Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Đề cương quản trị tài chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.73 KB, 12 trang )

1. Phân tích các loại quyết định tài chính. Ý nghĩa của từng loại quyết định. Theo
anh chị, quyết định nào quan trọng nhất mang tính khởi điểm?
Quyết định tài chính gồm có 2 loại cơ bản:
• Quyết định ngân quỹ vốn:
- Là quyết định đầu tư vào loại tài sản thực nào cần thiết cho các hoạt động sản xuất kinh
doanh của một công ty.
- Các dự án đầu tư hôm nay phải đảm bảo mang lại lợi nhuận trong tương lai. Thực tế các
nhà quản trị tài chính quan tâm không những chỉ số lượng lợi nhuận thu được mà cả thời
gian mà doanh nghiệp cần phải chờ đợi để có được lợi nhuận đó. Dự án đầu tư hoàn vốn
càng sớm càng tốt. Lợi nhuận mang lại từ đầu tư ít khi ổn định. Một dự án mới có thể thành
công, nhưng sau đó nó cũng có thể bị phá sản. Nhà quản trị tài chính phải tìm được giải pháp
giảm thiểu rủi ro của lợi nhuận trong tương lai của các dự án đầu tư.
Ý nghĩa: trả lời câu hỏi cần đầu tư cho doanh nghiệp bao nhiêu? Và loại tài sản nào sẽ được
doanh nghiệp đầu tư? Từ đó có thể đưa ra được quyết định đầu tư và lợi nhuận dự kiến thu
được trong tương lai.
• Quyết định tài chính:
- Là quyết định hình thức tăng vốn để tài trợ cho các dự án đầu tư của công ty.
- Quyết định này là phải tăng được vốn đầu tư cho tài sản thực. Đây là một quyết định tài
chính. Khi công ty có nhu cầu tài trợ, công ty sẽ mời các chủ đầu tư mua cổ phiếu có chia
lời, hoặc có thể hứa với các nhà đầu tư sẽ thanh toán cố định và hoàn trả vốn trong một thời
gian định trước. Trong trường hợp thứ nhất, các nhà đầu tư sẽ nhận cổ phiếu mới phát hành
và trở thành một cổ đông, sở hữu một phần tài sản của doanh nghiệp. Trong trường hợp thứ
hai, nhà đầu tư trở thành người cho vay vốn, và công ty có nghĩa vụ phải hoàn trả vốn vay và
lời cho nhà đầu tư. Việc chọn hình thức tài trợ thường được gọi là quyết định cơ cấu vốn.
Vốn ở đây là nguồn vốn tài trợ dài hạn của doanh nghiệp, và thị trường tài trợ vốn dài hạn
được gọi là thị trường vốn. Thị trường vốn ngắn hạn được gọi là thị trường tiền tệ.
Ý nghĩa: trả lời câu hỏi lượng vốn cần cho một dự án đầu tư sẽ là bao nhiêu? Từ đó đưa ra
được quyết định chọn nguồn đầu tư.
Việc quyết định đầu tư vào một doanh nghiệp mới hay phát hành cổ phiếu mới có một hậu
quả lâu dài. Ngoài quyết định tài trợ dài hạn, nhà quản trị tài chính còn phải quyết định tài
trợ ngắn hạn. Nếu cần bảo đảm rằng doanh nghiệp có đủ tiền mặt trong tay để thanh toán các


hoá đơn hàng trong tuần tới, như vậy bất cứ một khoản tiền nào được đặt vào công việc sẽ
sinh lời. Quyết định ngắn hạn bao gồm cả hai vấn đề đầu tư và tài trợ.
Quyết định ngân quỹ vốn quan trọng nhất, mang tính khởi điểm.
2. Phân tích các mục tiêu của quản trị tài chính. Nhận xét nó trong mối quan hệ
với mục tiêu của công ty?
Mục tiêu của quản trị tài chính doanh nghiệp được quyết định bởi mục tiêu thành lập doanh
nghiệp và chủ sở hữu của doanh nghiệp. có nhiều quan điểm khác nhau trong việc xác định
mục tiêu của công tác quản lý tài chính doanh nghiệp.


