Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Thực tiễn chính sách dổi mới công nghệ trong những thập kỷ gần đây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.31 KB, 18 trang )

Thực tiễn chính sách đổi mới công nghệ ở các thập kỷ gần
đây
Tính đến giữa thập kỷ 90 đã có 3 sự việc lớn xảy ra liên quan đến tình hình cung cấp tài
chính cho R&D thuộc khu vực công nghiệp, đó là:
Các doanh nghiệp đã cắt giảm đáng kể lợng kinh phí cho hoạt động R&D, đặc biệt
là ở các nớc phát triển;
Chính phủ đã cắt giảm rất nhiều mức tài trợ cho hoạt động R&D của các doanh
nghiệp;
ít, hoặc không có bằng chứng về hiện tợng quốc tế hoá hoạt động R&D của các
công ty.
Tình hình nh vậy đã làm nổi bật lên sự cần thiết phải đề ra các chính sách nhằm khuyến
khích các doanh nghiệp đầu t mạnh cho R&D để đổi mới công nghệ. Các chính sách đổi
mới của Chính phủ là những nỗ lực của Chính phủ nhằm khuyến khích khu vực doanh
nghiệp tích lũy, truyền bá và thơng mại hoá các sản phẩm, quy trình và dịch vụ mới 12.
Động cơ chủ yếu của các chính sách đổi mới của Chính phủ là thúc đẩy khu vực doanh
nghiệp đầu t đúng mức cho hoạt động R&D.
Thập kỷ 90 cũng đợc chứng kiến một sự kiện quan trọng nữa, đó là đa số các nớc đang
phát triển trên thế giới đều đã cố gắng giảm bớt sự can thiệp của Chính phủ ở phần lớn
các lĩnh vực hoạt động kinh tế. Trong bối cảnh nh vậy, cần phải nhận dạng đợc những
công cụ nào của chính sách đổi mới có sự can thiệp ở mức thấp nhất của các cơ quan hoặc
tổ chức Chính phủ. Một trong những công cụ đó là các biện pháp sử dụng công cụ thuế.
Biện pháp này đã đợc áp dụng khá phổ biến. Tuy nhiên, có một điều còn ít biết đến, đó là
mức độ hiệu quả của biện pháp đó. Bất kỳ dạng trợ cấp nào cũng đều là một sự nỗ lực đối
với những Chính phủ, do thờng xuyên phải lo tìm cách giảm bớt sự thâm hụt ngân sách
của mình và đang phải cố tuân thủ các tiêu chuẩn về trợ cấp do WTO quy định.
Một đặc trng quan trọng của việc đầu t cho R&D, làm cho nó khác với các loại hình đầu
t khác, đó là những sản phẩm do sự đầu t đó đem lại mang tính chất tài sản công cộng,
nghĩa là phục vụ cho bất cứ ai và không có cạnh tranh. Theo một tài liệu đợc nhiều ngời
trích dẫn của Arrow (1962), hiện nay nhìn chung mọi ngời đều dám chắc rằng nếu cứ phó
mặc hoàn toàn hoạt động R&D cho khu vực t nhân, thì nó sẽ nhanh chóng không đáp ứng
mức đầu t cần thiết, chủ yếu là do không sở hữu đợc toàn bộ lợi nhuận mà hoạt động


R&D của mình đem lại.
Các nhà kinh tế đã thử nghiệm điều này dựa vào kinh nghiệm bằng cách phân tích sự bất
tơng xứng giữa lợi ích chung cho toàn thể xã hội với lợi ích riêng của doanh nghiệp mà
một đổi mới công nghệ đem lại. Sự chênh lệch giữa lợi ích xã hội và lợi ích riêng đ ợc gọi
là mức chênh lợi ích. Mức chênh lợi ích càng lớn thì doanh nghiệp lại càng không muốn
đầu t cho R&D. Nói cách khác, sự đầu t dới mức có quan hệ tỷ lệ thuận với sự bất tơng
xứng về lợi ích.
Việc nhận thức đợc khả năng xảy ra sự đầu t dới mức nh vậy đã giúp các Chính phủ thấy
rõ sự cần thiết phải hỗ trợ cho R&D 6. Những nghiên cứu gần đây của Mỹ (Xem Hill,
12

Định nghĩa này tơng tự với định nghĩa do Dodgson (1999) nêu ra
Nhận thức này ngày càng đợc đề cập tới ở những bài viết của một số nhà kinh tế học. Ví dụ, Stiglitz (1998)
lập luận rằng: Nếu cứ để mặc cho thị trờng thì nó không thể đem lại nhiều công nghệ nh mong muốn. Giống
nh việc đầu t cho giáo dục, việc đầu t cho công nghệ không đợc coi nhẹ. Đầu t cho hoạt động R&D cũng khá
nhiều rủi ro hơn so với các loại hình đầu t khác, đồng thời thông tin cũng thiên lệch hơn nhiều, bởi vậy có thể
6


1995) cho thấy rằng trong những thập kỷ qua, việc giảm kinh phí Chính phủ cho R&D đã
kéo theo sự giảm mức hỗ trợ trung bình của các hãng công nghiệp cho hoạt động R&D
của ho. Theo Hill 7, điều lý giải chính là nh sau: Khi Chính phủ làm cho giới công nghiệp
có nhiều kinh phí hơn thông quan hợp đồng R&D thì các doanh nghiệp cũng tăng chi phí
R&D của mình với hy vọng thu hút đợc nhiều vốn hơn từ phía Chính phủ. Chi phí của
doanh nghiệp cũng có thể dựa theo cách thức chi phí của Chính phủ để có khả năng dành
đợc lợi thế hơn trong việc thu hút các công ty con có khả năng sẽ xuất hiện từ các ch ơng
trình R&D của Chính phủ.
ở Mỹ, Chính phủ đã có nhiều năm khuyến khích và hỗ trợ (theo cách công khai) đối với
R&D cả cho nghiên cứu cơ bản lẫn nghiên cứu ứng dụng. Mặc dù khu vực doanh nghiệp
đã là một nguồn đổi mới công nghệ quan trọng (vai trò của khu vực này rất hay đ ợc

phóng đại lên), nhng ngày càng cảm nhận đợc rằng Chính phủ còn cần phải khuyến khích
các hoạt động phát triển, thơng mại hoá và sử dụng công nghệ (Văn phòng Chính sách
KH&CN, 1995). Những ví dụ gần đây về sự trợ giúp của Chính phủ Liên bang cho các nỗ
lực R&D phục vụ để thơng mại hóa ở khu vực t nhân đợc nêu tóm lợc ở bảng 2. Một dấu
ấn lớn trong chính sách công nghệ Mỹ kể từ thập kỷ 80 là sự ra đời của một số Ch ơng
trình đối tác then chốt giữa giới công nghiệp, Chính phủ và hệ thống các tr ờng đại học,
với mục đích đặt ra rõ ràng là nhằm đẩy nhanh việc thơng mại hoá những đổi mới công
nghệ8.
Bảng 1
Sự hỗ trợ của Chính phủ cho hoạt động R&D ở ngành công nghiệp

Cơ sở
để lựa
chọn
dự án

Chơng trình
Công nghệ
tiên tiến
(ATP)

Hiệp định hợp
tác R&D
(CRADA)

Mở rộng các
lĩnh
vực
nghiên
cứu

cho
mọi
doanh nghiệp
mà đề nghị
tham gia vào
những công
nghệ
tạo
nhiều
khả
năng và có
mức độ rủi ro

Các đối tác
của khu vực t
nhân đợc tự
do đề nghị
việc hợp tác ở
các lĩnh vực
thuộc phạm vi
nhiệm
vụ
nghiên
cứu
của các phòng
thí
nghiệm
của Chính phủ

Chơng trình

Nghiên cứu
về Đổi mới
ở các doanh
nghiệp nhỏ
(SBIR)
Chính phủ
chọn ra các
chủ
đề
nghiên cứu,
trên cơ sở đó
sẽ xem xét
những nơi
đề
nghị
tham
gia
tiếp đó;
Những ứng
viên đề xuất

Chơng
trình Mở
mang lĩnh
vực chế tạo
(MEP)

Dự án
Tái đầu
t công

nghệ
(TRP)

