.
Trên cơ sở của Hiến pháp năm 1992, tính chất nhà nước ta “Nhà nước
Cộng hòa XHCN Việt Nam là Nhà nước chuyên chính vô sản” đã được xác
định rõ là “Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”. Bộ máy nhà
nước trước đây được tổ chức theo nguyên tắc tập quyền XHCN (theo mô hình
của Liên xô và các nước XHCN) được tổ chức lại theo nguyên tắc quyền lực
nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà
nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Chúng ta chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

là một trong những điều kiện và môi trường tiên quyết của một quốc gia tiến
hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa và một xã hội phát triển tiên tiến.
Nội dung quan trọng của Nhà nước pháp quyền là khẳng định cội nguồn
quyền lực nhà nước là ở nhân dân. Để bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân, trong đó nhà nước là của nhân dân chứ không phải nhân dân là của
nhà nước, Nhà nước pháp quyền đề cao tính hợp hiến, hợp pháp trong tổ chức
và hoạt động của nhà nước, nhà nước chỉ được làm những điều pháp luật cho
phép, còn nhân dân được làm tất cả những điều pháp luật không cấm, pháp


12
luật bảo đảm cho sự phát triển tự do tối đa của nhân dân. Vai trò của pháp luật
trong việc xây dựng và duy trì một xã hội trật tự ổn định, trong đó không chỉ
mỗi công dân, mỗi cá nhân, mà bản thân nhà nước và những người đứng đầu
chính quyền cũng phải tôn trọng pháp luật đã được khẳng định. Hai mặt dân
chủ và pháp luật trong Nhà nước pháp quyền gắn bó hữu cơ, làm tiền đề tồn
tại cho nhau và tạo nên bản chất của Nhà nước pháp quyền trong lịch sử nhân
loại. C. Mác, Ph. Ăng-ghen và V.I. Lê-nin đánh giá cao giá trị nhân văn của
học thuyết Nhà nước pháp quyền mà cách mạng tư sản đã cống hiến cho nhân
loại.
Ở nước ta để bảo đảm phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi
mới, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vì mục tiêu
dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh thì một trong
những vấn đề chiến lược là xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Hiện nay, Việt Nam đã có đủ các tiền đề về kinh tế, chính trị, xã hội để
từng bước xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nhà nước pháp
quyền Việt Nam của dân, do dân, vì dân, có sắc thái riêng, phù hợp với điều
kiện kinh tế, chính trị, xã hội, truyền thống, văn hóa của Việt Nam. Cần nhận
thức rằng việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam là quá trình lâu

dài, phải được tiến hành từng bước, chia thành nhiều giai đoạn, đặt dưới sự
lãnh đạo của Đảng. Mỗi giai đoạn tương ứng với một mức độ phát triển của
xã hội và của nhà nước. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng ở nước ta tuân thủ theo những
nguyên tắc sau:
- Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì
dân là cách thức cơ bản để phát huy dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân.
Đó là Nhà nước trong đó bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân, vì thế quyền lực nhà nước là thống nhất, không tam quyền phân lập


13
nhưng có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong quá
trình thực hiện quyền lực nhà nước về mặt lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Đó là Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, tăng cường pháp chế, xử lý
nghiêm minh kịp thời mọi vi phạm pháp luật nhằm thực hiện và bảo vệ được
các quyền tự do dân chủ, đặc biệt là quyền tự do kinh doanh và lợi ích hợp
pháp của nhân dân, ngăn ngừa mọi sự tuỳ tiện lạm quyền từ phía cơ quan nhà
nước, cán bộ công chức nhà nước, đồng thời ngăn ngừa hiện tượng dân chủ
cực đoan, vô kỷ luật, thiếu kỷ cương. Đó là Nhà nước mà mọi tổ chức (kể cả
tổ chức đảng), hoạt động phải dựa trên cơ sở pháp luật, tuân thủ pháp luật,
chịu trách nhiệm trước công dân về mọi hoạt động của mình. Vì vậy, xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có quan hệ khăng khít với xây
dựng xã hội công dân. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân, vì dân, là cách thức cơ bản để phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, huy động nội lực của toàn thể nhân dân, của tất cả các thành phần kinh tế
vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và xây dựng nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước pháp quyền, nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và xã hội công dân là bộ ba hợp thành
không thể tách rời, là điều kiện và tiền đề cho nhau, là bảo đảm và kết quả của

