Tải bản đầy đủ (.pdf) (41 trang)

Nhận thức của phụ nữ bán hàng rong về trách nhiệm và quyền lợi của mình khi lên Hà Nội kiếm sống

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (343.89 KB, 41 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA TÂM LÝ HỌC

***
Họ và tên người nghiên cứu khoa học

Trần Thị Ngọc Lan

Tên đề tài :

Nhận thức của phụ nữ bán hàng rong về trách
nhiệm và quyền lợi của mình khi lên Hà Nội kiếm sống

Ngành tâm lý học

Đề tài nghiên cứu khoa học
Người hướng dẫn : PTS Trần Thị Minh Đức

Hà Nội _ 2005


2

Lời cảm ơn
Đề cương nghiên cứu khoa học “Nhận thức của phụ nữ bán hàng

rong về trách nhiệm và quyền lợi của mình khi lên hà Nội kiếm
sống” được hoàn thành với sự giúp đỡ nhiệt tình và trách nhiệm của cô giáo
hướng dẫn PTS. Trần Thị Minh Đức và các anh chị trong trung tâm nghiên
cứu phụ nữ


Em xin chân thành cảm ơn cô giáo hướng dẫn PTS. Trần Thị Minh
Đức và các anh chị trong trung tâm nghiên cứu phụ nữ.

2


3

Mục lục
Phần I : Những vấn đề chung.

Trang

I/ Sơ qua lịch sử nghiên cứu vấn đề
II/ Lý do chọn đề tài
III/mục đích nghiên cứu
IV/ Nội dung nghiên cứu
V/Đối tượng nghiên cứu
VI/Phương pháp nghiên cứu
VII/Địa bàn nghiên cứu
VIII/Giả thiết nghiên cứu

1

Phần II: Cơ sở lý luận và nghiên cứu thực tiễn của đề tài
I/ Cơ sở lý luận cử đề tài
1.Phụ nữ bán hàng rong
2.Trách nhiệm của phụ nữ bán hàng rong
3.Quyền lợi của phụ nữ bán hàng rong
4.Khái niệm nhận thức trong tâm lý học.


Phần III: Điều tra và phân tích kết quả của điều tra
I/Điều tra:
1.Cơ cấu mẫu điều tra
2.Tổ chức điều tra và nội dung điều tra
II/Phân tích kết quả điều tra
1.Thực trạng phụ nữ nông thôn bán hàng rong ở Hà Nội
2.Nhận thức của phụ nữ ngoại tỉnh về trách nhiệm
3. Nhận thức của phụ nữ ngoại tỉnh về quyền lợi.

Phần IV : Kết luận và kiến nghị
I/ Kết luận
II/Kiến nghị
Phần V: Phụ lục
I/Tài liệu tham khỏa
II/Phiếu điều tra
III/Giải thích số liệu và bảng số liệu.

3


4

Phần thứ nhất
Những vấn đề chung
I/Sơ qua lịch sử vấn đề nghiên cứu:
Đã từ lâu vấn đề di dân được nhiều nhà khoa học nghiên cứu. Nó
được mô tả như một phần không thể thiếu của quá trình nghiên cứu. Herry
Reempen (1996) đã cho rằng : di dân nông thôn đến thành thị là nguồn nhân
lực chủ yếu cung cấp cho khu vực kinh tế chính thức. Ronald Skedon (1997)

nhận định rằng : di dân nông thôn thành thị là yếu tố thực sự có thể giúp
giame tỉ lệ nghèo đói ở nông thôn. Đặc biệt gần đây ông cho rằng : xu hướng
di dân chây á _ Thái bình dương là sự gia tăng dân số ở tất cả loại hình chủ
yếu (bao gồm di dân trong nước và di dân quốc tế ), ông cho rằng nguyên
nhân đằng sau xu thế này là quá trình toàn cầu hóa. Lim Oishi Nana (1996)
chỉ ra rằng di dân quốc tế đang có xu hướng phụ nữ hóa, đặc biệt là ở các
nước châu á. Hơn thế nữa phụ nữ đang phải đối mặt với luật lệ và các cản trỏ
xã hội, phân biệt giới và bóc lột ở cả những nước tiếp nhận và gửi đi.
Thực tế là như vậy, khi xem xét các nghiên cứu về di dân thì dường
như phụ nữ chưa được đề cập đến một cách đầy đử , có 3 lý do cơ bản sau:
thứ nhất : số liệu thống kê về di dân ở những cấp hành chính nhỏ như làng
xã , thôn hoặc tổ phường phản ánh về tình trạng di dân ở thành thị lại rất ít
hoặc ít khi đựoc thống kê. Thứ 2 ; Các nhà nghiên cứu chỉ tập trung vào đối
tượng di dân lâu dài hơn là đối tượng di dân tạm thời mà phụ nữ tham gia
chủ yếu. Thứ 3 : đối tượng di dân phụ nữ thường được miêu tả trong các
nghiên cứu “di dân đồng hành” ( UN Serctial và Bilsbrrrow,1993 và
Moraskovic,1984) hơn là một thể di dân độc lập.
Vấn đề đặt ra là nghiên cứu di dân có những mối liên hệ nào với phụ
nữ và tại sao phải nghiên cứu di dân nữ một cách độc lập? Đề tài phụ nữ
ngoại tỉnh bán hàng rong là một đề tài rộng lớn và cong nhiều mới mẻ, trong
phạm vi nhỏ bé của cuộc nghiên cứu này tôi chỉ đề cập đến một khía cạnh

4


5

nhỏ đó là “Nhận thức của phụ nữ bán hàng rong về trách nhiệm và
quyền lợi của mình khi lên hà Nội kiếm sống”


