Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

Tài liệu hiệp định thương mại việt mỹ với vấn đề xuất khẩu hàng hoá của việt nam sang mỹ đh kinh tế quốc dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (788.81 KB, 72 trang )

Hiệp định thương mại Việt- Mỹ với vấn
đề xuất khẩu hàng hoá của việt nam
sang mỹ
Biên tập bởi:
Đại Học Kinh Tế Quốc Dân


Hiệp định thương mại Việt- Mỹ với vấn
đề xuất khẩu hàng hoá của việt nam
sang mỹ
Biên tập bởi:
Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
Các tác giả:
Đại Học Kinh Tế Quốc Dân

Phiên bản trực tuyến:
/>

MỤC LỤC
1. Khái Niệm và phát triển của thương mại quốc tế
2. Phát triển và các lý thuyết về thương mại quốc tế ở VN
3. Tổng quan về hiệp địng thương mại việt mỹ
4. Những nội dung chủ yếu của hiệp định thương mại
5. Quá trình phát triển hoạt động xuất khẩu hàng hoá
6. Cơ hội thâm nhập thị trường Mỹ của hàng hoá Việt Nam
7. Thách thức với việc xuất khẩu hàng hoá của việt nam sang mỹ
8. Các giải pháp tăng cường xuất khẩu các ngành hàng chủ lực
9. Các giải pháp từ phía nhà nước
10. Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam sang thị trường Mỹ
Tham gia đóng góp


1/70


Khái Niệm và phát triển của thương mại
quốc tế
Khái niệm .
Thương mại quốc tế là một quá trình trao đổi hàng hoá giữa các nước thông qua buôn
bán nhằm mục đích kinh té tối đa .Trao đổi hang hoá là một hình thức của các mối quan
hệ kinh tế xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các người soan xuất kinh doanh
hàng hoá riêng biệt của các quốc gia .Thương mại quốc tế là lĩnh vực quan trọng nhăm
tạo điều kiên cho các nước tham gia vào phân công lao động quốc tế ,phát triển kinh tế
và làm giầu cho đất nước.
Ngày nay thương mại quốc tế không chỉ mang ý nghĩa đơn thuần là buôn bán mà là sự
phụ thuộc tất yếu giưa các quốc gia vào phân công lao động quốc tế .Vì vậy phải coi
trọng thương mại quốc tế như là một tiêu đề ,một nhân tố phát triển kinh tế trong nước
trên cơ sở lựa chon một cách tối ưu sự phân công lao động và chuyên môn hoá quốc tế .
Bí quyết thành công trong chiên lược phát triển kinh tế của nhiều nước là mở rộng thị
trường quốc tế và tăng nhanh xuất khẩu sản phẩm hàng hoá chế biến có hàm lượng kỹ
thuật cao.
Thương mại quốc tế ,một mặt phải khai thác được mọi lợi thế tuyệt đối của đất nước
phù hợp với su thế phát triển và quan hệ kinh tế quốc tế ,mặt khác phải tính đến lợi thế
tương đối có thể được theo quy luật chi phí cơ hội .Phả luôn luôn tinh toán cái có thể
thu được so với cái phải trả khi tham gia buôn bán và phân công lao động quốc tế để có
chính sách thích hợp .Vì vậy ,để phát triển thương mại quốc tế có hiệu quả nâu giài phải
tăng cường khả năng liên kết kinh tế sao cho mối quan hệ phụ thộc lẫn nhau ngay càng
lớn.
Quan hệ kinh tế trong một nước là những quan hệ giữa những người tham gia vào quá
trình soản xuất và lưu thông hàng hoá trên cơ sở phân công lao động và chuyên môn hoá
trong nước .Quan hệ thương mạI quốc tế thể hiện sự phân công lao động và chuyên môn
quốc tế ở trình độ kĩ thuật caovà quy mô lớn .nó phát triển trong một môi trường khàc

hoan toàn các quan hệ kinh tế trong nước về phương thức giao dịch buôn bán,pháp luật
và nghiệp vụ.
Thị trường trong nước và thi trương quốc gia là những phạm chù kinh tế khác nhau .Vì
vậy,các quan hệ kinh tế diễn ra giứa các chủ thể trong kinh doanh thương mại quốc tế
mang tính chất kinh té xã hội hết sức phức tạp ,không thể cho phép nghĩ rằng cứ buôn
bán trong nước được thì buôn bán với nước ngoài cũng thành công .

2/70


Quá trình hình thành ,phát triển và lợi ích của thương mại quốc tế .
thương mại quốc tế là sự trao đôỉi hàng hoá dịch vụ giữa các nước thông qua buôn bán
.sự trao đổi đó là một hình thức của một quan hệ xã hội phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau
về kinh tế giữa những người soản xuất hàng hoá riêng biệt của tưng quốc gia .
Thương mại quốc tế có tính chất sống còn vì một lý do cơ bản là ngoại thương mở rộng
khả năng soản xuất và tiêu dùng của một nước .Thương mại quốc tế cho phép một nước
tiêu dung tất cả các mặt hàng với số lương nhiều hơn mức có thể tiêu dùng với ranh giới
của khả năng soản xuất trong khi nước thưc hiện chế độ tự cung tự cấp ,không mua bán.
Tiền đề xuất hiện sự trao đổi là phân công lao động xã hội với tiến bộ khoa học kĩ thuật
,phạm vi chuyên môn hoá ngày càng cao số sản phẩm và dịch vụ để thoả mãn nhu cầu
con người ngày một dồi dào ,sự phụ thuộc giữa các quốc gia ngày càng tăng .
Thương mại quốc tế và chuyên môn hoá tăng nhanh đã đặt ra câu hỏi:
Buôn bán để làm gì?
Trước hết thương mại suất hiện từ sự đa dạng về điều kiện tự nhiên của soản xuất giữa
các nước cho nên chuyên môn hoá soản xuất một số mặt hàng cò lợi thế và nhập khẩu
các mặt hàng khác từ nước ngoài mà soản xuất trong nước kếm lợi thế chắc chắn đêm
lạI lợi nhuận lớn hơn.
Sự khác nhau về điệu kiện sản xuất ít nhiều cũng giải thích được sự hình thành thương
mại quốc tế giữa các nước trong kinh doanh các mặt hàng như dầu lửa ,lương thực, dịch
vụ du lịch .Song phần lớn số liệu tự nhiên vốn có của sản xuất ,Mỹ sản xuất đựơc ô tô