Các trung
tâm
của
MEP giúp
đỡ tất cả
các doanh
nghiệp vừa
và nhỏ tìm
đến

Chú
trọng
vào phát
triển và
áp dụng
những
công
nghệ có
tầm
quan
trọng
đối với

khiến cho tác dụng thị trờng kém hiệu quả. Công nghệ cũng có những ngoại tố (Externality) hết sức tích cực
mà thị trờng không đem lại. Quả thực, xét ở một vài khía cạnh, thì tri thức giống nh loại tài sản công cộng.
Những lợi ích xã hội do sự tăng đầu t cho công nghệ lớn hơn rất nhiều so với lợi ích của từng doanh nghiệp.
Nh Thomas Jefferson đã nói: Các ý tởng có tác dụng nh những ngọn nến. Ta có thể dùng ngọn nến này để

thắp sáng các ngọn nến khác. Nếu Chính phủ không tác động vào thì sẽ ít sự đầu t để sản sinh và ứng dụng
công nghệ.
7
Hill (1995), tr.12
8
Xem Skolnikoff (1995) để biết chi tiết về những thay đổi chính sách


cao. Việc lựa
chọn các đề
nghị tài trợ đợc Viện Tiêu
chuẩn

Công
nghệ
quốc gia thực
hiện, dựa trên
việc xem xét
chặt chẽ theo
phơng pháp
ngang bằng
(peer review)
đối với các
vấn đề kinh tế
và kỹ thuật
Sự hỗ Bằng các hợp
trợ tài đồng hợp tác,
chính
trong đó có
của

điều
khoản
Chính chia sẻ chi phí
phủ
cần thiết

Hỗ trợ Giám sát và
phi tài hỗ trợ kỹ thuật
chính
cho dự án có
giá trị gia tăng

Liên bang

những dự án
cụ thể

nhiệm
vụ quốc
phòng

Các phòng thí
nghiệm có thể
góp các nguồn
lực về con ngời và vật chất,
nhng có thể
không
góp
vốn trực tiếp.
Nhìn chung,

phòng
thí
nghiệm
chỉ
đóng góp dới
50% tổng chi
phí dự án
Sự hợp tác kỹ
thuật là điều
khoản chính
của hiệp định

Là cơ quan
tài trợ cho
các chi phí
của dự án,
với giá trị
lên
tới
100.000
USD
cho
pha I, và lên
tới 750.000
USD
cho
pha II

Đây là chơng trình
bao gồm

sự hỗ trợ
phi
tài
chính

Các hợp
đồng
hợp tác
cùng
chịu
những
chi phí
cần thiết

Không

Có hỗ trợ

Giám sát
và hỗ trợ
kỹ thuật
cho dự
án

Danh mục ở trên cho thấy vai trò của Chính phủ trong việc phát triển công nghệ, ngay cả
ở một nền kinh tế tự do nh nớc Mỹ. Chính phủ Mỹ cũng hỗ trợ mạnh cho nghiên cứu cơ
bản ở trong nớc. Theo Uỷ ban Phát triển Kinh tế (1998), Chính phủ Liên bang từ lâu đã là
nơi trợ giúp quan trọng nhất cho nghiên cứu cơ bản. Kinh phí của Chính phủ dành cho
nghiên cứu cơ bản đã vợt quá số kinh phí của khu vực t nhân dành cho nó, xét cả giá trị
tuyệt đối lẫn tỷ lệ của tổng kinh phí hoạt động R&D. Trong số gần 63 tỷ USD Chính phủ

chi cho R&D hàng năm, 18 tỷ USD đợc cấp cho nghiên cứu cơ bản, còn ngành công
nghiệp chỉ cấp 8 tỷ USD trong số 133 tỷ USD ngành này chi cho R&D. Mặc dù doanh
nghiệp t nhân có tiến hành nghiên cứu cơ bản nhng tất cả cố gắng của họ đều là để lấp
đầy chỗ trống (fill-in-the-gaps) ở những chơng trình nghiên cứu ứng dụng lớn nhằm phát


triển các sản phẩm mới. Ngành công nghiệp lệ thuộc vào các nền tảng trí tuệ do các nhà
nghiên cứu thuộc các tổ chức phi lợi nhuận và Chính phủ tạo ra, để phát triển các sản
phẩm và dịch vụ mới cho mình. Một nghiên cứu gần đây phát hiện thấy rằng 73% những
công bố nghiên cứu đợc trích dẫn từ các sáng chế của ngành công nghiệp đã bắt nguồn từ
các công trình nghiên cứu do Chính phủ tài trợ.
Có thể tìm thấy một bằng chứng nữa cho thấy vai trò trợ giúp của Chính phủ liên bang
cho hoạt động R&D là ở trong tài liệu do Hội đồng Cố vấn kinh tế (1995) soạn thảo. Tài
liệu này sử dụng một số lỹ lẽ đã quen thuộc, nh việc hiệu chỉnh sự đầu t thấp có khả năng
xảy ra, nh ta đã đề cập đến ở các mục trên. Quả thực, vấn đề là Chính phủ Mỹ cung cấp
vô số (và hoàn toàn có lý để làm nh thế) các khoản trợ cấp cho hoạt động R&D là một sự
hiển nhiên rất rõ ràng ở trong bản báo cáo của John H. Gibbons 9 (nguyên Giám đốc Văn
phòng Chính sách KH&CN) trớc Phân ban Công nghệ, Môi trờng và Hàng không của
Nhà Trắng. Bản báo cáo đề cập đến địa vị chính thức của Mỹ trong quan hệ với Luật trợ
cấp R&D nêu ra trong Dự luật Dunkel của Bộ luật Trợ cấp GATT. Báo cáo của ông
Gibbons nêu rõ:
So với Nhật Bản và châu Âu, nớc Mỹ dựa nhiều hơn vào sự hỗ trợ của Chính phủ
Trung ơng cho hoạt động R&D;
Dự luật đầu tiên của Dunkel có thể đã bật đèn xanh cho những khoản trợ cấp cho
R&D mà không có khả năng đem lại hiệu quả. Tuy nhiên, để bảo vệ, phần đóng
góp của Chính phủ có thể không vợt quá 50% đối với nghiên cứu cơ bản hoặc 35%
đối với nghiên cứu ứng dụng. Công thức này đã đặc biệt tồi tệ đối với chính sách
công nghệ Mỹ, vì sự đầu t của Chính phủ cho nghiên cứu ứng dụng thờng thực hiện
theo tỷ lệ phần trăm 50-50 trong quan hệ đối tác với ngành công nghiệp. Mức hỗ
trợ này vợt quá các giới hạn do Dunkel nêu ra và có thể khiến cho nhiều chơng

trình R&D của quốc gia phải hứng chịu thách thức.
Nhờ sự đàm phán mạnh mẽ của phía Mỹ, những giới hạn đó đã đợc đảo lại. Những
nghiên cứu công nghiệp đã đợc lập ra với ý tởng ứng dụng thơng mại phần nào
trong quá trình tiến hành có thể nhận đợc nhiều tới 75% số vốn của Chính phủ mà
không gặp khó khăn gì. Những hoạt động phát triển nằm trong thời kỳ từ tiền cạnh
tranh tới khi tạo ra nguyên mẫu phi thơng mại đầu tiên, có thể nhận đợc kinh phí
theo tỷ lệ ngang bằng từ Chính phủ và ngành công nghiệp.
Sự việc phía Mỹ đã ra sức vận động ở Vòng đàm phán thơng mại Uruguay để đảo ngợc lại
mức trợ cấp tự nó đã là một sự biểu thị rõ ràng về tầm quan trọng mà họ đặt vào các chính
sách đổi mới của Chính phủ.
Một cuộc thảo luận tơng tự về vai trò của Chính phủ trong việc phát triển công nghệ cũng
diễn ra ở nớc Anh, nơi vì những lý do gần đây của các chơng trình t nhân hoá thành công,
Chính phủ đã hy vọng vận hành lại hầu hết các lĩnh vực hoạt động kinh tế. Theo
Stoneman (994), học thuyết chỉ đạo cho cách tiếp cận của Chính phủ Anh đối với chính
sách công nghệ đó là: duy trì mọi sự can thiệp ở mức tối thiểu. Học thuyết này dựa trên
cơ sở cho rằng nếu cho phép thị trờng thực hiện chức năng của nó thật hiệu quả thì các
công ty có khả năng tạo ra đủ lợi nhuận từ việc tái đầu t cho công nghệ mới. Thực tế của
chính sách đó đã đợc phản ánh ở việc cắt giảm đều đặn và liên tục kinh phí Chính phủ cấp
cho hoạt động R&D công nghiệp phục vụdân sinh và vì vậy, không có gì đáng ngạc nhiên
là số kinh phí mà các doanh nghiệp tự mình dành cho hoạt động R&D đã giảm đi rất
nhiều.
9

