Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Nghiệp vụ thanh toán thẻ tín dụng và những rủi ro

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.35 KB, 9 trang )

Nghiệp vụ thanh toán thẻ tín dụng và những rủi ro


Đại Học Kinh Tế Quốc Dân

Điều kiện để một ngân hàng tham gia vào quá trình thanh toán thẻ cũng
tương tự như ngân hàng phát hành, một ngân hàng muốn tham gia vào quá
trình thanh toán thẻ thì nó phải đáp ứng được các yêu cầu về pháp lý cũng
như các yêu cầu về tài chính. Riêng đối với Visa và Marters card thì để là
ngân hàng thanh toán thì phải là thành viên chính thức của tổ chức thẻ quốc
tế đó. Và ngân hàng thanh toán phải chịu trách nhiệm hình thành và quản lý
các cơ sở chấp nhận thẻ.
Tra sát, khiếu nại và bồi hoàn
Khái niệm
Giải quyết các tra soát, khiếu nại của chủ thẻ là một quy trình được thực hiện
theo quy định của tổ chức thẻ quốc tế. Quy định này yêu cầu các bên tham
gia thực hiện giao dịch thanh toán thẻ phải tuân theo đúng các điều khoản về
nghiệp vụ của mình và đồng thời đảm bảo cung cấp chính xác và đầy đủ các
chứng từ có giá trị chứng minh cho hành vi của mình.


Yêu cầu xuất trình chứng từ: ngân hàng phát hành yêu cầu CNTT xuất
trình các chứng từ có liên quan đến giao dịch chủ thẻ có thể thác mắc,
khiếu nại.




Đòi bồi hoàn : ngân hàng phát hành đòi tiền CNTT đối với giao dịch
chủ thẻ khiếu nại.




Tái xuất trình: CNTT xuất trình lại giao dịch đã bị ngân hàng phát hành
đòi bồi hoàn không đúng.



Hoà giải: Các thành viên có liên quan trực tiếp thương lượng nhằm giải
quyết tranh chấp.



Giải quyết tranh chấp qua trọng tài.

Giải quyết tra sát, khiếu nại khi ngân hàng thương mại là ngân hàng
phát hành thẻ


Chủ thẻ có thể yêu cầu tra soát khiếu nại về phí và lãi, về một giao dịch
bị ghi nợ nhiều lần, về số tiền giao dịch không chính xác.



Sử lý tra soát.



Sử lý giao dịch.




Giao dịch đòi bồi hoàn và tái xuất trình.

Hoà giải, giải quyết tranh chấp qua trọng tài


Hoà giải :

Khi ngân hàng thanh toán không chấp nhận bồi hoàn lần 2 của ngân hàng
phát hành thì sẽ tiến hành thủ tục hoà giải. Nhận được yêu cầu hoà giải từ
ngân hàng thanh toán, căn cứ vào các chứng từ do ngân hàng thanh toán và


ngân hàng phát hành cung cấp thẻ tín dụng sẽ tiến hành xem xét đưa ra ý kiến
chấp nhận hay từ chối hoà giải. Nếu chấp nhận sẽ thông báo cho NHPH.
Nhận được thông báo tcủa thẻ tín dụng, ngân hàng phát hành thông báo ngay
cho chủ thẻ để đưa ra quyết định cuối cùng. Nếu chấp nhận hoà giải thì thẻ
tín dụng sẽ đòi tiền ngân hàng phát hành và ghi có ngân hàng thanh toán. Nếu
không chấp nhận thì thẻ tín dụng sẽ đưa tranh chấp trọng tài.


Giải quyết tranh chấp qua trọng tài:

Hồ sơ giao dịch bị khiếu nại được trình hội đồng trọng tài của tổ chức thẻ
quốc tế giải quyết. Phán quyết của trọng tài có giá trị trung thẩm và bên nào
thua thì bên đó phải chịu án phí.


Những rủi ro trong thanh toán bằng thẻ tín dụng
Về khía cạnh rủi ro thì thẻ tín dụng có độ an toàn cao hơn nhiều dạng đầu tư

và cho vay khác. Tính an toàn thể hiện ngay ở hình thức phát hành của nó.
Hiện nay thẻ tín dụng được phát hành dưới ba hình thức đó là:


Thế chấp.



Tín chấp.



Kết hợp cả hai.

