Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

vận dụng chuẩn mực quốc tế về kế toán để hoàn thiện hệ thống báo cáo tài chính doanh nghiệp việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (804.68 KB, 98 trang )

BỘGIÁ
O DỤC – ĐÀ
O TẠO

ĐẠI HỌC QUỐ
C GIA THÀ
NH PHỐHỒCHÍ MINH
TRƯỜ
NG ĐẠI HỌC KINH TE Á
-----------------oOo ----------------

VŨHOÀ
I ĐỨ
C

VẬN DỤNG CHUẨN MỰC QUỐC TẾ VỀ KẾ TOÁN
ĐỂ HOÀN THIỆN HỆ THỐNG BÁO CÁO TÀI CHÍNH
DOANH NGHIỆP VIỆT NAM

Chuyên nghành: Kế toán Tài vụ và Phân tích hoạt động Kinh tế
Mã số

:

5.02.11

LUẬN ÁN THẠC SĨ KHOA HỌC KINH TẾ

Người hướng dẫn khoa học:
PGS – TS ĐÀ
O VĂ


N TÀ
I

THÀ
NH PHỐHỒCHÍ MINH - 2000 Trang 1


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Trang

CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ KẾ TOÁN, CHUẨN MỰC KẾ
TOÁN
VÀ BÁO CÁO TÀI CHÍNH ………………………………………………….
1
1.1-

KẾ TOÁN ……………………………………………………………………………………………………………………

1

1.1.1- Đònh nghóa về kế toán ……………………………………………………………………………… 1
1.1.2- Bản chất và vai trò của hệ thống báo cáo kế toán ……………………… 2
1.1.3- Tiêu chuẩn của thông tin kế toán hữu ích ………………………………………. 5
1.2-


CHUẨN MỰC KẾ TOÁN ………………………………………………………

6

1.2.1- Đònh nghóa chuẩn mực kế toán …………………………………………………………….. 6
1.2.2- Sự cần thiết phải có hệ thống chuẩn mực quốc tế về kế toán…… 7
1.3.1- Nội dung của chuẩn mực quốc tế về kế toán …………………………………. 8
1.3-

NHỮNG VẤN ĐỀ CĂN BẢN VỀ NGUYÊN TẮC LẬP VÀ TRÌNH
BÀY CÁC THÔNG TIN TRÊN BÁO CÁO TÀI CHÍNH ………………………. 10
1.3.1- Mục đích của báo cáo tài chính ……………………………………………………………. 10
1.3.2- Thủ tục và nguyên tắc lập báo cáo tài chính …………………………………. 11
1.3.3- Thông tin trình bày trên báo cáo tài chính ………………………………………. 12

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CỦA HỆ THỐNG BÁO CÁO
TÀI CHÍNH TRONG DOANH NGHIỆP VIỆT NAM…. 21
2.1-

LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA HỆ THỐNG
BÁO CÁO KẾ TOÁN ÁP DỤNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP
Trang 2


VIỆT NAM…………………………………………………………………………………………………………………. 21
2.1.1- Thời kỳ quản lý theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung
(từ 1986 trở về trước) ………………………………………………………………………………. 21
2.1.2- Thời kỳ chuyển từ kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thò trường
(từ năm 1987 đến 1994) …………………………………………………………………………. 24
2.1.3- Thời kỳ nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế thò trường

theo đònh hướng xã hội chủ nghóa (từ năm 1995 đến nay) ………. 26
2.2-

THỰC TRẠNG CỦA HỆ THỐNG BÁO CÁO TÀI CHÍNH TRONG
CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM HIỆN HÀNH …………………………………… 27
2.2.1- Hệ thống báo cáo tài chính áp dụng trong các doanh nghiệp
Việt Nam hiện nay …………………………………………………………………………………….. 28
2.2.2- Ưu điểm và những vấn đề còn tồn tại của hệ thống báo cáo
tài chính áp dụng trong các doanh nghiệp Việt Nam
hiện nay…………………………………………………………………………………………………………… 32

CHƯƠNG 3: VẬN DỤNG CHUẨN MỰC QUỐC TẾ VỀ KẾ TOÁN
ĐỂ HOÀN THIỆN HỆ THỐNG BÁO CÁO TÀI CHÍNH
TRONG DOANH NGHIỆP VIỆT NAM ………………………….. 40
3.1-

QUAN ĐIỂM VỀ VIỆC SOẠN THẢO VÀ TRÌNH BÀY
BÁO CÁO TÀI CHÍNH ………………………………………………………………………………………… 40
3.1.1- Quan điểm tuân thủ luật pháp ………………………………………………………………. 40
3.1.2- Quan điểm thương mại hợp lý ……………………………………………………………… 41

3.2-

MỤC TIÊU HOÀN THIỆN HỆ THỐNG BÁO CÁO KẾ TOÁN
TÀI CHÍNH ………………………………………………………………………………………………………………… 45

3.3-

VẬN DỤNG CHUẨN MỰC QUỐC TẾ VỀ KẾ TOÁN ĐỂ
HOÀN THIỆN HỆ THỐNG BÁO CÁO TÀI CHÍNH TRONG

DOANH NGHIỆP VIỆT NAM …………………………………………………………………………… 45
3.3.1- Các giải pháp chung nhằm hoàn thiện hệ thống báo cáo
tài chính trong doanh nghiệp Việt Nam ……………………………………………. 45
3.3.2- Hoàn thiện hệ thống báo cáo tài chính trong doanh nghiệp
Việt Nam ………………………………………………………………………………………………………… 49

KẾT LUẬN …………………………………………………………………………………………………………………………..

67

Trang 3


TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

LỜI MỞ ĐẦU
I-

TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI:

Hạch toán kế toán là một bộ phận cấu thành quan trọng của hệ thống
công cụ quản lý kinh tế, tài chính, có vai trò tích cực trong việc quản lý, điều
hành và kiểm soát các hoạt động kinh tế.
Trang 4


Hệ thống báo cáo tài chính, một bộ phận cấu thành của hệ thống kế toán,
là nguồn thông tin cần thiết và hết sức quan trọng cho các quyết đònh kinh tế của
nhiều đối tượng khác nhau bên trong cũng như bên ngoài doanh nghiệp. Chất

lượng thông tin do báo cáo tài chính cung cấp luôn là mối quan tâm thường
xuyên không những của bản thân nhà quản trò tại doanh nghiệp, của các cơ quan
chức năng của Nhà nước, mà còn là mối quan tâm của các đối tượng khác có
quyền lợi trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động của doanh nghiệp.
Trên thế giới, việc soạn thảo và trình bày thông tin trên báo cáo tài chính
được xác lập theo những tiêu chuẩn, thủ tục và nguyên tắc lập có tính thực tiễn
và khoa học do các hiệp hội, tổ chức kế toán quốc gia và quốc tế nghiên cứu.
Hệ thống thông tin được soạn thảo và trình bày trong hệ thống báo cáo tài
chính của các doanh nghiệp Việt Nam đã cung cấp những thông tin hữu ích và có
tác dụng tích cực đối với công tác quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy
nhiên, do chuyển đổi kinh tế mới trong giai đoạn đầu, nền kinh tế Việt Nam từng
bước hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới, hơn nữa những vấn đề thực tiễn
mới nảy sinh … nên việc sử dụng các công cụ quản lý kinh tế nói chung và công
cụ kế toán nói riêng không thể tránh khỏi khiếm khuyết.
Xuất phát từ nhận thức trên, chúng tôi cho rằng việc xem xét, nghiên cứu
vận dụng chuẩn mực quốc tế về kế toán để không ngừng hoàn thiện hệ thống kế
toán doanh nghiệp Việt Nam, trong đó có hệ thống báo cáo tài chính, luôn là
yêu cầu cấp bách.
II-

MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:

Trên cơ sở nghiên cứu hệ thống báo cáo tài chính áp dụng cho các doanh
nghiệp ở Việt Nam hiện nay từ chế độ kế toán doanh nghiệp ban hành theo
Quyết đònh số 1141TC/QĐ/CĐKT ngày 01/11/1995; các đặc điểm về môi trường
kế toán của Việt Nam như văn hóa, luật pháp, kinh tế, xã hội … ; và đối chiếu
với các nội dung của hệ thống chuẩn mực quốc tế về kế toán, chúng tôi nhìn
nhận lại những ưu nhược điểm của hệ thống báo cáo tài chính áp dụng trong các
doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. Qua đó đề xuất phương hướng và giải pháp
nhằm hoàn thiện hệ thống báo cáo tài chính doanh nghiệp Việt Nam.

Luận án tập trung vào 3 mục tiêu, trong đó mục tiêu cuối cùng là mục tiêu
chính:
-

Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về bản chất, các tiêu chuẩn và nội
dung cấu thành hệ thống thông tin trong báo cáo tài chính.
Trang 5


III-

-

Đánh giá thực trạng hệ thống báo cáo tài chính trong các doanh nghiệp
Việt Nam để rút ra những điểm hạn chế, khiếm khuyết cần được hoàn
thiện.