Gibbons (1994)


Theo Walker, việc điều hành đất nớc dựa trên một học thuyết nh vậy đã đem lại sự bất
ổn định của các chính sách Chính phủ. Bởi vậy, ta cũng không ngạc nhiên lắm khi thấy
nớc Anh đứng ở vị trí gần cuối cùng xét theo chỉ số đổi mới do Porter và Stern thiết kế 10 .
Porter t vấn rằng, nếu Chính phủ Anh muốn đảo ngợc lại tình thế thì cần phải tổ chức

những biện pháp khuyến khích mạnh mẽ để trợ giúp cho các doanh nghiệp. Kết cục,
trong ngân sách mới đây, Chính phủ Anh mới áp dụng biện pháp khấu trừ thuế cho R&D.
Điều này chứng tỏ ngay cả Chính phủ Anh cũng chậm nhận thức đợc tầm quan trọng của
các chính sách đổi mới của Chính phủ trong việc khuyến khích khu vực t nhân hoạt động
R&D mạnh mẽ hơn.
Một đóng góp đáng quan tâm nữa cho cuộc tranh luận là bản báo cáo mới đây, World
Development Report (WDR) của Ngân hàng thế giới (1998) (WB) 11
Theo báo cáo dó, ngoài việc phải tận dụng u thế của nguồn vốn tri thức to lớn trên toàn
cầu, các nớc đang phát triển cần phải phát triển năng lực để tạo ra tri thức ở nớc mình.
Năng lực để tạo ra tri thức nội sinh không những phải bao hàm các chiến lợc phát triển tri
thức ở trong nớc, mà phải có các chính sách và cơ chế mà kết cục sẽ tăng cờng năng lực
của quốc gia để tiếp thu tri thức. Kết hợp 2 điều đó với nhau có thể tạo lập đ ợc các chính
sách đổi mới của Chính phủ. Tuy nhiên, WDR đã không đề cập đến vấn đề đó một cách
chi tiết.
Phần lớn các nớc đang phát triển đều không có chính sách đổi mới, vì họ thờng cho rằng
bản thân họ hoàn toàn không tham dự vào bất kỳ một hoạt động đổi mới nào. Trờng hợp
tốt nhất họ hy vọng là thực hiện đợc những đổi mới nhỏ, chủ yếu là làm cho các công
nghệ nhập khẩu của mình thích ứng với các điều kiện ở trong nớc. Tuy nhiên, những bài
học tăng trởng của một số nớc đang phát triển và đặc biệt là của các con hổ Đông á,
cho thấy rằng họ cũng có thể tạo ra các công nghệ mới.
Theo Leyden và Link (1992), có thể phân chia phạm vi của các chính sách đổi mới của
Chính phủ thành 2 loại hình nh sau:
Tạo lập và duy trì một môi trờng pháp lý thuận lợi để khu vực t nhân xúc tiến việc
đầu t vào các hoạt động R&D. Môi trờng này tạo ra bằng các công cụ pháp lý, giúp
làm tăng khả năng chiếm hữu các thành quả do hoạt động R&D đem lại. Thông
qua các biện pháp nh thiết lập hệ thống bảo hộ sở hữu trí tuệ và xoa dịu các hoạt
động chống độc quyền, Chính phủ có thể tạo ra một môi trờng thuận lợi cho đầu t
vào R&D;
Tạo ra đủ những biện pháp kích thích để khắc phục khuynh hớng tự nhiên của khu
vực t nhân là chỉ cân nhắc đến lợi ích riêng của họ khi lựa chọn mức độ hoạt động

đổi mới mà họ tham gia vào. Có vô số các biện pháp nh vậy, bao gồm các khoản
trợ cấp của Chính phủ và các hợp đồng đợc ký kết đối với những khuyến khích đã
cam kết.
Chỉ số đo có dụng ý đo về lợng đối với năng lực đổi mới quốc gia của mỗi nớc. Năng lực đổi mới quốc gia
phụ thuộc vào các nguồn lực và những cam kết chính sách đối với việc đổi mới. Nó phụ thuộc vào 3 nhân tố
lớn sau đây:
a) Chất lợng của kết cấu hạ tầng chung phục vụ cho hoạt động đổi mới;
b) Môi trờng đổi mới thuận lợi để hình thành và phát triển các cụm, nhóm (cluster) doanh nghiệp đổi
mới;
c) Chất lợng của mối liên hệ giữa hai yếu tổ a và b. Có thể xem chi tiết việc xây dựng chỉ số nói trên ở
tài liệu của Hội đồng về Sức cạnh tranh (1999)
11
Báo cáo có nhan đề Tri thức phục vụ phát triển. Hai chơng trong đó là Chơng 2 và Chơng 10 bàn về vai trò
của Chính phủ trong vấn đề tạo ra tri thức ở các nớc đang phát triển.
10


Các chính sách đổi mới của Chính phủ có những điểm khác biệt quan trọng giữa các
nớc khác nhau. Bảng 1 nêu ra một số biện pháp cơ bản. 13
Bảng 2
Nội dung các chính sách đổi mới của Chính phủ
Loại biện pháp Biện pháp tài chính
Quan hệ với
thị trờng
Chính phủ cung ứng
sản phẩm và dịch vụ

Cải biến những kích
thích của thị trờng


13

Trợ cấp cho việc
trao đổi cán bộ
R&D giữa khu vực
Chính phủ và khu
vực t nhân

Kích thích bằng
thuế khoá đối với
R&D;
Cấp vốn trực tiếp
thông qua việc trợ
cấp, cho vay với lãi
suất thấp, bảo lãnh
cho các khoản vay
phục vụ các dự án
R&D;

Biện pháp phi tài chính

Các chính sách
nhằm thúc đẩy sự
truyền bá công
nghệ;
Chính sách phát
triển nguồn nhân
lực;
Hoạt động R&D
của các trờng Đại

học và Chính phủ;
Xây dựng hệ thống
tiêu chuẩn công
nghiệp
Chính phủ đặt
hàng, nhất là đối
với các sản phẩm
quốc phòng;
Các chế độ về
quyền sở hữu trí
tuệ (IPR)
Các chính sách
công nghiệp và thơng mại;

Theo WB (1998), các chính sách đổi mới của Chính phủ cần phải bao gồm:
a) Sự khuyến khích của Chính phủ đối với hoạt động nghiên cứu, có thể trực tiếp thông qua các hoạt
động R&D do các tổ chức của khu vực Chính phủ tiến hành, hoặc gián tiếp thông qua các biện pháp
nhằm kích thích hoạt động R&D ở khu vực t nhân. Các tổ chức Chính phủ trực tiếp tiến hành công tác
R&D gồm các trờng Đại học, các viện nghiên cứu, các công viên khoa học Sự hỗ trợ gián tiếp của
Chính phủ cho R&D bao gồm u đãi về tài chính miễn giảm thuế, các khoản trợ cấp thích hợp và xúc
tiến các dự án R&D cấp quốc gia.
b) Phát triển các năng lực cốt lõi trong khoa học cơ bản và công nghệ, vì điều đó không những cần thiết
để duy trì khả năng tiếp cận đợc với nguồn tri thức toàn cầu, mà còn giúp làm cho tri thức thích hợp
với điều kiện sử dụng ở trong nớc.


