Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Phân tích mô hình quản trị công mới ở một số nước phát triển và liên hệ tình hình thực tế tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (422.18 KB, 38 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC

BÀI TẬP CÁ NHÂN
MÔN QUẢN TRỊ CÔNG
ĐỀ TÀI:
PHÂN TÍCH MÔ HÌNH QUẢN TRỊ CÔNG MỚI Ở MỘT SỐ NƯỚC
PHÁT TRIỂN VÀ LIÊN HỆ TÌNH HÌNH THỰC TẾ TẠI VIỆT NAM

Giảng viên : TS. NGUYỄN QUANG TRUNG
Lớp

: ME07B

Học viên

: NGUYỄN MINH TRƯỞNG

MSSV

: ME07B060

TP.HỒ CHÍ MINH- 11/2015


MỤC LỤC

MỤC LỤC......................................................................................................................2
LỜI NÓI ĐẦU...............................................................................................................1
CHƯƠNG 1...................................................................................................................2


MÔ HÌNH QUẢN TRỊ CÔNG MỚI TẠI CÁC NƯỚC PHÁT TRIỂN........................2
1.3.1.Tính chuyên nghiệp của các nhà quản lý và của nền hành chính..................6
1.3.2.Quan niệm về các giá trị cần hướng tới của một nền hành chính hiện đại....7
1.3.3.Mô hình tổ chức quản trị phẳng hơn.............................................................7
1.3.4.Đánh giá hiệu quả thực thi và tiêu chuẩn thực thi công vụ...........................8
1.3.5.Tiêu chuẩn hòa chất lượng dịch vụ công.......................................................9
1.3.6.Cạnh tranh và áp dụng các kỹ thuật quản lý của khu vực tư.......................11
1.3.7.Lý thuyết phi tập trung hóa.........................................................................12
1.3.8.Phi quy chế hóa...........................................................................................12
1.4.1.Ưu điểm của quản trị công mới...................................................................13
1.4.2.Những hạn chế của quản trị công mới.........................................................17
CHƯƠNG 2.................................................................................................................25
LIÊN HỆ THỰC TẾ VIỆT NAM................................................................................25
2.1.Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 – 2010...25
2.1.1.Nội dung......................................................................................................25
2.1.2.Những kết quả đạt được..............................................................................26
2.1.3.Những bất cập, hạn chế còn tồn tại.............................................................27
2.2.Đề xuất- kiến nghị..............................................................................................30
KẾT LUẬN..................................................................................................................35
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................................36


LỜI NÓI ĐẦU
Vào thập niên 80 và những năm đầu những năm 90 của thê kỷ XX, rất nhiều quốc gia trên
thế giới đặt vấn đề xem xét lại khu vực công về quy mô và khả năng điều hành sự phát triển
của đất nước, đặc biệt một số nước như Anh, Mỹ. Các cuộc cải cách lớn trong khu vực công
diễn ra. Tác động của các cuộc cải cách này không chỉ là những thay đổi lớn đơn thuần mà
đó chính là những thay đổi trong nhận thức của xã hội về vai trò của khu vực công và cách
thức điều hành. Cách tiếp cận hướng đến kết quả đầu ra, hiệu quả quản lý, phân cấp, phân
quyền, áp dụng các yếu tố của thị trường vào nền hành chính trở thành một xu thế lớn của

các nền hành chính ở các nước phát triển. Những thay đổi lớn này chính là sự dịch chuyển từ
mô hình hành chính công sang mô hình quản trị công mới.
Tại Việt Nam, cùng với sự phát triển của đời sống kinh tế - xã hội, yêu cầu hội nhập kinh tế
quốc tế, nền công vụ đã từng bước được đổi mới. Xu hướng hội nhập, dân chủ hóa mọi mặt
đời sống nhà nước và xã hội, mục tiêu xây dụng nhà nước xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân đã đặt ra yêu cầu cần nhìn nhận lại vai trò của nhà nước và bản chất
của hoạt động hành chính. Bộ máy hành chính phải trở thành các cơ quan xã hội, từ bỏ địa vị
cai trị để hình thành các thiết chế phục vụ xã hội, phục vụ nhân dân. Việc cán bộ, công chức
phục vụ cho những lợi ích hợp pháp của nhân dân cũng là vì nhân dân chính là những người
đóng thuế nuôi dưỡng bộ máy đó. Với cách nhìn nhận như vậy thì nhân dân là khách hàng
của nền hành chính, họ là người đánh giá khách quan và công tâm nhất về sự phục vụ của
nhà nước, của bộ máy hành chính.
Những đổi mới trong nền công vụ của nước ta trong những năm qua đã góp phần nâng cao
hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên các phương diện, góp phần vào sự phát triển chung
của đất nước. Tuy nhiên nền hành chính của nước ta nhìn chung vẫn còn nhiều dấu ấn của
hành chính công truyền thống, mô hình quản trị công mới chưa được thể hiện rõ trong các
hoạt động công vụ. Yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi nền hành chính cần sự chuyển
đổi mạnh mẽ, vận động theo mô hình quản trị công mới.

1


CHƯƠNG 1
MÔ HÌNH QUẢN TRỊ CÔNG MỚI TẠI CÁC NƯỚC PHÁT TRIỂN
1.1.

Quản trị công mới.

Quản trị công mới với ý nghĩa là lý thuyết về mô hình hành chính công theo các tiêu hiện
đại, chủ động, năng động, nhạy bén, thích nghi cao nhằm đáp ứng các yêu cầu quản lý và

dịch vụ tối đa trong các điều kiện kinh tế thị trường phát triển mạnh mẽ và những mối quan
hệ quốc tế ngày càng phụ thuộc chặc chẽ lẫn nhau.
Về bản chất, Quản trị công mới là một cách tiếp cận mới đối với hành chính công truyền
thống. Mục tiêu chính của quản trị công là nâng cao chất lượng của hoạt động quản lý nhà
nước, hướng tới xây dựng một nền hành chính năng động, linh hoạt trong điều hành, giám
sát và quản lý các chủ thể khác nhau của xã hội nhằm phục vụ tốt hơn các quyền và lợi ích
của khu vực công cộng.
1.2. Một số đặc trưng của mô hình quản trị công mới
1.2.1. Hiệu quả hoạt động quản lý
Trong mô hình quản trị công mới, vai trò của khoa học quản lý và các nhà quản lý nhất là
các nhà quản lý theo lối quản trị doanh nghiệp được đề cao và chính nó là yếu tố quyết định
việc đạt được mục tiêu của quản lý. Nếu trong mô hình hành chính truyền thống, các nhà
hành chính chủ yếu là làm nhiệm vụ thi hành mệnh lệnh và làm theo các quy tắc có sẵn thì
ngày nay với tư cách là nhà quản lý, họ phải tính toán, dự toán, sáng tạo, năng động để đạt
được mục tiêu. Vì mục tiêu phải đạt là hiệu quả của hoạt động quản lý, các nhà hành chính
bên cạnh việc quan tâm đến chu trình, phương pháp mà còn quan tâm đến mục đích có đạt
được không, cụ thể là hiệu quả được lượng hóa, đánh giá bằng các chỉ tiêu đánh giá dựa trên
so sánh kết quả/chi phí.
1.2.2. Phi quy chế hóa
Cách tiếp cận quản trị công mới không đòi hỏi những quy định chặt chẽ như một mạng
lưới dày đặc trong nền hành chính công truyền thống yêu cầu công chức phải tuân thủ một
cách cứng nhắc và nghiêm ngặt mà thay vào đó là cơ chế mềm dẻo linh hoạt hơn, dễ thích
2


nghi với tình hình kinh tế, chính trị xã hội mới. Người công chức không nhất thiết phải làm
công ăn lương suốt đời mà họ có thể làm hợp đồng toàn phần hoặc nữa thời gian, miễn là họ
phải đạt được mục tiêu của tổ chức đặt ra khi làm việc. Người công dân không còn là người
thụ động cầu xin dịch vụ của nhà nước mà trở thành các khách hàng sử dụng dịch vụ, có
quyền được đòi hỏi phục vụ.