1. đối với doanh nghiệp công ích: mục tiêu hoạt động là thực hiện tốt nhiệm vụ kinh tế
xã hội do nhà nước giao với chi phí thấp.
2. đối với doanh nghiệp khác:
• tối đa hoá lợi nhuận sau thuế: đây lá mục tiêu mà nhiều người quan tâm. Tuy nhiên
nó tối đa hoá lợi nhuận sau thuế cũng chỉ mới nói chung và như vậy vẫn chưa thể
hiện được mục đích đầu tư cuả chủ sở hữu doanh nghiệp, chưa tính đến yếu tố thời
gian, vốn đầu tư và rủi ro.
• tối đa hoá lợi nhuận phân phối cho chủ sở hữu : doanh nghiệp do chủ sở hữu lập ra
theo những mục tiêu, sứ mạng ngay từ lúc thành lập nhằm phục vụ lợi ích của chủ sở
hữu. do đó, tối đa hoá lợi nhuận phân phối cho chủ sở hữu cũng là mục tiêu then chốt
của quản trị tài chính doanh nghiệp. tuy nhiên có những giai đoạn doanh nghiệp
không chia lợi tức cho chủ sở hữu. vì thế, mục tiêu này chỉ đúng khi xét ở tầm chiến
lược.
• tối đa hoá giá trị doanh nghiệp : lợi nhuận nhà đầu tư mong đợi bao gồm số lãi được
chia trong quá trình hoạt động và chênh lệch giá bán và giá mua của tái sản đầu tư,
yêu cầu của nhà đầu tư làtối đa hoá giá trị của hai bộ phận này. tối đa hoá giá trị thị
trường của doanh nghiẹp tài chính là tối đa hoá giá trị tài sản của các chủ sở hữu hiện
tại của doanh nghiệp, quá trình này đáp ứng những yêu cầu hợp lý của doanh nghiệp,
nó đã được đánh giá cả ở góc độ thời gian, rủi ro và một số yếu tố khác. đối với công
ty cổ phần, tối đa hoá giá trị tài sản của các cổ đông cũng là tối đa hoá giá trị thị

trưòng cổ phần của doanh nghiệp. tối đa hoá giá trị thị trương của doanh nghiệp cũng
chính là tối đa hoá lợi ích của chủ sở hữu. tuy nhiên, giá thị trường của doanh nghiệp
lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố như quan hệ cung cầu, phản ứng của chủ sở hữu đối
với các quyết định của ban điều hành doanh nghiệp… vì thế giá thị trường của doanh
nghiệp đôi khi không đáng tin cậy và khó xác định.
• mục tiêu của quản trị tài chính doanh nghiệp phải luôn bám sát với mục tiêu của
doanh nghịêp. Do đó, tuỳ theo loại hình doanh nghiệp, lợi ích của chủ sở hữu đíh thực
của nó mà cụ thể hoá mục tiêu tối đa hoá lợi ích chủ sở hữu thành các chỉ tiêu cụ thể
làm căn cứ chính xác cho các quyết định.
3. Phân tích vị trí của giám đốc tài chính trong một doanh nghiệp. Tại sao nói giám
đốc tài chính là nhân vật quyền lực thứ hai của doanh nghiệp?
( Nghĩa )
4. Phân tích vai trò của giám đốc tài chính. So sánh nó với vai trò của kế toán
trưởng. Trên cơ sở đó, cho biết sự giống và khác nhau giữa 2 vị trí này ở Việt
Nam?
Một người Giám đốc tài chính thường có những trách nhiệm chung như sau:
- Phân tích cấu trúc & quản lý rủi ro tài chính
- Theo dõi lợi nhuận và chi phí; điều phối, củng cố và đánh giá dữ liệu tài chính; chuẩn bị
các báo cáo đặc biệt
- Dự báo những yêu cầu tài chính; chuẩn bị ngân sách hàng năm; lên kế hoạch chi tiêu; phân
tích những sai biệt; thực hiện động tác sửa chữa
- Thiết lập tình hình tài chính bằng cách triển khai và áp dụng hệ thống thu thập, phân tích,
xác minh và báo cáo thông tin tài chính


- Quản lý nhân viên
- Phân tích đầu tư & quản lý danh mục đầu tư (nếu có)
- Nắm bắt & theo dõi thị trường chứng khoán liên quan đến các hoạt động công ty (nếu có)
- Thiết lập & duy trì các quan hệ với ngân hàng và các cơ quan hữu quan.
- Theo sát và đảm bảo chiến lược tài chính đề ra.

Tóm lại, Giám đốc tài chính là người độc lập giải trình cho tổng giám đốc về thực chất hiệu
quả kinh doanh của từng bộ phận, là người đứng ở góc độ tài chính đưa ra biện pháp cải tiến
hay đánh giá các biện pháp cải tiến mà bộ phận liên quan đề xuất. Ở đây, giám đốc tài chính
đóng vai trò quan trọng trong việc giám sát tập trung hiệu quả kinh doanh của các bộ phận.
Kế toán trưởng thường lo về việc hoạch định, phân bổ ngân sách cho sản xuất - kinh doanh,
nắm giữ và hạch toán chi phí sao cho đạt được hiệu quả tối ưu; theo dõi và thực hiện các
chính sách tín dụng đối với khách hàng, nhà cung cấp.
Trong khi đó, các giám đốc tài chính thường dựa trên các báo cáo của kế toán để đưa ra các
phương án sản xuất - kinh doanh tối ưu; phân tích tình hình thị trường để quyết định mức
đầu tư hợp lý.
Vì vậy có thể nói vai trò của Giám đốc tài chính (CFO) hoàn toàn khác với kế toán trưởng
(chief Accountant). Có rất nhiều nhiệm vụ của CFO mà kế toán trưởng không thể thực hiện
được. Ở các nước phát triển, kế toán trưởng thường chỉ lo hạch toán, báo cáo chứ không
phải là CFO, người phải lo đủ tài lực cho sự phát triển của doanh nghiệp.
5. Thế nào là thị trường tài chính. Các cách phân loại thị trường tài chính, nội
dung và ý nghĩa của từng cách?
1. Khái niệm Thị trường tài chính
Thị trường tài chính là thị trường trong đó nguồn tài chính được chuyển từ người có vốn dư
thừa sang người thiếu vốn. Thị trường tài chính là tổng hoà các mối quan hệ cung cầu về
vốn.
Chức năng cơ bản nhất của thị trường tài chính là dẫn vốn từ người dư thừa vốn tới người
cần vốn, ngoài ra nó còn thể hiện chức năng giám sát thông qua sự vận động của các nguồn
tài chính.
2. Phân loại thị trường tài chính
Dựa vào các tiêu thức khác nhau ta có thể phân loại thị trường tài chính như sau:
2.1. Dựa vào cách thức huy động vốn trên thị trường tài chính trên cơ sở sử dụng các
công cụ tài chính ta có thị trường nợ và thị trường cổ phần.
a Thị trường nợ
- Công cụ nợ ngắn hạn: là công cụ nợ có thời gian đáo hạn từ 1 năm trở xuống
- Công cụ nợ trung hạn: là công cụ nợ có thời gian đáo hạn từ 1 năm tới 10 năm