Xúc tiến các dự án
R&D ở cấp quốc
gia;
Các dự án R&D

liên kết, hợp tác
giữa khu vực Chính
phủ và t nhân
Hỗ trợ để hoàn thiện Tạo lập hoặc hoàn thiện
cơ chế thị trờng
các cơ chế của thị trờng
tài chính chuyên biệt
(chẳng hạn nh vốn mạo
hiểm)
Nguồn: Guinet và Kamata (1996)
Trong số các chính sách khác nhau, có các biện pháp tài chính, đặc biệt là các biện pháp
kích thích bằng thuế khoá, là đợc nhiều nơi chú ý áp dụng. Các kích thích thuế khoá có
một số thuộc tính khiến cho các nhà chính sách a dùng chủ yếu do một thực tế là nó ít
can thiệp vào cơ chế thị trờng. Bởi vậy, một điều không ngạc nhiên là ngời ta thờng đánh
đồng các chính sách đổi mới của Chính phủ với các biện pháp kích thích về thuế khoá và
các biện pháp tài chính khác. Tuy nhiên, trong các cuộc bàn luận hiện nay, cũng nh trong
bối cảnh các nớc đang phát triển, một số các biện pháp phi tài chính cũng đóng vai trò
quan trọng không kém, nh phát triển nguồn nhân lực và tiêu chuẩn công nghiệp.
Các biện pháp tài chính
a) Kích thích bằng thuế
Trong các cuộc thảo luận hiện nay, mọi ngời đều cho rằng các biện pháp tài chính để thúc
đẩy đổi mới có một tầm quan trọng rất lớn 14. Trong số các biện pháp tài chính, công cụ
quan trọng nhất và đợc sử dụng nhiều nhất là các biện pháp kích thích bằng thuế khoá.
Một công trình khảo sát gần đây của OECD lần đầu tiên đã định lợng đợc toàn bộ mọi
khía cạnh của sự trợ giúp của Chính phủ cho hoạt động R&D trong ngành chế tạo ở các
nớc có hoạt động R&D mạnh mẽ thuộc Tổ chức OECD. Trong số 3 loại hình đó, các hợp
đồng R&D xem ra là loại hình quan trọng hơn cả, mặc dù nó đã gần nh chững lại. Sự hỗ
trợ trực tiếp R&D là loại hình có tầm quan trọng thứ hai và đã gia tăng với tỷ lệ gần
9%/năm; sự tụt xuống vào năm 1993 có thể là do không có báo cáo đẩy đủ. Kết hợp 3
loại hình với nhau, tổng giá trị mà Chính phủ trợ giúp chiếm tới 15% toàn bộ kinh phí

dành cho R&D của khu vực công nghiệp ở trong khối OECD. Vì loại hình hỗ trợ trực tiếp
của Chính phủ cho hoạt động R&D là một trong những loại hình có liên quan tới vấn đề
ta cần thảo luận nên sẽ bàn chi tiết hơn về nó.
Trong số những biện pháp hỗ trợ trực tiếp cho R&D, thì biện pháp kích thích bằng thuế
đã giảm đi nhiều, trong khi đó sự trợ cấp trực tiếp đã thực sự tăng lên. (Xem bảng 4).
Điều này chứng tỏ rằng ở các nền kinh tế thị trờng tự do, việc trực tiếp tài trợ cho các dự
án cụ thể của khu vực t nhân đang trở nên rất phổ biến, mặc dù việc trợ cấp nh vậy thực
sự có gây trở ngại cho cơ chế thị trờng.
Trong số các cơ chế hỗ trợ trực tiếp, việc trợ cấp xem ra là hình thức chủ yếu. ở một số nớc nh Ixraen, toàn bộ sự hỗ trợ của Chính phủ cho ngành công nghiệp là ở hình thức trợ
cấp trực tiếp (Teubal, 1993). Hơn thế nữa, hình thức này cũng tăng tỉ lệ lên khá nhiều.
Còn hình thức giảm nhẹ thuế, mặc dù có tầm quan trọng thứ hai, nhng đã giảm tỷ lệ
xuống gần 1/2. Hiện tợng dờng nh có sự mất ảo tởng đối với công cụ miễn giảm thuế này
14

Xem OECD (1996a và 1996b) và Shah (1995)


đáng để ta nhìn nhận sâu hơn. Sở dĩ nh vậy vì ngày càng có nhiều nớc đang phát triển
nh ấn Độ, có biểu hiện muốn thay thế việc hỗ trợ trực tiếp cho R&D bằng hình thức trợ
cấp gián tiếp, chẳng hạn nh bằng công cụ thuế: Ta quan tâm đến 2 khía cạnh của loại trợ
cấp này:
Hình thức đặc thù của nó ở các quốc gia khác nhau (Bảng 5);
Xem xét bằng chứng về hiệu quả của nó, với vai trò là công cụ để kích thích
doanh nghiệp t nhân đầu t vào hoạt động R&D;
Bảng 3
Sự hỗ trợ trực tiếp cho R&D ở các nớc tiên tiến
Đơn vị: %
Công cụ
Trợ cấp cho nghiên cứu
Miễn giảm thuế

Bảo lãnh vay vốn
Hỗn hợp các biện pháp
Không đợc phân loại

1990
1991
1992
1993
45,6
45,6
53,5
58,5
31,4
31,1
19,8
19,8
1,3
1, 7
4,6
0,9
21
20,5
20,8
19,1
0,7
1,36
1,4
1,7
Bảng 4
Bản chất của hình thức trợ cấp thuế cho hoạt động R&D của các nớc


Bản chất của khoản khấu trừ
Toàn bộ chi phí
Một phần chi phí
Lợng giá trị lớn hơn chi phí
Nếu có khấu trừ, thì theo phơng thức:
Năm đầu tiên
Trong giai đoạn 1-3
năm
Trong giai đoạn trên 5
năm
Tuỳ theo ý của ngời
đóng thuế

1989
42,5
35,4
1,2
20,4
0,5

Có khấu trừ đối
với lãi suất dựa
vào chi phí R&D
(%)
85
5
10

Có khấu trừ thuế đối với

chi phí cơ bản cho tài sản
cố định có liên quan tới
R&D
90
0
10

55

10

0

30

20

40

45

0

Hình thức trợ cấp thuế ở các nớc
Vấn đề này đợc xem xét dựa trên một công trình khảo sát về tình hình đánh thuế thu nhập
đối với khoản chi phí cho hoạt động R&D ở 12 nớc phát triển và đang phát triển 15.
Những điều rút ra đợc là nh sau:

15


Những nớc này gồm 13 nớc phát triển (Ôxtrâylia, Bỉ, Canađa, Pháp, Đức, Ailen, Italia, Nhật Bản, Hà Lan,
Tây Ban Nha, Thụy Sỹ, Anh và Mỹ) và 6 nớc đang phát triển (Braxin, Trung Quốc, Hồng Kông, Hàn Quốc,
Singapo, Nam Phi và Đài Loan)


Phần lớn các nớc đợc khảo sát đều cho phép khấu trừ với thời hạn 1 năm trong
thuế thu nhập đối với hầu hết số lợi nhuận và khoản chi phí cơ bản của hoạt động
R&D.
ở khoảng 10% số quốc gia đợc khảo sát 16, lợng giá trị đợc phép khấu trừ thuế
thậm chí còn lớn hơn chi phí của doanh nghiệp;
Phần lớn các khoản khấu trừ thuế lợi tức đều đợc chấp nhận ở năm đầu tiên, còn
phần lớn các khoản khấu trừ thuế của chi phí cơ bản đợc chấp nhận trong 5 năm
đầu.
Phơng thức khấu trừ thuế ở các nớc đang phát triển.
Trong số trên 100 quốc gia đợc coi là các quốc gia đang phát triển thì chỉ có một số nhỏ
(khoảng 10 nớc) là có các doanh nghiệp sản xuất đầu t vào R&D. Những nớc này hoặc là
ở châu á (nhất là ở Đông á), hoặc ở châu Mỹ Latinh. Tất cả các nớc (mà đã thông báo về
giá trị chi phí cho hoạt động R&D công nghiệp đạt mức khá), đã có một số hình thức xử
lý thuế đối với R&D, mặc dù trong số đó chỉ có Hàn Quốc và Đài Loan đa ra hình thức
khấu trừ thuế. Singapo cũng đa thêm một số lợi ích về thuế nữa cho R&D (xem Bảng 5).
Bảng 5
Cách thức xử lý thuế R&D ở các nớc đang phát triển
Nớc

Braxin
Trung
Quốc
ấn Độ

Hàn

Quốc

Mehico

16

Xác định
loại hoạt
động
R&D để
đánh
thuế
R&D ở
ngành
máy tính
NA

Tỷ lệ
giảm
thuế
R&D
(%)

Tỷ lệ
giảm đối
với vốn
R&D
(%)