Phi quy chế hóa được thực hiện bằng cách đơn giản hóa các thể chế, các quy định, thủ
tục của chính phủ vì chúng trở nên quá nặng nề, phức tạp đên nỗi người dân không thể hiểu
nổi và thậm chí cả các cơ quan hành chính nhà nước cũng khó áp dụng. Từ đó đặt ra yêu cầu
phải cải cách thể chế theo hướng: Đơn giản hóa các thủ tục hành chính để giải quyết các vấn
đề hành chính nhanh hơn và đỡ tốn kém hơn; Một hệ thống lập quy ít phức tạp tạo ra một
chế độ công vụ đa dạng hơn, tạo điều kiện cho các cấp địa phương phát huy sáng kiến và
phát triển các dịch vụ theo yêu cầu cá nhân. Nhưng đồng thời nó cũng có mặt trái là dẫn đến
những đối xử khác nhau giữa các công dân, tạo ra nguy cơ phân phối không đồng đều các
loại hình dịch vụ trong dân chúng và giữa các vùng miền khác nhau; Một hệ thống chính
sách bao gồm các quy định đơn giản hơn và với số lượng ít hơn sẽ tăng tự do cá nhân cho
công dân, thúc đẩy sự phát triển kinh tế cho các công ty. Nhất là với các công ty kinh doanh,
việc đơn giản hóa các thủ tục rườm rà là giúp tăng tính cạnh tranh của họ.
1.2.3. Phi tập trung hóa
Vấn đề này được thể hiện dưới những hình thức khác nhau, ở những mức độ khác nhau
nhưng xu hướng chung là chính phủ trung ương giao quyền hạn, trách nhiệm, thẩm quyền
nhiều hơn cho các đơn vị chính quyền địa phương (phân quyền lãnh thổ) hay cho các bộ, các
đơn vị tổ chức bên dưới (phân quyền chức năng) trong việc chủ động quản lý các nguồn lực
được phân bổ trong phạm vi thẩm quyền, đồng thời đề cao mối quan hệ giữa chính phủ với
các bộ phận hoạch định chính sách, giữa cấp hoạch định chính sách với cấp thi hành. Sự
“độc lập” ngày càng cao giữa chính phủ và các cấp chính quyền địa phương trở thành pháp
nhân công quyền đi liền với sự cũng cố mạnh mẽ vai trò trung tâm của chính phủ và thủ
tướng tạo ra những chính sách và phương pháp quản lý năng động thích ứng với môi trường
luôn luôn biến động.
3


Phân quyền trong cải cách hành chính nhằm đạt được năm mục đích sau:
-

Tăng cường hoạch định chính sách ở cấp hành chính trung ương bằng cách giảm

bớt các hoạt động có tính chất tác nghiệp;

-

Phát huy tính chủ động sáng tạo của chính quyền địa phương làm cho nền hành
chính sát và phù hợp hơn với đặc điểm kinh tế - xã hội địa phương;

-

Phát triển dịch vu đa dạng hơn theo hướng người tiêu dùng là khách hàng, làm
cho dịch vụ công có hiệu quả cao;

-

Phát triển nền dân chủ, tăng cường sự tham gia của công dân trong nền hành chính
công;

-

Thúc đẩy sự công bằng, trách nhiệm giải trình giúp cho công dân dễ dàng giám sát
hoạt động của các nhà chức trách.

1.2.4. Áp dụng một số yếu tố của cơ chế thị trường
Áp dụng các yếu tố của cơ chế thị trường như cạnh tranh, đấu thầu, tính hiệu quả, lượng
hóa, so sánh kết quả/chi phí, công dân là “khách hàng” của nền hành chính, làm cho nền
hành chính trở nên năng động, đa dạng, phong phú, thoát khỏi vỏ ốc quan liêu truyền thống
của bộ máy thư lại cũ.
1.2.5. Gắn bó với chính trị, với chính phủ, nhà nước và nền hành chính nhà nước
Đội ngũ cán bộ công chức hành chính, đặc biệt là các cán bộ quản lý cao cấp, không phải
là những người trung lập về chính trị, không còn hoàn toàn là “chính trị ra đi, hành chính ở

lại”. Họ tham dự vào quá trình xác lập đường lối, chính sách. Bản thân họ là những người
được rèn luyện chính trị, tham gia công tác chính trị và làm công tác chính trị và hành chính
trong bộ máy hành pháp vào nền hành chính nhà nước và do đó có thể xem họ là chiếc cầu
nối giữa quyền lực chính trị với nền hành chính quốc gia.
1.2.6. Tư nhân hóa một phần các hoạt động của nhà nước trên cơ sở thực hiện được các
mục tiêu và pháp luật nhà nước, đặc biệt là các dịch vụ công.

4


Xu hướng này bắt đầu tại Vương quốc Anh từ khi bà Margaret Thatcher lên nắm quyền
vào năm 1979 và sau đó lan rộng ra nhiều quốc gia trên thế giới. Tư nhân hóa không chỉ là
con đường nâng cao hiệu quả mà còn vì bản thân chính phủ đã có quá nhiều chức năng, nếu
không tư nhân hóa thì không thể đáp ứng nhanh chóng được các yêu cầu ngày càng tăng của
công dân. Theo quan niệm của các nhà nghiên cứu, tư nhân hóa không chỉ đơn thuần là bán
đi các tài sản của nhà nước, chuyển sở hữu công thành sở hữu tư mà bao hàm rất nhiều hình
thức, trong đó kể cả các hình thức như đấu thầu, làm hợp đồng phụ, cho thuê hay cổ phần
hóa các doanh nghiệp và tập đoàn hóa các công ty để nâng cao tính cạnh tranh. Ngoài ra,
một ý nghĩa quan trọng khác của tư nhân hóa là thu hút được đông đảo các thành phần xã
hội, nhất là khu vực tư nhân, các công dân và các tổ chức phi chính phủ, tham gia vào hoạt
động của nền hành chính công. Trong một chừng mực nào đó tư nhân hóa có thể coi là một
phần của xã hội hóa. Mức độ, phạm vi tư nhân hóa và xã hội hóa ở các nước khác nhau, tùy
thuộc vào hoàn cảnh của mỗi nước và xu hướng chính trị của đảng cầm quyền và chính phủ
đương thời.
1.2.7. Hành chính công không tách khỏi hành chính tư và vận dụng nhiều phương pháp
quản lý doanh nghiệp vào thực tiễn hoạt động của mình
Tuy phân biệt rõ và không biến hành chính công thành tổ chức quản lý tư nhân theo cơ
chế thị trường, song trong xã hội hiện đại và nền kinh tế thị trường, nền hành chính công có
thể và đã vận dụng nhiều phương pháp quản lý của các doanh nghiệp tư nhân, nhất là
phương pháp quản lý hiện đại. Đó cũng là đòi hỏi khách quan của hiệu quả, chất lượng và sự

linh hoạt trong đáp ứng các dịch vụ cho yêu cầu ngày càng tăng của công dân cả về số lượng
và chất lượng.
1.2.8. Xu hướng quốc tế hóa
Sự quốc tế hóa đời sống kinh tế - xã hội cũng ảnh hưởng đến nền hành chính công. Các
nước phải điều chỉnh nhiều quy định pháp luật theo pháp luật và thông lệ quốc tế đối với các
vấn đề mang tính toàn cầu, đặc biệt là những vấn đề xã hội. Nền hành chính phát triển là nền
hành chính hướng đến gánh vác những nghĩa vụ chung của nhân loại. Nói cách khác, nền

5


hành chính công trong quản trị công mới là nền hành chính công mở, không chỉ quản lý tốt
trong nước mà còn hướng đến thực hiện các trách nhiệm của quốc gia.
1.2.9. Hiện đại hóa nền hành chính
Quản trị công mới hướng đến việc áp dụng các công nghệ hiện đại vào quản lý, góp phần
nâng cao hiệu quả hoạt động, kịp thời đáp ứng các yêu cầu của công dân và tổ chức. Các
công nghệ áp dụng vào nền hành chính công không chỉ là các phương tiện khoa học kỹ thuật
mà quan trọng hơn là các phương pháp quản lý hiện đại.
1.3.