tại sao nhập khẩu ô tô từ nhật bản ? vì sao nước ta sản xuất với xuất phát đIểm và chi
phí sản xuất các mặt hàng đều lớn hơn chi phí sản xuất các cường quốc kinh tế khác vẫn
có thể duy trì thương mại với những nước đó.
Năm 1817 ,nhà kinh tế học David Ricảdo đã chưng minh: chuyên môn hoá quốc tế có
lợi cho tất cả các nước và gọi kết quả là quy luật lợi thế tương đối (hay lý thuyết về lợi
thế so sánh ) .
Quy luật lợi thế so sánh nhấn mạnh sự khác nhau về chi phí sản xuất ,coi đó là chìa khoá
của phương thức thương mại . lý thuyết này khẳng định nếu mỗi quốc gia chuyên môn
hoá sản xuất các sản phẩm mà nước đó có lợi thế tương đối hay có hiệu quả sản xuất só
sánh cao nhất thí thương mại sẽ có lợi cho cả hai nước .
Những lợi ích thương mại quốc tế do sự chênh lệch giữa các quốc gia về chi phí cơ hội
.Chi phí cơ hội của một mặt hàng là số lượng các mặt hàng khác người ta phảI từ bỏ để
sản xuất hoặc kinh doanh thêm một đơn vị hàng đó .

3/70


Giả sử nền kinh tế khép kín có các nguồn lực nhất định có thể là đầu máy video,áo sơ
mi càng sử dụng nhiều nguôn lực vào việc sản xuất đầu máy video ,thì càng cò ít nguồn
lực để sử dụng vào việc sản xuất áo sơ mi .Chi phí cơ hội của đâu máy video là lương
áo sơ mi bị hi sinh do dùng nguồn lực vào việc làm ra các đâu máy vi deo .
Chi phí cơ hội cho ta biết chi phí tương đối đẻ làm ra các mặt hàng khác nhau . sự chênh
lệch giữa các nước về chi phí tương đối tronh sản xuất quyết định phương thức thương
mại quốc tế . Phương thức thương mại quốc tế minh hoạ bằng quy luật lơi thế tương đối
.
Quy luật lợi thế tương đối nói rằng :”các nước hay cá nhân nên chuyên môn hoá trong
việc sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm mà họ làm ra với chi phí tương đối thấp hơn
thì sẽ có lợi ích kinh tế lớn hơn”.
Có nhiều nguyên nhân giải thích tai sao chí phí cơ hội hoặc chi phí tương đối lại có thể
khác biệt ở các nước khác nhau . chúng bắt nguồn từ sự khác biệt trong kỹ thuật công

nghệ hoặc hiệu xuắt .Ví dụ ,hai nước Mỹ và Anh đang sản xuất ra hai loại hàng hoá là
máy video và áo sơ mi .Giả định rằng lao động là yếu tố sản xuất duy nhất có mức lợi
tức không đổi theo quy mô ,ta có :

Bảng 1:lợi thé só sánh của Mỹ và Anh về máy vi deo và áo sơ mi theo giờ lao động .
Cần 30giờ ở mỹ để sản xuất ra 1 máy video và 5giờ để sản xuất ra 1 áo sơ mi. lao động
ở anh có hiệu suất kếm hơn ;cần 60giờ để làm ra 1 máy video và 6 giờ để sản xuất ra 1
áo sơ mi.
Ta giả thiết rằng có sự cạnh tranh hoàn hảo ,do vậy giá cả các mặt hàng bằng chi phí
biên của nó vì mức lợi tức không đổi theo quy mô nên chi phí biên băng chi phí trung
bình chính vì thế giá cả bằng chi phí trung bình của sản xuất .do đó lao động là yếu tố
sản xuất duy nhất nên trong ví dụ trên chi phí trung bình được tính bằng giá trị đầu vào
lao động trên một đơn vị đầu ra sản lượng tức là chi phí lao động cho một đơn vị sản
phẩm .
Giả thiết rằng công nhân Mỹ kiếm được 6 USD/giờ ,ta có chi phí lao động cho một đơn
vị của hai loạI hàng của mỗi nước như sau;

4/70


Bảng số 2:lợi thế tương đối của Anh và Mỹ về máy videovà áo sơ mi theo chi phí lao
động.
Nếu không có thương mại quốc tế thì mỗi nước sẽ phải sản xuất cả hai loại hàng vào các
chi phí lao động cho mỗi đơn vị sản phẩm là giá trị nội địa của mỗi sản phẩm bán ra ở
thị trường trong nước .
Đối với cả hai sản phẩm ,yêu cầu lao động cho một đơn vị sản phẩm ở Mỹ thấp hơn
môt cách tuyệt đối so với yêu cầu này ở Anh. Nhưng lao động ở Mỹ hiệu quả hơn một
cách tương đối về máy video và áo sơ mi . Còn số giờ lao động để soản suất ra một máy
video ở Anh nhiều gấp đôi so với Mỹ nhưng ở Anh chỉ cần 6/5giờ lao động để sản xuất
ra một cái áo sơ mi ở Mỹ . chính những trênh lệch tương đối về năng xuất này là cơ sở

cho thương mại quốc tế .
Còn nhiều lý do khác khiến cho thương mạI quốc tế rất quan trọng trong thế giới hiện
đại . Một trong những lý do đó có thể là thương mại quốc tế tối cần thiết cho chuyên
môn hoá để có hiệu quả kinh tế cao trong ngành công nghiệp hiên đại . chuyên môn hoá
quy mô lớn làm chi phí sản xuất giảm và hiệu quả kinh tế theo quy mỗ sẽ được thực hiện
trong hàng hoá các nước sản xuât.
Sự khác nhau về sở thích và mức cung cầu là những nguyên nhân giẫn tới việc xuất hiện
thương mại quốc tế. Ngay cả trong trương hợp hiệu quả tuyệt đối ở hai nước giống hệt
nhau ,thương mại quốc tế vẫn có thể sẩy ra do sự khác biệt về sở thích .