Tỷ lệ

khấu
trừ thuế

Cơ sở để
khấu trừ
thuế dần
dần

Cách
áp
dụng

Khoản
nợ có
đánh
thuế

100

100

Không

NA

NA

NA

NA


Không

Không
có số liệu
(NA)
NA

NA

NA

Hoạt
động
nghiên
cứu đặc
thù hoặc
bí quyết
Chi phí
nghiên
cứu và
thực
nghiệm

100

100, trừ
đất đai

Không


NA

NA

NA

100

giảm 1820, riêng
đối với
nhà xởng: 5-6

10
25

NA

NA

100

2 năm
cho
phòng thí
nghiệm

Không

0

Giá trị
trung
bình của
2 năm
cuối
NA

NA

NA

Những nớc đó gồm Ôxtrâylia, Singapo và Bỉ


Singapo

Loại trừ
lĩnh vực
khoa học
xã hội
quản lý
chất lợng,
phần
mềm
Nam Phi Nghiên
cứu khoa
học, phát
triển
công
nghệ

Đài
Nh thờng
Loan
lệ

và 20
năm cho
nhà xởng
Đầu t cơ
bản, trừ
một số
lĩnh vực
R&D

Giảm
nh thờng lệ

100
25
Không
% đối
với
phí
hải
quan
100
Giảm nh 15
thờng lệ

Giảm

thêm
(200%)

NA

NA

NA

NA

NA

20% lợi áp
tức
dụng
cho 4
năm
tiếp
theo

Nguồn : Hall và Reenen (1999)
Hiệu quả của trợ cấp thuế cho R&D
Có 2 khía cạnh chủ chốt để đánh giá mức độ hiệu quả của việc trợ cấp thuế cho R&D.
Khía cạnh thứ nhất liên quan đến hiệu quả của trợ cấp thuế nói chung với vai trò là công
cụ chính sách giúp tăng cờng chi phí cho nghiên cứu. Khía cạnh thứ 2 liên quan đến
khoản khấu trừ thuế R&D nói riêng đã có hiệu quả thế nào trong việc kích thích làm gia
tăng chi phí cho R&D, và với phí tổn bằng bao nhiêu cho lợi tức thuế quốc gia. Việc
Chính phủ tài trợ trực tiếp có khuynh hớng đem lại hiệu quả hơn so với các kích thích
bằng thuế khi mục tiêu chính sách là nhằm tăng nguồn tri thức cơ bản ở các doanh nghiệp

trong nớc: sự tài trợ trực tiếp có thể có khả năng nâng toàn bộ giá trị kinh phí dành cho
nghiên cứu cơ bản còn vợt cả lợng kinh phí Chính phủ cấp, trong khi đó một đơn vị tiền tệ
dùng cho việc khuyến khích bằng thuế có lẽ đem lại ít hơn nhiều so với một đơn vị kinh
phí bổ sung thêm cho nghiên cứu cơ bản, vì sự chênh lệhc về lợi ích. Nh ng nếu mục tiêu
chính sách là đẩy mạnh tốc độ thơng mại hoá sản phẩm/ quy trình/ dịch vụ mới thì lúc
này, biện pháp kích thích bằng thuế phần nào có u thế hơn so với việc tài trợ trực tiếp.
Thành công của việc thơng mại hoá dựa vào sự hiểu biết đúng đắn về thị trờng, và biện
pháp khuyến khích bằng thuế có u điểm là nhờng quyền cho doanh nghiệp t nhân tự mình
quyết định lựa chọn dự án để đầu t vào, chứ không do cơ quan Chính phủ chỉ định. Thậm
chí, ngay cả với việc trợ cấp thuế, các hãng cũng vẫn sẽ dành phần lớn kinh phí cho
những dự án họ theo đuổi, mà đảm bảo rằng họ, chứ không phải là những ng ời đóng thuế,
sẽ phải gánh chịu phần lớn rủi ro trong trờng hợp thất bại. Trái lại việc tài trợ trực tiếp cho


R&D phục vụ thơng mại có thể thúc đẩy sự phân bố không hợp lý các nguồn lực giữa các
ngành kinh tế chủ yếu.
Ngoài ra, khuyến khích bằng thuế ít gặp trở ngại hơn ở trong thị trờng, do vậy cho phép
những nhà ra quyết định của khu vực doanh nghiệp duy trì vai trò độc lập trong việc đề ra
các chiến lợc R&D của họ để phản ứng kịp thời với những tín hiệu thị trờng. Còn có ý
kiến nữa cho rằng các biện pháp khuyến khích thuế dễ quản lý hơn và ít mang tính tuỳ
tiện hơn so với việc trợ cấp trực tiếp cho dự án, mà thờng đợc cấp theo từng trờng hợp
một. Việc trợ cấp cho dự án cũng ít khả năng dự báo trớc, bởi lẽ nó phụ thuộc vào sự phân
bố ngân sách hàng năm.
Trái lại, biện pháp kích thích bằng thuế cũng có một số hạn chế, trong đó quan trọng nhất
là:
Việc trợ cấp thuế R&D có xu hớng hoạt động dựa theo chức danh tất cả các doanh
nghiệp nào có đủ phẩm chất đều có thể yêu cầu. Ngoài ra nó cũng dễ dàng bị lạm
dụng bằng cách phân loại những chi phí nghiên cứu thờng nhật thành chi phí đổi
mới;
Kích thích bằng thuế là một công cụ mù quáng: Nó không thể nhằm vào những dự

án R&D có sức lan toả rộng, còn việc tài trợ cho chơng trình thì có thể đạt đợc
Có rất nhiều thiên hớng thay nhãn mác cho các khoản chi phí thờng xuyên, chẳng
hạn nh quản lý và kiểm tra chất lợng thành chi phí R&D và yêu cầu u đãi thuế cho
khoản đó, nhất là ở các nớc đang phát triển.
Bằng chứng về tính hiệu quả của các khuyến khích thuế
Có 2 phơng pháp luận phục vụ cho việc thử nghiệm vấn đề này. Phần lớn hoặc tất cả các
cuộc khảo sát đều dựa vào Việc khấu trừ thuế đối với hoạt động nghiên cứu và thực
nghiệm của Mỹ:
Kỹ thuật thứ nhất dựa vào việc áp dụng phơng pháp khảo sát đơn giản là gửi phiếu
điều tra đến cho các nhà quản lý R&D cao cấp về ý kiến của họ đối với những thay
đổi trong hệ thống khuyến khích bằng thuế (Mansfield, 1985);
Kỹ thuật thứ hai áp dụng phép kinh tế trắc lợng để ớc tính độ co giãn về giá thành
của R&D, tức là lợng phần trăm gia tăng của R&D gây ra do sự giảm đi 1% chi phí
cho nó.
Chín công trình khảo sát ở trên đã đa ra bằng chứng khác nhau đối với những báo cáo về
lợng đầu t cho R&D do đợc nợ thuế đem lại trên mỗi đơn vị lợi tức mất đi. Không có kết
luận rõ ràng đợc nêu ra. Văn phòng Đánh giá Công nghệ (1995) đã có một sự xem xét rất
hệ thống và chi tiết về các tài liệu đề cập tới việc đo mức độ hiệu quả của biện pháp cho
phép nợ thuế đối với hoạt động R&D. Ngoài ra, một tài liệu gần đây của Hall và Reenen
(1999) đã điểm lại một số công trình khảo sát đợc tiến hành ở cả Mỹ và một số nớc khác,
trừ các nớc phát triển. Kết luận chính mà tài liệu này nêu ra là : lúc đầu, phản ứng đối với
biện pháp cho nợ thuế có xu hớng không nhiều, nhng tăng dần theo thời gian.
b) Vốn mạo hiểm
Một công cụ tài chính nữa mà ngày càng thu hút đợc chú ý, đó là các quỹ cung cấp vốn
mạo hiểm. Vốn mạo hiểm là một hình thức đầu t cổ phần vào một doanh nghiệp hoạt
động trên cơ sở công nghệ (technology-based firm), ở giai đoạn phát triển ban đầu. Ngoài
việc cung cấp nguồn vốn hết sức cần thiết, có độ rủi ro cao, các nhà kinh doanh vốn mạo
hiểm (t bản mạo hiểm) cũng đem lại khá nhiều sự hỗ trợ có giá trị gia tăng cho doanh
nghiệp đợc đầu t. Nh vậy, nói về lý thuyết, các tổ chức kinh doanh vốn mạo hiểm là một
giải pháp để khắc phục rào càn về tài chính cho các đổi mới, kể cả ở các nớc phát triển



lẫn các nớc đang phát triển. Quan điểm này đợc Mani (1997) nghiên cứu sâu hơn. Một lu
ý đáng quan tâm là ngay cả ở nhiều nớc OECD, các Chính phủ cũng thực hiện các chơng
trình của mình để huy động vốn mạo hiểm nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhỏ trong
hoạt động đổi mới (OECD, 1998). Những biện pháp trực tiếp bao gồm các chơng trình
đặc thù đợc Chính phủ tài trợ mà giúp làm tăng sự cung ứng tài chính từ nguồn vốn mạo
hiểm. Có thể phân thành 3 loại chính đối với các hình thức đa dạng của các công cụ chính
sách của Chính phủ nhằm kích thích sự cung cấp vốn mạo hiểm, đợc áp dụng ở các nớc
OECD nh sau:
Cung cấp trực tiếp vốn cho Quỹ vốn mạo hiểm hoặc các doanh nghiệp nhỏ;
Đa ra các biện pháp tài chính để kích thích sự đầu t vào các Quỹ của vốn mạo hiểm
hoặc các doanh nghiệp nhỏ;
Đa ra các luật định quyết định các loại nhà đầu t về vốn mạo hiểm
Bảng 8 trình bày chi tiết về cách phân loại này.
Bảng 7
Phân loại các chơng trình của Chính phủ các nớc OECD nhằm khuyến khích cung cấp
vốn mạo hiểm
Các loại chơng trình
Trực tiếp cấp vốn
Chính phủ đầu t cổ phần