Các nội dung cấu thành quản trị công mới

Quản trị công mới với ý nghĩa là lý thuyết về mô hình hành chính công theo các tiêu chí
hiện đại, chủ động, năng động, nhạy bén, thích nghi cao nhằm đáp ứng các yêu cầu quản lý
và dịch vụ tối đa trong các điều kiện kinh tế thị trường phát triển mạnh mẽ và những mối
quan hệ quốc tế ngày càng phụ thuộc chặt chẽ lẫn nhau. Quản trị công mới gắn liền với các
yếu tố quản lý và những yếu tố liên quan đến thị trường, sự cạnh tranh và kỹ thuật quản lý
của khu vực tư. Việc phân định các yêu tố cấu thành quản trị công mới thực tế không đơn
giản và các nhà nghiên cứu có những hướng tiếp cận riêng và các yếu tố cấu thành quản trị
công mới được bổ sung theo tiến trình phát triển của lý thuyết này. Trên cơ sở khái quát các

nghiên cứu về quản trị công mới, chúng ta có thể chỉ ra những yếu tố cơ bản nhất của quản
trị công mới.
1.3.1. Tính chuyên nghiệp của các nhà quản lý và của nền hành chính
Yêu cầu về tính chuyên nghiệp của các nhà quản lý và rộng hơn của nền hành chính là
yếu tố quan trọng trọng lý thuyết quản trị công mới. Thực ra tính chuyên nghiệp của công
chức đã được đề cập trong mô hình hành chính truyền thống. Tuy nhiên, trong quản trị công
mới, tính chuyên nghiệp này được thể hiện một cách toàn diện hơn. Tính chuyên nghiệp của
các nhà quản lý thể hiện ở năng lực xây dựng, hoạch định chính sách, năng lực ra quyết
định, năng lực tổ chức công việc khoa học. Một nền hành chính chuyên nghiệp là một nền
hành chính có những quyết sách, hành động đúng với yêu cầu thực tiễn. Nền hành chính
chuyên nghiệp là nên hành chính định hướng phục vụ, phục vụ cho lợi ích công và cho quá
6


trình phát triển. Mặt khác, nền hành chính chuyên nghiệp sẽ tập trung hoàn thành những
nhiệm vụ đúng với vai trò của mình, người lái thuyền chứ không phải chèo thuyền.
1.3.2. Quan niệm về các giá trị cần hướng tới của một nền hành chính hiện đại.
Định hướng giá trị chung của nền công vụ có thể xem là một yếu tố quan trọng trong tổ
chức quản lý. Mô hình hành chính truyền thống, hành chính quan liêu dựa trên những giá trị
cụ thể về hiệu lực, sự tuân thủ về thủ tục thì quản trị công mới hướng tới những giá trị mới.
Các giá trị mà quản trị công mới hướng tới được khái quát ở các giá trị cơ bản: Tính hiệu
quả, sự chuyên nghiệp trong quản lý, kết quả đầu ra, chất lượng, định hướng phục vụ công
dân – khách hàng, quan hệ thị trường, các cam kết về chất lượng dịch vụ…Có thể nói hệ
thống những giá trị chung mà một nền hành chính hiện đại cần hướng tới là cơ sở để tư duy
lại, nhận thức lại về tổ chức và hoạt động của nền hành chính công trên thế giới. Nỗ lực cải
cách hành chính ở các quốc gia trên thế giới hiện này thực tế cũng đang hướng đến hiện thực
hóa các giá trị mà quản trị công mới đã xác định, để hướng tới một nền hành chính phục vụ,
đáp ứng yêu cầu ngày càng đa dạng của công dân và quan trọng là thúc đẩy sự phát triển của
quốc gia trong bối cảng toàn cầu hóa.
1.3.3. Mô hình tổ chức quản trị phẳng hơn

Mô hình hành chính quan liêu với quá nhiều thứ bậc đã trở thành gánh nặng cho quá
trình hoạt động của nền hành chính. Bản thân các chính sách khi được xây dựng và ban hành
đã có những độ trễ nhất định về nhận thức, về thời gian triển khai và sự vận động không
ngừng cả các yếu tố kinh tế - xã hội. Chính vì vậy, tháp phân tầng quá cao của mô hình hành
chính công truyền thống cần được thay đổi. Với mục tiêu xây dựng một mô hình quản trị
năng động, thích ứng với sự thay đổi của nền kinh tế thị trường và xu hướng quốc tế hóa,
khu vực hóa, quản trị công mới định hướng đến việc xây dựng tổ chức bộ máy hành chính
công giảm bớt những tầng nấc trung gian bằng việc cần phân công lại quyền lực giữa cấp
trên và cấp dưới, giữa trung ương và địa phương. Việc giảm bớt các tầng nấc trung gian
được thục hiện bằng quá trình tổ chức lại thẩm quyền quản lý hành chính, xác định rõ những
thẩm quyền nào cần được trao cho cơ quan ở trung ương và thẩm quyền nào cần trao cho cơ
quan ở địa phương. Tư duy quản trị công mới chỉ rõ trung ương chỉ làm những vấn đề mang
7


tính vĩ mô, chiến lược liên quan đến những biến số lớn của quốc gia còn chính quyền địa
phương cần thể hiện rõ năng lực thực hành, đưa chính sách vào thực tiễn.
1.3.4. Đánh giá hiệu quả thực thi và tiêu chuẩn thực thi công vụ
Đánh giá hiệu quả thực thi và tiêu chuẩn thực thi công vụ là thể hiện tập trung quan điểm
về đánh giá kết quả đầu ra của nền hành chính công. Nếu hành chính công truyền thống tập
trung vào yếu tố đầu vào và quá trình thủ tục thì quản trị công mới hướng tới đánh giá kết
quả đầu ra. Việc đánh giá hiệu quả thực tế không đơn giản như quan niệm lượng hóa chi
phí/kết quả bởi tính đa dạng của hoạt động hành chính và mức độ ảnh hưởng của các quyết
định hành chính, hành vi hành chính không thể dễ dàng tính toán bởi có thể những điều này
có thể ảnh hưởng lâu dài. Chính vì vậy, quản trị công mới cho rằng cần phải đánh giá theo
các tiêu chí tĩnh và các tiêu chí động nghĩa là nhìn vấn đề dưới góc độ phát triển. Các tiêu
chuẩn thực thi cảu nền công vụ được các nhà nghiên cứu xem xét một cách toàn diện từ
nhiều góc độ trong đó đặt biệt chú ý đến khía cạnh hiệu quả, sự hài lòng của khách hàng
(công dân, tổ chức) và tính không ngừng đổi mới, nâng cao chất lượng của nên công vụ.
Đánh giá hiệu quả thực thi và tiêu chuẩn thực thi công vụ có nhiều ý nghĩa và thực sự là

bước đột phá trong tổ chức nền hành chính công. Những quan niệm định tính về chất lượng
hoạt động của nền hành chính là chưa đủ và không thể coi là công cụ để kiểm soát hoạt động
của các cơ quan hành chính. Thực tế sự khủng hoảng của mô hình hành chính công truyền
thống chính là ở chỗ do không đánh giá hiệu quả thực thi và tiêu chuẩn thực thi công vụ nên
để kiểm soát người ta có xu hướng lập ra nhiều cơ quan giám sát, kiểm soát dẫn đến sự cồng
kềnh và kém hiệu quả.
Việc xây dựng các tiêu chuẩn thực thi công vụ và đánh giá hiệu quả công vụ tạo ra hiệu
ứng tích cực đối với hoạt động của nền hành chính. Các tiêu chuẩn bản thân nó là một cái
đích để các cơ quan hành chính nhà nước hướng tới ít nhất là đáp ứng đúng hoặc cao hơn.
Mặt khác, điều này có ý nghĩa quan trọng đó chính là cơ sở để cơ quan cấp trên và các chủ
thể giám sát, đánh giá về hoạt động của cơ quan hành chính và nền hành chính. Những tiêu
chuẩn này góp phần nâng cao trách nhiệm giải trình của nền hành chính. Nền hành chỉ phải
thể hiện những chi phí của mình là hợp lý và được thể hiện những kết quả tính cực. Người
8


dân từ các tiêu chuẩn công vụ có thể yêu cầu các cơ quan hành chính nhà nước bảo đảm thực
hiện đúng chức trách, cam kết về chất lượng của mình.
1.3.5. Tiêu chuẩn hòa chất lượng dịch vụ công
Tính ưu việt của một xã hội được phản chiếu một cách rõ ràng qua chất lượng cung ứng
dịch vụ công, bởi dịch vụ công là những hoạt động phục vụ các lợi ích tối cần thiết của xã
hội, đảm bảo cho xã hội phát triển bền vững và có kỷ cương, trật tự. Mọi xã hội đều có
những vấn đề chung, liên quan đến cuộc sống của tất cả mọi người. Đó là các vấn đề như
trật tự trị an, phân hóa giàu nghèo, giáo dục, y tế, dân số, môi trường, tài nguyên,…Để giải
quyết thành công các vấn đề này, cần có sự góp sức của cả nhà nước, cộng đồng và các tổ
chức xã hội thông qua việc cung ứng các dịch vụ công. Nếu các dịch vụ công bị ngừng cung
cấp hoặc cung cấp không đầy đủ, chất lượng thấp thì sẽ dẫn đến những rối loạn trong xã hội,
ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của mỗi người dân, đồng thời tác động tiêu cực đến
sự phát triển của mỗi quốc gia.
Nhìn chung, dịch vụ công trong quan niệm của quản trị công mới đáp ứng những nhu cầu

chung của xã hội về các lĩnh vực sau đây:
-

Duy trì trật tự công cộng và an toàn xã hội như quốc phòng, an ninh, ngoại giao;

-

Bảo về trật tự kinh tế, trật tự mua bán trên thị trường thông qua việc xây dựng và
thực thi thể chế kinh tế thị trường;

-

Cung cấp các tiện ích công cộng cho toàn thể thành viên trong xã hội như bảo vệ
sức khỏe, giáo dục đào tạo, giao thông công cộng, thông tin, thư viện công
cộng…;

-

Quản lý tài nguyên và tài sản công cộng như: Quản lý tài sản nhà nước, bảo về
môi trường, tài nguyên thiên nhiên.

