Họ và tên: Hà Thị Phương
MSV: A20494
Lớp: Phương pháp hùng biện.1
Đề bài:
Câu 1: Hãy trình bày lịch sử hùng biện của phương Đông và phương Tây ?
Câu 2: Hãy đưa ra những định nghĩa về hung biện trong và ngoài nước? ( Hãy tự
xây dựng và định nghĩa về hung biện theo nghĩa rộng và hẹp)
Câu 3: Hãy nêu tên một số nhà hùng biện trong nước và ngoài nước? Trích dẫn
nguyên văn 1 bài hùng biện? Phân tích tại sao đó là một bài hùng biện.
Bài làm
Câu 1:
- Ở Phương Tây hay Châu Âu
Hùng Biện được xem là “thuật” tiếng La Tinh là “Eloquetia” (thuật hung biện) và
tài hung biện có nguồn gốc La Tinh là “loqu” (nói) – một khả năng thấu hiểu ngôn
ngữ và sử dụng sao cho có ma lực thuyết phục thính giả
Trong Tiếng Anh “Rhetoric” hay “Eloquence”: the art of effective speaking and
using words.
Người Hy Lạp cổ đại gắn cho Hùng biện hình ảnh biểu tượng là Calliope – nữ thần
thi ca truyền cảm hứng cho các thiên sử thi và Callipoe (một trong 9 cô con gái của
thần Zeus với Mnemosyne) chính là thuật Hùng biện
- Ở Phương Đông
Hán ngữ cho chữ “Hùng” là sự mạnh mẽ, có khí thế; “Biện” là sự lo liệu sắp xếp
đưa ra các lý lẽ để làm một việc khó khăn hay không thể nói rõ lý do.
Hùng biện, người nói hay giỏi lập luận, lập luận chặt chẽ để thuyết phục người
khác (Thời chiến quốc hay Đông Chu bên Trung Quốc có những thuyết khách giỏi
như Tô Tần, Trương Nghi, Khổng Minh,…)
- Petrach (1304 – 1374)
Trong khi nghiên cứu về văn học Hi Lạp thời phục hưng đã tập trung vào ngôn ngữ
học và và truyền thông học. Sau khi thông thạo ngôn ngữ bước tiếp theo là nhắm
tới “một đẳng cấp hung biện” và khuyến khích các sinh viên học tập các tác giả cổ
điển thuật dụng ngữ, cách trình bày thuyết phục người nghe.
Các nhà nhân văn thời phục hưng rất chú tâm vào mối quan hệ giữa thuật hung biện
và chính trị đặc biệt là các nguyên tắc chính trị.
Tóm lại: Hùng Biện là khả năng dùng lời nói lập luận chặt chẽ, cách thức diễn giải
phù hợp để thuyết phục người nghe trong quá trình giao tiếp có định hướng sao cho
người nghe nắm được, thấu hiểu được và tin tưởng mình sẵn sàng hành động theo ý
đồ của người nói.
Tác dụng của Hùng Biện trong xã hội là rất to lớn
- Giao tiếp trong xã hội xem Hùng biện là chìa khóa vạn năng không mất tiền mua
- Nâng cao khả năng nói và tư duy ngôn ngữ, khả năng diễn đạt và bộc lộ tư tưởng
của mình nhờ ngôn ngữ
- Xây dựng bản lĩnh giao tiếp qua đó khẳng định tính cách và nhân cách của mỗi
con người…
Hãy trích dẫn những định nghĩa hay về hùng biện trong và ngoài nước:
Oliver Smith (1759)
Thuật hùng biện chân chính không có nghĩa là trình bày những điều vĩ đại theo
phong cách hoành tráng, nhưng là nói về chúng một cách đơn giản và dễ hiểu; nói
một cách chính xác, không hề có phong cách hoành tráng, bởi lẽ sự hoành tráng ẩn
dấu ngay trong chính sự việc cần trình bày; và nếu không được như thế thì chỉ còn
là những lời huênh hoang, sáo rỗng mà không có tác dụng gì cả. Như vậy rõ ràng
hùng biện thuyết phục người nghe ở bản thân vấn đề cần hùng biện. Đây mới là
chìa khóa chính của vấn đề.