2. Lý do chọn đề tài :
Tình trạng phụ nữ ngoại tỉnh lang thang bán hàng rong là một hiện
tượng tất yếu của quá trình công nghiệp hóa _ hiện đại hóa _ hiện đậi hóa
hiện nay ở nước ta nói riêng và những nước đang phát triển nói chung. Đây
cũng được xem là một nỗi lo ngại của công tác quản lý đô thị. Nó nảy sinh
trước tình trạng thiếu lao động giản đơn ở thành phố , dư thừa lao động ở
nông thôn. Đặc biệt là mức thu nhập bình quân giưũa thành thị và nông
thôn.Và vì vậy thnhf thị trở thành điểm hấp dẫ cho những lao động dư thừa
ở nông thôn, đặc biệt là đối với phụ nữ nông thôn_ những người luôn sẵn
tính chịu thương, chịu khó,nhẫn nại.Mặt khác, cuộc sống của người di dân
,quan hệ xã hội, khả năng thích ứng và hòa nhập của họ tại các thành phố
lớn cũng là một vấn đè cần được quan tâm. Đặc biệt, phụ nữ được xem là
nhóm xã hội dễ bị tổn thương trong xã hội đô thị. Họ đang thm gia vào các
công việc khác nhau trong các khu vực kinh tế dân doanh và kinh tế nhà
nước. Công việc của họ đang góp phần sản xuất ra của cải vật chất cho xã
hộivà cung cấp một số dụng cụ cho cư dan đô thị. tuy hiên, viẹc nhận thức
về trách nhiệmvà quyền lợi đối với thị trường bán rong còn nhiều bất cập
cần được nghiên cứu , tìm hiểu.
Trên thực tế theo ước tính của các cơ quan quản lý đô thị hiện nay có
khoảng 3 triệu người nhập cư trái phép vào Hà Nội . Đây chỉ là con số khỏa
sát được ở 24 cụm thuộc 13 phường có nhiều người nhập cư nhất , thì sai số
giữa con số thực tế đếm được và con số báo cáo là khoảng 20_30% .Như
vậy ,số người lao động ngoại tỉnh tập trung ở Hà Nội ứoc tính tối thiểu lên
tới 4 triệu người. Cũng theo các số liệu trên ,số dân các ỉnh miền bắc di
chuyển vào nội thành tìm việc hàng năm lên tới từ 1.6 _2.5 vạn người .
Với thị trường lao động hỗn tạp đủ mọi nghề ,mọi thành phần ,chúng
tôi chỉ tập chung nghiên cứu những phụ nữ di cư theo thời vụ –lang thang
bán hàng rong trên các thành phố ,bởi một số lý do sau:
Xét từ khía cạnh xã hội:


5


6

Việc một tỷ lệ lớn những người phụ nữ nông thôn với trình độ văn
hóa trung bình cấp I , cấp II ,nghề không có nên phải liên tục di chuyển vào
Hà Nội kiếm sống với một số nghề nhất định (chủ yếu là buôn bán hoa quả,
đò ăn chín, hàng xén , đồng nát ..) đã góp phần làm đa dạng hóa các loại
hình lao động phổ thông làm hình thành “dịch vụ xã hội tại nhà ”. Quá trình
chuyển dịch cơ cấu lao động làm hình thành một nhóm xã hội mới _ nhóm
phụ nữ bán rong. Đây là một hiện tượng xã hội cần được nghiên cứu.
Từ góc độ khoa học Tâm lý:
Cần có những nghiên cứu toàn diện về góc độ nhận thức của nhóm
phụ nữ bán hàng rong , để chỉ ra được những biến đổi trong nhận thức, sự
nhìn nhận , đánh giá của chính họ về những quyền lợi và trách nhiệm của
bản thân khi tham gia vào thị trường bán rong.
Trên bình diện khoa học về giới :
Nghiên cứu nhận thức của chị em phụ nữ quyền lợi và trách nhiệm sẽ
góp phần làm sáng tỏ những suy tư, trăn trở của người phụ nữ trong điều
kiện, hoàn cảnh phải xa gia đình kiếm sống, đòng thời thấy được sự phân
hóa các vai trò giới ở nhóm phụ nữ bán hàng rong. Trên cơ sở này các nhà
soạn thảo chính sách xã hội sẽ đưa ra được những chính sách giúp đỡ “nhóm
xã hội dễ bị tổn thương trong đó có nhóm phụ nữ nông thôn bán hàng rong
trên các đường phố ..”
Từ góc độ gia đình :
Việc nghiên cứu nhận thức về trách nhiệm của những người vợ ,
người mẹ vì điều kiện kinh tế gia đình khó khăn, phải đi làm ăn xa là cần
thiết. Họ nghĩ gì? nói gì ? về việc thiếu vắng “người chủ gia đình ” đã gây
nên sự “lệch chuẩn” trong vấn đề giáo dục con cái và tổ chức gia đình .Đây

là một trong những hiện tượng ly tán gia đình. Cần phải thấy rõ thái độ ,
nhận thức của chính những chủ nhân vì hoàn cảnh bắt buộc đã gây nên tình
trạng này
Xét từ khía cạnh luật pháp:
Công việc bán hàng rong trên đưòng phố của chị em phụ nữ nông
thôn đã gây khó khăn cho công tác an toàn giao thông, an ninh đưòng phố.
6


7

mặt khác chính quyền địa phương, công an khu vực (nơi có những phụ nữ
bán rong ở trọ) gần như không thể kiểm sót và đảm bảo đuợc an ninh do sự
lưu chuyển tự do, thường xuyên của họ. Ngoài ra các tệ nạn xã hội xuất hiện
, phát triển từ chính nhóm lao động tự do này. Vì vậy vấn đề kiểm soát và
bảo vệ phụ nữ nông thôn lang thang kiếm sống ở các đô thị lớn đang được
đặt ra một cách cấp thiết . Tuy nhiên để có thể đề ra những chính sách , biện
pháp hỗ trợ, bảo vệ chính đáng thì phải dựa trên những căn cứ quan trọng đó
là có những hiểu biết sâu sát đời sống tình cảm cũng như nhận thức của
chính những người phụ nữ này về trách nhiệm và quyền lợi .
Xuất phát từ những lý do chính trên , tôi chọn đề tài : “Nhận thức

của phụ nữ bán hàng rong về trách nhiệm và quyền lợi của mình
khi lên hà Nội kiếm sống”.
3. mục đích nghiên cứu :
Khái quát những vấn đề lý luận , làm sáng tỏ một số khái niệm trong
phạm vi nghiên cứu của đề tài : nhận thức . Nghiên cứu phụ nữ ngoại tỉnh
lang thang bán hàng rong trên các đường phố Hà nội nhằm tìm hiểu nhận
thức và thái độ của phụ nữ bán hàng rong đối với thị tường bán rong trong
thời ký công nghiệp hóa _ hiên đại hóa đất nước . trên cơ sở đó , đề xuất một

số kiến cho các cơ quan chức năng có thể đưa ra những giải pháp quản lý và
giúp đỡ có hệu quả cho họ.
4.Nội dung nghiên cứu ;
4.1 Một số khái niệm cơ bản như : nhận thức , trách nhiệm, quyền lợi.
4.2 Tìm hiểu đôi nét về thực trạng cuộc sống của phụ nữ nông
thônbán hàng rong trên các đô thị : họ là ai, quê quán, trình độ học vấn , tuổi
, tình trạng gia đình, số con,
4.3 Nhận thức của phụ nữ bán hàng rong về trách nhiệm và

quyền lợi của mình khi lên hà Nội kiếm sống.
5.Đối tượng , khách thể nghiên cứu:
5.1Đối tượng nghiên cứu:

7


8

Nhận thức của phụ nữ bán rong về trách nhiệm và quyền lợi của
bản thân.
5. 2.Khách thể nghiên cứu
Những người phụ nữ ngoại tỉnh lang thang bán hàng rong
trên các đường phố Hà Nội.
6. Phương pháp nghiên cứu:
6.1. Phưong pháp nghiên cứu tài liệu:
thu thập tài liệu qua sách báo, các công trình nghiên cứu
trong và ngoài nước có liên quan đến đề tài, nhằm tìm hiểu klịch
sử của vấn đề nghiên cứ và cơ sở lý luận của đề tài.
6.2Phương pháp điều tra bằng anket:
Đây là phương pháp cơ bản nhằm tìm hiểu nhận thức, thái độ

cũng như thực trạng của những người phụ nữ ngoại tỉnh lang thang
trên các đường phố hà Nội.
6.3Phương pháp xử lý thống kê :
Các số liệu điều tra được xử lý theo chuơng trình SPSS _
11.5
7.Địa bàn nghiên cứu:
Nghiên cứu 100 phụ nữ nông thôn bán hàng rong ở Hà Nội.
Đề tài này chỉ dừng lại ở mức độ tìm hiểu hiện trạng cuộc sống của
người phụ nữ ngoại tỉnh nhằm đi sâu hơn vào nhận thức của họ về
trách nhiệm và quyền lợi
8. Giả thuyết nghiên cứu :
Trong cơ chế thị trường và thời điểm đô thị hóa đã nảy sinh nhóm phụ
nữ bán hàng rong. Do trình độ học vấn thấp, hoàn cảnh kinh tế và các quan
niệm thủ cựu từ thời phong kiến để lại nên nhận thức của phụ nữ bán

8


9

hàng rong về trách nhiệm và quyền lợi của mình khi lên hà Nội
kiếm sống còn nhiều hạn chế, tự ti, phiến diện. Họ hầu như không
dám nói lên tiếng nói của mình để đời hỏi những quyền lợi chính
đáng. Mặt khác, với tâm lý sản xuất nhỏ, lối sống tùy tiện của
người nông dân nên trong kinh doanh họ chỉ nhằm mục đích tìm
kiếm lợi nhuận trước mắt mà bỏ qua lợi nhuận lâu dài,do hạn chế
về mặt nhận thức nên họ chưa có trách nhiệm đúng đắn trong nghề
bán hàng nói riêng và trong kinh doanh nói chung cũng như trong
ý thức bảo vệ cộng đồng.


Phần thứ hai
Cơ sở lý luận và nghiên cứu thực tiễn của đề tài
I/ Cơ sở Lý luận :
1) Phụ nữ bán hàng rong:
Nghề là công việc chuyên môn theo sở trường hoặc theo sự phân công
xã hội. Nghề nghiệp là nghề nói chung,kế sinh nhai
(trích từ điển tiếng việt thông dụng _NXB GD)
Như vậy nghề nghiệp là danh từ chỉ chungcác hình thức lao động
trong xã hội theo sự phân công lao động mà con người sử dụng sức lao động
của mình để tạo ra sản phẩm vật chất và sản phẩm tinh thần cho các cá nhân
và xã hội. Còn thông qua việc hành nghề để duy trì và phát triển cuộc sống
cá nhân, gia đình đồng thời góp phần tạo sự phát triển cho xã hội.
Mỗi công việc đòi hỏi năng lực, kỹ năng , kỹ xảo ,trình độ chuyên
môn khác nhau :
+ Mức độ 1: Là những công việc đòi hỏi trình độ chuyên môn cao , họ
phải hoàn thành những chương trình đào tạo căn bản , chuyên sâu ,có hệ
thống của một nghành nghề cụ thể như : bác sĩ , kỹ sư ,nhà khoa học ..vv
9


10

+ Mức độ 2: Đòi hỏi kỹ năng năng, kỹ xảo tay nghề cao như thợ mộc,
thợ rèn ,thợ may, thợ cắt tóc ...vv
+ Mức độ 3 :Là những nghề đòi hỏi rất ít hoặc gần như không có năng
lực kỹ năng, kỹ xảo hay trình độ chuyên môn. đó là những nghề như : buôn
bán . Trong buôn bán cũng phân ra nhiều cấp bậc, tùy vào số lượng vốn ,nặt
hàng và số năm trong nghề sẽ đòi hỏi những kỹ năng bán hàng tương ứng.
Như vậy bán hàng rong cũng được xem là một nghề ,đó là nghề buôn
bán. Nhưng với đồng vốn ít ỏi, mặt hàng nhỏ bé , bán theo thời vụ nên được

xếp vào công việc đòi hỏi chuyên môn và đào tạo rất thấp, do đó để gia nhập
vào nghề này là một điều hết sức dễ dàng. Họ không cần gì nhiều chỉ cần
“một chiếc đòn gánh, một đôi vai khỏe mạnh, cặp chân dẻo dai, đặc biệt nhu
cầu kiếm tiền bức thiết là đủ ”