-

Bảo vệ quyền công dân, quyền con người

Đánh giá chất lượng dịch vụ hành chính công là quy trình xác định xem các kết quả/đầu
ra mong muốn đối với việc tạo ra sự hài lòng của công dân, tổ chức có đạt được hay không
hay các dịch vụ công có liên tục được cải tiến, hoàn thiện, nân cao chất lượng không. Quy
9



trình đánh giá được thực hiện thông qua việc thiết lập các tiêu chí đánh giá cho các cơ
quan/đơn vị và đo lường xem các tiêu chí đó có đạt được không.
Chất lượng dịch vụ hành chính công là một vấn đề lớn đã và đang được đặt ra trong định
hướng nâng cao hiệu quả của lĩnh vực này. Khái niệm chất lượng là một khái niệm khó xác
định và đặt vào đối tượng dịch vụ hành chính công càng là một vấn đề phức tạp hơn. Chính
vì vậy, việc đánh giá về chất lượng dịch vụ hành chính công thường có những ý kiến trái
chiều. Thực tế tồn tại những quan niệm trái chiều trong đánh giá về dịch vụ hành chính công
bắt nguồn từ nguyên nhân quan trọng chính là chúng ta đang thiếu những tiêu chuẩn, tiêu chí
đánh giá chất lượng dịch vụ hành chính công. Vì vậy, việc xây dựng tiêu chí đánh giá chất
lượng dịch vụ hành chính chông cần sớm được giải quyết. Việc hình thành các tiêu chí đánh
giá dịch vụ công không chỉ cho phép chúng ta có cái nhìn khách quan, chính xác về chất
lượng dịch vụ hành chính công và còn chỉ ra những định hướng để nâng cao chất lượng dịch
vụ hành chính công.
Để đánh giá về dịch vụ hành chính công từ góc độ quản trị công mới, các tiêu chí, tiêu
chuẩn cần phải bao quát toàn diện quá trình cung ứng dịch vụ. Khác với các hàng hóa thông
thường, dịch vụ hành chính công thường không rõ ràng và khó xác định chính xác chất
lượng của nó. Chất lượng dịch vụ công không thể hiện ở hình thái sản phẩm cuối cùng mà
quan trọng hơn là nó được thể hiện ở các cách thức cung ứng như thế nào. Chẳng hạn như
người dân đến xin cấp giấy phép kinh doanh thì chất lượng dịch vụ chủ yếu không phụ thuộc
vào chất lượng vật chất của chính tấm giấy phép được cấp mà phụ thuộc vào quy trình, cách
thức cấp giấy phép đó: các thủ tục được cấp phép đơn giản hay phức tạp, thời gian chờ đợi là
bao lâu, thái độ của người công chức trong giao tiếp với công dân…Những điều này hàm ý
chất lượng dịch vụ hành chính công không được đo bằng những tiêu chí có tính vật chất cụ
thể mà đo bằng tiêu chí quan trọng nhất là sự hài lòng của khách hàng. Tuy nhiên, bản thân
tiêu chí hài lòng của khách hàng cũng mang tính chủ quan rất lơn và thường khó xác định rõ
ràng. Do đó, xây dựng các tiêu chí đáng giá chất lượng dịch vụ công không chỉ gắn liền với
bản thân loại hình dịch vụ mà còn liên quan đến những chủ thể cung ứng dịch vụ, phương
thức cung ứng và các cam kết về chất lượng. Chính vì vậy, đánh giá về chất lượng dịch vụ
hành chính công cần đánh giá theo một quá trình đồng thời nhấn mạnh đến kết quả đầu ra.

10


1.3.6. Cạnh tranh và áp dụng các kỹ thuật quản lý của khu vực tư
Áp dụng các kỹ thuật quản lý của khu vực tư vào khu vực công là một nội dung quan
trọng của quản trị công mới. Cơ sở khoa học của vấn đề này chính là quan niệm những biện
pháp quản lý tốt của khu vực tư cũng sẽ phát huy hiệu quả trong khu vực công. Điều này đã
được chúng minh trong thực tiễn các nền hành chính công đã áp dụng quản trị công mới. Hệ
thống các trường đào tạo công vụ của các nước trên thế giới thực tế cũng đã đưa quản trị
công mới vào giảng dạy cho các quan chức chính phủ và cả những sinh viên theo học về
hành chính công. Những kiến thức được đào tạo tại các trường công vụ này không chỉ phục
vụ cho khu vực công mà cả khu vực tư.
Quản lý theo kiểu truyền thống thường chỉ tập trung vào các hoạt động đầu ra, và các
quyết định thường chỉ được thông báo rất sơ sài thông qua hệ thống dữ liệu kết quả thực thi
công vụ. Trái lại, quản trị theo kết quả đòi hỏi những chuẩn tắc chặt chẽ hơn: hệ thống giám
sát và đánh giá được coi như công cụ để thu thập dữ liệu về kết quả thực thi công vụ, giúp
các nhà lãnh đạo có thể quản lý hiệu quả hơn để đạt kết quả dự kiến và mục đích của tổ chức
mà họ đứng đầu.
Việc xây dựng mô hình quản trị theo kết quả phải trải qua các bước mang tính liên tục:
-

Phân tích thực trạng, từ đó xác định rõ xuất phát điểm hiện có, trả lời rõ câu hỏi:
ta đang ở đâu?

-

Kết hợp dự báo xu hướng để xác định cái đích phát triển phải đi tới.

-


Lập chiến lược, kế hoạch hành động và sử dụng các công cụ giám sát bảo đảm đi
tới cái đích đã xác định.

-

Kiểm tra thường xuyên các kết quả trung gian và kết quả cuối cùng để biết rõ đã
đến đích chưa.

Phương thức quản trị theo kết quả cho khu vực công đã được các nước Anh, Mỹ,
Canada, Austraylia… áp dụng khá phổ biến từ những năm 80 của thế kỷ XX. Tùy theo đặc
điểm của mỗi nền hành chính công, các nước này đã xây dụng các hệ thống quản lý phù hợp,
kèm theo là các công cụ để đo lường kết quả thực thi công vụ để hổ trợ cho việc xây dựng
11


chính sách, đua ra những quyết đinh về quản lý và phân bổ ngân sách…Gần đây, một số
nước châu Á cũng đã áp dụng phương thức quản trị theo kết quả: chẳng hạn như Hàn Quốc
thường xuyên thực hiện điều tra xã hội học về mức độ hài lòng của người dân đối với cơ
quan công quyền các cấp; Philippines áp dụng hệ thống quản lý thực thi công vụ của nhà
nước địa phương; Ấn Độ áp dung thẻ báo cáo của người dân…Nhìn chung, để xây dựng
được hệ thống quản trị theo kết quả, đòi hỏi phải có tầm nhìn đúng và dài hạn; phải phân
tích đúng tình huống; có chiến lược và kế hoạch hợp lý; xây dựng được các chỉ số cho kết
quả mục tiêu, làm cơ sở cho hệ thống giám sát, đánh giá; lựa chọn công cụ đánh giá phù
hợp; quản lý tổ chức để đạt được mục tiêu, không chỉ dừng lại ở việc thực hiện các hoạt
động, liên tục bám sát diễn biến và kết quả thực thi công vụ ở từng đơn vị thông qua hệ
thống mạng công nghệ thông tin.
1.3.7. Lý thuyết phi tập trung hóa
Phi tập trung hóa là một nội dung rất quan trọng của quản trị công mới. Phi tập trung hóa
đã chuyển đổi cơ cấu quản lý nhà nước ở rất nhiều quốc gia trong những năm gần đây. Điều
này diễn ra vì các lý do khác nhau và chủ yếu là nhằm cải thiện hiệu quả của việc cung ứng