công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Hiến pháp và pháp luật nước ta ghi nhận quyền của công dân tham
gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của
cả nước và địa phương, kiến nghị, đề đạt nguyện vọng, yêu cầu của mình với
các cơ quan nhà nước. Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí,
quyền khiếu nại, tố cáo, quyÒn ®îc häc hµnh v.v.. Các quyền và sự tự do đó
trong nhiều trường hợp là điều kiện để nhân dân kiểm tra hoạt động của Nhà
nước, nhưng trước hết đó là một trong những phương thức quan trọng để thực
hiện dân chủ. Vì vậy, cần chăm lo cho con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mọi người; tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền


14
con người mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia. Đổi mới cơ chế, xác định
trách nhiệm của các cấp, các ngành, của cán bộ, công chức trong việc giải
quyết kịp thời khiếu nại, tố cáo của công dân.
Quyền lực nhà nước ở nước ta là quyền lực nhà nước thống nhất. Sự
thống nhất đó là ở mục tiêu chung phục vụ lợi ích của nhân dân, của đất nước,
của dân tộc. Xét theo cơ chế tổ chức thì quyền lực nhà nước tối cao, tức là
những chức năng và thẩm quyền cao nhất thuộc về những cơ quan đại diện
cho nhân dân. Ở nước ta, đó là Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Quốc
hội có thẩm quyền lập hiến và lập pháp; quyền giám sát tối cao; quyền quyết
định kế hoạch phát triển đất nước; quyền lập ra các cơ quan và chức vụ quốc
gia cao nhất. Hội đồng nhân dân các cấp là những cơ quan quyền lực nhà
nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của
nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân
địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên.
- Một trong những điểm cơ bản của việc xây dựng Nhà nước pháp
quyền của dân, do dân, vì dân là quyền lực nhà nước thống nhất trên cơ sở
phân công và phối hợp trong việc thực hiện ba quyền: lập pháp, hành pháp, tư

pháp. Có thể hiểu rằng, sự thống nhất là nền tảng, sự phân công và phối hợp
là phương thức để đạt được sự thống nhất của quyền lực nhà nước.
Trong giai đoạn hiện nay, hoạt động lập pháp đang đứng trước những
nhiệm vụ mới mẻ và phức tạp của việc điều chỉnh pháp luật đáp ứng yêu cầu
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế. Lập pháp phải bảo đảm tính khả thi của các quy định pháp
luật, tính hiệu lực và hiệu quả của việc áp dụng pháp luật vào cuộc sống. Hoạt
động lập pháp phải vừa bảo đảm chất lượng, vừa theo kịp yêu cầu của sự phát
triển. Muốn vậy, cần tổ chức tốt hơn nữa quy trình lập pháp. Quy trình đó
phải vừa bảo đảm phản ánh được sự phát triển sống động của đời sống xã hội
trong các lĩnh vực, lại vừa bảo đảm tính chuyên môn pháp lý của các quy định


15
để có sự phối hợp chặt chẽ giữa khâu làm luật với việc ban hành các văn bản
dưới luật, tổ chức thực hiện pháp luật.
Mặc dù đã có nhiều nỗ lực đổi mới và cải cách nhưng tổ chức và hoạt
động của bộ máy hành pháp của nước ta còn nhiều nhược điểm, còn nhiều
mặt chưa theo kịp và đáp ứng được yêu cầu phát triển của đất nước. Tổ chức
hành pháp chưa thông suốt, còn yếu trong việc xử lý những mối liên kết dọc
và ngang, thậm chí còn có hiện tượng cục bộ. Chế độ phân cấp trách nhiệm
còn thiếu rành mạch, làm trầm trọng thêm tác phong làm việc quan liêu và
dựa dẫm. Thẩm quyền và trách nhiệm cá nhân chưa được quy định chặt chẽ.
Thái độ làm việc và trách nhiệm trước dân của đội ngũ cán bộ, công chức vẫn
còn là vấn đề đáng nói hiện nay.
- Một trong những nội dung cơ bản của nguyên tắc phân công và phối
hợp quyền lực nhà nước và cải cách hành chính là sự phân công, phân cấp
giữa trung ương và địa phương. Sự phân công, phân cấp ấy phải nhằm khuyến
khích và nâng cao tính chủ động của chính quyền địa phương, kết hợp chặt
chẽ quản lý ngành và quản lý lãnh thổ, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung

dân chủ.
Việc phân công và phân cấp giữa trung ương và địa phương phải dựa
trên nền tảng của một hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh, có tính chuyên
nghiệp cao và đủ sức giải quyết mọi vấn đề do thực tiễn đặt ra. Đây đang là
một khâu yếu.
- Đề cao pháp luật, tăng cường pháp chế phải đi liền với việc đưa pháp
luật vào cuộc sống, tạo thói quen và nếp sống tôn trọng pháp luật trong cán bộ
và mọi tầng lớp nhân dân. Cho nên, xây dựng pháp luật và đưa pháp luật vào
cuộc sống phải thực sự là hai mặt của một nhiệm vụ. Đổi mới và hoàn thiện
pháp luật phải đi liền với đổi mới và hoàn thiện thực tiễn áp dụng pháp luật.
Tăng cường hoạt động xây dựng pháp luật phải đi liền với việc khuyến khích
và tạo điều kiện cho các hoạt động của các tổ chức và công dân nhằm sử dụng


16
đầy đủ quyền và thực hiện tốt nghĩa vụ của họ, sự khuyến khích tính tích cực
pháp lý phải đi liền với việc hoàn thiện các thủ tục pháp lý, đổi mới và cải
cách hành chính và hệ thống tư pháp. Đồng thời, đề cao pháp luật và pháp chế
còn đặt ra nhiệm vụ phải bằng mọi cách nâng cao sự hiểu biết pháp luật, đấu
tranh có hiệu quả với các vi phạm và tội phạm, kiên quyết chống quan liêu và
tham nhũng trong bộ máy của Đảng và Nhà nước.
- Thực thi quyền lực và thi hành pháp luật là những hoạt động luôn
luôn cần đến sự kiểm tra, giám sát đầy đủ và hữu hiệu. Các hình thức và cơ
chế kiểm tra, giám sát phải thực sự được coi trọng và hoàn thiện ở mức cao
nhất, bảo đảm cho quyền lực nhà nước luôn nằm trong quỹ đạo phục vụ nhân
dân và đất nước, pháp luật luôn luôn được tôn trọng, pháp chế và kỷ cương
được giữ vững. Đối với các cơ quan nhà nước, kiểm tra, giám sát là cách tốt
nhất để các cơ quan đó thực hiện đúng chức trách và thẩm quyền của mình,
đồng thời là điều kiện phối hợp các hoạt động một cách có hiệu quả. Đến lượt
mình, các hoạt động, các hình thức và cơ chế kiểm tra, giám sát phải có sự

phân công, phối hợp đầy đủ và hoàn thiện hơn.
- Nhà nước pháp quyền của chế độ ta thể hiện những tư tưởng, quan
điểm tích cực, tiến bộ, phản ánh mơ ước và khát vọng của nhân dân đối với
công lý, tự do, bình đẳng. Trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân hiện nay, về mặt nhận thức, cần khẳng định
các mối quan hệ chủ đạo giữa các nguyên tắc và yêu cầu của Nhà nước pháp
quyền với hệ thống chính trị duy nhất một đảng lãnh đạo; với phương thức tổ
chức nhà nước tập trung có phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; với việc tôn trọng các
quyền tự do của công dân và nghĩa vụ, trách nhiệm của công dân trong việc
bảo đảm một xã hội trật tự, kỷ cương.
Về nguyên tắc, Nhà nước pháp quyền không mâu thuẫn với hệ thống
chính trị một đảng lãnh đạo. Vấn đề là ở chỗ, bản chất của đảng cầm quyền


17
thế nào, mục tiêu chính trị của nó có phải vì lợi ích chung của dân tộc, vì con
người hay không và do đó có sẵn sàng tuân theo những quy định của pháp
luật hay không; có đủ phẩm chất đạo đức để vượt qua các cám dỗ quyền lực
to lớn mà một đảng cầm quyền duy nhất có nhiều khả năng gặp phải hay
không và nó có đặt ra và thực hiện được những kỷ luật nghiêm khắc cho
chính mình hay không, v.v..
Thực tiễn phát triển của xã hội ta, đất nước ta xác nhận và khẳng định
vai trò lãnh đạo của Đảng. Hơn 79 năm qua, Đảng thể hiện tập trung ý chí,
nguyện vọng và trí tuệ của toàn dân tộc. Đường lối của Đảng là sự thể hiện
nhận thức của toàn xã hội về các quy luật khách quan của sự phát triển đất
nước. Đó chính là căn cứ, là điều kiện cần thiết để chúng ta hoàn thiện pháp
luật. Hiến pháp của nước ta đã ghi nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam. Để khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng phù hợp với những
nguyên tắc của nhà nước pháp quyền, căn cứ vào kinh nghiệm thực tiễn và