•
Câu 2:
Những định nghĩa trong nước:
Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học xuất bản năm 2005 đã định nghĩa về
hùng biện như sau : “ Hùng biện : Nói hay, nói giỏi, lập luận chặt chẽ, có sức thuyết
phục”. Đây là một định nghĩa hết sức cô đúc theo cách của những soạn giả Từ điển.
Từ định nghĩa này, ta có thể thấy các đặc điểm của hùng biện như sau :
- Nói hay : Một diễn giả được coi là nói hay, tức là nội dung bài nói phải thật phong
phú, chưa đựng những thông tin mới, bổ ích, thiết thực đem đến cho người nghe
nhận thức khá đầy đủ về những vấn đề có liên quan đến đề tài. Một bài nói sâu sắc
là bài nói phải làm cho người nghe hiểu được lịch sử của vấn đề, quá trình tiếp cận
cùng những kết quả nghiên cứu vấn đề của các tác giả tiêu biểu qua các giai đoạn
phát triển; thực trạng hiện nay đang đặt ra những vấn đề gì cần bổ sung, làm sâu
sắc hơn để giải quyết những yêu cầu của cuộc sống; những giải pháp nào được đưa
ra để thể nghiệm và áp dụng, v.v.. Nếu một bài nói mà không đạt được những thông
tin tối thiểu như thế sẽ là một bài nói nghèo nàn, hời hợt, không đem lại bổ ích cho
người nghe. Và như thế không thể coi đó là một bài nói hay.
- Nói giỏi : Nội dung một bài nói thường bao gồm các phần chính : Vào đề, thân đề
và kết đề. Để tạo sức hấp dẫn cho bài nói, mỗi diễn giả thường tìm cho mình một
phong cách riêng khi vào đề, cách trình bày vấn đề và những điều rút ra khi kết
thúc vấn đề. Nói giỏi có nghĩa là cách nói, cách diễn đạt nội dung của bài nói, tức
là phương pháp trình bày của diễn giả. Nói giỏi cũng ví như một người kể chuyện
hấp dẫn. Cùng một câu chuyện mà có người kể thì nhiều người thích nghe, nhưng
người khác kể thì lại cảm thấy “nhạt như nước ốc”, không có hứng thú gì, thậm chí
lại gây ra phản cảm.
Như vậy mối quan hệ giữa nói hay với nói giỏi là mối quan hệ biện chứng giữa nội
dung và hình thức, bổ trợ cho nhau làm cho bài nói có sức truyền cảm tới người
nghe.
+ Hùng Biện là khả năng dùng lời nói lập luận chặt chẽ, cách thức diễn giải phù
hợp để thuyết phục người nghe trong quá trình giao tiếp có định hướng sao cho
•
-
•
người nghe nắm được, thấu hiểu được và tin tưởng mình sẵn sàng hành động theo ý
đồ của người nói.
+ Hùng biện, người nói hay giỏi lập luận, lập luận chặt chẽ để thuyết phục người
khác (Thời chiến quốc hay Đông Chu bên Trung Quốc có những thuyết khách giỏi
như Tô Tần, Trương Nghi, Khổng Minh,…)
Những định nghĩa nước ngoài:
+ Hùng biện là nghệ thuật diễn biến trước công chúng sao cho trôi chảy, sinh động,
trang nhã và đầy sức thuyết phục thể hiện sức mạnh biểu cảm qua vẻ đẹp của ngôn
ngữ nhờ đó thu hút và thuyết phục người nghe những điều mình muốn truyền đạt.
+ Thuật hùng biện là nghệ thuật diễn thuyết trước công chúng sao cho trôi chảy,
sinh động và đầy sức thuyết phục; thể hiện sức mạnh biểu cảm được bộc lộ qua vẻ
đẹp của ngôn ngữ, nhờ đó mà thu hút và thuyết phục người nghe. Một nhà lãnh đạo
tài năng cần phải thành thục kỹ năng diễn thuyết trước công chúng, đôi khi chính
nó giúp nhà lãnh đạo che giấu được những khiếm khuyết khác của mình. ( Nguồn:
Abraham Lincoln (1809-1865) – vị Tổng Thống thứ 16 của Hoa Kỳ là một trong
những nhà lãnh đạo nổi tiếng với tài hùng biện.)