Trong lần phát hành đầu tiên chủ thẻ phải thế chấp 125% hạn mức tín dụng
được cấp. Đương nhiên hình thức này thì an toàn tuyệt đối cho NH. Nhưng
nếu phát hành theo cách này sẽ gây khó khăn cho lỗ lực phát triển thị trường
thẻ và nó chỉ phù hợp trong giai đoạn thử nghiệm.
Tín chấp được quan tâm đến như mộ nhân tố mở rộng thị trường thẻ. NH căn
cứ vào nhân thân, mức thu nhập hằng năm để quyết định hạn mức tín dụng.
Thuy nhiên trường hợp này chứa nhiều rủi ro, nhất là khi chủ thẻ không thể
thanh toán được do nguyên nhân chủ quan từ phía chủ thẻ hay nguyên nhân
khách quan ảnh hưởng đến việc trả nợ của chủ thẻ. Và trên thực tế thì các
ngân hàng hiện nay đều kết hợp sử dụng cả hai biện pháp trên, đó là thẩm
định KH và yêu cầu ký quỹ rồi từ đó quy định HMTD.
Hoạt động của thẻ tín dụng góp phần tạo ra cho NH những đối tác lâu dài và
mang tính ổn định cao vì nó là hình thức tín dụng tiêu dùng và mang tính
ngắn hạn nên ít chịu biến động của chu kỳ kinh tế. Và khi hợp đồng thẻ tín



dụng được ký kết sẽ gắn NH với khách hàng, trong quá trình kinh doanh thẻ
số lượng khách hàng của NH chỉ tăng chứ không giảm (rất ít khi chủ thẻ chủ
động chấm dứt hợp đồng sử dụng thẻ trừ khi họ bị ngân hàng rút hợp
đồng).Việc tạo lập được những quan hệ tín dụng, thanh toán lâu dài trong bối
cảnh môi trường kinh doanh luôn biến động và tình hình cạnh tranh gay gắt
như hiện nay là môt lợi thế lớn mạnh của kinh doanh thẻ.


Rủi ro tín dụng: NH phát hành thẻ cho khách hàng có đơn xin phát
hành thẻ với đơn xin giả mạo (Fraudulen Applications). Thẻ do không
thẩm định kỹ các thông tin khách hàng trên hồ sơ xin phát hành thẻ.
Trường hợp này có dẫn đến rủi ro về tín dụng cho NHPH khi chủ thẻ
sử dụng thẻ mà không có khả năng về tài chính, không có khả năng
thanh toán.



Rủi ro khi sử dụng thẻ:Thẻ giả (Couterfeit Card). Thẻ do cá tổ chức tội
phạm hoặc cá nhân làm giả căn cứ từ nhưng thông tin có được từ các
chứng từ giao dịch thẻ hoạc thẻ mất cắp thất lạc. Thẻ giả được sử dụng
tạo ra các giao dịch giả mạo sẽ gây tổn thất cho NHPH, chịu hoàn toàn
trách nhiệm với mọi giao dịch có mã số(Pin) của NHPH.



Tài khoản thẻ bị lợi dụng (Account takeover). Đến kỳ phát hành lại thẻ,
NHPH nhận được thông báo thay đổi địa chỉ của chủ thẻ và được yêu
cầu gửi thẻ mới về địa chỉ mới. Không kiểm tra tính xác thực của thông
báo nên NHPH gửi thẻ cho người không phải là chủ thẻ theo địa chỉ đó.
Tài khoản của chủ thẻ bị người khác sử dụng chỉ được phát hiện khi



chủ thẻ đích thực không nhận được thẻ liên lạc với NHPH hoặc khi NH
yêu cầu chủ thẻ thanh toán sao kê.


Chủ thẻ thật không nhận được thẻ phát hành: thẻ bị đánh cắp trên
đường gửi từ NHPH đến chủ thẻ. Chủ thẻ không hề biết là thẻ đã được
gửi cho mình trong khi đó thẻ được sử dụng. Rủi ro này NH sử dụng
phải chịu.



Giao dịch giả trên thẻ đã mất: thẻ bị đánh cấp, thất lạc, bị người khác
sử dụng.



Rủi ro khi thanh toán thẻ. Bồi hoàn giao dịch không theo quy định của
tổ chức thẻ quốc tế.

Thanh toán giao dịch giả mạo: Nếu NH vẫn không thanh toán cho những giao
dịch giả mạo thì NH đó phải chịu rủi ro này.
Nhân viên Dịch vụ chấp nhận thẻ in nhiều hoá đơn thanh toán cho một
thẻ(Multiple irmiisnt): khi thực hiện giao dịch nhân viên của đơn vị chấp
nhận thẻ cố tình in nhiều bộ hoá đơn thanh toán nhưng chỉ cho chủ thẻ ký
một bộ hoá đơn để hoàn thành giao dịch. Sau đó anh ta sẽ giả mạo chữ ký
chủ thẻ để nộp hoá đơn thanh toán cho ngân hàng.



Tạo băng từ giả (skimming). Lấy cắp thông tin trên băng từ của thẻ thật
để tạo băng từ trên thẻ giả.



Rủi ro trong hệ thống: Khi hệ thống vi tính không hoạt động hoặc có
lỗi trong sử lý dữ liệu.