5/70


Phát triển và các lý thuyết về thương mại
quốc tế ở VN
Phát triển thương mại quốc tế ở việt nam hiện nay.
a.Chủ trương mở cửa nền kinh tế.
Có thể nói nhu cầu trao đổi háng hoã xuất hiện từ thời cổ đại nhưng chỉ từ khi ra đời nền
sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa mới dẫn đến sự phá vỡ tính chất khép kín của từng
đơn vị kinh tế trong từng quốc gia và của từng nước . tự do thương mai gắn dan tộc với
thi trường thế giới ,gắn phân công lao động trong nước với phân công lao động quốc tế
. Ngoại thương trở nên không thể thiếu được đối với sản xuất đó ,như LêNin nhận xét
“không có thị trương bên ngoài thí một số nước tư bản chủ nghĩa không thể sống được”
Nước ta và một số nước khác đã có lúc xêm xét vấn đề độc lập kinh tế và xây dựng một
nền kinh tế hoàn chỉnh mang tính chất tự cung tự cấp để tránh sự lệ thuộc vào bên ngoài
. Thực tê đã chứng minh rằng không một quốc gia nào có thể đề ra cho mình một mục
tiêu đầy tham vọngnhư vậy. Bởi vì không có quốc gia nào dù giầu mạnh như Mỹ hay
Trung Quốc lại xây dựng một nền kinh tế tự cung tự cấp vô cùng tốn kếm về cả vật chất
và thời gian.
Mở rộng thị trường thương mại quốc tế và các mối quan hệ kinh tế đối ngoạI khác lá

vận dụng một trong những bài học kinh nghiệm quý báu rút ra từ thực tiễn của nước ta
trong những năm qua về mở cửa nền kinh tế . Báo cáo chính trị của ban chấp hành trung
ương Đảng tại đại hội lần thứ V||| nhấn mạnh “tiếp tục thực hiện đường nối đối ngoại
độc lập tự chủ ,mở rộng địa phương hoá và đa dạng hoá các quan hệ đối ngoại với tinh
thần Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới ,phấn đấu vì
hoà bình độc lập và phát triển . Hợp tác nhiều mặt song phương và đa phương với các
nước ,các tổ chức quốc tế và khu vực trên nguyên tắc tôn trọng độc lập ,chủ quỳen và
toàn vện lãnh thổ ,không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau ,bình đẳng ,cùng có
lợi ,giảI quyết các vấn đề tồn tạI các tranh chấp bằng thương lượng “(văn kiện đại hội
VIII-ĐCSVN)
Xu thế phát triển của nhiều nước trong nhưỡng năm gần đây là thay đổi chiến lược tà
đóng sang mở cửa , từ thay thế nhập khẩu sang hướng vào xuất khẩu.
Nền kinh tế đóng cửa là nền kinh tế tự cung tự cấp sản xuất thay thế nhập khẩu . Đặc
trưng của nền kinh tế này là sản xuất trực tiếp tiêu dùng .Tổ chức xã hội của lao động
diễn ra trong phạm vi hẹp ,mang nặng tính bảo thủ .Nó không phù hợp với các quy luật

6/70


phát triển khách quan của thế giới. Chuyển từ kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hoá là
cả quá trình khó khăn phức tạp vì tính chất tri tuệ ,bảo thủ của nền kin tế tự nhiên.
Chính sách “đónh cửa “kông thể tồn tại lâu dài do những lý do sau :
-Trong những điều kiện quốc tế quốc tế hoá đời sống kinh tế ngày càng cao,sự phân
công lao động quốc tế ngày càng sâu , các nước phụ thuộc lẫn nhau và tham gia tích cực
hơn vào các quá trình liên kết kinh tế và hợp tác quốc tế ,một chính sách biệt lặp “đóng
cửa “là không thích hợp.
-cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật phát triển mạnh trở thành nhân tố quyết định sự phát
triển của sản xuất .Trong khi đó ,chính sách “đóng cửa”đã hạn chế khả năng tiếp thu kĩ
thuật mới ,làm cho nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu soản xuất nhỏ là phổ biến không
có nguồn bổ sung kỷ thuật tiên tiến .Kết quả là tất yếu là năng xuất lao động thấp ,hiêu

qua kếm ,khả năng cạnh tranh yếu,tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm. Hầu hết các nước
nghèo ,lạc hậu hoặc đang phát triển đều thiếu vốn.Trong khi đó,quá trình phát triển kinh
tế đòi hỏi nhập khẩu một lượng ngày một nhiềumáy móc thiết bị và nguyên liêụ công
nghiệp.Nếu không phải phát triển mạnh thương mại quốc tế thì vấn đề thiếu hụt trong
khâu thanh toán ngày càng lớnvà trở nên gay găt .
-Thị trường trong nước nhỏ hẹp,không đủ đảm bảo cho sự phát triển công nghiệp với
qui mô hiện đại,sản xuất hàng loạt ,do đó không tạo thêm công ăn việc làm –vấn đề mà
các nước nghèo luôn luôn phải giải quyết.
-trong thế giới hiện đại,không có một quốc gia nào bằng chính sách đóng cửa của mình
lại phát triển có hiệu quả kinh tế trong nước. Muốn phát triển nhanh mỗi nước không
thể đơn độc dựa vào nguồn lực lượng của mìmh mà phải tận dụng các thành tựu kinh
tế khoa học kỹ thuật của loài người để phát triển .Nền kinh tế mở cửa sẽ mở ra hướng
phát triển mới tạo điều kiện khai thác lợi thế ,tiềm năng sẵn có trong nước nhằm sử dụng
phân công lao động quốc tế một cách có lợi nhất .
-Đối với những nước mà trình độ phát triển kinh tế còn thấp như nước ta, những yếu tố
tiềm năng là tài nguyên thiên nhiên và lao động .Còn những yếu tố thiếu hụt làvốn, kỹ
thuật ,thị trường và khả năng quản lý .Chiến lược hướng vào xuất khẩu thực chất là giả
pháp mở cửa nền kinh tế nên kinh tế nhằm tranh thủ vốn kỹ thuật của nước ngoài ,kết
hợp chúng với tiềm năng trong nước (lao động và tài nguyên thiên nhiên )để tạo sự tăng
trương nhanh cho nền kinh tế góp phần rút ngắn khoảng cách chênh lệch với nước giầu
.
Với định hướng phát triỉn kinh tế xã hội của đảng ,chính sách kinh tế đối ngoại nói chung
và thương mại quốc tế nói riêng phải được coi là chinh sách cơ cấu có tầm qan trọng
chiến lược nhằm phục vụ quá trình phát triển nền kinh tế quốc dân . Chính sách xuất
khẩu phảI tranh thủ được tới mức cao nhất nguồn vốn kỹ thuật,công nghệ tiên tiến của