Mặt khác , trong những năm gần đây,ở nước ta , dưới tác động của cơ
chế đổi mới, nền kinh tế nhiều thành phần phát triển đã tạo điều kiện cho
nhiều ngành nghề mới hình thành , mở ra cho dân lao động nhiều cơ hội di
chuyển,lập nghiệp và tìm kiếm việc làm. Như đã đề cập , hiện tượng người
lao động di cư từ nông thôn ra thành thị , từ vùng kinh tế kém phát triển đến
phát triển đã trở thành quen thuộc và phổ biến ở nước ta.
Hiện tượng người phụ nữ nông thôn phải rời bỏ gia đình để đi làm ăn
xa không còn là điều mới lạ. họ đã có mặt ở nhiều nghành nghề của thành
phố và như một tất yếu, công việc duy nhất ohù hợp với họ là nghề bán hàng
rong.
Như đã đề cập ,đây là một nghề không có nhiều những đòi hỏi cao về
mặt chuyên môn và nghiệp vụ. Ngược lại nó chỉ cần một đôi vai khỏe , cặp
chân tốt và nhu cầu kiếm tiền bức thiết . Những điều đó thì người phụ nữ
nông thôn Việt nam không bao giờ thiếu. Nếu việc họ hành nghề này là một
tất yếu.
Việc những người phụ nữ này gia nhập vào nền kinh tế thị trường một
cách tất yếu và ngẫu nhiên vô hình chung đã ít nhiều làm thay đổi bức tranh
đô thị trong thời kỳ mới _ thời kỳ mở của, đặc biệt là thủ đô Hà Nội. Nếu
như trước đây khi phác họa một góc phố nhỏ của chốn hà thành đô hội ,
người họa sĩư không quên vẽ những quán cốc nhỏ lẻ ở bên đường . Thì nay,
10


11


người ta lại phải phác họa thêm vào đó chân dung người phụ nới đòn gánh
trên vai ,hoặc chiếc xe thồ lỉnh kỉnh hàng hóa . Đó là những người phụ nữ
ngoại tỉnh lang thang bán hàng rong trên các đường phố Hà Nội.
Họ đã có những đóng góp gì cho sự phát triển kinh tế _ xã hội _ cộng
đồng gia đình ?
Ban quản lý môi trường và đô thị nhìn nhận như thế nào về họ?
Điều quan trọng là chính bản thân những người phụ nữ bán hàng rong
này nhận thức như thế nào về trách nhiệm và quyền lợi của họ khi lang
thang bán hàng rong trên cá đường phố Hà Nội.
Cần phải có những nghiên cứu sâu hơn về vấn đề này để bổ sung cho
những giải pháp, chính sách hỗ trợ nhóm xã hội “dễ bị tổn thương này ”

2. Trách nhiệm của phụ nữ bán hàng rong :
Trách nhiệm là những điều phải làm, phải gánh vác hoặc nhận lấy về
mình. Là ý thức đầy đủ phận sự của mình. Đó là sự bắt buộc về đạo lý hoặc
trí tuệ. (trích từ điển tiếng việt _ NXB khoa học xã hội )
Trong xã hội, những yêu cầu về trách nhiệm là một tất yếu. Nó góp
phần đảm bảo an ninh , trật tự xã hội. Trách nhiệm được hiểu rộng ra là các
quy tắc, chuẩn mực đạo đức xã hội mang tính bătý buộc. Nó được nhà nước
ban hàng trên cơ sở xây dụng những văn bản pháp luật. Mặt khác , trách
nhiệm nhìn từ góc độ là các quy tắc chẩn mực xã hội, nó còn mang tính tự
nghuyện , tự giác . Nó là ý thức của mỗi người về bản thân, gia đình , cộng
đồng và xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường , những yêu cầu , quy định về trách
nhiệm của các thành phần kinh tế tham gia hết sức quan trọng. Nó nhằm góp
phần đảm bảo quyền lợi cho người tiêu dùng đồng thời nâng cao uy tín cho
nhà sản xuất kinh doanh.

11



12

Buôn bán là một nghề đòi hỏi tinh thần trách nhiệm cao của người bán
hàng nói riêng và người sản xuất hàng hóa nói chung.
Đối với công việc bán hàng rong _ một công việc đã được xem là một
nghề và là một nhề khá phổ biến trong xã hội hiện nay. Nhưng cho đến bây
giờ vẫn chưa có những văn bản chính thức quy định những trách nhiệm cụ
thể cho những người tham gia vào nghề này .
Mặt khác, Việt Nam vốn dĩ là một nước nông nghiệp nghèo nàn , lạc
hậu mang đậm căn tính tiểu nông từ bao đời nay. nên việc đi lên xây dựng
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần còn gặp nhiều khó khăn do những
ảnh hưởng từ phía tâm lý người sản xuất, người tiêu dùng
Chúng ta bị chi phối bởi tâm lý sản xuất nhỏ _một sản phẩm còn rơi
rớt từ thời phong kiến của hệ tư tưởng nho giáo. Nó kìm hãm sự nghiệp của
công cuộc công nghiệp hóa_ hiện đại hóa đến sự phát triển kinh tế xã hội ở
nước ta.

Một trong những biểu hiện của tâm lý sản xuất nhỏ là nhận thức về
trách nhiệm và lối suy nghĩ về trách nhiệm trong sản xuất và kinh doanh còn
giản đơn ,đại khái , phiến diện thiếu hệ thống, thiếu tính lôgích . Chính vì
vậy chúng ta thường gặp khó khăn trong việc xây dựng thương hiệu, nâng
cao uy tín. Điều nay đã kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế thị trường ,
giảm sức cạnh tranh của kinh tế nước ta trên trường quốc tế.
Trong khi đó chúngta biết rằng để phát triển một nền kinh tế thị
trường sôi động ,có sức cạnh tranh cao thì phải luôn luôn nâng cao uy tín ,
xây dựng thương hiệu. Một trong những điều kiện để tạo dựng uy tín làcó ý
thức trách nhiệm.
Trong các cơ sở kinh tế , doanh nghiệp vấn đề nhận thức về trách
nhiệm còn nhiều hạn chế . Như vậy , liệu những người phụ nữ bán hàng

rong khi tham gia vào thị trường lao động buôn bán , kiếm sống nhỏ lể ở các
đô thị như bây giờ sẽ nhận thức như thé nào về trách nhiệm của họ.

