Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

Quản lý tài nguyên dựa vào công cộng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (63.87 KB, 4 trang )

Phần 1. MỞ ĐẦU
Việt Nam là một trong những quốc gia đang phát triển theo con đường công
nghiệp hóa hiện đại hóa, do đó không tránh khỏi những mâu thuẫn mà các
quốc gia khác thường gặp, đó là những vấn đề môi trường nảy sinh khi các
chỉ số kinh tế gia tăng.
Cùng với sự phát triển về kinh tế là vấn đề khai thác, sử dụng các nguồn tài
nguyên thiên nhiên một cách ồ ạt, không hợp lý gây nhiễm và suy thoái môi
trường. Hiện nay, ở Việt Nam, hầu như tất cả các thành phố có hoạt động
công nghiệp phát triển đều đang trong tình trạng ô nhiễm trầm trọng, không
những ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống trước mắt của người dân mà
còn tạo một hậu quả khôn lường mà thế hệ mai sau phải gánh chíu. Trước
tình trạng đáng báo động đó, việc tìm giải pháp, hướng đi phù hợp và mang
lại hiệu quả cho công tác bảo vệ và sử dụng hợp lý tài nguyên môi trường là
thực sự cần thiết.
Một trong những hình thức quản lý môi trường thu được hiệu quả cao là
quản lý môi trường dựa vào cộng đồng (Community - Based Environment
Managerment - CBEM). Đó là một hình thức quản lý đã và đang áp dụng ở
nhiều vùng khác nhau trên thế giới, đặc biệt là các quốc gia phát triển [3].
Đây là một cơ chế quan trọng cho sự tham gia thực sự của cộng đồng vào
giải quyết các vấn đề của khu vực, duy trì tính công khai, đồng thời người
dân tự ý thức được việc bảo vệ tài nguyên môi trường xung quanh là cần
thiết cho đời sống của họ, dẫn đến hành động thực tiễn giúp công tác bảo vệ
đạt hiệu quả cao.
Từ những lý do trên chúng tôi quyết định tìm hiểu về vấn đề:
“ Quản lý tài nguyên môi trường dựa vào cộng đồng”
Quản lý dựa vào cộng đồng là phương pháp dựa vào các bên liên quan để
thực hiện các nghiên cứu, thiết kế và thực hiện quản lý. Cách quản lý này có
thể được sử dụng cho các phương tiện xã hội (tức là dựa vào cộng đồng ) và
cho các nguyên nhân môi trường (tức là địa phương ). Quản lý dựa vào
cộng đồng được sử dụng như một cách để tạo tính bền vững bằng cách bao
gồm tất cả các bên liên quan trong thực tiễn quản lý. Nó cố gắng để xem xét


nhu cầu của từng thành viên để đi đến một giải pháp tốt nhất phù hợp cho
cộng đồng


Phần 2. NỘI DUNG
2.1. Tổng quan về mô hình quản lý tài nguyên môi trường dựa vào cộng
đồng
2.1.1. Khái niệm quản lý môi trường dựa vào cộng đồng (CBEM)
Theo Arnstein (1969), các hình thức quản lý khác nhau nằm trong hai hình
thức cơ bản là quản lý hành chính nhà nước và quản lý cộng đồng. Ngoài ra,
đồng quản lý hay quản lý nguồn lợi dựa vào cộng đồng (QLNLDVCĐ) là
hình thức quản lý trung gian giữa hai hình thức trên. QLNLDVCĐ là một
hình thức hợp tác giữa cộng đồng và nhà chức trách trong việc chia sẻ quyền
và trách nhiệm trong quản lý và lợi ích (Pomerroy,1995) [6].
Theo Đỗ Thị Kim Chi, CBEM là phương thức bảo vệ môi trường trên cơ sở
một vấn đề môi trường cụ thể ở địa phương, thông qua việc tập hợp các cá
nhân và tổ chức cần thiết để giải quyết vấn đề đó. Phương pháp này sử dụng
các công cụ sẵn có để tập trung cải tạo hoặc bảo vệ một tài nguyên nào đó
hay tạo ra lợi ích về môi trường như dự án tái tạo năng lượng, phục hồi lưu
vực v.v... Và đồng quản lý tài nguyên đó thông qua sự hợp tác giữa các đối
tác chính quyền, doanh nghiệp, các tổ chức phi chính phủ và cộng đồng dân
cư [3].
Quản lý tài nguyên thiên nhiên dựa vào cộng đồng là một khái niệm rộng và
đa nghĩa theo tính ứng dụng của nó trong thực tiễn, đề cập sự tham gia của
các cộng đồng có lợi ích liên quan trong quản lý tài nguyên đất và nước,
rừng và động vật hoang dã và nguồn lợi thủy sản [4].
2.1.2. Những điều kiện để cộng đồng tham gia vào công tác quản lý môi
trường [2]
Điều kiện tiên quyết để cộng đồng cùng tham gia vào công tác quản lý là
cộng đồng phải được biết họ tham gia kiểm tra, giám sát việc gì; họ có thể