-

Đề xuất các giải pháp chung và một số các giải pháp cụ thể để góp
phần hoàn thiện việc soạn thảo và trình bày thông tin trên báo cáo tài
chính.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:

Luận án được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận biện chứng duy vật,
đồng thời sử dụng các phương pháp cụ thể như: phương pháp hệ thống, phương
pháp so sánh, phương pháp quy nạp, phương pháp diễn giải, phương pháp phân
tích để làm sáng tỏ các nội dung nghiên cứu về lý luận, trình bày thực trạng,
cũng như xác lập các giải pháp cụ thể trong việc thực hiện mục tiêu của đề tài.

Luận án có kết cấu như sau:
-

Lời mở đầu

-

Chương I : Tổng quan về kế toán, chuẩn mực kế toán và báo cáo tài
chính

-

Chương II : Thực trạng của hệ thống báo cáo tài chính trong doanh
nghiệp Việt Nam

-

Chương III : Vận dụng chuẩn mực quốc tế về kế toán để hoàn thiện hệ
thống báo cáo tài chính trong doanh nghiệp Việt Nam

-

Kết luận

-

Tài liệu tham hảo

-


Phụ lục

Trang 6


CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ KẾ TOÁN, CHUẨN MỰC KẾ TOÁN
VÀ BÁO CÁO TÀI CHÍNH
1.4-

KẾ TOÁN:

1.1.1- ĐỊNH NGHĨA VỀ KẾ TOÁN
Trong thời kỳ sơ khai, kế toán được quan niệm như là một phương pháp, một
hoạt động thực hành giản đơn, một cách thức để phân chia kết quả và theo dõi các
diễn biến của các nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Dần dần, nhận thức của con người
về kế toán đã thay đổi đáng kể, các phương pháp và chức năng của kế toán ngày
càng hoàn thiện hơn.
Ngày nay, kế toán được xem là phương thức đo lường, xử lý thông tin nhằm
đáp ứng nhu cầu thông tin kinh tế cho người sử dụng ra quyết đònh. Các yêu cầu
thông tin kinh tế mà kế toán cung cấp ít hay nhiều, thô sơ hay phức tạp đều có
chung thuộc tính là đòi hỏi thông tin biểu hiện bằng tiền về tình hình và sự vận
động của tài sản, và tình hình sử dụng các tài sản này.
Trong phạm vi doanh nghiệp, đối tượng quản lý là hoạt động kinh doanh, kế
toán là một trong những nguồn cung cấp các thông tin chủ yếu.
Một cách chung nhất, kế toán là hệ thống thông tin mà nhờ nó hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp được tính toán, đo lường, đánh giá dướùi hình thức tiền
tệ, và từ góc độ: Tình hình và sự biến động của vốn kinh doanh thuộc quyền sở hữu
hay sử dụng của doanh nghiệp dùng cho hoạt động kinh doanh; và kết quả kinh
doanh của doanh nghiệp trong mỗi thời khóa kế toán.

Như vậy, kế toán thực hiện chức năng cơ bản là nguồn cung cấp thông tin
hữu ích để người sử dụng ra quyết đònh. Chức năng này bao gồm hai giai đoạn khác
nhau và có quan hệ chặt chẽ: Giai đoạn thu thập thông tin nhằm tính toán, đo lường
các hoạt động kinh doanh và giai đoạn truyền đạt thông tin cho người sử dụng có
liên quan đến quyết đònh.
Như vậy, đònh nghóa kế toán chứa đựng hai vấn đề chính: Một là, trong đònh
nghóa cần phân biệt kế toán với các bộ môn thông tin khác. Sự phân biệt này có thể
thấy thông qua nghiên cứu những vấn đề cơ bản của kế toán: đối tượng và phương
pháp thu thập, xử lý, truyền đạt thông tin kế toán. Hai là, giới hạn mục đích, chức
năng của kế toán là nhằm cung cấp thông tin hữu ích để người sử dụng ra các quyết
đònh.
Chính vì vậy, trong phần lớn các đònh nghóa về kế toán, người ta thường trình
Trang 7


bày 2 vấn đề chính nêu trên.
Ủy ban thuật ngữ của Học viện kế toán viên công chứng của Mỹ (AICPA) đã
đònh nghóa:”Kế toán là một nghệ thuật dùng để ghi chép, phân loại và tổng hợp
theo một cách thức nhất đònh dưới hình thức tiền tệ về các nghiệp vụ, các sự kiện
và trình bày kết quả của nó cho người sử dụng ra quyết đònh”.
Hiệp hội Kế toán Mỹ (trong Thông tin báo về lý thuyết kế toán căn bản)
đònh nghóa: ”Kế toán là quá trình ghi nhận, đo lường và công bố các thông tin kinh
tế, giúp cho người sử dụng phán đoán và ra quyết đònh dựa trên thông tin này”.
Ủy ban Nguyên tắc Kế toán của Mỹ (APB) đã đònh nghóa “Kế toán là một
hoạt động mang tính dòch vụ mà chức năng của nó là nhằm cung cấp những thông
tin tài chính đònh lượng của đơn vò, để giúp cho người sử dụng ra các quyết đònh
trong dòng hoạt động bình thường”.
Tại Việt Nam, đònh nghóa kế toán cũng thay đổi theo quá trình phát triển của
nền kinh tế. Nền kinh tế nước ta đã trải qua 2 giai đoạn chính, đó là nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung và nền kinh tế thò trường có sự điều tiết của Nhà nước theo

đònh hướng Xã hội chủ nghóa.
-

Trong nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung, mục đích của
kế toán là cung cấp thông tin cho Nhà nước để kiểm tra tình hình thực hiện kế
hoạch. Vì vậy, Điều lệ Tổ chức Kế toán Nhà nước (ban hành kèm theo Nghò
đònh số 25-HĐBT ngày 18/03/1989 của Hội đồng Bộ trưởng) nêu rõ “Kế toán là
công việc ghi chép, tính toán bằng con số dưới hình thức giá trò, hiện vật và thời
gian lao động, chủ yếu dưới hình thức giá trò để phản ánh, kiểm tra tình hình vận
động của các loại tài sản, quá trình và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh,
sử dụng vốn và kinh phí Nhà nước, cũng như của từng tổ chức, xí nghiệp”.

-

Trong nền kinh tế vận hành theo cơ chế thò trường có sự quản lý của Nhà nước
theo đònh hướng Xã hội chủ nghóa, mục tiêu kế toán không chỉ cung cấp thông
tin cho Nhà nước mà còn cung cấp thông tin cho các đối tượng khác như ngân
hàng, các nhà đầu tư tiềm năng, nhà cung cấp, khách hàng … Chính vì vậy, đònh
nghóa của kế toán phải thay đổi.

Chúng tôi cho rằng trong điều kiện như hiện nay, có thể được đònh nghóa: Kế
toán là một khoa học về thu thập, ghi chép, xử lý và truyền đạt những thông tin tài
chính dưới hình thức tiền tệ, để người sử dụng có thể dựa vào đó mà ra các quyết
đònh.
1.1.2- BẢN CHẤT VÀ VAI TRÒ CỦA HỆ THỐNG BÁO CÁO KẾ TOÁN:
Báo cáo kế toán là nguồn thông tin quan trọng để phục vụ yêu cầu quản lý
bên trong cũng như bên ngoài doanh nghiệp. Thông tin trên báo cáo kế toán được
tính toán và tổng hợp trên cơ sở số liệu của các sổ kế toán, để hình thành nên một
Trang 8



hệ thống các chỉ tiêu phù hợp với mục tiêu quản lý cho bản thân doanh nghiệp,
cũng như cho các đối tượng khác có quyền lợi trực tiếp hoặc gián tiếp đến doanh
nghiệp.
Báo cáo kế toán được phân thành 2 loại: Báo cáo tài chính và Báo cáo kế
toán quản trò
1.1.2.1-

Bản chất của báo cáo tài chính :

Như chúng ta đã biết, báo cáo tài chính là một hệ thống thông tin được xử lý
bởi hệ thống kế toán tài chính, nhằm cung cấp những thông tin tài chính có ích cho
các đối tượng sử dụng để đưa ra các quyết đònh kinh tế.
Trong hệ thống kế toán doanh nghiệp Việt Nam, báo cáo tài chính đươc xác
đònh là loại báo cáo tổng hợp về tình tình tài sản, nguồn vốn cũng như tình hình và
kết quả hoạt động của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất đònh, được thể hiện
thông qua một hệ thống các chỉ tiêu có mối liên hệ với nhau do Nhà nước quy đònh
thống nhất và mang tính pháp lệnh. Nó cung cấp cho người sử dụng thấy được bức
tranh toàn cảnh về tình hình hoạt động của doanh nghiệp.
Ngoài ra, bản chất của báo cáo tài chính còn được Học viện Kế toán viên
Công chứng của Mỹ (AICPA) phát biểu như sau:
“Hệ thống báo cáo tài chính được lập nhằm mục đích phục vụ cho việc xem
xét đònh kỳ hoặc báo cáo về quá trình hoạt động của nhà quản lý, về tình hình đầu
tư trong kinh doanh và những kết quả đạt được của thời kỳ báo cáo. Hệ thống báo
cáo tài chính phản ánh sự kết hợp của những sự kiện được ghi nhận, những nguyên
tắc kế toán và những đánh giá của cá nhân, mà trong đó những đánh giá và nguyên
tắc kế toán được áp dụng có ảnh hưởng chủ yếu đến việc ghi nhận các sự kiện.
Những đánh giá đúng đắn tùy thuộc vào khả năng và sự trung thực của người lập
báo cáo, đồng thời phụ thuộc vào sự tuân thủ đối với những nguyên tắc kế toán đã
được chấp nhận rộng rãi”.