yêu cầu của xã hội, cần cụ thể hóa hơn nữa mối quan hệ lãnh đạo của Đảng,
mà cụ thể là các tổ chức đảng và cấp ủy các cấp, cán bộ lãnh đạo Đảng với
các cơ quan nhà nước và các chức vụ nhà nước các cấp. Hoàn thiện những cơ
sở pháp lý đó sẽ giúp tránh được những biểu hiện bao biện, làm thay hay can
thiệp không đúng nguyên tắc của cấp ủy và cán bộ Đảng vào công việc chính
quyền mà có thời kỳ nhiều nơi mắc phải.
Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, mở rộng dân chủ, phát huy tối
đa vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và của các tổ chức chính trị - xã hội
trong xây dựng và quản lý nhà nước, trong vai trò phản biện và trong giám sát
hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị. Sự lãnh đạo của Đảng
được tăng cường không phải chỉ dựa vào quyền uy, mệnh lệnh, mà là bằng trí
tuệ, năng lực lãnh đạo của Đảng, ở khả năng vạch ra đường lối chính trị đúng
đắn, ở sự gắn bó với nhân dân và khả năng giáo dục, thuyết phục toàn xã hội
chấp thuận, ở vai trò tiên phong của đảng viên và tổ chức đảng trong các cơ


18
quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức kinh tế, các tổ chức
xã hội, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp. Trong điều kiện hiện nay ở Việt
Nam, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là điều kiện quan trọng nhất,
cơ bản nhất đối với sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân, vì dân.
Đảng ta chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
là một trong những điều kiện và môi trường tiên quyết của một quốc gia tiến
hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa và một xã hội phát triển tiên tiến.
Nội dung quan trọng của Nhà nước pháp quyền là khẳng định cội
nguồn quyền lực nhà nước là ở nhân dân. Để bảo đảm quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân, trong đó nhà nước là của nhân dân chứ không phải nhân
dân là của nhà nước, Nhà nước pháp quyền đề cao tính hợp hiến, hợp pháp
trong tổ chức và hoạt động của nhà nước, nhà nước chỉ được làm những điều

pháp luật cho phép, còn nhân dân được làm tất cả những điều pháp luật không
cấm, pháp luật bảo đảm cho sự phát triển tự do tối đa của nhân dân. Vai trò
của pháp luật trong việc xây dựng và duy trì một xã hội trật tự ổn định, trong
đó không chỉ mỗi công dân, mỗi cá nhân, mà bản thân nhà nước và những
người đứng đầu chính quyền cũng phải tôn trọng pháp luật đã được khẳng
định. Hai mặt dân chủ và pháp luật trong Nhà nước pháp quyền gắn bó hữu
cơ, làm tiền đề tồn tại cho nhau và tạo nên bản chất của Nhà nước pháp quyền
trong lịch sử nhân loại. C. Mác, Ph. Ăng-ghen và V.I. Lê-nin đánh giá cao giá
trị nhân văn của học thuyết Nhà nước pháp quyền mà cách mạng tư sản đã
cống hiến cho nhân loại.
Ở nước ta để bảo đảm phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi
mới, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vì mục tiêu
dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh thì một trong
những vấn đề chiến lược là xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng.


19
Xây dựng nhà nước pháp quyền là con đường phát triển tất yếu của đất
nước ta, phù hợp với xu thế tất yếu chung của thời đại, không chỉ là nguyện
vọng mà đã và đang trở thành nhu cầu hiện thực và khả năng hiện thực. Để
xây dựng nhà nước pháp quyền, cần nhận biết những tiêu chí mà nó hướng
tới. Bài viết bước đầu đề cập đến một só tiêu chí như thế để nhận diện nhà
nước pháp quyền.
Nhà nước pháp quyền từ bản thân sự ra đời và sự hiện diện trên thực tế
đã cho thấy đây là những mô thức tổ chức nhà nước là phương thức tổ chức
quyền lực nhà nước khoa học, hợp lý, kiểm soát lẫn nhau giữa các loại cơ
quan lập pháp, hành pháp và tư pháp, hoạt động trên cơ sở pháp luật, vai trò
tương xứng với năng lực, có hiệu quả. Pháp luật là phương tiện điều chỉnh
quan trọng hàng đầu, pháp luật mang tính pháp lý cao: tính khách quan, nhân