7/70


nước ngoài nhằm thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển ,giải quyết việc làm cho người

lao động ,thực hiện phương châm phát triển thương mại với nước ngoài để đẩy mạnh
sản xuất trong nước ,vừa có sản phẩm để tiêu dùng vừa có hàng hoà để xuất khẩu.
Cho đến nay, chúng ta đã gặt hái được những kết quả đáng mừng từ chính sách thương
mại ,giao lưu kinh tế với bên ngoài .Nước ta đang từng bước chuyển mình với nhịp độ
sản xuất mới bằng những công nghệ khoa học tiên tiến.Tin tưởng rằng với những hướng
đi đúng đắn và sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và nhà nước ,Việt Nam sẽ trở thành mắt
xích quan trọng trong nên kinh tế thế giới.
Như vậy ,thương mại quốc tế là tất yếu khach quan tạo ra hiệu quả kinh tế cao nhất trông
nền sản xuất của mỗi quốc gia cũng như toàn thế giới .Chế độ tư bản chủ nghĩa ra đời
ngăn chặn thị trương dân tộc với thị trương thế giới ,gắn phân công nao động trong nước
với phân công lao động quốc tế : thương mại và thị trưòng thế giới đã trở thành tiền đề
của phương thức sản xuất hàng hoá .Ngày nay trong đIều của thế giới hiện đại khi quá
trình quốc tế hoá đời sống kinh tế trở nên sâu rộng hơn bao giờ hết ,khi cuộc cách mạng
khoa học kỹ thuật công nghệ đã phát triển đến một trình độ cho phép có thể phân chia
các công đoạn của quá trình sản xuất thành các khâu khác nhau và phân bố những vị trí
xa nhau thì không nước nào có thể đóng cửa nền kinh tế tự mình thực hiện một chính
sách biệt lập khỏi mối quan hệ cộng đồng .Nhận thức rõ đIều đó đảng và nhà nước ta
hướng đI mới trong lối cuả mình

Các lý thuyết về thương mại quốc tế.
Lý thuyết cổ điển
Chủ nghĩa trọng thương .
Chủ nghĩa trọng thương xuất hiện và phát triển ở châu Âu,mạnh nhấtlà ở Anh và Pháp
tư thế kỷ15,16 và thịnh hành vào cuối thế kỷ 17 đến giữa thế kỷ 18. Các học giả tiêu
biểu của chủ nghĩa này là jean Bodin, Melon, (Pháp) và Thomas, Munn, (Anh) Tư tương
cơ bản của chủ nghĩa trọng thương coi vàng và các kim loại quý là đại biểu cho sự giầu
có của các quốc gia . Để có sự giầu có này các quốc gia phải tiến hành trao đổi với nhau
các sản phẩm đặc thù của mình .Lợi nhuận buôn bán theo chủ nghĩa trọng thương là kết
quả của sự trao đổi không ngang giá và lương gạt giữa các quốc gia .Thương mại quốc
tế chỉ có lợi cho một bên và gây ra thiệt hại cho bên kia “ dân tộc này làm giầu bằng

cách hi sinh lợi ích của dân tộc kia “. Theo tư tưởng đóthì chính phủ là chủ thể chủ yếu
của quan hệ thương mại quốc tế. Để có thể có nhiều vàng và kim loại quỳ thì quốc gia
này phải bóc lộtt quốc gia khác , ngoài ra chính phủ phải sử dụng các công cụ để dẩy
mạnh xuất khẩu và hạn ché nhập khẩu bằng cách tăng thuế nhặp khẩu .
Lý thuyết về thương mại quốc tế của chủ nghĩa trọng thương đã đạt được những thành
tựu đáng kể ,tuy nhiên không tránh khỏi những hạn chế .Nhìn chung ,lý thuyết trọng

8/70


thương đã sớm đánh giá được tầm quan trọnh của thương mại quốc tế ,nó khác với trào
lưu tư tưởng kinh tế phong kiến thời bấy giò đề cao nền kinh tế tự cung tự cấp .Vai
trò của nhà nước với tư cách la chủ thể điều chỉnh quan hệ buôn bán của một nước với
nước khác đã được coi trọng .tuy vậy lý thuyết về thương mại quốc tế này còn đơn giản
,ít tính chất lý luận ,thương đựơc nêu lên dưới hình thức lời khuyên thực tiễn về chính
sách kinh tế ,lập luận mang tính chất kinh nghiệm chưa cho phép giải thích bản chất của
thương mại quốc tế
Lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith.
Lý thuyết tuyệt đói của AdsmSmỉtha đời gần với 3cuộc cách mạng : Cách mạng công
nghiệp ,cách mạng Mỹ và cách mạng Pháp .lý thuyết này được xây dựng trên cởo lý
thuết về buôn bán tự do được phát triển vào thời kì này .Theo Adamsmith các quốc gia
sẽ thu được lợi khi tham gia vào thương mại quốc tế dựa trên lọi thế tuyệt đối của quốc
gia đó.
Việc sử dụng chính khái niệm lợi thế tuyệt đối này là cách giải thích đơn giản nhất về
cách ứng sử trong buôn bán .Rõ ràng việc buôn bán giữa các quốc gia khác bị thiệt từ
thương mại thì họ sẽ từ chối ngay . Giả sử thế giới chỉ có hai quốc gia và mỗi quốc gia
chỉ sản xuất hai mặt hàng giống nhau. Quốc gia tứ nhất có lợi tuyệt đối trong việc sản
xuất hàng hoá X quốc gia thứ hai có lợi tuyệt đối trong việc sản xuất hàng hoá ýo sánh
với quốc gia thứ nhất . Nếu mỗi quốc gia tiến hành chuyên môn hoá trong việc sản xuất
một mặt hàng mà họ có lợi thế tuyệt đối ,sau đó trao đổi thì cả hai quốc gia cùng có lợi

.Trong quá trình này ,các nguồn lực sản xuất của cả thế giớisẽ được sử đụng một cách
hiệu quả nhất ,do đó tổng sản phẩm của thế giới sẽ gia tăng . Sự tăng thêm của các sản
phẩm của toàn thế giới là nhờ vào sự chuyên môn hoá và được phân bố giưã hai quốc
gia theo tỷ lệ trao đổi thông qua ngoai thương.
Thực chất về lợi thế tuyệt đối có tể mimh hoạ thông qua ví dụ sau:

Bảng số 3 :Lợi thế tuyệt đối của Việt Nam và Đài Loan về mặt hàng gạo và thịt bò theo
sản phẩm
Như vậy ,Việt Nam có lợi thế trong việc sản xuất gạo so với đài Loan còn đài Loan có
lợi thế trong việc sản suất thịt bò . Việt Námẽ chuyên môn hoá ,trong việc trông lúa còn
9/70


Đài Loan sẽ chuyên môn hoá trong việc nuôI bò ,hai nước trao đổi sản phẩm trên cho
nhau .
Nừu tỷ lệ trao đổi quốc tế là 6 gạo đổi 6 thịt bò thì Việt Nam sẽ tiết kiệm được 2kg thịt
bò do mỗi giờ công ở Việt Nam chỉ sản xuất được 4kg thịt bò và tỷ lệ trao đổi nội địa là
:6 gạo =4 thịt bò .Tương tự như vậy ,6gạo mà Đài Loan nhận được từ Việt Nam tương
đương với 6giờ công lao động ở đài Loan và có thể tạo ra 30kg tịt bò như vậy Đài Loan
được lợi lợi 30-6=24kg.tỷ lệ trao đổi nội địa là 2gạo=5thịt bò .Tỷ lệ trao đổi quốc tế sẽ
là:
6/4 >( Gạo)/( thịt bò)= tỉ lệ trao đổi quốc tế >1/5
tuy nhiên lợi thế tuyệt đối chỉ giải thích cho một phần nhỏ của thương mại quốc tế hiên
nay ,đó là thương mại giữa các nước đang phát triển và các nước phát triển .Phần lớn
thương mại thế giới ,đặc biệt là thương mại giữa các nước phát triển không thể giảI thích
được băng lợi thế tuyệt đối.
Lý thuyết về lợi thế tương đối.
Theo David Ricado nếu một quốc gia bất lợi trong việc sản xuất các mặt hàng thì có thể
tham gia vào thương mại quốc tế nếu biết nự chọn mặt hàng thích hợp có lợi thế sóánh
.Lợi thế sóánh là lợi thế đạt được của một quốc gia .nếu quốc gia đó chuyên môn hoá

sản xuất và xuất khẩu những sản phẩm thể hiện mối tương quan thuận lợi hơn so với
quốc gia khác về cùng mặt hàng đó và nhập khẩu nhữnh mặt hàng có tính chất ngược lại
.Nếu quốc gia nào có hiệu quả thấp trong việc sản xuất tất cả các mặt hàng thì quốc gia
đó sẽ chuyên môn hoá sản xuất và nhập khẩu các loại hàng hoá mà việc sãnuất ra chúng
ít bất lợi nhất;nhập khẩu hàng hoá bất lợi nhất .Mô hình lợi thế tương đối có thể minh
hoạ qua ví dụ sau:

Đài Loan có lợi thế tuyệt đối cả hai mặt hàng ,Việt Nam thì không có lợi thế tuyệt đối
.Nừu theo quan đIúm của AdamSmiththì Việt Nam không nhập khẩu mặ hàng nào và

10/70


đài Loan xuất khẩu cả hai mặt hàng ;còn theo David Ricảdo thì Việt Nam có thể tham
gia thương mạI quốc tế nếu nựa chọn những mặt hàng có lợi thế so sánh.
Xét quan điểm tương quan năng xuất <tqchi phí > thì tương quan ngành thép năng xuất
lao động của Đài Loan gấp 6 lần năng xuất lao động của Việt Nam . Trong nghành vải
năng xuất lao động của Đài Loan gấp hai lần năng xuất lao động cua Việt Nam . Vậy
Đài Loan lựa chọn chuyên môn hoá thép còn Việt Nam chuyên môn hoá vải .
Tỷ lệ trao đổi quốc tế :
1/2 < Tỷ lệ trao đổi quốc tế Thép/ vải < 6/4
Giả sử tỷ lẹ trao đổi quốc tế là 1/1 (6kg thép đổi 6 m vải )thì Đài Loan sẽ lợi 2m vải, tức
tiết kiệm được ẵ giờ công . Việt Nam nhận được 6kg thép tương đương 6 giờ công ,Việt
Nam sử dụng 6 giờ công để sản xuất vải thì qua trao đổi với Đài Loan sẽ được lợi 6m
vải hay tiết kiệm được 3giờ công .Nừu trao đổi theo tỷ lệ của Việt Nam thì 6kg thép đổi
lấy 13m vải còn theo tỷ lệ của Đài Loan thì 6thép lấy 4vải .Nếu tỷ lệ trao đổi gần tỷ lệ
trao đổi nội địa của Đài Loan thì Việt Nam càng có lợi và ngược lại ,nếu gần tỷ lệ của
Vệt Nam thì Đài Loan càng có lợi . Vậy khoảng dao động của tỷ lệ trao đổi quốc tế là:
4m vải <6kg thép <12m vải.
Trong trường hợp 6kg thép đổi 6m vải thì Đài Loan được 2m vải còn Việt Nam sẽ được

6m vaỉ . Nếu trao đổi 6kg thép lấy 8m vảI thì Đài Loan được lợi 4m vải còn Việt Nam
cũng được lợi 4m vải . Như vậy khi tỷ lệ trao đổi quốc tế thay đổi sẽ dẫn đến sự phân
phối lại nguồn lợi từ thương mại giữa các nước tham gia.
Cách tiếp cận của Haberler về lợi thế tương đối .
Lợi thế tương đối ,cách tiếp cận của Hablẻlẻ về lợi thế tương đối .
Xét từ góc độ chi phí cơ hội theo quan điểm của Hablerlerlowij thế tương đối chính xác
hơn nhiều so với cách lý giải của D Ricảdotheo thuyết giá trị lao động . Theo thuyết này
thì chi phí cơ hội của một hàng hoá là khối lượng các hàng hoá khác phải cắt giamr để
nhường đủ số nguồn lực sản xuất thêm một đơn vị hàng hoá thứ nhất.
Quốc gia nào có chi phí cơ hội thấp về một mặt hàng nào đó thì quốc gia đó sẽ có lợi thế
so sánh về mặt hàng này và ngược lại.
Bảng số5: Lợi thế tương đối của Việt Nam và Đài Loan về gạo và thịt bò theo sản phẩm
lao động .