- Công cụ nợ dài hạn: là công cụ nợ có thời gian đáo hạn trên 10 năm.


b Thị trường cổ phần
Là thị trường trong đó người cần vốn huy động vốn bằng cách phát hành các cổ phiếu. Các
cổ phiếu này là quyền được chia phần trên lãi ròng và tài sản của các công ty phát hành cổ
phiếu.
2.2. Dựa vào việc mua bán chứng khoán lần đầu chứng khoán mới và mua bán chứng
khoán sau khi phát hành lần đầu người ta chia làm thị trường cấp 1 và thị trường cấp 2.
a Thị trường cấp 1 thị trường sơ cấp: là thị trường tài chính trong đó những phát hành mới
của chứng khoán được tổ chức phát hành bán cho người mua đầu tiên.
b Thị trường cấp 2 thị trường thứ cấp: là thị trường tài chính nơi diễn ra các hoạt động mua
bán lại các chứng khoán được phát hành trên thị trường cấp 1.
Dựa vào phương thức giao dịch trên thị trường tài chính, thị trường cấp 2 được chia làm 2
loại: Sở giao dịch và thị trường phi tập trung.
2.3. Căn cứ vào bản chất, chức năng và phương thức hoạt động của các chủ thể tài chính
và các công cụ tài chính giao dịch trên đó, hệ thống tài chính được phân làm 3 thị trường
cơ bản: Thị trường tiền tệ, thị trường hối đoái và thị trường vốn.
a Thị trường tiền tệ:
Thị trường tiền tệ là thị trường phát hành và mua bán lại các công cụ tài chính ngắn hạn,
thông thường dưới 1 năm như tín phiếu kho bạc, khoản vay ngắn hạn giữa các ngân hàng,
thoả thuận mua lại, chứng chỉ tiền gửi, thương phiếu, ...
b Thị trường hối đoái:
Tương tự như thị trường tiền tệ, thị trường hối đoái là nơi giao dịch các công cụ tài chính
tương đối ngắn hạn, nhưng chúng được định giá bằng các loại đồng tiền khác nhau, và ở thị
trường hối đoái cũng chỉ có các giao dịch giữa các đồng tiền khác nhau mới được thực hiện.
c Thị trường vốn Thị trường chứng khoán:
Thị trường vốn là thị trường phát hành và mua bán lại các công cụ tài chính có kỳ hạn trên 1
năm hay chính là nơi giải quyết quan hệ cung-cầu về vốn dài hạn.
Ba loại thị trường trên hình thành hệ thống thị trường tài chính. Hoạt động của mỗi thị

trường có ảnh hưởng, tác động tới các thị trường kia. Thị trường tiền tệ và Thị trường vốn
muốn hoạt động có hiệu quả và phái triển thì phải có Thị trường hối đoái, ngược lại hai thị
trường kia phát triển và mở rộng sẽ thúc đẩy thị trường hối đoái hoạt động sôi động hơn.
Ngoài ra, sự phái triển của Thị trường tiền tệ là cơ sở cho sự phát triển của thị trường chứng
khoán, cũng như một Thị trường chứng khoán phát triển tạo điều kiện cho Thị trường tiền tệ
phát triển lên theo.
6. Phân loại các trung gian tài chính. Liên hệ điều kiện Việt Nam. Cho ví dụ?
( Hưng )