đạo, công bằng, tất cả vì lợi ích của con người.
Nhà nước pháp quyền là kiểu tổ chức xã hội ở trình độ cao và tính
pháp quyền trong mọi lĩnh vực quan hệ xã hội. Tính pháp quyền này không
chỉ thuần tuý là pháp luật, bởi vì nhà nước nào cũng có pháp luật song điều đó
không có nghĩa là nhà nước đó đã là nhà nước pháp quyền. Có pháp luật
không phải là tiêu chí duy nhất để xác định nhà nước pháp quyền.
Tính chất pháp quyền này cũng không chỉ đơn thuần là pháp chế - sự
tuân thủ nghiêm minh pháp luật. Tính pháp quyền ở đây có nội dung cơ bản là
sự ngự trị của một nền pháp luật đáp ứng các yêu cầu công bằng, nhân đạo,
dân chủ, minh bạch, phù hợp đạo đức và tất cả vì con người.
Dưới góc độ cơ cấu tổ chức, nhà nước pháp quyền đòi hỏi sự phân
định, phân công rõ ràng giữa các cơ quan nhà nước cả theo chiều dọc, chiều
ngang. Tính chất pháp quyền phải được thể hiện trong hoạt động của các thiết
chế nhà nước và trong xã hội công dân. Nguyên tắc quản lý xã hội bằng pháp
luật là một trong những tiêu chí nhận diện nhà nước pháp quyền nhưng chưa
đủ. Khởi thủy của tư tưởng nhà nước pháp quyền là sự phân định rạch ròi, sự


20
sắp xếp và phối hợp giữa các thiết chế quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Nhưng cơ chế phân định, phân công trong tổ chức quyền lực nhà nước không
các mục đích tự thân mà nhằm hạn chế đến mức thấp nhất sự độc đoán,
chuyên quyền và vi phạm quyền con người. Cơ chế này sẽ tạo điều kiện cho
sự đảm bảo tự do chính trị trong hoạt động nhà nước và xã hội. Theo
Môngtétxkiơ, muốn có tự do chính trị thì phải có cơ chế tổ chức thực hiện
quyền lực nhà nước bảo đảm không có sự lạm quyền.
Từ phương diện lập pháp được thể hiện tập trung ở chất lượng, tính
khoa học, nhân văn của các sản phẩm lập pháp - các đạo luật pháp quyền và ở
hiệu lực, hiệu quả của hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội.
Từ phương diện của nền hành chính quốc gia. Đây là lĩnh vực hoạt

động liên quan trực tiếp, thường xuyên nhất đến mọi cá nhân, tổ chức và xã
hội, diễn ra liên tục trong mọi không gian và thời gian, sôi động hơn rất nhiều
so với hoạt động lập pháp và tư pháp. Năng lực, tinh nhuệ, tiết kiệm, hợp
pháp; hợp lý và hiệu quả, giải quyết, phản ứng một cách kịp thời, nhanh
chóng các vấn đề nảy sinh trong xã hội - đó là những tiêu chí, tố chất cơ bản
nhất của nền hành chính trong nhà nước pháp quyền.
Trong nhà nước pháp quyền, pháp luật có vị trí, vai trò hàng đầu trong
việc điều chỉnh các quan hệ xã hội cơ bản. Vai trò hàng đầu của pháp luật
được đảm bảo bằng nhiều cách trong đó có việc xác lập và thực hiện sự kiểm
soát tính tối cao của các đạo luật. Trong hệ thống pháp luật, các đạo luật phải
chiếm ưu thế. Sự thống trị (ngự trị) của pháp luật đòi hỏi nhà nước phải xuất
phát từ những yêu cầu khách quan của xã hội mà định ra pháp luật và chính
bản thân cũng phải phục tùng pháp luật
Trong nhà nước pháp quyền cần phân biệt luật và pháp luật. Luật chỉ là
hình thức tồn tại của pháp luật và nó sẽ mất đi tính pháp quyển nếu nó không
phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật, những nguyên tắc đó phải
thể hiện được các giá trị cao cả: tự đo, bình đẳng, công bằng, nhân đạo. Nhà