Chính phủ cho vay

Mục đích

Ví dụ

Để đầu t trực tiếp vào
các hãng kinh doanh vốn

mạo hiểm, hoặc vào các
doanh nghiệp nhỏ
Cung cấp các khoản vay
với lãi suất thấp, dài hạn
và/hoặc có thể không
phải trả cho các hãng
kinh doanh vốn mạo
hiểm hoặc các doanh
nghiệp nhỏ

Công ty đầu t Flanders
của Bỉ
(GIMV)

Các kích thích bằng tài
chính
Các kích thích bằng thuế Khuyến khích bằng thuế
cho những nhà đầu t vào
các doanh nghiệp nhỏ
hoặc Quỹ vốn mạo hiểm
Bảo lãnh cho các khoản Bảo lãnh một phần các
vay
khoản vay ngân hàng
cho những doanh nghiệp
nhỏ có đủ phẩm chất
Bảo lãnh cho cổ phần
Bảo lãnh một phần cho
những tổn thất của các
khoản đầu t mạo hiểm có
mức độ rủi ro cao

Các luật định cho nhà Cho phép các tổ chức nh
đầu t
các Quỹ hu trí hoặc các

Chơng trình cho vay tài
chính để phát triển
Doanh nghiệp của Đan
Mạch

Chơng trình đầu t cho
Doanh nghiệp và Tơrớt
vốn mạo hiểm của Anh
Hội Bảo lãnh của Pháp
(SOFARIS)
Cục bảo lãnh của Phần
Lan
Những sửa đổi trong
Luật Đảm bảo An ninh


công ty bảo hiểm đợc cho những ngời hu trí
đầu t kinh doanh vốn của Mỹ
mạo hiểm
Nguồn : OECD (1998b)
Trái lại, phần lớn các nớc đang phát triển đều không có chính sách nào đề cập đến việc
khắc phục khó khăn về tài chính cho hoạt động đổi mới. Ngay cả một nớc đang phát triển
nh ấn Độ, nơi đã lập ra những tổ chức kinh doanh vốn mạo hiểm khá quy mô, cũng
không coi đó là một giải pháp thực sự đối với rào cản tài chính của hoạt động đổi mới
(Mani, 1997). Do vậy, có sự cần thiết phải lồng ghép vốn để cấp vốn rủi ro vào các chính
sách đổi mới của Chính phủ.

2. Các biện pháp phi tài chính
Chính sách phát triển nguồn nhân lực
Hầu nh không cần thiết phải nhấn mạnh lại tầm quan trọng của việc có đợc một nguồn ổn
định các cán bộ có trình độ cao. Tất cả các nớc đã thành công, bao gồm cả trờng hợp
thành công của các nớc Đông á thời gian gần đây đều có đợc những chính sách thành
công để làm tăng cả về số lợng lẫn chất lợng đội ngũ cán bộ kỹ thuật đợc đào tạo (Lall,
1998). Tuy nhiên, phần lớn các nớc đang phát triển đều coi chính sách phát triển nguồn
nhân lực tách rời với chính sách đổi mới của Chính phủ. Một vấn đề nữa mà mọi ngời thờng lãng quên, đó là không chỉ thuẩn tuý cung cấp đợc nguồn cán bộ kỹ thuật. Cần phải
làm sao để sản phẩm đầu ra của hệ thống giáo dục- đào tạo đáp ứng đợc những nhu cầu
của ngành công nghiệp. Nếu không nhận thức đợc vấn đề này thì có thể đánh mất những
thị trờng quan trọng. Có thể nêu ví dụ về trờng hợp ngành công nghiệp phần mềm máy
tính của ấn Độ. Do thiếu những nhà khoa học máy tính giỏi, nên ấn Độ đã để mất đi một
thị phần xuất khẩu lớn mà nếu nớc này sớm nhìn nhận đợc nhu cầu ấy thì đã dành đợc.
Tiêu chuẩn công nghiệp
Phần lớn các nớc đang phát triển đều ít chú ý đến vấn đề tiêu chuẩn công nghiệp. Nhng
vấn đề này đang trở nên quan trọng, khi họ muốn trở thành những nhà xuất khẩu sản
phẩm chế tạo, đặc biệt là cho các thị trờng phơng Tây. Tiêu chuẩn công nghiệp là một bộ
phận cấu thành của các chính sách đổi mới (Ergas, 1987). ít nhất nó cũng đem lại 2 lợi
ích lớn. Lợi ích thứ nhất bao hàm một loạt các lợi ích đợc coi là trực tiếp, còn những lợi
ích thứ hai có tính chất gián tiếp. Dới đây sẽ đề cập đến từng loại lợi ích.
Tác động trực tiếp của công tác tiêu chuẩn hoá là giảm đợc phí tổn giao dịch nhờ cung
cấp cho sản phẩm những yêu cầu chung hết sức cụ thể. Ngoài ra, nó còn thực hiện chức
năng chứng nhận chất lợng, mà đặc biệt quan trọng đối với các chi tiết chế tạo. Còn về
những lợi ích gián tiếp, việc soạn thảo các tiêu chuẩn mới và việc xem xét thờng xuyên
các tiêu chuẩn hiện hành, giúp đem lại một diễn đàn quan trọng để trao đổi thông tin kỹ
thuật cả ở giới công nghiệp, lẫn ngời tiêu dùng và các nhà cung ứng. Bởi vậy, Ergas cho
rằng công tác tiêu chuẩn hoá cũng có thể thực hiện chức năng nh một phơng tiện để tạo


áp lực thờng xuyên đối với các doanh nghiệp, khiến họ phải nâng cấp sản phẩm của mình,

đồng thời cung cấp cho họ thông tin cần thiết để tiến hành công việc đó. Cuối cùng, theo
Hiệp ớc về các Rào cản kỹ thuật đối với Thơng mại (TBT), mà là bộ phận của Công ớc
WTO đợc ký năm 1994, tất cả những Chính phủ nào tham gia Hiệp ớc đều có nghĩa vụ
coi các tiêu chuẩn quốc tế là u tiên để làm cơ sở cho quy định kỹ thuật cho mình. Ngoài
ra, TBT còn khuyến khích những nhà xây dựng tiêu chuẩn quốc gia và khu vực sử dụng
các tiêu chuẩn quốc tế trong công việc.
Động cơ của việc đa ra TBT là muốn tiến tới về lâu dài một nền thơng mại tự do ở trên
toàn thế giới. Nếu nh các đối tác thơng mại đều áp dụng các tiêu chuẩn đồng nhất, hoặc tơng đơng, thì có thể giảm đợc đáng kể vấn đề phí tổn liên quan đến việc đáp ứng các yêu
cầu kỹ thuật thờng xuyên thay đổi, đặc biệt là đối với các quốc gia hoặc khu vực.
Yêu cầu hiện tại trong các tiêu chuẩn công nghiệp là bảo đảm chứng chỉ chất l ợng ISO
9000 17. ISO 9000 chủ yếu có liên quan đến việc quản lý chất lợng. Định nghĩa về chất lợng đã đợc nêu ra trong ISO 9000, đề cập đến tất cả những đặc điểm của sản phẩm và
dịch vụ mà khách hàng đòi hỏi. Mặc dù số các nớc đang phát triển tham gia vào việc xin
cấp chứng nhận ISO 9000 đã tăng lên, nhng phần lớn đều tập trung ở các nớc châu á
(gồm cả Trung Quốc) (Xem bảng 9)
Bảng 8
Xu hớng về số chứng nhận ISO đợc cấp trên thế giới thời kỳ 1993-1997
Tháng Tháng Th. 6 Tháng
1
9
1994
3
1993
1993
1995
Các nớc đang 1402
2415
4167 7152
phát triển
Các nớc Đông 518
1149

2031 4152
1
á
Các nớc phát 26414 44156 6619 87965
triển
7
Tổng cộng
27816 46571 7036 95117
4
1
Chú thích: Đông á bao gồm: Hàn Quốc, Đài Loan,
Malaixia, Inđônêxia, Thái Lan và Philippin.