Hai tác giả Bryan Barsberg và Susan Dev cũng đã nêu lên bản chất của báo
cáo tài chính như sau:“Hệ thống báo cáo tài chính được thiết kế để trình bày những
kết quả của những nghiệp vụ và những sự kiện xảy ra trong quá khứ là kênh truyền
đạt thông tin chính của những hoạt động quản lý với thế giới bên ngoài. Báo cáo tài
chính được yêu cầu phải tuân thủ luật công ty, quy chế thò trường chứng khoán nếu
chứng khoán của công ty được niêm yết. Vì thế việc kiểm toán báo cáo tài chính
nên được yêu cầu bởi luật pháp, bởi vì nhà quản lý có thể là một nhóm khác biệt
với những cổ đông những người đã giao phó tài sản của họ cho nhà quản lý. Báo
cáo tài chính được yêu cầu phải được kiểm toán bởi tổ chức kiểm toán bên ngoài,
nên khả năng có thể thẩm tra là một thuộc tính chủ yếu của những con số xuất hiện
trên báo cáo tài chính”.
Trang 9


Từ những quan điểm trên ta có thể nói rằng, bản chất của báo cáo tài chính
là phản ánh sự kết hợp của những sự kiện xảy ra trong quá khứ với những nguyên
tắc kế toán đã được thừa nhận và những đánh giá của cá nhân, nhằm chủ yếu cung
cấp thông tin tài chính hữu ích cho các đối tượng sử dụng bên ngoài doanh nghiệp.
Một mặt do thông tin trình bày trên báo cáo tài chính chủ yếu chòu sự chi phối bởi
những đánh giá của người lập báo cáo tài chính. Mặt khác, có sự tách biệt giữa sự
sở hữu và khả năng kiểm soát của những người cung cấp vốn cho doanh nghiệp,
nên báo cáo tài chính được lập đòi hỏi phải được kiểm toán bởi một tổ chức kiểm
toán độc lập.
1.1.2.2-

Bản chất của báo cáo kế toán quản trò :

Báo cáo kế toán quản trò là những báo cáo phục vụ cho yêu cầu quản trò và
điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của nhà quản lý doanh nghiệp.
Báo cáo kế toán quản trò cung cấp những thông tin được cần bởi nhà quản lý

để lập kế hoạch, đánh giá và kiểm soát hoạt động trong doanh nghiệp, nó tồn tại vì
lợi ích của nhà quản lý. Một cách tổng quát, nó cung cấp những thông tin giúp cho
nhà quản lý có quyết đònh chính xác về những vấn đề như giá cả, số lượng sản
phẩm đầu ra, kết cấu sản phẩm tiêu thụ, vấn đề quản lý vốn … Tất cả đều liên quan
đến việc đánh giá các thông tin kế toán quản trò. Vì thông tin được chuẩn bò và sử
dụng riêng cho nhà quản lý nên kiểm toán độc lập sẽ không thích hợp. Do không
cần được kiểm toán độc lập và khía cạnh sở hữu cá nhân của thông tin kế toán
quản trò, nên việc lập báo cáo này không cần thiết phải tuân theo những nguyên tắc
kế toán nhất đònh, nhằm mục đích tăng cường khả năng so sánh giữa các công ty,
bởi những so sánh đó không phải là mục đích của kế toán quản trò nói chung và báo
cáo kế toán quản trò nói riêng.
Như vậy, bản chất của báo cáo kế toán quản trò là hệ thống thông tin được
soạn thảo và trình bày theo yêu cầu quản trò, điều hành sản xuất kinh doanh và ra
quyết đònh của bản thân từng doanh nghiệp, nên nó có tính linh hoạt, đa dạng và
không phụ thuộc vào những nguyên tắc kế toán. Điều cơ bản của loại báo cáo này
là giúp cho nhà quản lý thấy được những gì đã và đang diễn ra trong hoạt động của
doanh nghiệp gắn liền với từng bộ phận, từng chức năng nhất đònh.
1.1.2.3-

Vai trò của hệ thống báo cáo kế toán:

Ngày nay vai trò của hệ thống báo cáo kế toán không còn bò giới hạn trong
việc cung cấp những thông tin tài chính, được thu thập từ các sự kiện xảy ra và
được đo lường bằng thước đo tiền tệ. Nhằm đáp ứng nhu cầu của nhà quản lý và
những người sử dụng bên ngoài, hệ thống báo cáo kế toán có thể bao gồm những
thông tin phi tài chính như: tình hình sản xuất, dự đoán nhu cầu người tiêu dùng, số
liệu thống kê về mức độ thỏa mãn của người tiêu dùng, các chỉ tiêu bình quân trong

Trang 10



ngành … Bằng cách kết hợp những thông tin tài chính và phi tài chính, hệ thống báo
cáo kế toán sẽ trở nên hữu ích hơn nhiều cho những người sử dụng thông tin.
Báo cáo tài chính là nguồn thông tin quan trọng không chỉ đối với doanh
nghiệp mà còn phục vụ chủ yếu cho các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp, như các
cơ quan quản lý Nhà nước, các nhà đầu tư hiện tại và đầu tư tiềm năng, các chủ nợ,
nhà quản lý, kiểm toán viên độc lập và các đối tượng khác có liên quan. Vai trò
của báo cáo tài chính được thể hiện thông qua một số đối tượng chủ yếu:
-

Đối với Nhà nước: Báo cáo tài chính cung cấp thông tin cần thiết giúp cho việc
thực hiện chức năng quản lý vó mô của Nhà nước đối với nền kinh tế, cơ quan
tài chính thực hiện kiểm tra đònh kỳ hoặc đột xuất đối với hoạt động doanh
nghiệp, đồng thời làm cơ sở tính thuế và các khoản phải nộp của doanh nghiệp
cho Ngân sách Nhà nước .

-

Đối với nhà quản lý doanh nghiệp: Các nhà quản lý thường cạnh tranh với
nhau để tìm kiếm nguồn vốn và cố gắng thuyết phục với các nhà đầu tư và các
chủ nợ rằng họ sẽ đem lại mức lợi nhuận cao nhất với độ rủi ro thấp nhất. Để
thực hiện được điều này, các nhà quản lý phải công bố công khai các thông tin
trên báo cáo tài chính đònh kỳ về hoạt động của doanh nghiệp. Ngoài ra, nhà
quản lý còn sử dụng báo cáo tài chính để tiến hành quản lý, điều hành hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mình.

-

Đối với các nhà đầu tư, các chủ nợ: Nhìn chung các nhà đầu tư và các chủ nợ
đòi hỏi báo cáo tài chính vì 2 lý do: họ cần các thông tin tài chính để giám sát

và bắt buộc các nhà quản lý phải thực hiện theo đúng hợp đồng đã ký kết và họ
cần các thông tin tài chính để thực hiện các quyết đònh đầu tư cho vay của mình.

-

Đối với các kiểm toán viên độc lập: Các nhà đầu tư và tín dụng có lý do để lo
lắng rằng các nhà quản lý có thể bóp méo các báo cáo tài chính do họ cung cấp
nhằm mục đích tìm kiếm nguồn vốn hoạt động. Vì vậy, các nhà đầu tư và tín
dụng đòi hỏi các nhà quản lý phải bỏ tiền ra thuê các kiểm toán viên độc lập để
kiểm toán báo cáo tài chính, và các nhà quản lý đương nhiên phải chấp thuận vì
họ cần vốn. Như vậy, báo cáo tài chính đóng vai trò là đối tượng của kiểm toán
độc lập.