21
nước pháp quyền không thể thông qua bất kỳ đạo luật nào mà chỉ có thể thông
qua những đạo luật phù hợp với tiến bộ xã hội và các giá trị nhân văn chung,
chỉ khi đó, đạo luật mới mang tính pháp quyền. Pháp luật trong nhà nước
pháp quyền cần quy định cơ chế đảm bảo thực hiện nguyên tắc: được làm tất
cả trừ nhũng gì luật cấm - đối với khu vực tư và: chỉ được làm những gì mà
pháp luật cho phép - đối với công quyền. Một hệ thống pháp luật đúng, tốt sẽ
là hệ thống pháp luật nêu được những phương án cho sự lựa chọn các hành xử
phù hợp quy luật, lợi ích cá nhân và trật tự xã hội.
Nhà nước pháp quyền cần được nhận diện từ phương diện tự do và
trách nhiệm - trách nhiệm pháp lý vả trách nhiệm đạo đức. Trong điều kiện

nhà nước pháp quyền, tự do được mở rộng đối với mỗi cá nhân, tự do được
làm tất cả những gì pháp luật không cấm. Trong xã hội hiện đại, tự do càng
rộng thì trách nhiệm càng cao và chặt chẽ. Sự can thiệp sâu; cụ thể của nhà
nước vào hoạt động của xã hội và đời sống cá nhân được hạn chế lại song vai
trò và trách nhiệm xã hội của nhà nước lại càng ngày gia tăng với tư cách là tổ
chức công quyền.
Tính thứ bậc về hiệu lực pháp lý cần được coi trọng trong nhà nước
pháp quyền. Trên thực tế, còn nhiều các quy định của văn bản dưới luật lại
được “vô tư áp dụng mặc dù trái với quy định của văn bản luật”.
Nhận diện nhà nước pháp quyền từ mối quan hệ giữa nhà nước và
pháp luật. Trước đây, do nhiều lý do, nhà nước dường như được xác định là
đứng “trên, cao hơn, ưu thế hơn, trội hơn” so với pháp luật; nhà nước coi
pháp luật chỉ như công cụ cai trị của riêng mình. Tuân thủ pháp luật, bình
đẳng trước pháp luật trong mối quan hệ giữa nhà nước và cá nhân trong nhà
nước pháp quyền đã không còn chỗ đứng cho tư duy chính trị - pháp lý nói
trên. Nhà nước pháp quyền khác nhà nước cực quyền ở việc nhà nước thừa
nhận giá trị xã hội, tính phổ biến bắt buộc chung của pháp luật, sự ngự trị của
pháp luật trong các quan hệ xã hội: chỉ khi nào nhà nước được thiết lập như


22
mt t chc phỏp lý hot ng trờn c s phỏp lut thỡ khi ú t tng nh
nc phỏp quyn mi thc s tr thnh hin thc.
Nh nc phỏp quyn c hiu l s i lp vi nh nc cc quyn,
chuyờn ch, c ti, do vy xõy dng nh nc phỏp quyn khụng th thiu
c quỏ trỡnh dõn ch hoỏ. Dõn ch l mt trong nhng c im ca phỏp
lut trong nh nc phỏp quyn, mt trong nhng yu t c bn nhn
din nh nc phỏp quyn v trỡnh phỏt trin ca xó hi. Trong mi tng
quan gia phỏp lut v dõn ch, phỏp lut xỏc lp nhng khuụn kh cho vic
thc hin dõn ch, bn thõn phỏp lut cng phi phn ỏnh trong mỡnh cỏc giỏ