7. Phân tích vai trò của thị trường tài chính. Liên hệ điều kiện Việt Nam để đánh
giá?
Trong những năm qua, cùng với quá trình cải cách kinh tế, TTTC Việt Nam
đã có những bước phát triển nhất định. Trước hết, các thị trường cấu thành cơ bản
của TTTC đã được hình thành và từng bước hoàn thiện. Nhiều loại hình định chế
trung gian tài chính được thành lập. Đặc biệt, thị trường chứng khoán đã được thiết
lập và có những đóng góp ban đầu trong việc huy động các nguồn vốn dài hạn cho
nền kinh tế.
Thứ hai, trong hơn 5 năm lại đây, hệ thống ngân hàng đã được cơ cấu lại
nhằm giảm thiểu những yếu kém của hệ thống và những sai lệch trong chính sách
tín dụng. Chương trình cơ cấu lại tập trung vào việc lành mạnh hoá và tăng cường
năng lực tài chính của hệ thống ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng thương mại
(NHTM) Nhà nước. Hoạt động tín dụng đã được đổi mới theo hướng các tổ chức
tín dụng có quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong quyết định cho vay, lựa chọn
khách hàng và biện pháp đảm bảo tiền vay trên nguyên tắc thương mại, đảm bảo
an toàn và hiệu quả.
Thứ ba, các nguyên tắc quản lý tài chính tiên tiến và chuẩn mực quốc tế về
tính minh bạch, kế toán, kiểm toán, giám sát... đã và đang từng bước được thể chế
hoá và ứng dụng rộng rãi hơn trong thực tế. Các thể chế về quản trị doanh nghiệp
(kể cả ngân hàng) cũng được hoàn thiện một bước, nhất là đối với các công ty

niêm yết trên thị trường chứng khoán.
Cuối cùng, song không kém phần quan trọng, khung pháp luật của TTTC
đang ngày càng phù hợp hơn với các chuẩn mực và thông lệ quốc tế. Chính sách
tín dụng ngày càng đối xử bình đẳng hơn đối với các doanh nghiệp tư nhân và có
vốn đầu tư nước ngoài. Các định chế tài chính nước ngoài ngày càng được phép
mở rộng phạm vi, lĩnh vực hoạt động kinh doanh của mình.
Tuy đạt được không ít thành tựu, song TTTC Việt Nam vẫn được xem là
còn kém phát triển. Độ sâu tài chính đo bằng tỷ lệ của tổng phương tiện thanh toán
(M2)/GDP và tổng tín dụng trong nước/GDP đã tăng đáng kể, đều từ dưới 20%
năm 1990 tương ứng lên 50,5% và 35,1% năm 2000 và 79,0% và 70,2% năm
2005. Song những chỉ số này chỉ tương đương với của các nước trong khu vực vào
những năm cuối thập niên 1980 - đầu thập niên 1990.
Thị trường chứng khoán, tuy có những bước phát triển nhanh trong năm
2006, song vẫn còn nhỏ bé. Tổng vốn hoá thị trường của 54 công ty niêm yết trên
Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh tại thời điểm
16/11/2006 đạt 58.562 tỷ đồng, tương đương 3,64 tỷ USD hay gần 7% GDP năm
2005; nếu tính cả chứng chỉ quỹ, tổng vốn hoá thị trường đạt 60.522,7 tỷ đồng,
tương đương 3,77 tỷ USD hay 7,2% GDP năm 2005. Cùng thời điểm, tổng giá trị
trái phiếu niêm yết cũng chỉ đạt khoảng 6,9% GDP năm 2005, trong đó hầu hết
thuộc trái phiếu Chính phủ và chính quyền địa phương (chiếm khoảng 97%). Có
rất ít trái phiếu công ty được phát hành. Thị trường chứng khoán cho đến nay vẫn
chưa là “hàn thử biểu“ của nền kinh tế và kênh huy động vốn quan trọng của các
doanh nghiệp Việt Nam.
Việc gia nhập WTO có thể mang lại nhiều cơ hội phát triển cho TTTC Việt
Nam. Mở cửa thị trường làm tăng mức độ cạnh tranh và tính “sôi động” của thị


trường. Chính phủ buộc phải giảm can thiệp trực tiếp vào hoạt động của các ngân
hàng và các định chế tài chính khác, qua đó, giảm chi phí giao dịch. Nguồn vốn tín
dụng trước được “dành” cho các dự án ưu tiên sẽ phải giảm dần và chuyển sang