1.1.3.
1.1.3.1-

TIÊU CHUẨN CỦA THÔNG TIN KẾ TOÁN HỮU ÍCH
Sự cần thiết phải có thông tin kế toán hữu ích

Các đối tượng có lợi ích trực tiếp và gián tiếp đối với doanh nghiệp đều cần
những thông tin hữu ích được cung cấp từ hệ thống báo cáo tài chính, và nó được
xem là một đòi hỏi khách quan trong nền kinh tế thò trường. Các đối tượng bên
ngoài doanh nghiệp sử dụng báo cáo tài chính như là cơ sở tin cậy cho việc đưa ra
Trang 11


các quyết đònh về đầu tư, cho vay, kiểm tra, tính thuế … còn đối với các nhà quản
lý, các thông tin kế toán hữu ích của báo cáo tài chính cũng sẽ phục vụ đắc lực cho
công tác quản trò doanh nghiệp. Như vậy, chất lượng của thông tin được cung cấp
bởi báo cáo tài chính là rất quan trọng cho các đối tượng sử dụng bên ngoài và bên

trong doanh nghiệp.
1.1.3.2-

Tiêu chuẩn để đánh giá thông tin kế toán hữu ích:

1.1.3.2.1- Những giả đònh cơ sở:
Trong “Khuôn mẫu cho việc lập và trình bày các báo cáo tài chính”, y ban
Chuẩn mực Quốc tế về Kế toán (IASC) đã nêu ra 2 giả đònh cơ sở cần tuân theo khi
lập và trình bày các báo cáo tài chính, đó là:
1- Cơ sở dồn tích:
Để đạt được các mục đích của mình, các báo cáo tài chính được lập trên cơ
sở kế toán dồn tích. Theo cơ sở này, ảnh hưởng của các nghiệp vụ, các sự kiện
được hạch toán khi chúng phát sinh (mà không phải vào thời điểm thực tế thu hoặc
chi tiền), chúng được ghi chép trong các sổ kế toán và được thể hiện trong báo cáo
tài chính của kỳ mà chúng phát sinh.
Các báo cáo tài chính được lập trên cơ sở dồn tích không chỉ thông báo cho
người sử dụng về các nghiệp vụ đã qua có liên quan đến thu chi tiền tệ mà còn
thông báo cho người sử dụng các thông tin về các nghóa vụ doanh nghiệp phải thanh
toán và các nguồn tiền doanh nghiệp sẽ thu trong tương lai. Vì thế báo cáo tài chính
đó cung cấp những loại thông tin về các nghiệp vụ quá khứ và các sự kiện khác rất
hữu ích để người sử dụng đưa ra các quyết đònh hợp lý.
2- Hoạt động liên tục:
Các báo cáo tài chính được lập theo giả đònh doanh nghiệp đang hoạt động
trong một tương lai có thể dự kiến trước. Vì thế, người ta giả đònh rằng doanh
nghiệp không có ý đònh mà cũng không cần thiết phải từ bỏ hoặc thu hẹp quy mô
hoạt động của mình một cách nghiêm trọng. Nếu thực tế diễn ra trái với giả đònh
trên đây thì báo cáo tài chính có thể phải lập theo một giả đònh khác và như vậy giả
đònh đó sẽ được trình bày cụ thể.
1.1.3.2.2- Tiêu chuẩn để đánh giá thông tin hữu ích trên báo cáo tài chính:
Để thông tin trên báo cáo tài chính mang tính hữu ích, Ủy ban Chuẩn mực

Quốc tế về Kế toán (IASC) đã đưa ra các tính chất đònh tính mà báo cáo tài chính
phải đạt được là: tính dễ hiểu, tính thích hợp, tính đáng tin cậy và tính so sánh.
Ngoài ra IASC còn đưa ra một số khái niệm nhằm làm cho các thông tin trên báo
Trang 12


cáo tài chính đạt được mang tính chất trên như: khái niệm trọng yếu, trình bày trung
thực, nội dung hơn hình thức, tính khách quan, thận trọng và đầy đủ.
1.5-

HUẨN MỰC KẾ TOÁN

1.2.1- ĐỊNH NGHĨA CHUẨN MỰC KẾ TOÁN
Hiểu theo nghóa chung nhất, chuẩn mực là thuật ngữ diễn tả những quy đònh
mực thước có thể đònh lượng được để đo lường chất lượng một công việc, nó là
những ràng buộc nhằm đònh hướng công việc chuyên môn đi vào những nguyên tắc
chung.
Hoạt động kế toán cũng tương tự như các hoạt động khác, chỉ có thể hoạt
động một cách hữu hiệu khi có những chuẩn mực riêng cho mình. Thật vậy, chức
năng của kế toán là cung cấp các thông tin để người sử dụng có thể ra các quyết
đònh. Muốn vậy, thông tin kế toán phải phản ánh trung thực tình hình và kết quả
hoạt động kinh doanh. Nó phải làm cho người sử dụng hiểu được, tin cậy và phải
giúp so sánh các thông tin tài chính.
Để đạt được các mục đích đó, cần có những phương pháp và thước đo để
giúp nhận diện những vấn đề hợp lý và không hợp lý liên quan đến việc ghi nhận,
phân tích, trình bày và truyền đạt các thông tin tài chính. Bởi lẽ, thực tế đã chứng
minh rằng cùng một số liệu kế toán nhưng nếu áp dụng phương pháp đánh giá, ghi
nhận khác nhau sẽ đưa đến kết quả khác biệt đáng kể. Vì thế, cần có những quy
đònh làm khuôn mẫu giúp đánh giá, ghi nhận và trình bày thông tin tài chính, và đó
chính là những chuẩn mực kế toán.

Do vậy, có thể đònh nghóa một cách tổng quát: Chuẩn mực kế toán là những
quy ước, nguyên tắc, thủ tục được công nhận như những hướng dẫn cho nghề nghiệp
kế toán trong việc chọn lựa các phương pháp để ghi chép, phương pháp đánh giá các
yếu tố trong việc soạn thảo báo cáo tài chính và là cơ sở đánh giá chất lượng công
việc kế toán.
1.2.2- SỰ CẦN THIẾT PHẢI CÓ HỆ THỐNG CHUẨN MỰC QUỐC TẾ VỀ KẾ
TOÁN:
Việc chuẩn mực hóa kế toán trong từng quốc gia đã tạo điều kiện cho kế
toán phát triển trong một thời gian dài. Tuy nhiên xu hướng phát triển, hội nhập đan
xen của nền kinh tế thế giới có sự thay đổi lớn đến kế toán.

Trang 13


Sự phát triển về số lượng của các công ty đa quốc gia, cùng với vấn đề toàn
cầu hóa của thò trường chứng khoán trên thế giới, đã làm cho các nhà đầu tư, các
nhà phân tích, các nhà quản lý, các nhà cố vấn tài chính … cần nghiên cứu báo cáo
tài chính ở nhiều nước khác nữa chứ không riêng gì ở nước họ. Những người có nhu
cầu nghiên cứu các báo cáo tài chính của nước ngoài thường có khuynh hướng nhận
đònh theo kinh nghiệm và kiến thức của họ, theo cách mà báo cáo tài chính được
lập ở nước họ. Tuy nhiên điều đó có thể rất sai lầm khi áp dụng những tri thức và
những hiểu biết đó để xem xét báo cáo tài chính được lập ở nước khác mà không
có những kiến thức cơ bản về thực hành kế toán ở nước đó.
Mặc dù báo cáo tài chính ở một số nước có thể giống nhau, song chúng vẫn
khác nhau do nhiều nguyên nhân. Ví dụ như do hoàn cảnh lòch sử, văn hóa, luật
pháp môi trường kinh doanh, hoặc do yêu cầu của người sử dụng thông tin trên báo
cáo tài chính ở mỗi quốc gia khác nhau. Từ sự khác nhau nói trên, dẫn đến việc sử
dụng các khái niệm của các yếu tố trong báo cáo tài chính ở mỗi quốc gia cũng rất
đa dạng, và chính điều này đã dẫn đến việc sử dụng những chuẩn mực khác nhau
để hạch toán các khoản mục trong báo cáo tài chính, từ đó làm cho việc soạn thảo

và trình bày báo cáo tài chính ở mỗi quốc gia cũng khác nhau.
Vì vậy, vào ngày 29/6/1973, Ủy ban Chuẩn mực Quốc tế về Kế toán (IASC)
đã ra đời với sự tham gia của các tổ chức kế toán của 10 quốc gia là Úc,
Canada,Pháp, Tây đức, Nhật, Mexico, Hà lan, Anh, i Nhó lan và Mỹ. IASC có
nhiệm vụ thu hẹp những khác biệt nói trên, bằng cách soạn thảo các qui đònh, các
thủ tục và chuẩn mực kế toán có liên quan để cho ra đời chuẩn mực quốc tế nhằm
mục đích:
-

Hình thành và công bố những chuẩn mực kế toán làm cơ sở cho việc lập báo cáo
tài chính, nhằm phục vụ cho quyền lợi của nhiều đối tượng sử dụng khác nhau
và để nâng cao sự chấp nhận và tôn trọng trên toàn thế giới.