Tháng
12
1995
9272

Tháng
12
1996
17785

Tháng
12
1997
34694

5478


11161

24486

118081

144919

191655

127353

162704

226349

Singapo, Hồng Kông, Trung Quốc,

Nguồn: ISO (1999)
Chính sách đổi mới ở các nền kinh tế Đông á thành công
Hiện nay, mọi ngời đã đợc biết đến quá nhiều về sự lớn mạnh của các nền kinh tế Đông
á, cho dù cuộc khủng hoảng tài chính- tiền tệ xảy ra vừa qua, đã gây khó khăn cho một
số nớc. Hiện nay cũng đang có nhiều cuộc tranh luận diễn ra xoay quanh vai trò cụ thể
của Nhà nớc trong việc đạt đợc sự thành công hết sức ngoạn mục đó. Mặc dù có một số
ISO là Tổ chức Tiêu chuẩn hoá Quốc tế, bao gồm các tổ chức Tiêu chuẩn của các nớc phát triển lẫn đang
phát triển. ISO phát triển các tiêu chuẩn kỹ thuật tình nguyện áp dụng, mà giúp tăng thêm giá trị cho tất cả các
loại hình hoạt động kinh doanh. Nó đem lại nhiều tác dụng, trong đó có việc tạo điều kiện thuận lợi cho thơng
mại quốc tế.
17



điểm mâu thuẫn trong phép đo phần đóng góp chính xác của công nghệ trong toàn bộ sự
tăng trởng kinh tế 18, nhng hiện nay có khá nhiều bằng chứng cho thấy rằng nhóm quốc
gia thành công đó đã trở thành những nơi sản sinh quan trọng các công nghệ tơng đối tinh
xảo. Có 2 chỉ tiêu khác nhau nhng liên quan với nhau đã giúp nói lên điều đó:
a) Tỷ lệ của các ngành chế tạo công nghệ cao trong toàn bộ lợng xuất khẩu
của các ngành chế tạo;
b) Số các bằng sáng chế thống kê đợc ở 5 lĩnh vực công nghệ cao (Bảng
10).
Bảng 9
Sự năng động về công nghệ của các nớc Đông á
Tỷ lệ xuất khẩu công
nghệ cao1 trong toàn bộ
kim ngạch xuất khẩu của
ngành chế tạo
1980
1995
10,65
29,55(17)3
13,34
29,34(14)
22,38
54,12(17)
13,13
20,68(6)

ở năm ngành công nghệ
cao2
1982-86
157

640
26
118

1982-86
4912
7156
263
372

Hàn Quốc
Đài Loan
Singapo
Hồng Kông
Chú thích:
1. Các sản phẩm công nghệ cao ở đây bao gồm: máy bay, máy tính và máy
văn phòng, thiết bị truyền thông, dợc phẩm và y tế;
2. Năm ngành công nghệ cao ở đây gồm: vật liệu tiên tiến, chế tạo ô tô, y tế, công
nghệ thông tin, hậu cần vận tải và lĩnh vực tốc hành.
3. Các con số đặt trong dấu ngoặc là biểu thị tỷ lệ tăng trởng trung bình hàng năm
về xuất khẩu công nghệ cao của ngành chế tạo trong giai đoạn 1980-1995.
Nguồn: Mani (1999)
Trong quá trình tạo dựng nền năng lực công nghệ này, các con hổ Đông á đã dựa vào
các chính sách đổi mới đợc vạch ra tơng đối rõ ràng này, bổ sung thêm cho các chính
sách công nghiệp. Lall (1998) đã cung cấp một bài viết cô đọng về những chính sách đổi
mới đó, nhan đề Những con hổ trởng thành (Hàn Quốc, Đài Loan và Singapo). ở đây,
ta cũng sẽ đề cập đến một số bộ phận của chính sách đổi mới ở 3 nớc nói trên.
Hàn Quốc
Từ năm 1966, Chính phủ Hàn Quốc đã hỗ trợ cho nghiên cứu ứng dụng, thông qua một
Trung tâm R&D lớn, đó là Viện KH&CN Hàn Quốc (KIST). Năm 1967, Hàn Quốc thành

lập Bộ KH&CN. Từ năm 1982, Bộ KH&CN Hàn Quốc đã thực hiện một chơng trình
R&D tầm quốc gia để phát triển các công nghệ cao dài hạn, quy mô lớn, mà có ý nghĩa
hết sức quan trọng trong việc nâng cao sức cạnh tranh của Hàn Quốc ở trên thị trờng quốc
tế. Quỹ Khoa học và Kỹ thuật Hàn Quốc (KOSEF) có chức năng hỗ trợ cho nghiên cứu
Krugman đã nghi ngờ vai trò của công nghệ trong sự lớn mạnh của các con hổ Đông á. Theo ông (trong
một tài liệu đợc nhiều nơi trích dẫn, nhan đề Huyền thoại về sự thần kỳ châu á, đăng trong Foreign Affairs,
tập 73, No6, 1994), sự tăng trởng của các nớc Đông á hầu hết đều do sự gia tăng sử dụng các nguồn đầu vào,
nhất là nhân công và vốn, chứ không phải nhờ vào tăng năng suất dựa trên cơ sở tiến bộ công nghệ hoặc cải
tiến tổ chức.
18


cơ bản. Các Trung tâm Nghiên cứu Khoa học và trung tâm Nghiên cứu Kỹ thuật đã đợc
thành lập tại các trờng đại học Hàn Quốc nhằm mục đích cùng sử dụng các phơng tiện
R&D tiên tiến. Trong giai đoạn 1976-1990, đầu t cho R&D công nghiệp đã tăng từ 133
triệu USD lên 4,2 tỷ USD, nghĩa là có tỷ lệ tăng trởng trung bình hàng năm là 26%.
Ngoài việc phát triển kết cấu hạ tầng vật chất kỹ thuật, Chính phủ còn nỗ lực cung cấp
đều đặn cho ngành công nghiệp một nguồn nhân lực đợc đào tạo và cũng áp dụng nhiều
biện pháp khuyến khích tài chính cho khu vực t nhân để họ thực hiện những dự án thậm
chí có độ rủi ro cao. Kim (1997) cho rằng vai trò của Chính phủ là ở việc tạo phơng tiện
thuận lợi cho học hỏi. Theo Kim, đối với phía cung cấp cho việc học hỏi công nghệ,
Chính phủ hạn chế đầu t trực tiếp của nớc ngoài (FDI) và quyền sử dụng công nghệ, thay
vì là thúc đẩy chuyển giao công nghệ thông qua các phơng tiện khác, chẳng hạn nh nhập
khẩu t liệu sản xuất, và chính sách đó đã có hiệu quả buộc các doanh nghiệp Hàn Quốc
phải thu nhận và đồng hoá công nghệ nớc ngoài thông qua sự bắt chớc chế tạo lại các sản
phẩm nhập khẩu. Còn đối với phía cầu trong việc học hỏi công nghệ, Chính phủ đã thành
lập và đẩy mạnh các Chaebol lớn để làm phơng tiện học hỏi công nghệ hiệu quả. Trờng
hợp Hàn Quốc cho thấy rằng các chính sách đổi mới đã đợc bổ sung bằng các chính sách
công nghiệp.
Đài Loan