những khoản đàu tư có lợi nhuận cao hơn, góp phần nâng cao hiệu quả phân bổ
nguồn lực trong nền kinh tế.
Các ngân hàng và định chế tài chính trong nước sẽ có điều kiện tốt hơn để
tranh thủ nguồn vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý, đào tạo và đào tạo lại nguồn
nhân lực. Hội nhập sâu rộng hơn cũng tạo sức ép buộc các ngân hàng và các định
chế tài chính nâng cao tính minh bạch, áp dụng các chuẩn mực và thông lệ quốc tế
tiên tiến về kế toán, báo các tài chính và quản trị rủi ro, chuyên môn hoá, đa dạng
hoá các loại hình dịch vụ ngân hàng, và nắm bắt kịp thời các nghiệp vụ mới.
Đối với TTCK, việc gia nhập WTO cũng tạo điều kiện tăng cả cung lẫn cầu,
nhất là cầu đầu tư chứng khoán. Những kỳ vọng về tăng trưởng kinh tế, thương
mại và đầu tư có thể kích thích cầu đầu tư trên TTCK, nhất là thị trường cổ phiếu.
Việc mở rộng tiếp cận thị trường có thể thúc đẩy phát triển các định chế chứng
khoán trung gian (thông qua cạnh tranh, nắm bắt và chuyển giao kinh nghiệm quản
lý, công nghệ, vốn...), thúc đẩy tính công khai, minh bạch và kỷ luật thị trường,
qua đó thúc đẩy tăng cầu đầu tư trên thị trường (tăng tính chuyên nghiệp của nhà
đầu tư, độ tin cậy đối với các công ty đại chúng/niêm yết,...) và cung chứng khoán
(thông qua bảo lãnh phát hành).
Tuy nhiên, với những yếu kém nêu ở phần trên, TTTC Việt Nam sẽ phải đối
mặt với không ít thách thức. Các ngân hàng trong nước có thể mất thị phần đáng
kể, mặc dầu hiện đang có một thị phần tiền gửi và tín dụng rất lớn. Trong bối cảnh
mở cửa kinh tế - tài chính, tình trạng yếu kém năng lực về vốn, quản trị, công
nghệ, cùng với những rủi ro hệ thống còn cao, sẽ đặt hệ thống tài chính Việt Nam
vào vị thế dễ bị tổn thương nếu không có những biện pháp điều hành quản lý vĩ mô
thích hợp. Rủi ro này có thể gia tăng trong bối cảnh Việt Nam dần mở cửa tài
khoản vốn trong cán cân thanh toán quốc tế và cho phép đồng tiền Việt Nam
(VND) được chuyển đổi hoàn toàn.
Một thách thức nữa là một số đối tượng yếu thế có thể gặp khó khăn về vốn
do một số thị trường/lĩnh vực có thể bị “bỏ rơi”, nhất là các khoản cho vay nhỏ đối
với nông dân cũng như các khoản tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
8. Phân tích các nghiệp vụ chủ yếu của trung gian tài chính. Liên hệ điều kiện Việt

Nam?
Sự hình thành và phát triển các định chế trung gian tài chính bắt nguồn từ nhu cầu giao
lưu vốn
trong nền
kinh tế.
Các định
Những người
tiết kiệm
Hộ gia đình
Doanh nghệp
Chính phủ

Định chế
trung gian
tài chính

Những người cần
vốn cuối cùng
Hộ gia đình
Doanh nghiệp
Chính phủ


chế trung gian tài chính được xem là chiếc cầu để kết nối các chủ thể thừa vốn và thiếu vốn
với nhau.
Các nghiệp vụ chính của trung gian tài chính:
1. Chu chuyển nguồn vốn.

Tổ chức kinh tế
Doanh nghịêp

Tổ chức xã hội
Hộ gia đình,
dân cư..

Trung
gian
tài
chính

Tổ chức kinh tế
Doanh nghịêp
Tổ chức xã hội
Hộ gia đình,
dân cư..

Trong nền kinh tế mở, các tổ chức trung gian tài chính có thể huy động vốn đầu tư qua
các kênh sau:
 Kênh huy động vốn trong nước :
a/ Trung gian tín dụng:


b/ Chức năng trung gian thanh toán:
• Người trả tiền
• Người mua hàng
• Tổ chức xã hội
• Cá nhân chuyển tiền

Trung
gian
tài

chính

• Người thụ hưởng
• Người bán hàng
• Tổ chức xã hội
• Cá nhân

Khai thác nguồn vốn tiết kiệm nằm ở khâu tài chính doanh nghịêp, tài chính các tổ
chức xã hội và tài chính các hộ gia đình thông qua phát hành các sản phẩm như: Trái phiếc
các chứng chỉ tiền gửi tiết kiệm...
Huy động vốn đầu tư qua thị trường chứng khoán.
Với sự chuyên môn hóa về việc mua bán các lọai chứng khoán , TTCK được xem xem
như một cơ sở hạ tầng tài chính để cho các định chế tài chính thực hiện chính sách huy động
vốn của các nhà đầu tư thông qua phát hành các giấy tờ có giá.
 Huy động vốn từ nước ngoài.
Tiếp nhận nguồn vốn viện trợ chính thức (ODA) để thực hiện cho vay theo các
chương trình tín dụng chỉ định của các nhà tài trợ nước ngòai.
Huy động vốn qua thị trường vốn quốc tế
2. Khắc phục tình trạng thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính.
Trong một tiến trình giao dịch vốn, đối với các nhà đầu tư bao giờ cũng cần nắm rõ
thông tin về mức độ rủi ro và tỷ suất sinh lời của dự án.
3. Góp phần giảm chi phí giao dịch
Sự ra đời của các trung gian tài chính góp phần làm giảm chi phí giao dịch . Các định
phí trung gian tài chính có ưu điểm tạo ra tính quy mô thông qua việc tập trung những quỹ
tiền tệ có quy mô nhỏ của từng cá nhân tiết kiệm và đa dạng hóa các nghiệp vụ sử dụng vốn.
Liên hệ Việt Nam :
Việt Nam có một nền kinh tế thị trường non trẻ, nhưng không kém phần sôi động bới
các hoạt động tài chính của các cá nhân và tổ chức trong và ngoài nước nhằm huy động và
sử dụng hiệu quả các nguồn vốn nhàn rỗi.
Chúng ta đã sử dụng hầu hết các nghiệp vụ trung gian tài chính, trong đó TTCK là một