-

Tiến tới việc cải tiến và tạo nên sự hòa hợp các qui đònh, chuẩn mực và thủ tục
kế toán liên quan đến việc soạn thảo và trình bày báo cáo tài chính.

Công việc của IASC được chỉ đạo bởi Hội đồng Cố vấn và Hội đồng Quản
trò. Hội đồng cố vấn gồm các đại diện của nhiều tổ chức quốc tế, có nhiệm vụ tư
vấn cho IASC về việc soạn thảo các IAS, và tham gia phản biện khoa học (nhưng
không biểu quyết). Còn Hội đồng Quản trò gồm đại diện 13 quốc gia và tổ chức sẽ
chòu trách nhiệm quyết đònh trong quá trình xây dựng các chuẩn mực
Ủy ban Chuẩn mực Quốc tế về Kế toán tin rằng, với sự công nhận các chuẩn
mực quốc tế về kế toán ở mỗi quốc gia, cùng với sự công bố việc chấp nhận những
chuẩn mực này, qua một thời gian sẽ có tác dụng tốt, chất lượng của các báo cáo tài
chính sẽ được cải tiến và sẽ gia tăng khả năng so sánh của hệ thống báo cáo tài
chính giữa các nước với nhau, và như vậy độ tin cậy và tính hữu dụng của báo cáo
Trang 14



tài chính sẽ được nâng cao trên toàn thế giới, từ đó tạo nên tiếng nói chung của các
thông tin trình bày trên báo cáo tài chính.

1.2.3- NỘI DUNG CỦA CHUẨN MỰC QUỐC TẾ VỀ KẾ TOÁN
Khi xây dựng hệ thống chuẩn mực quốc tế về kế toán (IAS), IASC dựa trên
nguyên tắc chính là chỉ tập trung vào những vấn đề lớn, và đó thường là những vấn
đề có sự khác biệt trong cách giải quyết giữa các quốc gia, phương pháp giải quyết
là cố gắng dung hòa càng nhiều càng tốt sự khác biệt về tiêu chuẩn và chính sách
kế toán của các quốc gia khác nhau. Hệ thống chuẩn mực sẽ được xét duyệt liên
tục để luôn cập nhật những vấn đề mới nhất.
Hệ thống chuẩn mực quốc tế về kế toán do IASC ban hành bao gồm ba phần
chính:
-

Khuôn mẫu của chuẩn mực kế toán (IAS framework).

-

Các chuẩn mực kế toán cụ thể (các IAS cụ thể)

-

Từ điển thuật ngữ

1.2.3.1-

Khuôn mẫu của chuẩn mực quốc tế về kế toán

Khuôn mẫu là những quy ước chung về khái niệm kế toán căn bản về các

đặc điểm đònh tính của báo cáo tài chính, về các yếu tố cần có và các phương pháp
đánh giá các yếu tố của báo cáo tài chính.
Trong lời mở đầu của khuôn mẫu đã nêu rõ: Báo cáo tài chính được soạn
thảo và trình bày cho người sử dụng bên ngoài doanh nghiệp. Mặc dù bề ngoài của
báo cáo tài chính giữa các quốc gia có vẻ giống nhau, tuy vậy có rất nhiều điểm
khác biệt do đặc điểm riêng về văn hóa, về kinh tế, xã hội và môi trường luật pháp
của từng quốc gia … Chính sự khác nhau này đã dẫn đến những đònh nghóa, cũng
như việc trình bày khác nhau về các yếu tố trên báo cáo tài chính.
IASC có trách nhiệm thu hẹp sự khác biệt đó thông qua hòa hợp các nguyên
tắc, các tiêu chuẩn, thủ tục liên quan đến sự trình bày bằng báo cáo. Để hỗ trợ cho
việc xây dựng các chuẩn mực quốc tế về kế toán. IASC phải ban hành khuôn mẫu
để làm nền tảng. Mục đích của khuôn mẫu:
-

Giúp cho IASC phát triển các IAS trong tương lai cũng như duyệt xét lại các IAS
đã ban hành.

-

Giúp cho IASC làm hài hòa các nguyên tắc, các chuẩn mực, các thủ tục liên
quan đến việc lập và trình bày báo cáo tài chính, bằng cách cung cấp các cơ sở
để giảm bớt việc chọn lựa các phương pháp hạch toán được IASC cho phép.
Trang 15


-

Giúp cho các kiểm toán viên cho ý kiến liệu các báo cáo tài chính có phù hợp
với IASC hay không.


-

Giúp cho người sử dụng báo cáo tài chính hiểu rõ các thông tin chứa đựng trong
báo cáo có phù hợp với các IAS đã được ban hành hay không.

Khuôn mẫu không phải là chuẩn mực kế toán, và do đó khuôn mẫu không
đưa các phương pháp hay các công bố riêng nào cả, và không điểm nào trong
khuôn mẫu được phép vượt qua các IAS. Nếu có mâu thuẫn giữa khuôn mẫu và các
IAS, các IAS sẽ được tôn trọng hơn. Tuy vậy, khuôn mẫu chính là cơ sở để duyệt
xét lại các IAS hiện hữu, và xây dựng các IAS trong tương lai.
1.2.3.2-

Các chuẩn mực quốc tế về kế toán:

Chuẩn mực quốc tế về kế toán là các báo cáo ngắn gọn, súc tích nhằm giải
quyết hai vấn đề chính là:
-

Các khoản mục trên báo cáo tài chính được đánh giá như thế nào ?

-

Những thông tin gì được xem là thông tin tối thiểu cần công bố trên báo
cáo tài chính.?

Cho đến nay, IASC đã ban hành được 40 chuẩn mực, phạm vi áp dụng cho
báo cáo tài chính của mọi loại hình doanh nghiệp. Tuy vậy các chuẩn mực không
thể vượt quá luật lệ quy đònh ở các đòa phương. Sự thành công của các IAS phần lớn
dựa vào sự yểm trợ của các tổ chức nghề nghiệp về kế toán, trong đó chủ yếu là
Liên đoàn Kế toán Quốc tế (IFAC).

Sau cuộc cải cách vào năm 1989, hiện nay trong các chuẩn mực quốc tế về
kế toán và các phương pháp đánh giá được phân thành 2 loại: phương pháp chuẩn
và phương pháp thay thế được chấp nhận. Phần lớn doanh nghiệp phải sử dụng
phương pháp chuẩn. Riêng phương pháp thay thế được chấp nhận chỉ sử dụng khi
nào phương pháp chuẩn không phù hợp với đơn vò. Khi sử dụng phương pháp thay
thế được chấp nhận, doanh nghiệp cần tính toán và công bố về chênh lệch giữa hai
phương pháp.
1.6-

NHỮNG VẤN ĐỀ CĂN BẢN VỀ NGUYÊN TẮC LẬP VÀ TRÌNH BÀY
CÁC THÔNG TIN TRÊN BÁO CÁO TÀI CHÍNH

1.3.1- MỤC ĐÍCH CỦA BÁO CÁO TÀI CHÍNH:
Mục đích của báo cáo tài chính sử dụng ở nước ta về cơ bản có sự tương đồng
với “Khuôn mẫu cho việc lập và trình bày báo cáo tài chính” của Ủy ban Chuẩn
mực Quốc tế về Kế toán (IASC). Mục đích của báo cáo tài chính được xác đònh như
sau:
Mục đích của các báo cáo tài chính là cung cấp những thông tin về tình hình
tài chính, kết quả kinh doanh và những biến động về tình hình tài chính của doanh
Trang 16


nghiệp, để giúp cho người sử dụng báo cáo tài chính đưa ra những quyết đònh kinh tế
một cách kòp thời.
Để đạt được mục đích này, các báo cáo tài chính phải cung cấp đầy đủ các
thông tin nhờ đó mà những người đọc báo cáo tài chính có thể dự đoán những lưu
chuyển tiền mặt trong tương lai của doanh nghiệp, và đặc biệt là việc dự đoán về
thời gian và độ chắc chắn của việc tạo ra tiền và những khoản tương đương tiền. Để
làm được như vậy, các báo cáo tài chính phải cung cấp thông tin về:
• Thông tin về tình hình tài chính chủ yếu được cung cấp qua Bảng cân đối kế

toán. Tình hình tài chính của doanh nghiệp chòu ảnh hưởng của các nhân tố: các
nguồn lực kinh tế do doanh nghiệp kiểm soát, cơ cấu tài chính và khả năng
thanh toán. Vì vậy khi nghiên cứu các thông tin về tình hình tài chính sẽ giúp
cho người sử dụng :
-

Đánh giá năng lực của doanh nghiệp trong việc tạo ra các nguồn tiền và các
khoản tương đương tiền trong tương lai;

-

Dự toán nhu cầu đi vay trong tương lai và phương thức phân phối lợi tức;

-

Dự đoán khả năng thành công của doanh nghiệp trong việc huy động các
nguồn tài chính;

-

Đánh giá khả năng của doanh nghiệp trong việc thực hiện các cam kết tài
chính khi đến hạn.