12


13

Những người phụ nữ bán hàng rong nằm trong khu vực kinh tế phi
kết cấu (phi chính thức ) là những cá nhân kinh doanh lặt vặt, không đăng
ký chính thức nên vấn đề nhận thức về trách nhiệm đối với họ càng mong
manh. Hầu như chưa có một văn bản chính thức nào quy định trách nhiệm
của họ đối với mặt hàng mà họ buôn bán . Do cơ chế quản lý lỏng lẻo hay do
tính chất hình thức buôn bán của họ quy định ?. Phải chăng vấn đề trách
nhiệm chỉ dừng lại ở ý thức tự giác, ý thức đạo đức của họ mà thôi.
Trách nhiệm đặt ra cho những người phụ nữ ngoại tỉnh lang thang
bán hàng rong trên các đường phố Hà Nội không chỉ dừng lại ở trách nhiệm
đối với người tiêu dùng (trách nhiệm đối với chất lượng hàng hóa , nhãn
mác ) mà ở một phương diện rộng hơn ,đề tài này sẽ bàn đến là nhận thức về
trách nhiệm của phụ nữ ngoại tỉnh lang thang bán hàng rong đối với bản
thân, gia đình , xã hội cộng đồng và mỹ quan đô thị....vv

3. Quyền lợi :
Quyền là cái mà pháp luật, xã hội , phong tục hay lẽ phải cho phép
hưởng thụ , vận động thi hành ..vv và khi khi thiếu có thể yêu cầu để được
có , nếu bị tước đoạt có thể đồi hỏi hoặc giành lại. Nó còn là sức mạnh để
vận dụng khi thực hiện chức năng trong một lĩnh vực nhất định.
Quyền lợi là quền được hưởng nhứng lợi ích về mặt vật chất, tinh thần
chính trị xã hội mà người khác không được xâm phạm đến.
(từ điển tiếng việt thông dụng _ NXB GD)

Quyền phụ nữ : Vấn đề nữ quyền đựoc đặt ra từ lâu trong các xã hội
mà các điều kiện trọng nam , kinh nữ được xác lập từ lâu đời . Đến thế kỷ
XX các yêu sách về quyền người phụ nữ được phát triển mạnh mẽ . Nhưng

13


14

chỉ đến thế kỷ XXI với những biến đổi về kinh tế _ xã hội và tư tưởng đảm
bảo cho phong trào nữ quyền được xác lập.
+ Loại yêu sách đầu tiên mà phụ nữ đạt được là tranh thue được bình
đẳng về quyền lợi.
+Loại yêu sách thứ hai : bình đẳng về nghề nghiệp. Những biến đổi về
kinh tế , đặc biệt là dịch vụ và các kết quả về kinh tế , văn hóa, tư tưởng đã
tạo điều kiện cho một số bước tiến như :
+ thi hành nguyên tắc nam nữ bình đẳng đối với việc làm và nhận phụ
nữ vào làm những việc có truyền thống không sử dụng lao động nữ.
+ áp dụng nguyên tắc lao động ngang nhau , tiền lương ngang nhau.
Tuy nhiên , trong thực tế vẫn chưa có sự bình đẳng thực sự giữa nam
nữ . dẫu đã có những cải tạo về cơ cấu trong hệ thống sản xuất ở các thành
thị và nông thôn. Nhưng sự phân công lao động vẫn thể hiện rõ sự phục tùng
của phụ nữ trong sản xuất. Đó là những việc thuộc về nam và nữnhưng phụ
nữ vẫn phải nhận những việc mà nam giới không làm.

Ngay cả trong lĩnh vực tạo ra những công việc hoàn toàn mới thì vẫn
có những dạng công việc nới của phụ nữ. Tình thình này thể hiện rõ ở các
quá trình quan hệ tư bản .
Phụ nữ là lao động rẻ nhất, phù hợp với những công việc đơn điệu , tẻ
nhạt với tiền công lao động thấp hơn do vị trí thấp trên thị trường lao động.

Beri Sunnơ đưa ra khái niệm “xã hội hậu dịch vự” _ là một xã hội hoàn
toàn khác với xã hội trước . Nó là một thời đại “đứt quảng” , “đánh dấu thời
công nghiệp kết thúc” các nước phát triển bây giờ đang ở thời đại “hậu công
nghiệp”. Và giai đoạn này rất ngắn. Sau đó sẽ chuyển sang một bước tiến
mới đó là “xã hội hậu dịch vụ” .Trong xã hội này khuynh hướng lao động sẽ
chuyển từ lao động sản xuất sang lao động dịch vụ ,máy móc sẽ thay thế cho

14


15

con người nhiều mặt, công nghiệp mới phát triển dẫn đến đổi mới trong xã
hội. Sunnơ đã phân loại 5 nghành nghề như sau :
1 ) Tìm kiếm và khai thác thiên nhiên
2) chế tạo và kiến trúc
3) Dịch vự kỹ thuật hữu hình
4) Xử lý thông tin
5) Dịch vụ hoặc sản xuất tại gia đình và nhóm gia đình
“ xã hội hậu dịch vụ ”sẽ phân phối lại lao động ,áp dụng chuẩn mực một
đời làm việc là 35 năm chú không phải 50 năm như bây giừo. Để thích
ứngvới hiện thực xã hội đó công nghệ kỹ thuật sẽ thay thế cho lao đọng tưng
len. Do đó , giá trị kinh tế và giá trị xã hội của lao động nội trợ được coi
trọng. . Sunnơ xếp lao động này vào nghành nghề thứ 5 và vai trò của phụ
nữ trong nghành nghề này đứng vai trò quan trọng.
Như vậy trong khái niệm “xã hội hậu dịch vụ ” của Sunnơ đã một lần
nữa khẳng định vai trò hết sức quan trọng của phụ nữ trong thời đại mới. Họ
là lực lượng tham gia chủ yếu trong “xã hội hậu dịch vụ” Sunnơ đã một lần
nữa khẳng định vai trò quan trọng của người phụ nữ trong “xã hội hậu dịch
vụ ” đặc biệt trong nghành nghề thứ 5 “dịch vụ sản xuất gia đình và nhóm

gia đình”
Có thể xem nghề bán hàng rong của những người phụ nữ ngoại tỉnh lên
thành phố là một bộ phận của nghành nghề thứ 5 này. sự tiện lợi hứu ích của
loại hình này ngàycàng được nhiều người dân thành thị đánh giá cao. Nhờ có
những người bán hàng rong mà người dân có thể mua hàng theo nhu cầu
ngay cả ở nhà , ciơ quan hay bất cứ nơi nào “tiện ghé chân ”. Vì vậy, công
cuộc kiếm sống của người dân bán hàng rong ngày càng trở nên gay gắt.
Đồng thời nó sẽ góp phần nâng cao vài trò và quyền lợi của người phụ nữ
trong nền kinh tế thị trường nói chung và ngay trong chính gia đình của họ
nói riêng.
Xem xét khía cạnh giới về vấn đề lao động nữ với những người bán
hàng rong ,ta thấy do kiếm được tiền đem về chi tiêu trong gia đình nên họ
15