Một nhược điểm nữa của chủ thẻ tín dụng là nó kích thích sự tiêu dùng
quá mức của KH. Nếu sử dụng tiền mặt để mua hàng,KH ý thức được
số tiền mang theo là giới hạn, vì vậy sẽ chọn những mặt hàng cần thiết,
phù hợp với số tiền mang theo. Nếu sử dụng thẻ để mua hàng hoá -dịch
vụ, do số tiền trên thẻ có giá trị rất lớn nên khi mua hàng bạn dễ dàng
lâm vào tình trạng mua bất cứ thứ gì mà mình thích dẫn đến lãng phí.

Hiệu quả kinh doanh thẻ tín dụng của Ngân hàng Thương mại
Thẻ đã mang lại cho NH nhiều nguồn thu khác nhau. Đầu tiên, phải kể đến
đó là những khoản phí thu được bao gồm :


Thứ nhất: Các khoản phí mà chủ thẻ phải trả. Tuy số phí áp dụng cho
mỗi thẻ là không lớn, trong nhiều trường hợp phí thu là để bù chi,
nhưng với nhiều thẻ NH có thể tích lại được một nguồn thu.



Thứ hai: các khoản phí cho giao dịch rút tiền mặt, phí chậm trả đối với

KH sử dụng thẻ tín dụng để ứng trước tiền của NH. Thông thường loại
phí này cao hơn lãi suất cho vay dài hạn của NH. Như trong trường hợp
rút tiền mặt phí có thể lên tới 4% cho NHPH và NH vẫn tính lãi khi
khách hàng không trả tiền đúng hạn. Với thẻ tín dụng lãi chậm trả có
thể vượt mức 2.5%.



Thứ ba: phí thu từ các cơ sở chấp nhận thẻ khi họ muốn NH là người
thanh toán cuối cùng mà nhờ việc thanh toán đó họ đã thu hút được
nhiều hơn khách hàng, đem lại phần tăng trong doanh thu.


Kế đến, lợi nhuận mà NH thu được là từ hoạt động làm đại lý hay chi nhánh
thanh toán cho tổ chức phát hành thẻ. Đây có thể nói là nguồn thu lớn nhất,
như là một chiết khấu thương mại khi NH thanh toán lại tiền cho tổ chức phát
hành. Phần lớn các NH ở Việt Nam đều làm chi nhánh thanh toán cho tổ chức
thẻ quốc tế và đã thu đươc một khoản phí lớn cho hoạt động này.
Tập trung lại, NH có thể thu 6 loại phí khác nhau:


Chiết khấu thương mại: Khoản thu phát sinh trên doanh số thanh toán
của các CSCNT. Khi các CSCNT trình hoá đơn thanh toán thẻ tín dụng
lên NH, NH sẽ tính chiết khấu một khoản trên doanh thu.



Lệ phí thường niên: khoản phí mà chủ thẻ phải trả cho quyền sử dụng
thẻ tín dụng.




Phí rút tiền mặt: Khoản phí thu được trên mỗi giao dịch rút tiền trực
tiếp tại quầy giao dịch hoặc các máy ATM. Khoản phí 4% này chủ thẻ
trực tiếp phải trả.



Các khoản thu tài trợ:



Tín dụng là một dạng thức cho vay. Lãi sẽ được tính trên số dư tuần
hoàn.Tại ngày đáo hạn nếu chủ thẻ thanh toán ít hơn số dư thực tế sẽ
phải chịu lãi suất theo lãi suất hiện hành của NH trên phần dư nợ còn
thiếu. Trường hợp chủ thẻ không thanh toán đủ số tiền thanh toán tối
thiểu theo quy định, còn phải chịu khoản phí chậm trả trên phần số dư
thanh toán tối thiểu còn lại.




Phí đại lý thanh toán: Với các giao dịch thẻ mà NH thanh toán hộ
NHPH, Ngân hàng sẽ được hưởng một phần chiết khấu trên doanh số
thanh toán hộ.

Các khoản thu khác:


Phí tăng hạn mức tín dụng tạm thời.




Phí tra soát.



Phí cấp lại thẻ mất cắp.



Phí cập nhật thẻ mất cắp, thất lạc lên danh sách cấm lưu hành.

Tất cả những khoản thu từ nghiệp vụ thẻ đem lại một tỉ suất sinh lời lên tới
20%/năm cho NH. Vì vậy, dễ hiểu tại sao thẻ tín dụng có một sức hấp dẫn
lớn như vậy với những tổ chức kinh doanh thẻ.
Bên cạnh lợi ích làm tăng lợi nhuận cho NH, việc kinh doanh thẻ còn góp
phần đa dạng hoá các hình thức dịch vụ mà NH cung cấp. Mà điều này có tác
động không nhỏ đến uy tín của NH. Rõ ràng, khi lựa chọn một NH phục vụ
mình KH sẽ chọn NH nào có khả năng cung ứng nhiều hình thức dịch vụ
hơn, giao dịch tiện lợi hơn. Vì vậy kinh doanh thẻ chính là một hướng đi
đúng đắn cho các NH hiện đại để nâng cao uy tín và khả năng cạnh tranh trên
thị trường…



×