dịch vụ công; nâng cao chât lượng quản lý nhà nocws bằng việc trao quyền cho chính quyền
cấp dưới, các công đồng địa phương. Phi tập trung hóa bao gồm nhiều nội dung: phi tập
trung hóa về chính trị, phi tập trung hóa chức năng, phi tập trung hóa hành chính, phi tập
trung hóa lãnh thổ.
1.3.8. Phi quy chế hóa
Quá trình áp dụng triể để hệ thống hành chính quan liêu đã dẫn đến việc hình thành hệ
thống các quy chế, thủ tục hành chính phức tạp. Sự phức tạp của hệ thống thủ tục này dẫn
đến việc chậm trễ trong giải quyết các công việc của người dân. Chính vì vậy, lý thuyết quản
trị công mới khẳng định cần phải đơn giản hóa hệ thống thủ tục trong giải quyết công việc
của công dân và tổ chức.
Quản trị công mới đưa ra một nguyên tắc đặt biệt quan trọng trong đơn giản hóa thủ tục
hành chính đó là cần tập trung đơn giản những thủ tục được công dân, tổ chức sử dụng
thường xuyên. Chỉ có trên nguyên tắc này, việc cắt giảm thủ tục hành chính, đơn giản hóa
12


thủ tục hành chính mới thực sự đem lại hiêu quả trong giải quyết công việc của tổ chức và
công dân.
1.4.

Những ưu điểm và hạn chế của quản trị công mới

1.4.1. Ưu điểm của quản trị công mới
Quản trị công mới là đỉnh cao của trào lưu của quản lý công ra đời xuất phát từ yêu cầu
của quá trình bổi mới quản lý khu vực công, sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị
trường, quá trình toàn cầu hóa và sự phát triển của ý thức dân chủ. Chính vì vậy, Quản trị
công mới đã đem lại những luồng gió mới cho quá trình cải cách khu vực công, tạo ra những
định hướng mới cho quá trình cải cách khu vực công.
Các giá trị về hiệu quả, trách nhiệm, kết quả đầu ra và các giá trị định hướng khác giúp
cho các nền công vụ nhận thức lại mình. Những hạn chế của khu vực công, tầng nấc kiểm

soát quá nhiều, các văn bản, giấy tờ thủ tục trở thành gánh nặng, chi phí khu vực công tăng
cao và người dân không hài lòng với chất lượng dịch vụ làm cho các nhà quản lý khu vực
công phải nhận ra rằng cần có sự cải cách, đổi mới hoạt động của mình. Nhưng cải cách theo
hướng nào, những giá trị nào mà nền hành chính công trong giai đoạn mới cần hướng tới.
Quản trị công mới ra đời là một sự nỗ lực để tìm ra câu trả lời ấy, cải cách để phát triển.
Thật vậy, quản trị công mới chỉ ra định hướng cải cách khu vực công từ một nền hành
chính công truyền thống sang một nền quản trị công mới, khi mà khu vực công ở các nước
đang phát triển nói chung và Việt Nam nới riêng tỏ ra còn quá nhiều trì trệ và yếu kém. Lý
thuyết quản trị công mới cho thấy rằng cần phải thay đổi nhận thức về vai trò của nhà nước
và cách thức sử dụng nguồn lực của quốc gia. Nhà nước luôn là người chịu trách nhiệm cao
nhất về sự tồn vong và phát triển của quốc gia, dân tộc, nhưng nhà nước không cần làm tất
cả mọi việc mà có thể chuyển giao một phần công việc vho khu vực tư nhân đảm nhiệm. Từ
việc nhận thức lại vai trò của nhà nước, cách thức sử dụng nguồn lực cũng sẽ thay đổi.
Những hiện tượng tiêu cực trong nền hành chính công truyền thống như lãng phí, vô trách
nhiệm trong sử dụng tài sản công, lạm quyền, tham nhũng cũng sẽ được hạn chế do bởi giờ
đây đã có sự tham gia tích cực của xã hội dân sự trong một nền hành chính công mới. Tính
hiệu quả và dân chủ được đề cao. Định hướng cải cách khu vực công sẽ từ chỗ thay đổi nhận
13


thức về vai trò của nhà nước và cách sử dụng nguồn lực đến việc cải các song song môi
trường hành chính bên ngoài và cải cách nội bộ bên trong của nền hành chính. Như vậy,
định hướng cải cách khu vực công trong giai đoạn mới là một trong những giá trị mà Quản
trị công mới có thể đem lại.
Không những vậy, lý thuyết quản trị công mới còn giúp các nhà quản lý nhận thức được
đầy đủ hơn về sự cần thiết phải không ngừng đổi mới trong quản lý. Cải cách khu vực công
không phải là làm một lần rồi xong, không bao giờ phải làm lại nữa. Cải cách khu vực công
là một quá trình mà như nhiều học giả đã so sánh với công việc của người làm vườn. Họ
không chờ cỏ mọc đầy vườn mới tiến hành công việc. Cải cách cần nỗ lực bền bỉ và không
ngừng. Điều này có ý nghĩa quan trọng hơn là nhà quản lý luôn luôn hướng tới những giá trị

cao hơn, những kết quả cao hơn chứ không chỉ bằng lòng với những kết quả đạt được. Tạo
lập một tư duy mới về quản lý, về kết quả quản lý trong khu vực công thực sự là một đóng
góp lớn cho quản lý hiện đại của lý thuyết quản trị công mới.
Cải các khu vực công là một quá trình bền bỉ. Quá trình đó được định hướng rõ ràng như
đã trình bày, và đồng thời luôn được cân đo đong đếm một cách cẩn thận và rõ ràng do bởi
trong quản trị công mới, hiệu quả của hoạt động quản lý luôn luôn được coi trọng. Đó cũng
là một trong những ưu điểm nổi bật của quản trị công mới so với nền hành chính truyền
thống. Khi áp dụng những yếu tố của quản trị công mới, mục tiêu phải đạt được là hiệu quả
của hoạt động quản lý nên các nhà hành chính bên cạnh việc quan tâm đến chu trình,
phương pháp mà còn quan tâm đến mục đích có đạt được hay không, cụ thể là hiệu quả phải
được lượng hóa, đánh giá bằng các chỉ tiêu dựa trên sự so sánh kết quả/chi phí. Điều này
thực sự tạo ra sự khác biệt khi trong nền hành chính truyền thống, các nhàn hành chính chủ
yếu là làm nhiệm vụ thi hành mệnh lệnh, làm theo những quy tắc có sẵn, đảm bảo đúng chu
trình, đúng quy tắc thủ tục hành chính mà thôi. Đánh giá hiệu quả thực thi sẽ giúp nền hành
chính hoạt động hiệu quả hơn, giảm thiểu sự tùy tiện, lãng phí trong sử dụng nguồn lực cũng
như tâm lý không quan tâm đến kết quả đầu ra của cán bộ, công chức nhà nước. Khi ban
hành một chính sách, họ sẽ phải áp dụng một cách khoa học và cẩn trọng những phương
pháp phân tích để lượng hóa tính khả thi và hiệu quả của chính sách ấy. Những nguồn lực
nào cần được huy động để thực thi chính sách, kết quả đầu ra là gì, làm sao để đạt được kết
14


quả với một chi phí thấp nhất, mức độ hài lòng của người dân với chính sách…những yếu tố
ấy đều được tính toán và kiểm soát. Tất nhiên, do bởi tính đa dạng của hoạt động hành chính
và mức đô ảnh hưởng của các quyết định hành chính nên việc đánh giá hiệu quả thực tế
không đơn giản chỉ là lượng hóa kết quả/chi phí. Nhưng để đánh giá kiểm soát hiệu quả hoạt
động công vụ, việc có được những tiêu chí cụ thể để đánh giá luôn luôn là điều cần thiết và
Quản trị công mới bắt buộc nền hành chính phải thiết lập được điều đó.
Quản trị công mới chỉ ra xu hướng cải cách mới cho nền hành chính nhà nước: phi tập
trung hóa, tư nhân hóa một phần các hoạt động của nhà nước nhưng vẫn phải đảm bảo vai