11/70


-Đối với Việt Nam:
+Chi phí cơ hội đẻ sản xuất gạo :1kg gạo = 5kg thịt bò.
+Chi phí cơ hội để sản xuất thịt bò: 1kg thịt bò =3/2 kg gạo .
-Đối với ĐàI Loan :
+Chi phí cơ hội để sản xuất gạo : 1kg gạo = 5kg thịt bò .
+Chi phí cơ hội để soản xuất thịt bò :1kg thịt bò = 1/5 kg gạo .
Đài Loan có lợi thế về thịt bò nhưng bất lợi về goạ còn Việt Nam có lợi thế về gạo nhưng
bất lợi về thịt bò.
1/5 >= Tỷ lệ trao đổi quốc tế gạo/thịt <= 6/4
Đường giới hạn tiềm năng sản xuất của các quốc gia trong điều kiện chi phí cơ hội
không đổi .

12/70



Trong điều kiện chi phí cơ hội không thay đổi thì đường giới hạn tiềm năng sản xuất của
một quốc gia là đường thẳng:

13/70


14/70


Tỷ lệ trao đổi quốc tế của hai quốc gia nằm ở trong khoảng 2tỷ lệ trao đổi nội địa:
1/5 < Tỷ lệ trao đổi quốc tế gạo/thịt bò < 6/4
Đài Loan sẽ thu được lợi ích tối đa nếu trao đổi tỷ lệ của Việt Nam.
Việt Nam thu được lợi ích tối đa nếu trao đổi tỷ lệ của Đài Loan.
Nếu trao đổi hàng hoá trên cơ sở lợi thé so sánh thì các quốc gia tăng được sản xuất và
tiêu dùng .Vì vậy ,các quốc gia có đIều kiện tăng trưởng nền kinh tế và điều chỉnh cơ
cấu . Đường giới hạn khả năng sản xuất của Đài Loan sau thương mại song song với
đương giới hạn khả năng sản xuất của Việt Nam trước thương mại ;đường giới hạn của
Viêt Nam sau thương mại song song với đương giới hạn khả năng sản xuất của Đài Loan
trước thương mại.
Lý thuyết Hekshẻ-Ohlin về lợi thế tương đối .
-Các giả định lý thuyết Hekshẻ-Ohlin là thế giới có hai quốc gia ,hai hàng hoá ,hai yếu
tố lao động và tư bản. Giả định này là bước mở rộng của mô hình D. Ricardo .
- Một hàng hoá chứa nhiều lao động và tư bản trong một hàng hoá người ta thường xem
xét tỷ lệ K/L:
-Nếu K/N lớn thì hàng có hàm lượng tư bản cao .
-Nếu K/N nhỏ thì hàng hoá này có hàm lượng lao động cao.
15/70



- Công nghệ sản xuất ở hai quốc gia không thay đổi ,chi phí sản xuất không đổi .
-Tỷ lệ thu hồi vốn theo quy mô là hằng số .
-Cạnh tranh hoàn hảo trên thị trương các yếu tố đầu vào và các yếu tố đầu ra . Điều này
có ý nghĩa là giá cả yếu tố đầu vào và đầu ra được quyết định bởi cung và cầu .
- không có chi phí vâni tải ,không có hàng rào thuế quan và các trở ngại thác trong buôn
bán của các quốc gia .
-Thương mại hoàn toàn tự do .
Để xét xem hàng hoá giầu lao động hay giầu tư bản cần xem xét tỷ lệ K/L: hàng hoá nào
có tỷ lệ K/L cao thì hàng hoá này được coi là giầu tư bản ;hàng hóa có tỷ lệ K/L thấp
hàng hoá này gọi là hàng hoá giầu lao động .
Đò thị 5:biểu diễn hàng hoá giầu tư bản và hàng hoá giầu lao động

Để xem xét hàng hoá sử dụng nhiều lao động hay hàng hoá sử dụng nhiều tư bản phải
căn cứ vào chi phí lao động và tư bản để sản xuất ra hàng hoá đó .
Tỷ lệ giữa tư bản và lao động là tỷ lệ tương dối được xêm xét từ góc độ từng sản phẩm
cụ thể ,nếu ở góc độ quốc gia thì để biết được một quộc gia giầu lao động hay giầu tư
bản cần phải căn cứ vào giá cả của lao động hay giá cả của tư bản . Giá cả của tư bản
được thể hiện ở lãi xuất (r) .Giá cả của lao động được tính bằng tiền lương (w) ,nếu tỷ
lệ r/w cao thí đâu là quốc gia giầu lao động bởi lý do thiếu vốn cho nên giá vốn cao giá
lao động thấp .
K/Lcao thì đây là quốc gia giầu vốn
16/70


R/Wthấp đây là quốc gia giầu tư bản vì do dư thừa vốn nên lãi suất thấp và giá lao động
cao.
Hàng hoá X là hàng hoá sử dụng nhiều lao động còn hàng hoá Ylà hàng hoá sử dụng
nhiều vốn . Biểu diễn đường giới hạn khả năng sản xuất của hai quốc gia : một quốc gia
giầu lao động , một quốc gia giầu vốn.

Quốc gia giầu lao động sẽ sử dụng để sản xuất hàng hoá giầu lao động và quốc gia giầu
vốn sư dụng sản xuất hàng hoá nhiều vốn.
Đồ thị 6Đường giới hạn khả năng sản xuất của hai quốc gia

Định lý Hekshẻ-Ohlin.
Một quốc gia sẽ sản xuất và xuất khẩu những loại hàng hoá cần sử dụng nhiều yếu tố rẻ
và tương đối sẵn đồng thời nhập khẩu những loại hàng hoá mà việc sản xuất ra chúng
cần nhiều yếu tố đắt và tương đối khan hiếm ỏ nước đó ,đIều này có nghĩa là một nước
tương đối giầu lao động sẽ xuất khẩu hàng hoá sử dụng nhiều lao động và nhập khẩu
hàng hoá sử ụng nhiều vốnvà ngược lại.
Cấu trúc cân bằng của Hekshẻ-Chlin.
Để đánh giá sở thích con người sử dụng đường bàng quan tập hợp các điểm có độ thoả
dụng như nhau .
Đồ thị 7: biểu diễn đường bàng quan:

17/70


Bắt đầu từ sở hữu của từng cá nhân, cộng đồng người hoặc từng quốc gia cùng với thu
nhập xác định về nhu cầu hàng hoá cuối cùng. Nhu cầu về hàng hoá cuối cùng làm căn
18/70


cứ để xác định nhu cầu dẫn xuất về yếu tố như lao động đất đai, vốn,công nghệ trong thị
trường cạnh tranh hoàn hảo giá cả được xác định trên cơ sở cung và cầu. Vì vậy gía cả
các yếu tố sản xuất được xác định trên cơ sở cung về các yếu tố và nhu cầu về các yếu
tố. Giá cả các yếu tố do tác dụng của công nghệ sẽ quyết định đến gía cả hàng hoá cuối
cùng. Sự khác biệt gữa cácquốc gia về mức giá này được coi là nguyên nhân trực tiếp
của thương mại quốc tế và quyết định hangf hoá nào sẽ được đưa ra trao đổi .
Dưới góc đôi tiền tệ thì sự khác nhau vè giá cả là nhân tố quan trọng nhất để xác định

moo hình thương mại của quốc gia .
Giả thiết của HekSher-Ohlin là sở thích và thu nhập của các quốc gia như nhau , công
nghệ không đổi nên sư khác nhau về cung dẫn đến sự khác nhau về giá cả các yếu tố đó
. Đây là cơ sở dẫn đến sự khác về giá cả hàng hoá cuối cùng . Như vậy nguồn lực phát
triển của các quốc gia là cơ sở của hoạt động trao đổi của các quốc gia .
4.1.h. Định lý về sự cân bắng giá cả các yếu tố sản xuất .
Thương mại tự do giữa hai quốc gia sẻ làm cho giá cả các yếu tố sản xuất ở các quốc gia
đó trở nên cân bằng và nếu hai quốc gia cứ tiếp tục sản xuấthai mặt hàng đó thì gía cả
các yếu tố sản xuất của hai quốc gia sẽ thật sự bằng nhau.
Mô hình cân bằng giá cả các yếu tố sản xuất:

19/70


Định lý Stolper-Samuelson.
Một sự gia tăng về giá cả tương đối của mặt hàng cần nhiều lao động sẽ làm tăng mức
tiền lương trong giá cả của hai mặt hàng v à làm giảm mức lãi xuất với cả hai mặt hàng.
Kiểm nghiệm khả năng vận dụng của các nghịch lý lý thuyết. (Định lý Leontief).
Leontief đã tiến hành kiểm tra bằng mô hình thực nghiệm của Heksher - Ohlin. Leontief
cho rằng Mỹ là một quốc gia giàu có về tư bản do đó hàng hoá xuất khẩu của Mỹ xuất
khẩu chưa nhiều tư bản hàng hoá xuất khẩu của Mỹ giàu lao động. Tuy nhiên kết quả
thực tế cho thấy rằng hàng hoá nhập khẩu của Mỹ chưa nhiều hơn 30% tư bản so với
xuất khẩu. Kết quả này ngược lại với mô hình của Heksher - Ohlin nên nó được coi là
nghịch lý Leontief.
Nghịch lý này được g iải thích bằng nhiều cách khác nhau nhưng đến nay vẫn còn tồn
tại để bảo vệ cho lý thuyết Heksher - Ohlin có thể dựa vào các lập luận sau:
- Số liệu Leontief thiếu chính xác vì các yếu tố này bị biến dạng vì các yếu tố chủ quan.

20/70



- Trong nghịch lý Leoitief chỉ sử dụng 2 yếu tố lao động và tư bản nên bỏ qua yếu tố tài
nguyên, đất đai, khí hậu.
- Do chính sách thuế quan của Mỹ ảnh hưởng đến nghiên cứu của Leontief.
- Leontief chưa t ính đến tư bản đầu tư vào con người mà chỉ đề cập đến tư bản đầu tư
vào vật chất.
Lý thuyế hiện đại.
Lý thuyến về chu kỳ sống quốc tế của sản phẩm.
Lý thuyết này giải thích nguyên nhân của hoạt động thương mại quốc tế thông qua các
giai đoạn chu kỳ sống quốc tế của sản phẩm. Khi sản phẩm ở vào giai đoạn suy giảm,
triệt tiêu trên vòng đời của nó thì nó được bán ra nước ngoài để kéo dài vòng đời đảm
bảo lợi nhuận cho doanh nghiệp. Đây chính là nguyên nhân của hoạt động thương mại
quốc tế.
Đồ thị số 9: Chu kỳ sống quốc tế của sản phẩm.

Lý thuyết về đầu tư.
Hoạt động đầu tư quốc tế là nền tảng cho hoạt động thương mại bởi vì đầu tư cho phép
khai thác lợi thế đầy đủ và triệt để hơn, bao gồm: Nguồn lực, công nghệ, thị trường, uy
tín, danh tiếng, nhãn hiệu, kinh nghiệm quản lý để thu lợi ích từ thị trường nước ngoài
và vượt qua các hàng rào thuế quan. Do đó có thể nói đầu tư quốc tế là sự thay thế tốt
hơn cho thương mại quốc tế.
21/70


Tổng quan về hiệp địng thương mại việt mỹ
Bối cảnh cuộc đàm phán thương mại Việt – Mỹ
Bối cảnh chung.
Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang trở thành một trong những xu thế
nổi bật của quan hệ kinh tế quốc tế hiện đại. Toàn cầu hoá mà trọng tâm là toàn cầu
hoá kinh tế đã tác động mạnh mẽ đến sự phát triển thương mại trên phạm vi toàn thế