minh chứng cụ thể về một kênh huy động vốn hiệu quả và nhanh chóng.
Tuy nhiên, một hạn chế của Việt Nam đó là sụ thiếu chuyên nghiệp trong các hoạt động
tài chính và bị ràng buộc bởi hệ thống pháp lý . Hơn nữa việc hình thành các quỹ đầu tư
chưa có sự quản lý chặt chẽ dẫn đến vịêc làm mất uy tín của các Quỹ này.
9. Phân tích nguyên nhân của các cuộc khủng hoảng tài chính. Liên hệ điều kiện
Việt Nam để rút ra bài học kinh nghiệm?


Khủng hoảng tài chính Đông Á là cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu từ tháng 7 năm
1997 ở Thái Lan rồi ảnh hưởng đến các thị trường chứng khoán, trung tâm tiền tệ lớn, và giá
cả của những tài sản khác ở vài nước châu Á, nhiều quốc gia trong đó được coi như là
"những con Hổ Đông Á". Cuộc khủng hoảng này còn thường được gọi là Khủng hoảng tiền
tệ Đông Á.
Indonesia, Hàn Quốc và Thái Lan là những nước bị ảnh hưởng mạnh nhất bởi cuộc khủng
hoảng này. Hồng Kông, Malaysia, Lào, Philippines cũng bị ảnh hưởng bởi sự sụt giá bất
thình lình. Còn Đại lục Trung Hoa, Đài Loan, Singapore và Việt Nam không bị ảnh hưởng.
Nhật Bản cũng không bị ảnh hưởng nhiều bởi sự khủng hoảng, song nền kinh tế Nhật phải
kinh qua những khó khăn kinh tế dài hạn của chính bản thân mình.
Mặc dù được gọi là cơn khủng hoảng "Đông Á" bởi vì nó bắt nguồn từ Đông Á, nhưng ảnh
hưởng của nó lại lan truyền toàn cầu và gây nên sự khủng hoảng tài chính trên toàn cầu, với
những tác động lớn lan rộng đến cả các nước như Nga, Brasil và Hoa Kỳ.
Nguyên nhân
Nền tảng kinh tế vĩ mô yếu kém
Thái Lan và một số nước Đông Nam Á đã cố gắng thực hiện cái mà các nhà kinh tế gọi là
Bộ ba chính sách không thể đồng thời. Họ vừa cố định giá trị đồng tiền của mình vào Dollar
Mỹ, vừa cho phép tự do lưu chuyển vốn (tự do hóa tài khoản vốn). Kinh tế Đông Nam Á
tăng trưởng nhanh trong thập niên 1980 và nửa đầu thập niên 1990 đã tạo ra sức ép tăng giá
nội tệ. Để bảo vệ tỷ giá cố định, các ngân hàng trung ương Đông Nam Á đã thực hiện chính
sách tiền tệ nới lỏng. Kết quả là cung tiền tăng gây ra sức ép lạm phát. Chính sách vô hiệu
hóa (sterilization policy) đã được áp dụng để chống lạm phát vô hình chung đẩy mạnh các

dòng vốn chảy vào nền kinh tế.
Vào giữa thập niên 1990, Hàn Quốc có nền tảng kinh tế vĩ mô tương đối tốt ngoại trừ việc
đồng Won Hàn Quốc không ngừng lên giá với Dollar Mỹ trong thời kỳ từ sau năm 1987.
Điều này làm cho tài khoản vãng lai của Hàn Quốc suy yếu vì giá hàng xuất khẩu của Hàn
Quốc trên thị trường hàng hóa quốc tế tăng. Trong hoàn cảnh đó, Hàn Quốc lại theo đuổi
một chế độ tỷ giá hối đoái neo lỏng lẻo và chính sách tự do hóa tài khoản vốn. Vì thế, thâm
hụt tài khoản vãng lai được bù đắp lại bằng việc các ngân hàng của nước này đi vay nước
ngoài mà phần lớn là vay nợ ngắn hạn và nợ không tự bảo hiểm rủi ro. [1]
Năm 1994, nhà kinh tế Paul Krugman của trường đại học Princeton, (lúc đó còn ở MIT), cho
đăng bài báo tấn công ý tưởng về "thần kỳ kinh tế Đông Á". [2] Ông ta cho rằng: Sự tăng
trưởng kinh tế của Đông Á, trong quá khứ, là do kết quả của đầu tư theo hình thức tư bản,
dẫn tới sự tăng năng suất lao động. Trong khi đó, năng suất tổng nhân tố lại chỉ được nâng
lên ở một mức độ rất nhỏ, hoặc hầu như giữ nguyên. Krugman cho rằng việc chỉ tăng trưởng
năng suất tổng nhân tố không thôi, mà không cần đầu tư vốn, đã có thể mang lại sự thịnh
vượng dài hạn. Krugman có thể được nhiều người coi như một nhà tiên tri sau khi khủng