• Thông tin về kết quả kinh doanh được cung cấp qua báo cáo kết quả hoạt động
kinh doanh. Việc nghiên cứu các thông tin về tình hình kinh doanh, đặc biệt là
khả năng sinh lợi của doanh nghiệp sẽ giúp cho người sử dụng:
-

Đánh giá các thay đổi tiềm tàng của các nguồn lực kinh tế mà doanh nghiệp
có thể kiểm soát trong tương lai.


-

Dự đoán khả năng tạo ra các nguồn tiền của doanh nghiệp trên cơ sở hiện
có.

-

Đánh giá tính hiệu quả của các nguồn lực bổ sung mà doanh nghiệp sử dụng.

• Thông tin về những biến động tài chính được cung cấp qua báo cáo lưu chuyển
tiền tệ. Việc nghiên cứu những thông tin này sẽ rất hữu ích cho người sử dụng
trong việc:
-

Đánh giá xem doanh nghiệp có lợi tức nhưng có tiền hay không.

-

Đánh giá các hoạt động kinh doanh, đầu tư và tài chính của doanh nghiệp
trong kỳ báo cáo

-

Đánh giá khả năng tạo ra nguồn tiền và sử dụng các khoản tương đương tiền
trong tương lai của doang nghiẹp, cũng như việc sử dụng các nguồn tiền hiện
tại.
Trang 17



Các mục đích nêu trên nhắm vào báo cáo tài chính hơn là cho những người
sử dụng thông tin của báo cáo tài chính. Vì vậy các mục đích này phù hợp với vai
trò cung cấp thông tin có ích trong việc ra các quyết đònh kinh tế, chứ không nhằm
khẳng đònh các quyết đònh nào thì nên làm.

1.3.2- THỦ TỤC VÀ NGUYÊN TẮC LẬP BÁO CÁO TÀI CHÍNH:
Báo cáo tài chính ở mỗi quốc gia đều có sự khác biệt về nội dung cũng như
hình thức biểu hiện, do sự chi phối của các yêu cầu, đặc biệt quản lý của Nhà nước
cũng như tập quán kế toán của mỗi nước. Tuy nhiên xem xét một cách tổng thể thì
có thể rút ra những vấn đề có ý nghóa lý luận căn bản thuộc về thủ tục và nguyên
tắc lập báo cáo tài chính, mà hầu như các quốc gia khác nhau đều tuân thủ thực
hiện. Có thể nói rằng đây chính là kinh nghiệm q báu có thể bổ sung vào hệ
thống lý luận kế toán ở nước ta khi nghiên cứu giải quyết các vấn đề liên quan đến
việc soạn thảo và trình bày thông tin trên báo cáo tài chính. Các vấn đề lý luận căn
bản về thủ tục và nguyên tắc lập báo cáo tài chính bao gồm :
-

Hình thức và nội dung của báo cáo tài chính: Xác đònh các loại báo cáo tài
chính cần phải lập, hình thức của từng loại báo cáo và hệ thống các chỉ tiêu
kinh tế cần được cung cấp thông qua từng báo cáo

-

Báo cáo tài chính đối với các tập đoàn kinh tế: Xác lập nội dung, phương
pháp soạn thảo và trình bày thông tin trên báo cáo tài chính ở các công ty mẹ
- công ty bao gồm nhiều công ty con hoạt động ở nhiều nghành, nhiều lónh
vực và nhiều quốc gia khác nhau

-


Những yêu cầu về lập hồ sơ lưu trữ pháp qui: Qui đònh việc lập và nộp các
báo cáo tài chính cho các cơ quan chức năng để công khai thông tin cho
những đối tượng khác nhau.

-

Nguyên tắc đánh giá: Qui đònh việc sử dụng nguyên tắc đánh giá tài sản và
công nợ để thực hiện việc hạch toán các đối tượng này, cũng như khi lập
bảng cân đối kế toán

-

Thuê tài sản: Phân đònh thuê tài sản theo phương thức thuê tài chính và thuê
hoạt động.

-

Thuế: Khoản thuế được đề cập gắn liền với báo cáo tài chính là thuế lợi tức khoản thuế trực thu được đánh vào lợi tức của doanh nghiệp. Lợi tức chiụ
thuế và lợi tức thực tế kế toán xác đònh có những khác biệt, do một bên chòu
sự chi phối của luật thuế còn một bên chòu sự chi phối từ những quy đònh
riêng biệt của kế toán.

-

Các khoản bất thường: Phân biệt rõ những khoản thu nhập và chi phí có bản
Trang 18


chất bất thường để trình bày riêng biệt trên báo cáo kết quả hoạt động kinh
doanh và trong thuyết minh báo cáo tài chính.

-

Các cam kết tài chính: Yêu cầu những cam kết tài chính phải được trình bày
trên báo cáo tài chính dưới những hình thức phù hợp, để làm rõ những cam
kết liên quan đến những hoạt động trong tương lai của doanh nghiệp và phục
vụ cho việc đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp.

-

Những biến động giá cả: Có thể phản ánh những ảnh hưởng của tình trạng
lạm phát đến sự biến động của giá cả, thông qua các giải trình liên quan đến
báo cáo tài chính được thiết lập.

1.3.3- THÔNG TIN TRÌNH BÀY TRÊN BÁO CÁO TÀI CHÍNH
1.3.3.1-

Cơ chế quản lý kinh tế – cơ sở chi phối trực tiếp đến những thông tin
trình bày trên báo cáo kế toán

Có thể nói cơ chế quản lý kinh tế có tính quyết đònh và chi phối trực tiếp đến
những thông tin trình bày trên báo cáo tài chính.
Khi nền kinh tế ở trong giai đọan cơ chế kế hoạch hóa tập trung, Nhà nước
tiến hành quản lý trực tiếp mọi hoạt động sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của doanh
nghiệp. Nhu cầu thông tin kế toán trong thời kỳ này giữa Nhà nước và doanh
nghiệp là thống nhất với nhau, vì thế thông tin kế toán chỉ được trình bày trên một
hệ thống báo cáo kế toán duy nhất do Nhà nước quy đònh. Thông tin trình bày trên
các báo cáo kế toán không phản ánh trung thực tình hình thực hiện kế hoạch của
doanh nghiệp.
Khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế thò trường có sự quản lý của Nhà nước
theo đònh hướng Xã hội chủ nghóa, mô hình nền kinh tế phát triển theo hướng nhiều

thành phần, trong đó kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Các cơ quan Nhà nước
thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với nền kinh tế, không can thiệp vào
chức năng quản trò kinh doanh của các doanh nghiệp.
Trong cơ chế thò trường, các doanh nghiệp xây dựng kế hoạch sản xuất, đầu
tư theo nhu cầu thò trường. Thò trường có vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vò kinh
doanh lựa chọn lónh vực hoạt động và phương án tổ chức sản xuất kinh doanh đồng
thời cũng đặt ra cho doanh nghiệp những điều kiện ràng buộc khi đưa ra các quyết
đònh sản xuất kinh doanh liên quan đến quá trình thực hiện kế hoạch. Thò trường là
nơi doanh nghiệp thể hiện sức mạnh cũng như những hạn chế của mình trước các
đối thủ cạnh tranh, và cũng chính thò trường sẽ phán quyết về khả năng tồn tại và
phát triển của doanh nghiệp. Hoạt động trong môi trường kinh doanh như vậy, thì
việc đánh giá kết quả hoạt động của doanh nghiệp chủ yếu dựa vào chỉ tiêu lợi
nhuận và tỷ suất lợi nhuận của doanh nghiệp.
Trang 19


Từ những vấn đề trên ta có thể thấy trong cơ chế thò trường Việt Nam, báo
cáo tài chính phải cung cấp những thông tin hữu ích nhất đáp ứng được nhu cầu
thông tin của bản thân doanh nghiệp và của các đối tïng bên ngoài doanh nghiệp,
trong đó Nhà nước vẫn là đối tượng chủ yếu. Xuất phát từ mối quan hệ về pháp lý
và lợi ích kinh tế giữa doanh nghiệp với các đối tượng khác ở bên ngoài doanh
nghiệp, đã nảy sinh sự ràng buộc về nhu cầu thông tin tài chính mà doanh nghiệp
phải cung cấp cho những đối tượng này.
Thông tin tài chính cung cấp theo những hình thức và nội dung nhất đònh tùy
theo quy đònh của mỗi quốc gia. Thông tin trình bày trên báo cáo tài chính phải
đảm bảo độ tin cậy cao, trung thực, đầy đủ, chính xác, kòp thời và thông thường báo
cáo tài chính được lập phải tuân thủ những quy đònh mang tính pháp lý. Ngoài ra,
để đảm bảo chất lượng của các thông tin tài chính, báo cáo tài chính còn phải được
xác nhận bởi công ty kiểm toán độc lập.
1.3.3.2-


Thông tin trình bày trên báo cáo tài chính.