giới. Cái đích cuối cùng mà quá trình toàn cầu hoá hướng tới là một nền kinh tế toàn cầu
thống nhất không còn biên giới quốc gia về kinh tế .
Toàn cầu hoá kinh tế là quá trình liên kết, hợp nhất của các nền kinh tế quốc gia vào nền
kinh tế thế giới trên tất cả các lĩnh vực: sản xuất, thương mại, đầu tư, tài chính, thông
tin, vận tải ... với trình độ phát triển cao, dẫn đến sự hình thành các hệ thống sản xuất,
phân phối, hệ thống tài chính toàn cầu, các mạng lưới thông tin liên lạc và các hệ thống
giao thông vận tải toàn cầu, trong đó các công ty xuyên quốc gia, các hệ thống tư nhân
và các trung tâm kinh tế đóng vai trò nòng cốt.
Toàn cầu hoá kinh tế là bước phát triển cao của quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế bước phát triển tất yếu khách quan được quyết định bởi sự phát triển không ngừng của
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới. Nhờ có công nghệ toàn cầu phát
triển, sự hợp tác giữa các quốc gia, các tập đoàn kinh doanh có thể mở rộng từ sản xuất
đến phân phối trên phạm vi toàn cầu. Một nền công nghệ toàn cầu xuất hiện là cơ sở cho
các quan hệ kinh tế toàn cầu phát triển. Đầu tiên là các quan hệ thương mại, chi phí vận
chuyển liên lạc ngày càng giảm đi thì khả năng bán hàng đi các thị trường xa càng tăng
lên, thương mại toàn cầu càng có khả năng phát triển. Đồng thời quá trình phân công,
chuyên môn hoá sản xuất càng có thể diễn ra giữa các quốc gia và châu lục. Các quan
hệ sản xuất, thương mại có tính toàn cầu đã kéo theo các dòng tiền tệ, dòng vốn, dịch
vụ...vận động trên phạm vi toàn cầu. Công nghệ thông tin đã làm cho các dòng vận động
này thêm náo động và nhanh nhậy. Cơ cấu kinh tế toàn cầu phát triển mạnh mẽ do có
sự bùng nổ tự do hoá thương mại toàn cầu. Từ năm 1950 đến 1996, tổng sản phẩm thế
giới tăng 6 lần trong khi khối lượng mậu dịch tăng 16 lần. Sản lượng công nghiệp tăng
9 lần trong khi khối lượng trao đổi các sản phẩm công nghiệp tăng 31 lần. Tỷ lệ xuất
khẩu so với GDP của thế giới trong thập kỷ 90 cao hơn 60% so với tỷ lệ ở năm 1913.
Năm 1997, xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ thương mại thế giới đạt 6500 tỷ USD - 1/5
sản lượng toàn cầu. Thương mại điện tử xuất hiện với khả năng ngày càng phát triển và
đang trở thành một loại hình buôn bán toàn cầu đầy triển vọng. Sự phát triển của công
nghệ toàn cầu và các quan hệ kinh tế toàn cầu đang ngày càng xung đột với các thể chế
quốc gia, với các rào cản quốc gia. Sự phát triển của lực lượng sản xuất và các quan hệ
kinh tế toàn cầu đang công phá các bức tường thành quốc gia. Bước vào thập kỷ 90 các


22/70


bức tường thành quốc gia này đã bị phá vỡ ở các quốc gia trong Liên minh Châu âu, ở
các quốc gia Bắc Mỹ với mức độ thấp hơn. Các quốc gia ASEAN đã cam kết giảm bớt
rào cản quốc gia. Các nước thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới cũng đã cam
kết một lộ trình dỡ bỏ hàng rào này, tuy nhiên hàng rào thương mại vẫn còn rất mạnh
ở nhiều nước và ở ngay cả Liên minh Châu âu hay Bắc Mỹ với những hình thức biến
tướng đa dạng đã và đang cản trở quá trình toàn cầu hoá.
Những vấn đề kinh tế toàn cầu ngày càng xuất hiện nhiều, trở nên bức xúc, đòi hỏi phải
có sự phối hợp toàn cầu của các quốc gia. Chúng ta có thể dẫn ra hàng loạt các vấn đề
toàn cầu như: thương mại, đầu tư, tiền tệ, dân số, lương thực, năng lượng, môi trường
…Môi trường toàn cầu ngày càng bị phá hoại, các nguồn tài nguyên thiên nhiên ngày
một cạn kiệt; dân số thế giới đang gia tăng nhanh chóng trở thành một thách thức toàn
cầu; các dòng vốn toàn cầu vận động tự do không có sự phối hợp điều tiết đã làm nảy
sinh các cuộc khủng hoảng liên tiếp ở Châu âu, Châu Mỹ và Châu á trong thập kỷ 90.
Vì vậy cần thiết phải có sự phối hợp toàn cầu để đối phó với các thách thức đó. “Bàn
tay hữu hình” của các Chính phủ chỉ phát huy tác dụng ở các quốc gia riêng lẻ còn trên
phạm vi toàn cầu hiện đang có quá nhiều “bàn tay hữu hình” va đập vào nhau chứ chưa
có một “bàn tay hữu hình” chung làm chức năng điêù tiết toàn cầu. Ngoài ra chiến tranh
lạnh chấm dứt vào đầu thập kỷ 90 đã kết thúc sự đối đầu giữa các siêu cường, tạo ra một
thời kỳ hoà bình, hợp tác và phát triển mới.
Toàn cầu hoá là một quá trình tất yếu trong lịch sử phát triển xã hội loài người, là hệ
quả của quá trình phát triển của lực lượng sản xuất, của các phương tiện khoa học công
nghệ. Toàn cầu hoá, khu vực hoá dẫn đến một hệ quả là hình thành xu thế hội nhập quốc
tế. Trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, tính tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nước,
các khu vực không ngừng gia tăng, tạo điều kiện đẩy lùi nguy cơ chiến tranh thế giới,
duy trì môi trường hoà bình và ổn định, tạo những điều kiện và cơ hội thuận lợi cho sự
hợp tác trên quy mô khu vực và toàn cầu vì mục tiêu phát triển bền vững của mỗi nước
và của toàn thế giới.

Việc tự do hoá thương mại, huỷ bỏ dần các hàng rào thuế quan và phi thuế quan, xoá bỏ
mọi phân biệt đối xử trong quan hệ buôn bán quốc tế đã đánh dấu sự hoà nhập các nền
kinh tế đang trong giai đoạn chuyển đổi vào một hệ thống đa phương. Như vậy là thời
đại của hàng rào thuế quan cao, của cách thức đóng cửa ở một số thị trường lớn, của một
số đặc quyền ít ỏi trong mậu dịch quốc tế dành cho các nước kém phát triển đã chấm
dứt. Buôn bán quốc tế chuyển sang một thời đại mới đó là mở rộng tự do buôn bán được
đánh dấu bằng sự ra đời của WTO và những ưu đãi thương mại trong khuôn khổ hợp tác
cùng có lợi .
Việt Nam trước yêu cầu hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
Trong xu thế toàn cầu hoá, thương mại hoá phát triển trên phạm vi toàn thế giới, vấn đề
hội nhập quốc tế là một tất yếu khách quan. Con đường thích hợp với nước ta trong điều

23/70


×