16

không còn đơn thuần là người nội trợ nữa, họ là lực lượng lao động chính .
Họ đã có quyền tham gia thảo luận cùng chồng mua sắm cái này , cái kia. Có
“quyền” tổ chức sản xuất , bố trí công việc đến mua sắm vật tư, nông cụ
phục vụ sản xuất và cả phương hướng giáo dụccon cái trong gia đình. Thay
cho tiếng nói tuyệt đối trong gia đình như trước đây, bây giờ là quyết định
chung của cả hai người trong công việc.
Xem xét từ khía cạnh xã hội : người lao động nữ khi tham gia vào thị
trường bán rong họ cần được hưởng những chính sách hỗ trợ nào từ phía nhà
nước . Nhà nước cần có những can thiệp chính đáng nào nhằm đảm bảo
quyền lợi cho họ _ một bộ phận không nhỏ trong xã hội _ nhóm xã hội dễ bị
tổn thương.

Điều quan trọng hơn cả mà đề tài này muốn đề cập đến là những

người phụ nữ ngoại tỉnh nhận thức như thế nào về quyền lợi của họ. Khi ra
Hà Nội kiếm sống , ngoài nhu cầu kiếm tiền họ có bao giờ tự ý thức được
rằng mình cũng có những quyền lợi chính đáng cần được pháp luật và nhà
nước bảo vệ hay không ?.Những người phụ nữ này có bao giờ đấu tranh đòi
hỏi quyền lợi cho bản thân hay không ?Và việc họ lang thang bán hàng rong
luôn bị công an đuổi là đúng hay sai? trong phạm vi nghiên cứu của đề tài
này chúng tôi muốn tìm hiểu xem nhận thức về quyền lợi của mình ở mức
độ nào ? họ có kiến nghị gì cho bản thân?

4. Khái niệm nhận thức trong tâm lý học:
Nhận thức là quá trình hoặc kết quả phản ánh tái hiện hiện thực vào
trong tư duy.
(Trích từ điển tiếng việt thông dụng _ NXBGD)
Nhận thức là một trong ba mặt cơ bản của đời sống tâm lý con người
( nhận thức, tình cảm , hành động). Nó có quan hệ chặt chẽ với các mặt kia.
Nhận thức là một quá trình , ở con người quá trình này thường gắn với một
mục đích nhất định nên nhận thức của con người là một hoặt động đặc trưng
nổi bật nhất của hoạt động nhận thức phản ánh hiện thực khách quan.
16


17

Nhận thức là một trong những nhu cầu của phụ nữ bán hàng rong .
Nhu cầu nhận thức được thực tại khách quan , giúp con người thoát khỏi sự
chi phối bên ngoài , đồng thời giúp họ hiểu biết , nhìn nhận được bản thân ,
tự thỏa mãn các nhu cầu của bản thân.
Căn cứ vào tính chất phản ánh của hoặt động nhận thức có thể chia
quá trình này thành 2 giai đoạn lớn : nhận thúc cảm tính (gồm cảm giác và
tri giác) và nhận thức lý tính (tư duy và tưởng tượng) . Hai giai đoạn này có

mối liên hệ chặt chẽ với nhau.
Nhận thức cảm tính là giai đoạn đầu , sơ đẳng trong toàn bộ hoặt động
nhận thức của con người . Đặc điểm chủ yếu của nhận thức cảm tính là là
chỉ phản ánh những thuộc tính bên ngoài , cụ thể của sản xuất và hiện tượng
đang trực tiếp tác động vào giác quan con người.
(Tâm lý học đại cương _ Nguyễn Công Uẩn _ NXB
ĐHQGHN)
Cảm giác là hình thức đầu tiên mà qua đó mối liên hệ tâm lý của cơ
thể với môi trường được thiết lập.
Tri giác là một mức độ mới của nhận thức cảm tính, nó không phải là
tổng thể các thuộc tính riêng lẻ mà là sự phản ánh sự vật, hiện tượng nói
chung trong tổng hòa các thuộc tính của nó. Người phụ nữ bán hàng rong tri
giác về công việc của mình khá đơn giản .

Nhận thức của những người phụ nữ ngoại tỉnh bán hàng rong về công
việc của họ lúc đầu là nhận thức cảm tính. một số người thấy việc ra hà Nội
kiếm sống của những người khác trong làng là sự tất yếu cần thiết cho cuộc
sống khó khăn nhưng chỉ dừng lại ở mức độ biết tới mà không thực hiện. vì
vậy những năm 90 chỉ có một số lượng rất nhỏ phụ nữ nông thôn bán hàng
rong ở Hà Nội.

17


18

ở mức độ cao hơn (nhận thức lý tính ), những biểu hiện về việc ra đô
thị đã thay đổi. Họ thấy được lợi ích của công việc đó và bắt đầu nhận biết
được có thẻ tồn tại và phát triển bằng “nghề” này hay để có thu nhập cao
hơn cần phải kiếm sống ở đo thị và họ dắt nhau ra Hà Nội ngày càng nhiều.

Khi bắt đầu bước vào “nghề “ họ đã có cảm giác cần phải có trách
nhiệm với nghề .Họ nhận thức được rằng để có thể kiếm sống bằng nghề này
họ phải có trách nhiệm với nghề nghiệp , nghĩa là họ phải có bán hàng có
chất lượng. Mặt khác, việc phải xa nhà theo thời vụ như thế này cũng là một
trở ngại cho việc chăm sóc gia đình và thực hiện thiên chức làm vợ làm mẹ
của mình bị hạn chế. Vấn đề nhận thức của họ không chỉ dừng lại ở trách
nhiệm , quyền lợi trong côngviệc mà còn là trách nhiệm với bản thân , gia
đình con cái , cộng đồng xã hội.
Nếu trong nhận thức cảm tính người phụ nữ này thấy ham muốn với
công việc bán hàng rong thì ở nhận thức lý tính có sự tham gia của tư duy
và sự trải nghiệm sẽ giúp họ đi từ nhân thức vấn đề đến việc thực hiện , hành
động và đạt hiệu quả cao trong hoặt động.