Thông tin trình bày trên hệ thống báo cáo tài chính Việt Nam về cơ bản
tương đồng với những quy đònh trong chuẩn mực quốc tế về kế toán. Do vậy, chúng
tôi chủ yếu chọn qui đònh trong chuẩn mực quốc tế để trình bày trong phần này.
Để đạt được mục đích của báo cáo tài chính, những thông tin sau đây cần
phải trình bày trên báo cáo tài chính :
-

Tên của doanh nghiệo lập báo cáo

-

Báo cáo tài chính là báo cáo cho một doanh nghiệp riêng lẻ hay một
nhóm các doanh nghiệp.

-

Ngày lập báo cáo hoặc niên độ mà báo cáo tài chính được lập.

Các bộ phận cấu thành của báo cáo tài chính được trình bày bao gồm :
-

Bảng cân đối kế toán

-

Báo cáo kết quả kinh doanh


-

Báo cáo lưu chuyển tiển tệ

-

Phần ghi chú cho các báo cáo tài chính.

Các báo cáo tài chính phác họa những ảnh hưởng tài chính của các giao dòch,
các sự kiện bằng cách tập hợp chúng lại thành những khoản mục lớn theo tính chất
kinh tế của chúng. Những khoản mục này được gọi là các yếu tố của báo cáo tài
chính và cũng chính là những thông tin cơ bản cần phải trình bày trên các báo cáo
tài chính.
1.3.3.2.1- Thông tin trình bày trên Bảng cân đối kế toán
Bảng cân đối tài sản của doanh nghiệp phải phản ánh được tình trạng tài
chính của doanh nghiệp tại ngày lập báo cáo và theo cách thức làm cho người đọc
Trang 20


có thể hiểu được những nguồn lực kinh tế và tài trợ của doanh nghiệp. Thông tin
trình bày trên bảng cân đối kế toán gồm các yếu tố cơ bản sau:
1- Tài sản:
Là tiềm lực kinh tế do doanh nghiệp kiểm soát và là kết quả của các sự kiện
đã qua và từ đó doanh nghiệp có thể thu được các lợi ích kinh tế trong tương lai của
doanh nghiệp.
Các lợi ích kinh tế tương lai được biểu hiện trong tài sản là tiềm năng đóng
góp trực tiếp hoặc gián tiếp tới các nguồn tiền và tài sản tương đương tiền của
doanh nghiệp.
Các lợi ích kinh tế tương lai được thể hiện trong một tài sản có thể được thực
hiện bằng nhiều cách. Ví dụ một tài sản có thể :

-

Được doanh nghiệp sử dụng một cách đơn lẻ hoặc kết hợp với các tài sản khác
trong việc sản xuất hàng hóa hay cung cấp dòch vụ, bán cho khách hàng

-

Để trao đổi tài sản khác

-

Để thanh toán công nợ

-

Phân phối cho những người chủ sở hữu doanh nghiệp

Hình thái vật chất không phải là yếu tố thiết yếu khẳng đònh sự tồn tại của
một tài sản. Ví dụ: Bằng phát minh sáng chế, bản quyền là những tài sản nếu trong
tương lai doanh nghiệp có thể thu được lợi ích kinh tế từ những tài sản đó và nếu nó
thuộc quyền quản lý kiểm soát của doanh nghiệp.
Nhiều tài sản, ví dụ như khoản thu về nhà xưởng có quan hệ trực tiếp đến
quyền pháp lý bao gồm quyền sở hữu. Trong việc xác đònh tồn tại của một tài sản
thì quyền sở hữu là thiết yếu, ví dụ nhà xưởng đi thuê cũng là một tài sản nếu
doanh nghiệp kiểm soát được các lợi ích dự kiến sẽ phát sinh từ nhà xưởng này.
Mặc dù năng lực của doanh nghiệp đối với việc kiểm soát lợi ích thường là kết quả
của một quyền hạn pháp lý, nhưng lại có những khoản mục tài sản đáp ứng được
đònh nghóa về tài sản mà không có quyền kiểm soát về mặt pháp lý. Ví dụ, bí quyết
kỹ thuật thu thập được từ các hoạt động của doanh nghiệp có thể thỏa mãn các điều
kiện trong đònh nghóa tài sản khi các bí quyết đó còn giữ được bí mật, và doanh

nghiệp còn quản lý được những lợi ích phát sinh từ các bí quyết kỹ thuật đó.
Tài sản trên bảng cân đối kế toán được chia làm 2 loại là tài sản lưu động và
tài sản cố đònh
-

Một tài sản được gọi là tài sản lưu động khi: Được sử dụng trong các hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và dự tính được thực hiện
hoặc sử dụng trong vòng 12 tháng từ ngày lập báo cáo, hay trong chu kỳ
hoạt động sản xuất kinh doanh bình thường, hay được giữ lại chủ yếu để
Trang 21


phục vụ cho các mục đích thương mại và đầu tư ngắn hạn và dự tính được
thực hiện trong vòng 12 tháng từ ngày lập báo cáo.
-

Tất cả các tài sản khác không thỏa mãn điều kiện trên được phân loại là
tài sản cố đònh.

2- Nợ phải trả:
Nợ phải trả là những khoản nợ phát sinh trong quá trình hoạt động sản xuất
kinh doanh mà doanh nghiệp phải thanh toán cho các chủ nợ, bao gồm các khoản
nợ tiền vay, các khoản nợ phải trả cho người bán, cho Nhà nước, cho công nhân
viên và các khoản phải trả khác.
Nợ phải trả có một tính chất chủ yếu đó chính là một nghóa vụ hiện tại của
doanh nghiệp đối với chủ nợ. Một khoản nợ phải trả là một nghóa vụ phải được thực
hiện theo một cách thức nhất đònh. Các nghóa vụ có hiệu lực pháp lý bắt buộc phải
thanh toán như các hợp đồng trói buộc hoặc là yêu cầu của luật pháp.
Cần phân biệt giữa các nghóa vụ hiện tại với cam kết kỳ hạn. Một quyết đònh
của các nhà quản lý doanh nghiệp để có được các tài sản trong tương lai thì tự thân

các quyết đònh này không làm phát sinh một nghóa vụ hiện tại. Một nghóa vụ thường
chỉ phát sinh khi doanh nghiệp đã nhận về một tài sản hoặc tham gia vào một hợp
đồng mua sắm tài sản không hủy ngang. Trong trường hợp này thì các nội dung của
hợp đồng kinh tế không huỷ ngang này được coi là nghóa vụ, bởi vì nếu không thực
hiện hợp đồng kinh tế đó doanh nghiệp sẽ phải nộp một khoản tiền phạt cho các
đối tác hợp đồng.
Việc thanh toán các nghóa vụ hiện tại thường liên quan tới việc doanh nghiệp
phải mất đi một số nguồn lực tạo lợi ích kinh tế để đáp ứng được nhu cầu đòi nợ
của phía bên kia.
Một số khoản nợ phải trả có thể được tính toán xác đònh bằng cách dự tính.
Một số doanh nghiệp mô tả những khoản nợ này như là các khoản dự phòng. Ở một
số quốc gia, những dự phòng như vậy không được coi là nợ phải trả vì khái niệm nợ
phải trả được đònh nghóa hẹp, nó chỉ bao gồm những khoản tiền được xác đònh cụ
thể mà không cần dự tính. Đònh nghóa về nợ phải trả như ở phần trên đã nêu là có
nội dung rộng. Vì vậy, khi khoản dự phòng có liên quan đến các nghóa vụ hiện tại
và thỏa mãn điều kiện trong đònh nghóa thì đó là một khoản nợ phải trả, cho dù
khoản tiền đó chỉ là dự tính. Ví dụ khoản dự phòng để chi trả cho các khoản bảo
hành …
Trên bảng cân đối kế toán, nợ phải trả chia làm hai loại là nợ ngắn hạn và
nợ dài hạn. Một khoản nợ được phân loại như nợ dài hạn khi:
-

Tạo nên một phần trong nguồn tài trợ dài hạn của doanh nghiệp và không
phải thanh toán trong vòng 12 tháng kể từ ngày lập báo cáo; hay
Trang 22


-

Phản ánh một khoản dự phòng không phải thanh toán trong vòng 12 tháng

kể từ ngày lập báo cáo.