+ Hùng biện là nghiên cứu về kiến thức về hùng biện, hùng biện là để tăng cường
hiệu lực từ hoặc cụm từ nghệ thuật. Kể từ khi ngôn ngữ xuất hiện, có cần lời nói
của con người. Sửa đổi bài viết của mình, ngôn ngữ, thu hút sự chú ý của người
dân, gây ấn tượng với người khác và ảnh hưởng trữ tình. Hùng biện là định dạng từ
chính (thường được gọi là hùng biện), các sự kiện bằng lời nói hùng biện (chính và
bối cảnh, thể loại liên quan), phong cách ngôn luận, vv
+ Hay đơn giản hơn hùng biện trước tiên phải là nhìn, nghĩ sau đó là nói và quan
trọng hơn cả là hành động.
Câu 3:
Một số nhà hùng biện nổi tiếng thế giới như: Adolf Hitler, Martin Luther King,
Abraham Lincoln ... đều là bậc thầy trong thuật hùng biện; họ đều biết cách sử
dụng kỹ năng diễn thuyết trước công chúng để tạo ảnh hưởng đáng kể trên xã hội –
nhưng theo các hướng hoàn toàn đối nghịch nhau. Gần đây, Bill Clinton và Fidel
Castro được xem là những chính trị gia có kỹ năng ngang hàng với những nhân vật
kể trên trong thuật hùng biện. Tổng thống thứ 16 của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ
(1861 -1865) - Abraham Lincoln được mệnh danh là “Người giải phóng vĩ đại”.
Một vài nhà hùng biện trong nước như: Phan Châu Trinh , Hồ Chí Minh, Lê Trung
Hưng….
Một bài hùng biện: Đây là một bài diễn văn của Martin Luther King.
“ Hôm nay, tôi sung sướng có mặt ở đây cùng các bạn trong sự kiện sẽ đi vào lịch
sử chúng ta như là cuộc tuần hành vì tự do vĩ đại nhất.
Một trăm năm trước đây, một người Mỹ vĩ đại – hôm nay chúng ta đang đứng dưới
bóng tượng đài của người – đã ký bản Tuyên ngôn Giải phóng Nô lệ. Văn kiện
trọng đại này đã đến như ánh sáng của ngọn hải đăng dẫn soi niềm hi vọng của
hàng triệu người da đen, những con người bị thiêu héo trong ngọn lửa của sự bất
công. Nó đã đến như bình minh rộn rã để kết thúc đêm dài tăm tối của kiếp nô lệ.
Nhưng một trăm năm sau, người da đen vẫn chưa được tự do. Một trăm năm sau,
cuộc sống của người da đen vẫn còn què quặt do gông cùm của lòng kỳ thị và
xiềng xích của tinh thần phân biệt. Một trăm năm sau, người da đen vẫn sống trên
hoang đảo của nghèo khó ngay giữa lòng đại dương bao la của phồn vinh vật chất.
Một trăm năm sau, người da đen vẫn tàn úa trong những xó tối của xã hội Mỹ và
nhận ra rằng họ chỉ là những kẻ bị lưu đày ngay trên quê hương mình. Hôm nay,
chúng ta có mặt ở đây để phô bày sự ô nhục ấy.
Trong một ý nghĩa nào đó, ngày nay chúng ta gặp nhau tại thủ đô của đất nước để
trả một món nợ. Khi những kiến trúc sư của nền cộng hòa viết lên những lời uy vĩ
cho bản Hiến pháp và bản Tuyên ngôn Độc lập, họ đã công bố những cam kết mà
chúng ta, mọi người Mỹ, là người được thừa hưởng. Lời hứa ấy nói rằng mọi
người – vâng, người da đen cũng như người da trắng – cần được bảo đảm để
hưởng những “quyền bất khả nhượng” là “quyền được sống, được hưởng tự do, và
mưu cầu hạnh phúc”…
Nay là lúc để thực hiện lời hứa dân chủ. Nay là lúc để trỗi dậy từ thung lũng hoang
tàn và tối tăm của lòng kỳ thị mà tiến tới con đường chói chang ánh mặt trời của
công bằng chủng tộc. Nay là lúc để vực đất nước chúng ta khỏi vũng lầy của bất
công chủng tộc mà lập nền trên vầng đá vững chãi của tình huynh đệ. Đã đến lúc
biến sự công bằng thành hiện thực cho tất cả con dân của Thiên Chúa…
Hãy đến Mississippi, hãy đến Alabama, hãy đến South Carolina, hãy đến Georgia,
hãy đến Louisiana, hãy đến những khu nhà ổ chuột, hãy đến những khu biệt cư tồi
tàn ở phố phường phương bắc, để biết rằng chúng ta có thể và sẽ thay đổi chúng.