hoảng tài chính lan rộng, tuy nhiên chính ông ta cũng đã từng phát biểu rằng ông ta không
dự đoán cơn khủng hoảng hoặc nhìn trước được chiều sâu của nó.
Các dòng vốn nước ngoài kéo vào
Chính sách tiền tệ nới lỏng và việc tự do hóa tài chính ở Mỹ, châu Âu và Nhật Bản cuối thập
niên 1980 đã khiến cho tính thanh khoản toàn cầu trở nền cao quá mức. Các nhà đầu tư ở các
trung tâm tiền tệ nói trên của thế giới tìm cách thay đổi danh mục tài sản của mình bằng cách
chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài. Trong khi đó, các nước châu Á lại thực hiện chính sách tự
do hóa tài khoản vốn. Lãi suất ở các nước châu Á cao hơn ở các nước phát triển. Chính vì
thế, các dòng vốn quốc tế đã ồ ạt chảy vào các nước châu Á. [3]
Ngoài ra, những xúc tiến đầu tư của chính phủ và những bảo hộ ngầm của chính phủ cho các
thể chế tài chính cũng góp phần làm các công ty ở châu Á bắt chấp mạo hiểm để đi vay ngân
hàng trong khi các ngân hàng bắt chấp mạo hiểm để đi vay nước ngoài mà phần lớn là vay
nợ ngắn hạn và nợ không tự bảo hiểm rủi ro. (Hiện tượng thông tin phi đối xứng dẫn tới lựa

chọn nghịch và rủi ro đạo đức.)
Những thay đổi bất lợi của kinh tế thế giới
Nhật Bản, một trong những thị trường xuất khẩu lớn nhất của các nước châu Á bị trì trệ từ
đầu thập niên 1990. Nhân dân tệ được định giá thấp so với Dollar Mỹ từ năm 1994 cùng
nhiều nhân tố khác làm cho hàng xuất khẩu của Trung Quốc rẻ hơn so với hàng xuất khẩu
cùng loại của Đông Nam Á. Trong khi đó, nền kinh tế của Mỹ đang được khôi phục lại sau
tình trạng suy thoái đầu những năm 1990, Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ dưới sự lãnh đạo
của Alan Greenspan bắt đầu nâng lãi suất của Mỹ lên để ngăn chặn lạm phát. Việc này làm
cho Mỹ trở thành một thị trường hấp dẫn đầu tư hơn so với các nước ở Đông Á, và do đó
hấp dẫn những luồng vốn đầu tư ngắn hạn thông qua lãi suất ngắn hạn cao và làm tăng giá
đồng Đô La Mỹ. Và do đồng tiền của các nước Đông Nam Á được neo vào Dollar Mỹ, nên
xuất khẩu của các nước này trở nên kém cạnh tranh. Từ mùa Xuân năm 1996, tăng trưởng
trong xuất khẩu của Đông Nam Á giảm xuống một cách nhanh chóng, làm suy yếu tài khoản
vãng lai của họ.
Tấn công đầu cơ và rút vốn đồng loạt
Nguyên nhân trực tiếp của khủng hoảng tài chính Đông Á năm 1997 là những cuộc tấn công
đầu cơ và việc rút vốn đồng loạt khỏi các nước châu Á.
Những nguyên nhân sâu xa nói trên rồi cũng bộc lộ. Thị trường bất động sản của Thái Lan
đã vỡ. Một số thể chế tài chính bị phá sản. Người ta không còn tin rằng chính phủ đủ khả
năng giữ nổi tỷ giá hối đoái cố định. Khi phát hiện thấy những điểm yếu chết người trong
nền kinh tế của các nước châu Á, một số thể chế đầu cơ vĩ mô đã tiến hành tấn công tiền tệ
châu Á.[4] Các nhà đầu tư nước ngoài đồng loạt rút vốn ra.[5]


Một nguyên nhân trực tiếp nữa của khủng hoảng là năng lục xử lý khủng hoảng yếu kém.
Nhiều nhà kinh tế cho rằng khi mới bị tấn công tiền tệ, đáng lẽ các nước châu Á phải lập tức
thả nổi đồng tiền của mình chứ không nên cố sức bảo vệ tỷ giá để đến nối cạn kiệt cả dự trữ
ngoại hối nhà nước mà lại càng làm cho tấn công đầu cơ thêm kéo dài.
Ngoại trưởng 10 nước ASEAN lúc đó tin rằng, việc liên kết các hệ thống tiền tệ chặt chẽ là
một nỗ lực thận trọng nhằm củng cố vững chắc các nền kinh tế ASEAN. Hội nghị Ngoại