trò trung tâm cuat chính phủ và tính trách nhiệm cao nhất của nhà nước. Thực tế hiện nay
cho thấy, quá trình phi tập trung hóa nền hành chính nhà nước đang được thực hiện. Hành
chính trung ương chia bớt thẩm quyền cho hành chính địa phương chủ động quản lý các
nguồn lực trong phạm vi thẩm quyền của mình, để những quyết sách gần dân, phù hợp với
thực tiễn địa phương hơn. Các cơ quan nhà nước trung ương vì vậy mà cũng được hưởng lợi
do bởi có thể tập trung cao hơn vào việc hoạch định chính sách ở tầm vĩ mô. Không những
có lợi từ việc chuyển giao bớt thẩm quyền cho hành chính địa phương nền hành chính nhà
nước nói chung còn được hưởng lợi từ quá trình tư nhân hóa một phần các hoạt động của
mình. Quá trình tư nhân hóa ở đây không chỉ đơn thuần là bán đi các tài sản của nhà nước,
chuyển sở hữu công thành sở hữu tu mà còn bao hàm rất nhiều hinh thức như đấu thầu, làm
hợp đồng phụ, cho thuê hay cổ phần hóa các doanh nghiệp và tập đoàn hoác các công ty để
nâng cao tính cạnh tranh. Thực chất của quá trình tư nhân hóa là nhà nước chuyển giao
những phần việc mà các tổ chức, cá nhận ngoài nhà nước có thể đảm nhiệm được, qua đó,
thu hút được đông đảo các thành phần xã hội tham gia vào hoạt động của nền hành chính
công. Điều này đưa đến thu nhỏ bộ máy, từ đó giảm bao cấp, giảm gánh nặng tài chính cho
ngân sách nhà nước khi không phải trả lương cho một bộ máy nhà nước quá cồng kềnh như
trước đây nữa. Như vậy, một trong những giá trị mà quản trị công mới đem lại cho nền hành
chính trong giai đoạn tới đó là chỉ ra rõ cần phải tiếp tục đẩy nhanh quá trình phi tập trung
hóa và tư nhân hóa trong công cuộc cải cách nên hành chính nhà nước.
Một ưu điểm tiếp theo của quản trị công mới đó là lý thuyết này đã chỉ ra rằng cần phải
đơn giản hóa hệ thống thủ tục trong giải quyết công việc của công dân và tổ chức. Như
15


chúng ta đã biết, quá trình áp dụng triệt để hệ thống hành chính quan liêu đã dẫn đến hình
thành hệ thống các quy chế, thủ thục hành chính phức tạp. Thủ tục phức tạp sẽ dẫn đến rất
nhiều hậu quả, mà một trong số đó là sự trì trệ trong giải quyết các công việc cho công dân.
Thủ tục phức tạp làm phát sinh nhiều tiêu cực, sự nhũng nhiễu, lạm quyền của cán bộ công
chức nhà nước. Chính vì vậy, cải cách thủ tục hành chính luôn là trọng tâm trong nội dung
cải cách hành chính ở nước ta nói riêng và các nước đang phát triển nói chung. Phi quy chế

hóa, giảm thiểu thủ tục, giấy tờ trong giải quyết công việc cho công dân tổ chức sẽ đưa nền
hành chính đến gần dân hơn và như vậy sẽ góp phần khắc phục tính quan liêu của hành
chính truyền thống.
Quản trị công mới còn đem đến một tư duy mới về xây dựng thể chế. Điều này thường ít
được đề cập đến trong các nghiên cứu về quản trị công mới. Đó chính là vấn đề khái quát
hóa các thể chế từ những thành công của địa phương, của khu vực tư để nâng lên tầm thể
chế quốc gia. Đây chính là một vấn đề lớn của các quốc gia đang phát triển nơi mà sự phát
triển của mỗi địa phương có thể gợi mở ra nhiều điều về xây dựng thể chế chung cho quá
trình phát triển. Nói tóm lại, lý thuyết quản trị công mới có rất nhiều ưu điểm khi nó đã chỉ
ra được định hướng và những nội dung cốt tử mà khu vực công của nền hành chính truyền
thống cần có sự đổi mới. Lý thuyết này đã hướng đến giải quyết những hạn chế của mô hình
hành chính quan liêu: Cơ cấu cồng kềnh, quá nhiều cấp trung gian; chuyên môn hóa quá sâu
dẫn đến khó thích nghi; lạm dụng về mặt hành chính, tranh cấp giấy tờ, thủ tục hành chính;
máy móc, cứng nhắc, không linh hoạt…Các nhà nghiên cứu về quản trị công mới đã nhìn ra
được những hạn chế lớn của mô hình hành chính quan liêu và phủ nhận những giá trị mà mô
hình này có thể đem lại. Chính vì vậy, quản trị công mới đã chỉ ra những hướng cải cách
quan trọng về cơ cấu bộ máy, quản lý nhân sự, cải cách thủ tục, giấy tờ hành chính, chi tiêu,
mua sắm công, quản lý chất lượng, tiêu chuẩn thực thi công vụ. Giai đoạn đầu của quản trị
công mới nhấn mạnh đến vấn đề kế hoạch, chi tiêu công khi quản lý nhân sự mà chi phí cho
hành chính công quá lớn nhưng đem lại những kết quả tiêu cực, không đáp ứng được kỳ
vọng của công dân và tổ chức. Giai đoạn tiếp theo quản trị công mới nhấn mạnh đến vấn đề
cạnh tranh trong khu vực công, tạo ra động lực làm việc mạnh mẽ hơn cho nền công vụ, cải
cách quản lý thực thi, tiêu chuẩn thực thi công vụ, quản lý chất lượng. Các nhà quản lý, các
16


cơ quan hành chính gắn chặt trách nhiệm của mình hơn với kết quả cuối cùng của quá trình
quản lý, cam kết về chất lượng quản lý, chất lượng phục vụ. Cơ cấu tổ chức cần được đổi
mới theo hướng xác định rõ trách nhiệm và tạo ra một bộ máy năng động hơn và có trách
nhiệm hơn với kết quả hoạt động của chính quyền.

1.4.2. Những hạn chế của quản trị công mới
Lý thuyết quản trị công mới của những ưu điểm quan trọng trong đinh hướng đổi mới
khu vực công nhưng cùng với tiến trình phát triển của quản trị hiện đại, các nhà nghiên cứu
đã chỉ ra những hạn chế của quản trị công mới. Sự phê phán quản trị công mới tập trung
nhiều vào vấn đề áp dụng các kỹ thuật quản lý của khu vực tư vào khu vực công. Quan điểm
này cho rằng các nhà nghiên cứu quản trị công mới đã không chú ý đúng mức đến sự khác
biệt giữa khu vực công và khu vực tư, quá nhấn mạnh vào trách nhiệm cá nhân mà quên đi
trách nhiệm tập thể của cơ quan quản lý. Sự nhấn mạnh thái quá vào việc áp dụng các kỹ
thuật quản lý của khu vực tư vào khu vưc công có thể dẫn đến những xung đột trong khu
vực công. Các nhà quản trị công mới khởi đầu đề cập đến vấn đề lựa chọn kỹ thuật quản lý
khu vực tư để áp dụng cho khu vực công và hoàn toàn không quên bản chất quản lý của khu
vực công và khu vực tư. Tuy nhiên ở giai đoạn sau khi sự lên ngôi của quản trị công mới
được khẳng định, nhiều nhà quản trị công mới đã đánh giá quá cao các kỹ thuật quản lý của
khu vực tư và cho rằng những gì hiệu quả của khu vực tư đều có thể áp dụng cho khu vực
công.
Một hạn chế nữa của quản trị công mới được chỉ ra là xem công dân là khách hàng của
nền công vụ mà chưa chú ý đúng mức đến vai trò công dân của họ, vai trò của một công dân
trong một nhà nước dân chủ. Thực tế quan hệ giữa chính phủ và người dân không hoàn toàn
đồng nhất với quan hệ người cung cấp dịch vụ và khách hàng. Mối quan hệ giữa chính phủ
và công dân phức tạp hơn và vai trò của công dân thực tế thể hiện ở 4 phạm trù: công dân,
khách hàng, người sử dụng dịch vụ và dân chúng. Vì vậy, việc chỉ nhấn mạnh vào quan hệ
khách hàng thì chưa thể hiện hết vai trò của công dân. Công dân không chỉ là khách hàng có
quyền đòi hỏi về chất lượng dịch vụ mà với vai trò công dân, công dân thực hiện những
quyền và nghĩa vụ khác đối với nền công vụ.
17