Tôi muốn nói với các bạn, bằng hữu của tôi. Chớ đắm mình trong thung lũng tuyệt
vọng.
Và ngay cả khi phải đối đầu với vô vàn khó khăn hôm nay và ngày mai, tôi vẫn ấp
ủ một giấc mơ. Ấy là một giấc mơ bắt nguồn từ giấc mơ Mỹ Quốc.
Tôi có một giấc mơ, rồi có một ngày khi đất nước này trỗi dậy để sống theo ý nghĩa
thật của niềm xác tín của chính mình: “Chúng ta tin rằng chân lý này là đầy trọn,
ấy là mọi người sinh ra đều bình đẳng”.
Tôi có một giấc mơ, rồi có một ngày trên những ngọn đồi đất đỏ của Georgia, con
của nô lệ và con của chủ nô sẽ ngồi lại với nhau bên bàn ăn của tình huynh đệ.
Tôi có một giấc mơ, rồi có một ngày vùng đất hoang mạc Mississippi, bức bối vì
hơi nóng của bất công và áp bức, sẽ chuyển mình để trở nên ốc đảo của tự do và
công bằng.
Tôi có một giấc mơ, rồi có một ngày bốn con nhỏ của tôi sẽ sống trong một đất
nước mà chúng không còn bị đánh giá bởi màu da, mà bởi tính cách của chúng.
Hôm nay tôi có một giấc mơ…
Tôi có một giấc mơ, rồi có một ngày mọi thung lũng sẽ được nâng cao, mọi đồi núi
sẽ bị hạ thấp, chỗ lồi lõm sẽ được ban bằng, chỗ quanh co sẽ thành ngay thẳng, và
sự vinh hiển của Thiên Chúa sẽ hiển lộ để mọi loài xác thịt cùng nhau chiêm
ngưỡng…
Nguyện tiếng chuông tự do vang lên từ những đỉnh đồi kỳ vĩ của New Hampshire.
Nguyện tiếng chuông tự do vang lên từ những rặng núi uy nghi của New York.
Nguyện tiếng chuông tự do vang lên từ các đỉnh núi Allegheny của Pennsylvania.
Nguyện tiếng chuông tự do vang lên từ đỉnh Rockies tuyết trắng của Colorado.
Nguyện tiếng chuông tự do vang lên từ những sườn đồi của California…
Nguyện tiếng chuông tự do vang lên. Khi chúng vang lên, và khi chúng ta để chúng
vang lên – khi chúng ta để chúng vang lên từ mọi ngôi làng, từ mọi thôn xóm, từ
mọi tiểu bang và mọi thành phố, chúng ta có thể làm ngày ấy đến nhanh cho mọi
con dân của Thiên Chúa – người da đen và người da trắng, người Do Thái và
người ngoại bang, người Kháng Cách và người Công giáo – sẽ nắm tay nhau mà
cùng hát ca từ này: “Cuối cùng đã có tự do! Cuối cùng đã có tự do! Tạ ơn Thiên
Chúa Toàn năng, cuối cùng chúng ta đã được tự do!”
Tôi có một giấc mơ (I Have a Dream) là tên phổ biến của bài diễn văn nổi tiếng
nhất của Martin Luther King, Jr., khi ông nói, với sức mạnh thuyết phục của tài
hùng biện, về ước mơ của ông cho tương lai của nước Mỹ, khi người da trắng và
người da đen có thể sống chung hoà thuận như những con người bình đẳng. Ngày
28 tháng 8 năm 1963, King đọc bài diễn văn này từ những bậc thềm của Đài Tưởng
Niệm Lincoln trong cuộc Tuần Hành đến Washington vì việc làm và tự do. Ấy là
thời điểm quyết định cho Phong trào dân quyền Mỹ. Bài diễn văn, theo giới học giả
về thuật hùng biện, là một trong những bài diễn văn vĩ đại nhất trong lịch sử và là
bài diễn văn xuất sắc nhất thế kỷ 20.