tr dõn ch. Mt vn bn lut tt l thu hỳt c s tham gia ca nhõn dõn,
m bo cho ngi dõn t giỏc tuõn th phỏp lut, vỡ dõn chỳng tuõn theo lut
phi l ngi lm ra lut.
1.1.2. Hoàn thiện pháp luật về quản lý các trờng đại học, cao đẳng
phải nằm trong chơng trình ci cỏch hnh chớnh Vit Nam
Việc hoàn thiện pháp luật về quản lý các trờng đại học, cao đẳng trong
giai đoạn hiện nay phải gắn liền với công cuộc cải cách hành chính mà Đảng
và Nhà nớc ta đang thực hiện. Căn cứ vào nội dung trong chơng trình cải cách
hành chính quốc gia đang tiến hành, quá trình hoàn thiện pháp luật về quản lý
các trờng đại học, cao đẳng cần tập trung vào các nội dung sau:
- Xây dựng, hoàn thiện và ban hành thể chế quản lý hành chính nhà nớc
đối với các trờng đại học, cao đẳng;
- Kiểm tra toàn diện các cơ quan, tổ chức quản lý hành chính nhà nớc
đối với các trờng đại học, cao đẳng, nhất là đối với nhóm các cơ quan, tổ chức
quản lý vi mô đối với các trờng đại học, cao đẳng;
- Nâng cao nghiệp vụ của cán bộ, công chức, viên chức và những ngời
liên quan đến việc quản lý trực tiếp và gián tiếp các trờng đại học, cao đẳng;
- Quản lý nhà nớc các trờng đại học, cao đẳng qua các ngồn tài chính
của nhà nớc, xã hội và quốc tế...
Trong quá trình hoàn thiện đó cần phải đặt trong s chuyn mỡnh mnh
m ca t nc cựng vi nhng s thay i to ln ca bi cnh quc t t ra


23
những yêu cầu và thách thức mới, đòi hỏi cải cách hành chính trong giai đoạn
tới phải thay đổi hẳn phương hướng và cách thức tiến hành.
- Trước hết đó là sự chuyển đổi mạnh về chất sang nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN. Sự vận hành nền kinh tế theo các quy luật của thị
trường sẽ tác động sâu sắc và đặt ra yêu cầu phải đổi mới mạnh mẽ vai trò,
chức năng của Nhà nước nói chung và của nền hành chính nhà nước nói

riêng, đòi hỏi phải chuyển mạnh từ nền hành chính "cai trị" sang nền hành
chính “phục vụ”, xóa bỏ triệt để cơ chế “xin - cho”, phải khắc phục sự can
thiệp trực tiếp, tuỳ tiện vào các hoạt động của doanh nghiệp, phải tôn trọng và
tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp trong mọi hoạt động kinh tế - xã
hội; Kinh tế thị trường đòi hỏi Nhà nước và nền hành chính phải thúc đẩy sự
phát triển nhanh, bền vững kinh tế đất nước, phải đối xử bình đẳng với các
thành phần kinh tế khác nhau, tạo ra “sân chơi”, “luật chơi” phù hợp với quy
luật của thị trường và thực hiện tốt vai trò của người “trọng tài” khách quan,
công bằng trong việc kiểm tra, kiểm soát việc chấp hành pháp luật, chính sách
của các chủ thể tham gia các hoạt động kinh tế - xã hội.
- Với việc gia nhập tổ chức WTO, hội nhập kinh tế quốc tế của Việt
Nam diễn ra ngày càng mạnh mẽ, sâu sắc và toàn diện. Trong điều kiện kinh
tế mở, có tính toàn cầu, đòi hỏi phải nhanh chóng tạo lập đồng bộ hệ thống
thể chế kinh tế, thể chế hành chính phù hợp với thông lệ chung của thế giới;
phải đổi mới tổ chức bộ máy và nâng cao trình độ, năng lực, trách nhiệm của
cán bộ, công chức để có thể hòa nhập vào cộng đồng quốc tế, cộng đồng khu
vực, trong khi Việt Nam đang ở một khoảng cách khá xa so với thế giới.
- Cùng với quá trình cải cách kinh tế và hội nhập, quá trình dân chủ hóa
đời sống xã hội cũng đã trở thành một xu thế không thể cưỡng lại được. Kết
quả của nó đặt ra những yêu cầu cao hơn về phát huy dân chủ cơ sở, đòi hỏi
thu hút mạnh mẽ sự tham gia của người dân vào quản lý nhà nước, đòi hỏi
phải đảm bảo tính công khai, minh bạch trong thể chế, chính sách, thủ tục


24
hành chính cũng như trong thực thi công vụ, đòi hỏi các cơ quan Nhà nước và
các công chức trong bộ máy hành chính phải thích ứng cả về nội dung lẫn
phương thức hoạt động.
- Sự phát triển nhanh của tiến bộ khoa học, công nghệ, đặt ra yêu cầu
cao về hiện đại hóa nền hành chính quốc gia. Yêu cầu về xây dựng Chính phủ