Những khoản nợ khác phải được phân loại và coi là nợ ngắn hạn.
Trong chế độ kế toán Việt Nam chỉ qui đònh nợ dài hạn là các khoản nợ mà
thời gian trả nợ trên 1 năm, còn nợ ngắn hạn là khoản tiền mà doanh nghiệp có
trách nhiệm trả trong vòng một chu kỳ hoạt động kinh doanh bình thường hoặc
trong vòng một năm. Như vậy, xét điều kiện để xác đònh một khoản nợ ngắn hạn
hay dài hạn, thì qui đònh của chuẩn mực quốc tế về kế toán có nội dung rộng hơn và
do đó tỏ ra phù hợp hơn so với qui đònh của Việt Nam.
3- Nguồn vốn chủ sở hữu:
Là phần giá trò còn lại của tài sản sau khi trừ đi mọi công nợ, hay nói cách
khác đó chính là số vốn của chủ sở hữu mà doanh nghiệp không phải cam kết thanh
toán. Một doanh nghiệp có thể có một hoặc nhiều chủ sở hữu vốn: Đối với doanh
nghiệp Nhà nước, vốn hoạt động do Nhà nước cấp hoặc đầu tư nên Nhà nước là sở
hữu vốn; đối với doanh nghiệp liên doanh thì chủ sở hữu vốn là các thành viên
tham gia góp vốn hoặc các tổ chức cá nhân tham gia hùn vốn; đối với các công ty
cổ phần thì chủ sở hữu vốn là các cổ đông; đối với doanh nghiệp tư nhân, chủ sở
hữu vốn là các cá nhân hoặc hộ gia đình.
Theo qui đònh của chế độ kế toán Việt Nam, nguồn vốn chủ sở hữu gồm:
-

Vốn góp của các nhà đầu tư để thành lập hoặc mở rộng doanh nghiệp.

-

Vốn được bổ sung từ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp theo qui đònh của cơ chế tài chính hoặc quyết nghò của các chủ sở
hữu vốn, của hội đồng quản trò.

-


Các khoản chênh lệch do đánh giá tài sản, chênh lệch tỷ giá chưa được
xử lý và các q được hình thành trong quá trình hoạt động kinh doanh.

Riêng đối với các công ty cổ phần, chuẩn mực quốc tế về kế toán đưa ra một
số vấn đề như sau: Vốn cổ phần là phần giá trò còn lại của tài sản sau khi trừ đi mọi
khoản công nợ. Trên bảng cân đối kế toán, vốn cổ phần được phân thành từng
nhóm. Ví dụ, vốn của doanh nghiệp do các cổ đông đóng góp, lợi nhuận để lại,
khoản dự trữ về phân chia lợi nhuận và các khoản dự trữ về điều chỉnh bảo toàn
vốn có thể được trình bày riêng. Cách phân nhóm như vậy có thể phù hợp với các
yêu cầu ra quyết đònh kinh tế của người sử dụng báo cáo tài chính khi chúng chỉ ra
các giới hạn về pháp lý hoặc các giới hạn khác về năng lực của doanh nghiệp trong
việc phân phối hoặc áp dụng các hình thức góp vốn khác. Chúng cũng có thể phản
ánh một thực tế là các bên tham gia góp vốn của doanh nghiệp có quyền lợi khác
nhau khi nhận cổ tức hoặc nhận lại phần góp vốn. Giá trò vốn cổ phần trong bảng
cân đối kế toán phụ thuộc vào cách xác đònh đánh giá tài sản và công nợ. Thông
Trang 23


thường giá trò vốn cổ phần chỉ trùng hợp tương ứng với tổng trò giá cổ phiếu hoặc
tổng số tiền có thể thu được từ việc thanh lý dần các tài sản ròng trên cơ sở khái
niệm doanh nghiệp đang hoạt động.
Theo IAS 1, những thông tin được trình bày trên bảng cân đối kế toán gồm:
-

Tài sản cố đònh:
Tàisản hữu hình
Tài sản vô hình
Tài sản tài chính


-

Tài sản lưu động:
Hàng tồn kho
Các khoản phải thu thương mại và các khoản phải thu khác.
Các khoản ứng trước
Tiền mặt và các khoản tương đương tiền
Đầu tư tài chính ngắn hạn

-

Vốn chủ sở hữu và các q

-

Các khoản nợ dài hạn
Các khoản nợ chòu lãi
Các khoản dự phòng

-

Các khoản nợ ngắn hạn
Các khoản phải trả thương mại và các khoản phải trả khác
Các khoản nợ chòu lãi suất
Các khoản dự phòng

1.3.3.2.2- Thông tin trình bày trên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
Báo cáo kết quả kinh doanh của một doanh nghiệp phải phản ánh được các
hoạt động tài chính của doanh nghiệp trong niên độ kế toán theo cách thức mà
người đọc có thể hiểu được các khía cạnh khác nhau của kết quả kinh doanh. Thông

tin trình bày trên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh bao gồm các yếu tố cơ bản
sau:
1- Thu nhập:
Là sự gia tăng về lợi ích kinh tế trong kỳ kế toán dưới hình thức các khoản
tiền thu vào hoặc gia tăng tài sản hoặc giảm bớt công nợ dẫn đến việc gia tăng
nguồn vốn chủ sở hữu nhưng không phải do các chủ sở hữu đóng góp.
Thu nhập bao gồm cả doanh thu và lãi. Doanh thu phát sinh trong quá trình
hoạt động kinh doanh bình thường của một doanh nghiệp. Lãi là một khoản gia tăng
về lợi ích kinh tế và xét về khía cạnh đó lãi không khác biệt so với doanh thu. Ví
Trang 24


dụ: lãi bao gồm những khoản lãi phát sinh từ thanh lý tài sản cố đònh. Khi lãi được
trình bày trong báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, chúng thường được trình bày
thành một chỉ tiêu riêng bởi vì chúng rất hữu ích trong việc đưa ra các quyết đònh
kinh tế. Lãi thường được báo cáo sau khi đã trừ các chi phí liên quan.
2- Chi phí:
Là sự giảm bớt các lợi ích kinh tế trong kỳ kế toán dưới hình thức các khoản
tiền chi ra hoặc khấu trừ tài sản hoặc phát sinh công nợ, dẫn đến làm giảm nguồn
vốn chủ sở hữu nhưng không phải là do phân phối cho các chủ sở hữu.
Chi phí bao gồm các khoản lỗ cũng như các chi phí phát sinh trong chu kỳ
hoạt động kinh doanh bình thường của doanh nghiệp, bao gồm: giá vốn hàng bán,
tiền lương, chi phí khấu hao … những chi phí này thường biểu hiện dưới dạng những
luồng tiền chi ra hoặc khấu trừ vào tài sản.
Các khoản lỗ bao gồm những khoản mục thỏa mãn các yêu cầu của đònh
nghóa chi phí và có thể hoặc không phát sinh trong kỳ hoạt động kinh doanh bình
thường của doanh nghiệp. Lỗ bao gồm sự giảm sút về lợi ích kinh tế và xét về bản
chất chúng không khác gì các chi phí khác, vì thế lỗ không được coi là yếu tố riêng
biệt so với chi phí.
Lỗ bao gồm những khoản phát sinh từ tai họa như hỏa hoạn, lụt lội cũng như

các khoản phát sinh từ nghiệp vụ thanh lý tài sản cố đònh. Khi đó lỗ được trình bày
thành một chỉ tiêu riêng.
Theo IAS 1, các thông tin tối thiểu sau đây phải được diễn giải tại báo cáo
kết quả hoạt động kinh doanh hoặc phần ghi chú: doanh thu, lợi nhuận, các chi phí
tài chính thuần, thu từ các khoản đầu tư, lãi hoặc lỗ trước thuế trong niên độ, thuế
lợi tức, cổ phần thiểu số, lãi hay lỗ thuần từ các hoạt động bình thường, các khoản
mục bất thường, lãi hay lỗ thuần trong niên độ.
IAS cũng qui đònh phải trình bày trên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
hoặc phần ghi chú các khoản sau đây:
-

Việc phân tích các khoản chi phí và thu nhập được sử dụng trong quá trình tính
lợi nhuận từ các hoạt động sản xuất kinh doanh thông qua việc phân loại dựa
trên tính chất hoặc chức năng các khoản chi phí trong nội bộ doanh nghiệp.

-

Một bản phân tích chi tiết về thu nhập từ các khoản đầu tư, phản ánh các khoản
lãi hoặc lỗ của công ty con (nếu báo cáo chưa được hợp nhất), lãi hoặc lỗ từ các
công ty thành viên và liên doanh theo phương pháp vốn cổ phần, thu nhập từ lãi
tiền cho vay và từ các khoản đầu tư khác.

-

Lãi trên mỗi cổ phiếu đã thanh toán hoặc dự kiến, cho niên độ kế toán của báo
cáo tài chính.
Trang 25



×