Phần thứ ba :
Điều tra và phân tích kết quả điều tra :
I / Điều tra :
1) cơ cấu mẫu điều tra :
18


19

Để thực hiện mục itêu nghiên cứu của đề tài nghiên cứu khoa học tôi
đã tiến hành điều tra bằng anket 100 phụ nữ bán hàng rong trên địa bàn hà
Nội.
Tôi chọn các mẫu điều tra một cách ngẫu nhiên trên các phố : Nguyễn
Trãi _ Trường Chinh_ Cầu Giấy _Nguyễn Chí Thanh_ Láng ...
Trong 100 mẫu nghiên cứu tuổi thấp nhất là 17 tuổi ,cao nhất là 57
tuổi . số người có gia đình là 85.9% ;số người chưa có gia đình là: 12.9%, số
người ly hôn, ly thân là 1.2%

Về trình độ văn hóa, những người được hỏi tập trung vào cấp 2 và
không có ai có trình độ Đại Học.
Dưới đây là bảng chi tiết về cơ cấu mẫu điều tra .
Bảng 1 : cơ cấu mẫu điều tra
Tuổi

học vấn

gia đình

>26
26_50 >50
29.4% 68.2% 2.4%
quê quán

cấp I
cấp II cấp III có
chưa
ly hôn
31.8% 54.1% 14.1
85.9% 12.9% 1.2%
số con
nghề của chồng

Hưng Nam

chưa
1-3
>3
Yên

Định
Tây

28.2% 18.8% 22.4% 16.5% 63.5% 10%

làm
thợ
ruộng xây
45.9% 9.4%

nghề
khác
28.2%

2.Tổ chức điều tra và nội dung điều tra:
2.1 Tổ chức điều tra:
Chúng tôi tiến hành điều tra qua 3 giai đoạn:

19


20

* Điều tra thử : điều tra 5 phiếu.
*Điều tra chính thức : Sau khi tiến hành điều tra thử 5 phiếu chúng tôi
chính thức bổ sung, sửa đổi và điều tra trên diện rộng nhằm tìm ra cách thức
đánh giá, nhận thức về trách nhiệm và quyền lợi của những người phụ nữ
ngoại tỉnh khi ra hà Nội bán hàng rong ở Hà Nội.
Bảng hỏi được xây dựng trên cơ sở lý luận của vấn đề được nghiên
cứu để tìm ra nhận thức về trách nhiệm và quyền lợi của người phụ nữ nông

thôn lên Hà Nội kiếm sống . Bằng phương pháp đọc, xủ lý số liệu SPSS và
phân tích tài liệu. Sau khi điều tra thử 5 phiếu chúng tôi đã chỉnh lý bổ sung,
sửa đổi và điều tra ở diện rộng nhằm tìm ra nhận thức , cách thúc đánh giá
chung
của phụ nữ bán hàng rong về trách nhiệm và quyền lợi của mình khi ra Hà
Nội kiếm sống.

2.2 Nội dung điều tra :
Để tìm hiểu nhận thức của phụ nữ bán hàng rong về trách nhiệm và
quyền lợi của bản thân mình khi lên Hà Nội kiếm sống chúng tôi quan tâm
tới những vấn đề sau:
* Thực trạng của phụ nữ bán hàng rong trên Hà Nội qua các chỉ báo :
_quê quán, tuổi, trình độ học vấn , tình trạng gia đình, số con, nghề
của chồng (nếu có )của người phụ nữ nông thôn bán hàng rong ở Hà Nội.
* Nhận thức của phụ nữ bán hàng rong về trách nhiệm của mình khi
lên Hà Nội kiếm sống. Chúng tôi xem xét các vấn đề sau :

_Trách nhiệm với gia đình :
+ Ai là người thay thế họ làm các công việc gia đình khi họ phải ra
đây kiếm sống ?
+Mức độ chu đáo của họ có khiến chị yên tâm hay không?
20


21

+tiền họ gửi về chủ yếu được dùng vào những việc gì ?
+Mức độ về thăm gia đình
_ Trách nhiệm đối với xã hội :
+ Họ nhận thức như thế nào về vai trò và lợi ích công việc của họ đối

với cuộc sống của người dân Hà Nội: họ có cảm thấy công việc của họ cần
thiết cho người dân Hà Nội hay không ? , vì sao ?
+Họ nhận thức như thế nào về việc công việc của họ có gây cản trở
giao thông và làm mất mĩ quan đường phố ?
+ Quan hệ của họ với ban quản lý chợ , công an khu vực như thế nào ?
_ Trách nhiệm đối với bản thân:
+ Mỗi ngày họ chi tiêu cho việc ăn uống của bản thân là bao nhiêu ?
+ Họ có đăng ký tạm trú khi thuê trọ hay không ?
* Nhận thức của người phụ nữ bán hàng rong về quyền lợi của họ khi
lên Hà Nội bán rong :
_ Quyền lợi về kinh tế : vốn có được là do đâu? số tiền kiếm được chi
tiêu vào việc gì? các vật dụng sinh hoạt trong nhà trọ gồm những gì? chị
đánh giá như thế nào về điều kiện sinh hoặt của nhà trọ?
_ Quyền cá nhân cơ bản: có đăng ký tạm trú không? có hài lòng với
công việc hiện tại của mình không? khi ra bán hàng rong nhận được sự giúp
đỡ từ đâu? chị có cảm thấy an toàn không? công việc bán hàng rong ảnh
hưởng như thế nào đến sức khỏe? khi bị bệnh chị có đến bệnh viện không?

2.3 Những khó khăn trong quá trình tổ chức điều tra:
Trong quá trình tổ chức điều tra chúng tôi gặp phải những khó khăn
như sau: thời gian tiếp xúc với khách thể rất khó , chỉ có thể gặp vào tầm họ
21


22

nghỉ trưa. Những thời gian khác họ bận bán hàng. do văn hóa của chị em rát
hạn chế nên không thể đi nhanh vào vấn đề một cách chuẩn xác.