1.5. Những thành tựu của quản trị công mới ở các nước phát triển
1.5.1. Anh- New Zealand
Dựa vào những tiến bộ trong quản lý công ở các nước phát triển trong suốt hơn hai thập

kỷ qua, có thể nói quản trị công mới đã trở thành một giải pháp để đối phó với các vấn đề
của khu vực công. Quản trị công ở nước Anh và New Zealand sẽ được xem xét như hai ví dụ
điển hình để hiểu các vấn đề lý thuyết của quản trị công mới được thực hiện trên thực tế như
thế nào. Hai quốc gia này thực hiện quản trị công mới theo mô hình “hướng tới kết quả”.
Mặc dù còn nhiều tranh cãi xung quanh việc thực hiện quản trị công mới và tác động của
nó đến chất lượng của các dịch vụ công nhưng không thể phủ nhận rằng các cải cách đã “cải
thiện đáng kể hiệu quả và chất lượng của các dịch vụ công” (Schick, A. (1996): p.86). Kể từ
khi thực hiện cải cách, nước Anh và New Zealand đã tập trung vào bốn mặt chính của quản
trị công mới bao gồm:
-

Tư nhân hóa: chuyển quyền sở hữu từ các doanh nghiệp nhà nước sang tư nhân. Tại
nước Anh, trong khoảng thời gian 1979 – 1997, nhiều ngành công nghiệp quan trọng
thuộc sở hữu công như dầu khí, viễn thông, ga, nước, điện, than và các ngành dịch vụ
như vận tải đường bộ, xe buýt, đường sắt, sân bay và thép đã được như nhân hóa hết.
Một quá trình tương tự đã diễn ra trong khoảng thời gian từ 1981 đến 1994 ở New
Zealand và số lượng nhân viên khu vực công đã giảm 26,4% (Minogue, M. (1998),

-

p.12-30).
Phân bổ và cung cấp dịch vụ công thông qua hợp đồng và quản lý chất
lượng: tập trung vào việc đánh giá chi phí, hiệu quả của các tổ chức công và thực
hiện theo nguyên tắc thị trường. Các công ty tư nhân sẽ được giao một số dịch vụ
công nếu họ có hồ sơ dự thầu và năng lực tốt hơn so với các tổ chức công đang chịu
trách nhiệm cung cấp dịch vụ đó. Tại nước Anh, một số dịch vụ như thu gom rác thải,
làm sạch đường phố và trường học, dịch vụ nhân sự, quản lý giải trí và quản lý nhà ở
đã được giao khoán. Phương thức hợp đồng cũng trở nên phổ biến tại New Zealand.
Phương thức ký kết hợp đồng thiết lập mối quan hệ người bán – người mua giữa
chính phủ và các nhà cung cấp. “Chủ nghĩa hợp đồng mới” không những cần dựa trên

nền tảng một thị trường mạnh mà còn dựa trên các chế tài mạnh để kiểm soát việc
thực hiện hợp đồng (Schick, A. (1998): p. 127).
18


-

Tái cơ cấu các dịch vụ công tạo ra nhiều cơ quan hoạt động độc lập và các cơ
quan hành pháp. Tại Anh Quốc, các cơ quan hành pháp chịu trách nhiệm thực hiện
chính sách công ở những lĩnh vực được giao. Các Giám đốc điều hành chịu trách
nhiệm quản lý các cơ quan này. Tại New Zealand, Quốc hội kiểm soát hệ thống tài
chính công và quá trình xây dựng pháp luật. Nội các đưa ra các quyết định về chính
sách của Chính phủ, các Bộ trưởng và các cơ quan dưới quyền thực hiện các quyết
định đó. Chính phủ quyết định các mục tiêu mà họ muốn đạt được trong khi các Bộ
trưởng phải đảm bảo đạt được kết quả để đáp ứng được các mục tiêu mong muốn.
Giám đốc điều hành các cơ quan hành pháp và tất cả các nhà cung cấp làm nhiệm vụ

-

phân bổ đầu vào để tạo ra kết quả đầu ra mong muốn (Schick, A. (1996): p.2).
Hệ thống quản lý kết quả đưa ra những phương pháp hiệu quả hơn để đánh giá và
giám sát hoạt động của các tổ chức công. Việc đánh giá kết quả dựa trên các tiêu chí
cụ thể để đánh giá việc thực thi công vụ. Mục tiêu của việc này là tạo ra cơ chế
thưởng phạt chính xác, công bằng cho công chức nhằm nâng cao kết quả làm việc của
họ.

Các nguyên tắc cơ bản của hệ thống quản lý công ở New Zealand bao gồm:
-

Đặt các mục tiêu rõ ràng: việc đầu tiên của một quá trình quản lý là phải đặt ra các

mục tiêu rõ ràng để các nhà quản lý biết họ phải chịu trách nhiệm đạt được những gì.
Mỗi một mục tiêu phải cụ thể, rõ ràng và tuyệt đối không mâu thuẫn với các mục tiêu

-

khác.
Tự do trong quản lý: khi có mục tiêu rõ ràng, các nhà quản lý phải được trao quyền
tự do quản lý, họ có quyền tự do sử dụng các nguồn lực để đạt được hiệu quả cao

-

nhất.
Trách nhiệm giải trình: các nhà quản lý phải chịu trách nhiệm giải trình về tất cả
các quyết định họ đưa ra và chịu trách nhiệm cả cho những người mà trên danh nghĩa
thay họ thực hiện công việc. Cùng với việc trao quyền tự do quản lý cần tạo ra động
lực và sự trừng phạt để các nhà quản lý phải đảm bảo thực hiện mục tiêu chung thay

-

vì chạy theo mục đích riêng của họ.
Đánh giá hiệu quả công việc: Hiệu quả làm việc của các nhà quản lý cần phải được
đánh giá thông qua các công cụ đánh giá để biết công chức đã làm thế nào để đạt
19


được mục tiêu mong muốn và liệu có bất kỳ kết quả xấu nào do việc quản lý kém gây
-

ra?
Thông tin đầy đủ và thông suốt – Để có thể đánh giá việc thực thi công vụ thì thông

tin liên quan đến việc thực thi công vụ của các nhà quản lý cần phải đầy đủ và chính
xác. Giống như việc các nhà quản lý có thể tự do sử dụng tài chính trước khi ra quyết
định làm thế nào để sử dụng nguồn lực hiệu quả nhất họ cần có các thông tin liên

quan đầy đủ và chính xác do hệ thống kế toán cung cấp (Cook, A.L. (2004): p.4)
Việc áp dụng quản trị công mới đã mang lại những thành công nhất định cho New
Zealand và Anh Quốc. Quản trị công mới giúp chính phủ trở nên nhỏ gọn hơn, phân cấp
nhiều hơn và ít sự can thiệp hơn khiến khu vực công làm việc hiệu quả hơn; các cơ quan
cung cấp dịch vụ công được tin tưởng hơn và có trách nhiệm đối với công dân hơn. Quản
trị công mới cũng tạo ra nhiều lựa chọn hơn do có sự cạnh tranh hơn giữa các nhà cung
cấp tư và công trong việc cung ứng các dịch vụ công. Các tổ chức công hoạt động như
doanh nghiệp, họ có khả năng và sẵn sàng làm việc với các doanh nghiệp tạo hiệu suất
kinh tế cao hơn (Jones, L.R. and Kettl, D.F. (2003): p.2).
1.5.2. Cộng hòa liên bang Đức
Cải cách hành chính thường xuyên nằm trong chương trình chính trị của nước Đức với
nhiều nội dung giải quyết như lập chương trình chính trị, lập ngân sách chương trình, cải
cách công vụ, việc tham gia của công dân, công nghệ thông tin, giảm bớt các quy định và tư
nhân hóa.
Theo Jann (1977), sự phát triển của mô hình định hướng mới (NSM) tại Đức cho thấy
một số đặc điểm khác thường: phong trào này bắt nguồn từ “ dưới”- từ địa phương chứ
không phải từ Chính phủ trung ương; nó được các nhà thực tiễn chứ không phải các học giả
và nhóm chuyên gia tư vấn theo đuổi; nó không nằm trong chiến lược chính trị đơn giản
nhằm “ đẩy lùi nhà nước” mà nhằm hợp pháp hóa hoạt động của nhà nước; nó không chỉ
quan tâm đến tính hiệu quả mà còn sự dân chủ và trách nhiệm giải trình; nó có chiều hướng
bài trừ hệ tư tưởng mạnh và ngay từ đầu nhằm đúng sự ủng hộ của 2 phái, ít nhất là tại các
cấp địa phương của nền hành chính công. Trong khi ở cấp trung ương, Đảng Dân chủ Xã hội
và Đảng Xanh có các báo cáo nghiên cứu và bản ghi nhớ về chủ đề này đồng thời tổ chức
các cuộc chất vấn. Tại các cấp địa phương, hầu như chính quyền bang đã bắt đầu các cuộc
20