điện tử, hiện đại hóa nền hành chính, nâng cao trình độ của đội ngũ công chức
hành chính đang tác động mạnh mẽ đến mọi cấp. Trong khi đó ảnh hưởng của
cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp trước đây, sức ỳ của nền hành
chính cũ đang in đậm trong nếp nghĩ, cách làm của đội công chức trong bộ
máy và đang là trở ngại, thách thức lớn đối với công cuộc cải cách hành chính
nhà nước hiện nay. Nếu không có một quyết tâm cao, cũng như các giải pháp
mạnh, có tính cách mạng thì sẽ dẫn đến tình trạng “bình mới rượu cũ” trong
nội dung và phương thức hoạt động của bộ máy hành chính.
- Sự lúng túng, chưa đủ rõ về mặt lý luận đối với những vấn đề rất cơ
bản, rất hệ trọng trong đường lối, chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN, trong xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do
dân và vì dân, trong phát triển khu vực xã hội dân sự cũng là những thách
thức đáng kể đối với việc hoạch định các chủ trương, phương hướng tổng thể
cho công cuộc cải cách hành chính nhà nước ở nước ta hiện nay.
Trong thời gian tới, phương hướng thực hiện cải cách hành chính
nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam trong giai đoạn mới
Để phù hợp với bối cảnh và tình hình mới, quán triệt những thách thức
và khắc phục những hạn chế như đã phân tích ở trên, cải cách hành chính tại
Việt Nam cần thực hiện tốt những vấn đề sau đây:
- Về cải cách hệ thống thể chế: Cần tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ
thống thể chế, trong đó chủ yếu là thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa và thể chế về tổ chức, hoạt động của nền hành chính Nhà nước.
Những công việc chủ yếu phải làm là loại bỏ, sửa đổi hoặc bổ sung những thể


25
chế lạc hậu, bất cập, đồng thời thiết lập các thể chế còn thiếu để điều chỉnh
các quan hệ kinh tế- xã hội mới phát sinh theo tiến trình phát triển của nền
kinh tế thị trường và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Để đáp ứng tốt các
yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế, phải tiến tới xây dựng một hệ thống

pháp luật đầy đủ, hoàn chỉnh, đồng bộ, thống nhất, minh bạch, dễ đoán trước
và phù hợp với luật lệ quốc tế. Trước mắt cần xây dựng và ban hành các văn
bản pháp luật mới như Luật Giáo dục đại học, Luật Giáo viên; sửa đổi, bổ
sung Luật Ngân sách Nhà nước, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Lao động… Bên
cạnh việc hoàn thiện về số lượng và nội dung của hệ thống thể chế, cần tăng
cường dân chủ, công khai, minh bạch trong việc soạn thảo, ban hành và thực
thi nhằm nâng cao hiệu quả và hiệu lực của thể chế. Quá trình xây dựng và
thực thi thể chế cần có sự tham gia sâu rộng và giám sát thoả đáng của các
chủ thể hữu quan, đặc biệt là của người dân và doanh nghiệp.
Một mặt rất quan trọng của cải cách thể chế là cải cách thủ tục hành
chính, hợp lý hóa trình tự giải quyết công việc trong quan hệ giữa các cơ quan
công quyền với xã hội dân sự, với công dân, với doanh nghiệp. Khắc phục
những hạn chế trước đây, cải cách thủ tục hành chính trong giai đoạn tới phải
được thực hiện song hành với những mặt khác của cải cách hành chính như
đẩy mạnh phân cấp, xã hội hoá các dịch vụ công, cải cách tiền lương, ứng
dụng công nghệ điện tử và viễn thông… Mục tiêu cơ bản của cải cách là đơn
giản hoá các thủ tục, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp cũng như cho
cơ quan nhà nước trong giải quyết công việc.
- Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước: Hiện nay,
hệ thống tổ chức lãnh đạo của Đảng và tổ chức quản lý của Nhà nước được
hình thành song song, kể cả cấp ra quyết định Trung ương và các cấp địa
phương. Gần như bên Nhà nước có bộ phận nào thì bên Đảng cũng có bộ
phận tương ứng. Việc phân công, phân cấp giữa lãnh đạo và quản lý chưa
được thể chế hóa bằng các văn bản có giá trị pháp lý cao, việc xác định trách


×