II .Phân tích kết quả điều tra :

* Thực trạng của phụ nữ nông thôn bán hàng rong trên Hà Nội:
Để nghiên cứu hiện trạng phụ nữ nông thôn bán hàng rong chúng tôi
đã cố gắng đưa ra các câu hỏi về quê quán ,số con, độ tuổi , nghề nghiệp của
chồng . Chúng tôi dặc biệt quan tâm đến những vấn đề này nhằm có những
phác họa cơ bản về những gánh nặng từ phía gia đình đối với những ngwoif
phụ nữ bán hàng rong từ đó đi sâu vào tìm hiểu nhận thức của họ đối với
trách nhiệm và quyền lợi bản thân khi phải xa gia đình “tha phương cầu
thực”
Qua điều tra 100 mẫu nghiên cứu ngẫu nhiên trên địa bàn hà Nội
chúng tôi thấy họ đến từ khắp các vùng miền khác nhau. Tỷ lệ chênh lệch
giữa các vùng không đáng kể,tuy nhiên chiến nhiều nhất vẫn là dân Hưng
Yên (28.2%), còn lại là các tỉnh khác (xem bảng 2)

Bảng 2: Quê quán của những người phụ nữ bán hàng rong ở
Hà Nội
stt

quê quán

số người chọn
22

%


23

1
2
3

4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15

Thanh hoá
Hưng yên
Hà tây
Thái bình
Bắc ninh
Nam định
Hải dương
Hà nam
phú thọ
Thái nguyên
Vĩnh phúc
Gia lâm
Bắc giang
Hải hưng
tổng

3

24
19
4
1
16
4
5
2
1
3
1
1
1
85

3.5
28.2
22.4
4.7
1.2
18.8
4.7
5.9
2.4
1.2
3.5
1.2
1.2
1.2
100.0


Phần lớn phụ nữ bán hàng rong trong độ tuổi từ 26- 50 tuổi (68.2 %), dưới
26 tuổi chiếm rất ít (29.4 %).Trong số 100 phụ nữ được điều tra có tới 85.9%
phụ nữ đã có chồng.hầu hết đều có con rất đông. Số con của họ di chuyển từ
1-5 , trong đó số người có 5 con chiếm tỉ lệ 7.1%, đông nhất là người có 2
con 30.6 %.Đièu này cho thấy thực tế người phụ nữ nông thôn Việt nam vẫn
là nạn nhân của các hủ tục phong kiến, mặc dù kinh tế gia đình nghèo khó
nhưng họ vẫn phải đẻ nhiều con ,chính điều này đã buộc họ phải xa gia đình
, tha phương cầu thực .(xem bảng 3)
bảng 3: khoảng tuổi của người được phỏng vấn
STT
1
2
3

khoảng tuổi
Dưới 26 tuoi
từ 26- 50 tuoi
trên 50 tuoi
Tổng

số người
25
58
2
85

%
29.4
68.2

2.4
100.0

Có 45.9 % chị em có chồng làm ruộng đơn thuần. Mà như chúng ta
biết chỉ với mấy sào ruộng thì người nông dân không đủ trang trải các chi
phí trong gia đình vì vậy lẽ tất yếu phải có một người đi làm ăn kiếm sống
23


24

tăng thu nhập cho gia đình. Và thực tế đáng buồn là trách nhiệm này lại đổ
xuống đầu phái yếu chứ không phải do các “đức lang quân” gánh vác_
những người xưa nay vẫn được xem là trụ cột gia đình. Trong phạm vi
nghiên cứu của đè tài này không đủ thông tin để lý giải được điều này, tuy
nhiên đó là một thực tế cần xem xét.(xem bảng 4)
bảng 4 : nghề nghiệp của chồng
STT
1
2
3
4
5

nghề
nghiệp
không chọn
làm ruộng
thợ xây
nghề khác

tổng

số người
14
39
8
24
85

%
16.5
45.9
9.4
28.2
100

_ Trình độ văn hóa của những người phự nữ bán hàng rong :
Qua bảng trên ta thấy những người phụ nữ bán hàng rong có trình độ
văn hóa thấp ,chỉ có 14.1 % người có trình độ văn hóa cấp 3 . Điều này cũng
dễ hiểu bởi nếu những người có trình độ chuyên môn cao thì không phải đi
bán rong _một công việc long đong, cực nhọc, “tay làm hàm nhai_ tay quai
miệng trễ ” (xem bảng 5 )
bảng 5 :khoảng học vấn của người được phỏng vấn

STT
1
2
3

trình độ

cap 1
cap 2
cap 3
Tổng

số người
27
46
12
85

%
31.8
54.1
14.1
100.0

* Nhận thức của phụ nữ bán hàng rong về trách nhiệm của mình khi
lên Hà Nội kiếm sống. Chúng tôi xem xét các vấn đề sau :

24


25

_Trách nhiệm với gia đình :
+ Ai là người thay thế họ làm các công việc gia đình khi họ phải ra
đây kiếm sống ?
Bảng 6: Người thay thế chị em phụ nữ làm nhưng công việc trong gia đình
Người thay thế

Mẹ chồng
mẹ đẻ
chồng
Con
người khác
tổng

số người
49
60
56
22
12

tỷ lệ %
24.6
30.2
28.1
11.1
6.0

Nhìn vào bảng trên ta thấy : người thay thế họ cham sóc gia đình
chiếm tỷ lệ lớn nhất vẫn là mẹ đẻ 30.2 %, trong khi đó tỷ lệ chồng thay thế
mình làm các công việc gia dình chỉ chiếm một số rất khiêm tốn 11.1%,
trong khi đó có đến 45.9 % người chồng ở nhà làm ruộng. Đây cùng là điều
dễ lý giải vì hầu hết người có thể thay thế các chị em phải là phụ nữ , tuy
nhiên thực tế này , phải chăng một lần nữa đã khẳng định trách nhiệm của
người phụ nữ đối với gia đình quá nặng nề , họ không nững phải chu toàn
nghĩa vụ của mình đối với chồng con bằng cách nhờ mẹ đẻ thay mình chăm
sóc gia đình khi mình vằng nhà, mà họ còng phải chịu trách nhiệm kiếm tiền

về nuôi sống gia đình, chấp nhận cuộc sống long đong vất vả của kẻ tha
phương cầu thực. Phải chăng họ đã nhận về mình quá nhiều trách nhiệm do
bản tính lo lắng, chịu thương chịu khó truyền thống của người phụ nữ Việt
nam nói chung và người phụ nữ nông thôn nói riêng. Vấn đề nhận thức về
trách nhiệm như thế này còn nhiều bất cập. Cần phải có những điều chỉnh
thích đáng nhằm đảm bảo quyền lợi cho người phụ nữ trong thời đại mới.

+Mức độ chu đáo của họ có khiến chị yên tâm hay không?
25


×