cải cách của riêng họ có sự tham khảo đến NSM. Hơn nữa các công ty tư vấn tư nhân đã
nhanh chóng bắt đầu soạn thảo và phổ biến rộng rãi thông điệp mới này đến các chính quyền
địa phương và các cơ quan nhà nước khác.
Hiện đại hóa nền hành chính công Đức bao gồm ba mặt: giảm bớt vai trò của nhà nước;
giảm chi phí nhân sự và cải cách cơ cấu. Trên thực tế, việc giảm bớt vai trò của nhà nước
(hoặc “ làm gọn nhẹ nhà nước” ) dẫn đến việc mở rộng chiều hướng tiến tới tư nhân hóa và
việc giảm bớt các quy chế trong thập niên tám mươi. Việc giảm bớt chi phí của nền công vụ
được thực hiện bằng việc áp dụng các biện pháp kinh tế truyền thống như giảm bớt số lượng
nhân viên, giảm chất lượng dịch vụ hoặc mở rộng tuần làm việc. Các cuộc cải cách cơ cấu
chủ yếu nhằm vào ban lãnh đạo quản lý của các chính quyền địa phương.
Về tổ chức cho khu vực công xem xét đến thực thực trạng hành chính công chứ không
phải mô hình mong muốn của nó. Tuy có thành công khác thường như vậy, cách thức tiếp
cận này cũng chịu sự chỉ trích gay gắt. Các chỉ trích chỉ xoáy vào việc các cách thức này chỉ
chú ý tới khái niệm và các phương hướng tầm nhìn, vào sự mật thiết của nó với các nhà tư
vấn thương mại, sự phấn khích cải cách mang tính chất ngây thơ và sự sao lãng đến các tiền
đề văn hóa của hành chính công. Tuy vậy, người ta vẫn tin tưởng rằng NSM giải quyết đúng
các vấn đề đặt ra. Những bổ sung cần thiết là một sự hiểu biết mới về vai trò của hành chính
công trong một nhà nước dân chủ và một học thuyết.
1.5.3. Nhật Bản
Quản trị công mới được Nhật Bản áp dụng từ cuối những năm 80 của thế kỷ XX với
trọng tâm là thay đổi thể chế hành chính theo hướng làm trong sạch và lành mạnh hóa nền
hành chính quốc gia để chính phủ gần dân hơn, ngày càng thấu hiểu những tâm tư và nguyện
vọng chính đáng của dân. Theo đó, Chính phủ Nhật Bản kiên quyết giảm bớt các thủ tục
hành chính không cần thiết; Giảm sự can thiệp trực tiếp và có tính mệnh lệnh của nhà nước
trong các giao dịch dân sự, tạo cơ hội mới cho các doanh nghiệp trong sản xuất, kinh
doanh…Nét mới trong cải cách hành chính ở Nhật Bản là đã thiết lập được cơ chế phi tập
trung. Từ khi Luật Khung về phi tập trung hóa được thông qua, Chính phủ Nhật Bản đã tiến
hành phân quyền mạnh hơn cho địa phương và cải tổ bộ máy chính phủ. Hiện nay, chính
21



quyền địa phương có vai trò rộng lớn hơn trong việc thực hiện quản lý nhà nước trên địa bàn
hành chính của mình. Chính phủ trung ương tập trung giải quyết các vấn đề liên quan đến sự
tồn tại và phát triển của quốc gia. Đồng thời, Chính phủ Nhật Bản đã xây dựng hai bộ luật
rất quan trọng liên quan đến công chức là Luật Công chức và Luật đạo đức Công chức. Theo
đó, phẩm chất đạo đức và ý thức công dân của công chức, cũng như việc bồi dưỡng, nâng
cao năng lực chuyên mô cho công chức, chú trọng năng lực và kết quả công tác của công
chức là những vấn đề mà Chính phủ Nhật Bản hết sức quan tâm.
1.5.4. Hoa kỳ
Nền công vụ và chế độ công chức của Mỹ đi theo một quá trình phức tạp từ “chế độ thải
loại” tới “chế độ công tích”. Sở dĩ như vậy là do Hiến Pháp nước này quy định chế độ Tổng
thống với việc Tổng thống bổ nhiệm các quan chức cấp cao theo kiến nghị, hoặc được sự
đồng ý của Thượng nghị viện, bổ nhiệm các quan chức trung cấp và sơ cấp theo sự ủy quyền
của Nghị viện.
Với cơ sở pháp lý như vậy, thông thường thì sau khi đắc cử, Tổng thống bổ nhiệm những
người đã có nhiều công lao trong cuộc tranh cử của đảng mình và những người thân tín vào
thành phần chủ chốt trong chính phủ. Điều đó góp phần dẫn tới “chế độ thải loại”, một chế
độ về sau mang lại hiệu quả thấp trong quản lý hành chính nhà nước và những hủ bại của
giới quan chức như tệ hối lộ và tham nhũng. Điều đó đã vấp phải sự phê phán kịch liệt về
mọi mặt từ phía nhân dân Mỹ và nhất là từ phía đảng đối lập. Bản thân sự phân chia quyền
lợi không đồng đều trong nội bộ đảng cầm quyền cũng mang lại những ly gián và công kích
lẫn nhau giữa các quan chức và giữa các bộ, ngành hay địa phương. Vì vậy, chế độ thải loại
dần bị thay bằng một chế độ công vụ thích ứng hơn.
Từ khi Mỹ thực hiện “Luật chế độ công chức” công khai thi tuyển thì số lượng công
chức của chính phủ tăng lên rất nhiều. Kể từ năm 1978, cải cách công vụ của Mỹ tập trung
vào các nội dung cơ bản là : thực hiện chế độ tiền lương theo công tích, căn cứ vào thành
tích công tác để trả lương cho công chức; cải các chế độ sát hạch, đánh giá công chức, lấy đó
làm căn cứ để khen thưởng, đề bạt, bồi dưỡng…; thiết lập chức vụ hành chính cao cấp với


22


các tiêu chuẩn và điều kiện được quy định rõ ràng; thành lập cơ quan quản lý công chức là
cơ quan độc lập, chịu trách nhiệm trực tiếp trước tổng thống.
Nước Mỹ cũng rất tích cực trong việc cải cách bộ máy hành chính của mình, với việc
thành lập ra một ủy ban chịu trách nhiệm về việc xem xét lại và hiện đại hóa bộ máy chính
phủ do cựu phó tổng thống Al Gore khi ông này còn đương nhiệm, đứng đầu. Kể từ năm
1992, phong trào “sáng tạo lại chính phủ” được khởi xướng với một tác phẩm được Tổng
thống Mỹ tán dương là “sách gối đầu giường” do hai học giả David osborne và Ted Gaebler
viết. Phong trào này đã có những ảnh hưởng lớn lao đến quá trình cải cách nhà nước và công
vụ của Mỹ với 10 nguyên tắc cải cách cho chính phủ kinh doanh là:
-

Lái thuyền chứ không chèo thuyền

-

Tăng cường quyền lực cho các cộng đồng chứ không phải chỉ đơn thuần là phân
phát dịch vụ

-

Khuyến khích cạnh tranh hơn là độc quyền

-

Được hướng dẫn bởi sứ mạng chứ không phải bằng quy tắc định hướng

-


Xem trọng đầu ra của vốn hơn là đầu vào

-

Thỏa mãn các nhu cầu của người tiêu dùng chứ không phải của bộ máy quan chức

-

Tập trung vào việc kiếm được các nguồn lực chứ không chỉ tiêu phí các nguồn lực

-

Đầu tư vào việc phòng ngừa các vấn đề hơn là chữa cháy

-

Phân quyền

-

Giải quyết các vấn đề bằng cách tận dụng vị thế thị trường hơn là xây dựng nên
các chương trình công cộng.

Một trong những đặc điểm cơ bản của chế độ công vụ Mỹ là ảnh hưởng của phân quyền
trong nhà nước liên bang. Do Chính phủ liên bang giao rất nhiều quyền cho các bang, mỗi
bang lại có luật riêng của mình, do vậy ngoài các đặc điểm chung của cả liêng bang, mỗi
bang lại có nét đặc thù trong tổ chức và vận hành hệ thống công vụ và công chức. Điểm nổi
bậc trong cải cách công vụ của Mỹ là chế độ “mở”. Có thể nói nước này là điển hình với
23



×