được hưởng lợi những gì và sẽ phải chịu những chi phí, rủi ro gì v.v... Các
câu trả lời phải được thể hiện và làm rõ một cách công khai, minh bạch.
Để đạt được điều đó, người quản lí và các nhà khoa học phải có nhiệm vụ
tuyên truyền, phổ biến những vai trò và ý nghĩa của nguồn tài nguyên đối
với đời sống của cộng đồng, đồng thời làm cho họ nhận thức được trách
nhiệm phải bảo tồn nguồn tài nguyên thiên nhiên vốn có của họ để họ tự
giác thực hiện công tác bảo tồn. Từ các nhận thức đó con người phải thay
đổi thói quen khai thác tuỳ tiện, khai thác theo kiểu “tận thu- tận diệt” làm
suy giảm nguồn tài nguyên và sự nghèo đói lại quay về với cộng đồng.


Sơ đồ 1: Ba mục tiêu về giáo dục môi trường [1]
Tất cả những nỗ lực trên đều nhằm đạt được sự độc lập và dựa vào chính các
tổ chức do cộng đồng xây dựng cũng như toàn bộ cộng đồng để quản lý tài
nguyên một cách hiệu quả
Ví dụ
1.Quản lý tài nguyên nước dựa vào cộng đồng,
Xã Lũng Vân.huyện Tân Lạc,tỉnh Hòa Bình: đây là xã của đồng bào Mường
sinh sống, có mô hình sử dụng nước được vận hành và quản lý theo các
phương pháp truyền thống có áp dụng công nghệ tiên tiến. Tại xã này có 1
mó nước, xung quanh có rừng tự nhiên. Cộng đồng địa phương tham gia bảo
vệ khu rừng đồng thời xây dựng và vận hành hệ thống cấp nước lấy từ
nguồn mó nước nói trên.
2 Quản lý môi trường dựa vào cộng đồng( CBEM)
Sự thành công trong việc huy động cộng đồng thu gom chất thải rắn tại
Nhật Bản
Hệ thống quản lý chất thải rắn đô thị của Nhật Bản được sự trợ lực của 1 hệ
thống tổ chức thu gom hình thành trên cơ sở các tổ chức của khu vực ( Hội
đồng thành phố,Hội thiếu niên và hội cha mẹ học sinh....). Các tổ chức này
tiến hành thu gom và bán các chất thải có thể tái sử dụng cho các công ty tái

sx chất thải. Thu nhập từ việc thu gom được sử dụng để tài trợ cho các hoạt
động của khu vực. Việc thu lại các vật liệu thải từ các hộ gđ bởi các tổ chức
cộng đồng và các htx có chi phí thấp hơn so với các cơ sở thu gom của Nhà
nước, đường phố được sạch sẻ, các dịch vụ vệ sinh được cải thiện.Mô hình
này được quần chúng đồng tình và ủng hộ cao.
huệ đang tìm tiếp
3 , Quản lý tài nguyên rừng dựa vào cộng đồng.
Quản lý và tái trồng rừng ngập mặn dựa vào cộng đồng ở thanh Hóa.
Nhận thức được vai trò của rừng ngập mặn trong việc ổn định và duy trì sinh
kế của người dân địa phương, đồng thời góp phần giảm thiểu tổn thương do
thiên tai, tổ chức CARE đã hỗ trợ triển khai dự án Tái trồng rừng ngập mặn
dựa vào cộng đồng tại huyện Hậu Lộc, Thanh Hoá.Dự án đã xây dựng và áp
dụng các phương pháp có sự tham gia của cộng đồng. Các nhóm trồng rừng,
ươm giống cây và bảo vệ rừng dựa vào cộng đồng đã huy động được hơn
700 người dân tham gia trồng và chăm sóc khu vực rừng ngập mặn mới.
I . Nguyên tắc
1.Sự tham gia của cộng đồng trong việc lập kế hoạch.
2.Xây dựng hiểu biết của cộng đồng về lợi ích khi tham gia hành động.
3.Có tiến trình hay bước đi hợp lý không nóng vội, áp đặt.


4. Có hình thức tổ chứcâoy công cụ phù hợp để người dân có thể tham
gia với vai trò ngày càng cao vào tất cả các bước của tiến trình giải
quyết vấn đề.
II. Đặc điểm.
1. Có sự tham gia của cộng đồng.
2. Cộng đồng được cung cấp quyền tự chủ ( tài chính...) nhất định và
tự quyết phù hợp.
3 Hổ trợ thiết chế( các cấp tổ chức cộng đồng đề cử người phụ trách
và xây dựng quy tắc đặc thù của họ).

4. Vai trò quan trọng về mặt năng lực của cán bộ cơ sở,chuyển giao
công nghệ, huy động nguồn lực ( hổ trợ từ các chương trình và dự án
bên ngoài là rất quan trọng).



×