trưởng ASEAN lần thứ 30 diễn ra tại Subang Jaya, Malaysia đã thông quan một Tuyên bố
chung vào ngày 25 tháng 7 năm 1997 nêu rõ mối quan ngại sâu sắc và kêu goi các nước
ASEAN cần hợp tác chặt chẽ hơn nhằm bảo vệ và tăng cường lợi ích của ASEAN trong giai
đoạn này.[6] Ngẫu nhiên là trong cùng ngày này, các Ngân hàng Trung ương của hầu hết các
nước chịu tác động của khủng hoảng đã gặp nhau tại Thượng Hải trong Hội nghị cấp cao
Đông Á Thái Bình dương EMEAP, và thất bại trong việc đưa ra một biện pháp Dàn xếp cho
vay mới. Trước đó một năm, Bộ trưởng Tài chính của các nước này cũng đã tham dự Hội
nghị Bộ trưởng Tài chínhAPEC lần thứ 3 tại Kyoto, Nhật Bản vào ngày 17 tháng 3 năm
1996, và theo như Tuyên bố chung, các bên đã không thể nhân đôi được Quỹ tài chính phục
vụ cho Hiệp định chung về cho vay và Cơ chế Tài chính trong tình trạng khẩn cấp. Vì vậy,
cuộc khủng hoảng có thể xem như một thất bại trong việc xây dựng năng lực phù hợp kịp
thời, thất bại trong việc ngăn chặn sự lôi kéo tiền tệ.
Một số nhà kinh tế lại chỉ trích chính sách tài chính thắt chặt của IMF được áp dụng ở các
nước xảy ra khủng hoảng càng làm cho khủng hoảng thêm trầm trọng. [7]
Bài học thứ nhất: Phải có công cụ điều tiết luồng vốn.
Không phải tình cờ khi hai nước châu Á ít bị ảnh hưởng nhất của cuộc khủng hoảng tài
chính, Trung Quốc và Ấn Độ, cũng chính là những nước không tự do hóa thị trường vốn. Và
trong số những nước đã tự do hóa thị trường vốn, cũng không phải ngẫu nhiên mà nước
khống chế tốt nhất những tác động của cuộc khủng hoảng, Singapore, chính là nước có hệ
thống luật pháp tốt nhất.
Do thiếu các biện pháp kiểm soát, nhiều nền kinh tế châu Á đã rơi vào tình trạng quá phụ
thuộc vào nguồn tài chính rất dễ biến động từ bên ngoài - đó là các khoản vay ngắn hạn.
Cuối năm 1996, các nước Đông Á đã nợ các ngân hàng châu Âu 318 tỷ USD, ngân hàng
Nhật Bản 260 tỷ USD và ngân hàng Mỹ 46 tỷ USD, đa số là dưới hình thức vay ngắn hạn dưới 1 năm.
Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) cho biết trong 3 năm trước thời điểm 1997, các khoản nợ ngắn hạn
của Thái Lan chiếm tới 7-10% GDP, trong khi tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
chỉ chiếm 1% GDP.
Khi xảy ra khủng hoảng, các nguồn vốn ngắn hạn này biến mất cũng nhanh như khi xuất
hiện, vì không hề có các công cụ điều tiết.
Bài học thứ hai: Cần xây dựng hành lang pháp lý phù hợp.



Cũng giống như việc nối các thị trấn nhỏ với đường cao tốc mà trước đó không trang bị cho
chúng hệ thống đường xá và cảnh sát giao thông phù hợp để giám sát việc tuân thủ luật lệ, sẽ
thật liều lĩnh khi mở cửa nền kinh tế của các nước đang phát triển với thị trường vốn quốc tế
mà chưa xây dựng hệ thống luật pháp phù hợp và đào tạo được đội ngũ cán bộ liêm khiết.
Hệ thống ngân hàng với sự giám sát lỏng lẻo vào những năm trước thời điểm 1997 đã dẫn
đến sự phát triển quá mức của thị trường tín dụng ở nhiều nước châu Á, như Indonesia,
Malaysia, Philippines, Hàn Quốc và Thái Lan, kéo theo việc đầu tư dư thừa vào một số
ngành kinh tế.
Việc dư thừa nguồn tín dụng còn dẫn đến tình trạng lãng phí, với cuộc chạy đua sở hữu tòa
nhà cao nhất thế giới ở các nước châu Á là một ví dụ. Tệ hơn, việc “thừa tiền” còn châm
ngòi cho sự phát triển bong bóng của thị trường bất động sản, từ đó lại quay lại tình trạng dư
thừa tín dụng, vì các ngân hàng cho vay nhiều hơn giá trị thực của tài sản thế chấp. Kết quả
là khi “bong bóng” vỡ, các ngân hàng phải hứng chịu hậu quả.
Hệ thống ngân hàng với sự giám sát lỏng lẻo còn cho phép các ngân hàng có tỷ lệ vốn lưu
động không phù hợp. Theo số liệu năm 1997 của Ngân hàng Thanh toán Quốc tế (BIS), ở
Philippines (17%), Hồng Kông (18%) và Singapore (19%), tỷ lệ này cao hơn nhiều so với
tiêu chuẩn tối thiểu quốc tế.
Bài học thứ ba: Nguy cơ dư thừa vốn.
Chính phủ của các nền kinh tế mới nổi không thể làm gì nhiều để ngăn “lũ” vì nguồn cơn
của sự mất cân bằng trên thị trường tài chính quốc tế không nằm trong tầm kiểm soát trực
tiếp của họ.



×