Đài Loan đã có rất nhiều doanh nghiệp tơng đối nhỏ. Bởi vậy, từng doanh nghiệp chỉ có
năng lực hạn chế trong việc đầu t hiệu quả cho R&D. Để bù vào khiếm khuyết này, Chính
phủ Đài Loan đã thành lập Viện Nghiên cứu Công nghệ Công nghiệp (ITRI), có tác dụng
làm cơ quan đầu mối cho một số chơng trình hợp tác R&D. Hai Chơng trình lớn thuộc
ITRI bao gồm:
- Dới sự điều hành của ITRI, 20 công ty đã liên kết chế tạo thành công các
máy tính tơng thích với sản phẩm của hãng IBM;
- Tổ chức Nghiên cứu và Dịch vụ cho ngành Điện tử của ITRI đã hợp tác với
47 công ty nội địa để phát triển máy tính xách tay. Theo Hobday (1995) cho
biết, ITRI đã ơm tạo một số công ty mà sau đó dã trở thành nòng cốt cho
ngành công nghiệp chế tạo chip trong nớc và sự can thiệp trực tiếp của
Chính phủ rõ ràng đã có một số thành công trong việc hỗ trợ những bộ phận
của ngành công nghiệp điện tử để khắc phục các rào cản khi nhập cuộc.
Nhìn chung, các tài liệu đều nhất trí rằng để tăng cờng ý thức nghiên cứu
của ngành công nghiệp, Chính phủ Đài Loan đã áp dụng những chính sách
sau đây:
+ Có chính sách đầu t cho giáo dục;
+ Có các chính sách tài chính và tiền tệ để khuyến khích và
đôi khi ép buộc các doanh nghiệp công nghiệp tiến hành hoạt động R&D;
+ Có chính sách để lập ra các tổ chức và cơ quan do Chính phủ kiểm
soát (nh ITRI đã nêu ở trên) để hỗ trợ cho công tác phát triển các ngành công
nghệ cao;
+ Có chính sách nhằm xúc tiến các liên minh công nghệ với các đối
tác nớc ngoài để phát triển các công nghệ cần thiết
Nhờ các sáng kiến chính sách của Chính phủ, trong giai đoạn 1978-1990, mức đầu t cho
hoạt động R&D đã tăng từ 388 triệu USD lên 2,4 tỷ USD, với tỷ lệ tăng hàng năm là
15%.
Singapo



Ngời ta rất thờng hay quy cho sự tăng trởng ngoạn mục của nền kinh tế ở quốc đảo này là
nhờ vai trò của các công ty đa quốc gia. Nhìn chung có cảm tởng rằng ít ra ở thời kỳ đầu,
Chính phủ Singapo đã không đóng vai trò quan trọng trong việc làm giàu cho các nguồn
lực khoa học và kỹ thuật của đất nớc. Năm 1999, cơ cấu tổ chức chính phục vụ cho Chính
sách KH&CN của quốc gia- Hội đồng Khoa học Singapo- đã đợc cải cách và trở thành
Cục KH&CN Quốc gia. Đây là một cơ quan trực thuộc Bộ Thơng mại và Công nghiệp. Sứ
mệnh của Cục là phát triển Singapo trở thành một trung tâm xuất sắc ở những ngành
KH&CN đợc lựa chọn, nhằm nâng cao sức cạnh tranh của quốc gia trong lĩnh vực công
nghiệp và dịch vụ. Các nhiệm vụ chủ yếu của Cục là:
- Xúc tiến các hoạt động R&D có liên quan tới ngành công nghiệp;
- Thành lập và tài trợ các viện/ trung tâm nghiên cứu;
- Phát triển nguồn nhân lực;
- Phát triển kết cấu hạ tầng thuận lợi cho hoạt động R&D;
- Thực hiện các chơng trình hợp tác KH&CN với các tổ chức quốc tế và các
nớc khác;
- Thúc đẩy ý thức và sự thừa nhận của công chúng về tầm quan trọng của
KH&CN;
Để thúc đẩy đa ra nhiều các chơng trình KH&CN từ những đổi mới và giúp các đơn vị
tiến hành đổi mới vơn tới những ý tởng sáng tạo và những sáng chế mới, Chính phủ đã tạo
ra một môi trờng thuận lợi cũng nh cấp đủ kinh phí để phát triển các ý tởng và làm mọi
thủ tục về bằng sáng chế đối với các đổi mới của họ. Công việc này nằm trong Khung
khổ Hỗ trợ Đổi mới, nhằm cung cấp những khoản nh sau:
- Kế hoạch trợ giúp các nhà đổi mới;
- Quỹ đăng ký bằng sáng chế;
- Câu lạc bộ các nhà sáng chế;
- Các chơng trình đào tạo.
Cuối cùng, để khuyến khích đầu t R&D của ngành công nghiệp, Cục đã quản trị một kế
hoạch tài trợ, có tên là Kế hoạch Nghiên cứu & Phát triển (RDAC). Ngoài ra còn có Kế
hoạch Khuyến khích Nghiên cứu ở các Công ty (RISC), mà thực chất là một kế hoạch tài
trợ với mục đích khuyến khích hầu hết các MNC và các công ty khác mà có các cơ sở chế

tạo đặt ở Singapo hoặc trong khu vực, để họ phát triển các cơ sở R&D của họ ở Singapo.
Khác với kế hoạch trợ cấp RDAC, đợc thiết kế để hỗ trợ cho các dự án R&D đặc thù của
các công ty mà đã xây dựng những cơ sở R&D ở tại Singapo, RISC chủ yếu nhằm mục
đích tài trợ cho những hoạt động nào có tác dụng phát triển năng lực ở những lĩnh vực
công nghệ mang tính chiến lợc, với mục tiêu lâu dài hơn là nhằm nâng cao sức cạnh tranh
cho ngành công nghiệp của Singapo. Nh vậy, ta thấy rằng kể từ năm 1991, Chính phủ
Singapo đã thực sự tăng đợc sự hiện diện của mình trong công cuộc phát triển nền công
nghệ nội địa. Mặc dù không có đợc những dữ liệu gần đây hơn nữa, nhng trong giai đoạn
từ 1977-1990, sự đầu t cho hoạt động R&D công nghiệp của Singapo đã tăng lên với tỷ lệ
25,6% mỗi năm, và với sự can thiệp tích cực của Chính phủ, tình hình đầu t đang có xu hớng tăng hơn nữa.
Thông qua việc phân tích mặc dù là sơ lợc trên đây về các con hổ Đông á đã thấy rằng cả
Hàn Quốc và Singapo đã thực hiện nhiều biện pháp khuyến khích rõ ràng bằng công cụ
thuế để kích thích các doanh nghiệp thuộc khu vực t nhân đầu t nhiều nguồn lực hơn nữa
cho hoạt động R&D. Bảng 10 trình bày tóm lợc về các biện pháp đó. Trái lại, Đài Loan


lại dựa nhiều hơn vào việc lập ra các tổ chức trung gian để tăng cờng cho hệ thống đổi
mới quốc gia 19.
Bảng 10
Các biện pháp khuyến khích bằng thuế ở Hàn Quốc và Singapo
Biện pháp
Hàn Quốc
Khấu trừ thuế cho các khoản chi phí cho công nghệ và
nguồn nhân lực với mức lên tới 50%;
Khấu trừ thuế cho chi phí nghiên cứu và thực nghiệm là
5% (đặc biệt giảm 50% cho chi phí mua sắm phơng tiện);
Miễn thuế 5 năm cho những khoản thanh toán kỳ vụ ở các
hợp đồng mua quyền sử dụng công nghệ;
Các nhà đầu t nớc ngoài có thể không phải đóng thuế trong
5 năm nếu họ đa công nghệ cao vào Hàn Quốc

Singapo
Giảm thuế gấp đôi cho chi phí R&D ở những lĩnh vực nhất
định;
Giảm thuế 50% cho phần đầu t cơ bản ở những lĩnh vực
nhất định;
Giảm thuế 25% phần vốn ban đầu và 3% cho phần nhà xởng R&D;
Cấp 20-30% chi phí cho các hoạt động R&D nhất định mà
có lợi ích công nghệ tiềm năng cho đất nớc;
Nguồn: Hội đồng về Sức cạnh tranh (1999)
Nh vậy, ở cả các nớc phát triển lẫn đang phát triển mà đã đạt đợc thành công, đều là do
họ đã đề ra các chính sách đổi mới, phục vụ cho công cuộc phát triển công nghệ.

Xem Dodgson (1998) để hiểu kỹ hơn về vai trò của các tổ chức trung gian trong việc xây dựng năng lực
công nghệ ở Đài Loan và các con hổ Đông á khác
19



×