Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi trường ở việt nam (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (232.47 KB, 24 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Giới thiệu khái quát về luận án
Đề tài "Phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi trường ở Việt Nam",
được thực hiện dưới góc độ khoa học của chuyên ngành Kinh tế chính trị.
Đây là đề tài nghiên cứu dựa trên hệ thống những quan điểm cơ bản của Chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, của Đảng Cộng sản Việt Nam
về phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường của Việt Nam.
Luận án tập trung nghiên cứu, luận giải một số lý luận về phát triển
kinh tế (PTKT), tăng trưởng kinh tế (TTKT), kinh tế bền vững, môi trường,
bảo vệ môi trường (BVMT); đánh giá thực trạng về gắn PTKT với BVMT
của Việt Nam; xác định yêu cầu và đề xuất một số giải pháp phát triển kinh
tế gắn với BVMT của Việt Nam hiện nay.
2. Lý do lựa chọn đề tài luận án
Sau gần 30 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to
lớn về phát triển kinh tế và phát triển xã hội. Nhờ có phát triển kinh tế cao
trong thời kỳ đổi mới, Việt Nam đã thoát khỏi tình trạng nước kém phát
triển, trở thành nước đang phát triển có mức thu nhập trung bình, quy mô
của nền kinh tế không ngừng được mở rộng, đời sống nhân dân được cải
thiện đáng kể, nền kinh tế đã từng bước hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế
thế giới và khu vực.
Tuy nhiên, phát triển kinh tế (PTKT) của Việt Nam trong thời gian
qua đang mang trong mình nó "hiểm hoạ" về môi trường - ô nhiễm môi
trường (ONMT) ngày càng nặng nề.
Nhận thức được nguy cơ, thách thức của tình trạng PTKT tách rời với
bảo vệ môi trường (BVMT) và sự tác động của ONMT đối với PTKT, Đảng
ta trong văn kiện Đại hội lần thứ XI đã nhấn mạnh: "Phát triển kinh tế - xã
hội (PTKT-XH) phải coi trọng bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường,
chủ động đối phó với biến đổi khí hậu(1) và "nâng cao ý thức BVMT, gắn
nhiệm vụ mục tiêu BVMT với PTKT-XH; chú trọng phát triển kinh tế xanh,


thân thiện với môi trường, thực hiện sản xuất và tiêu dùng bền vững, từng
bước phát triển năng lượng sạch, sản xuất sạch, tiêu dùng sạch"(2).
Từ đường lối, chủ trương của Đảng và từ thực tiễn PTKT và giải
quyết vấn đề môi trường ở nước ta trong thời gian qua, cho thấy cần có một
nghiên cứu làm rõ sự gắn kết chặt chẽ giữa PTKT với BVMT để PTBV ở
nước ta.
Với những lý do trên, tác giả chọn "Phát triển kinh tế gắn với bảo vệ
môi trường ở Việt Nam" làm đề tài luận án tiến sĩ kinh tế, chuyên ngành
Kinh tế chính trị.
(1) (2)

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội lần thứ XI, Nxb CTQG,
H.2011, tr.99 và tr.137.


2

Nghiên cứu của luận án nhằm trả lời các câu hỏi:
- Mối quan hệ và sự tác động qua lại giữa PTKT và BVMT ở Việt
Nam là như thế nào?
- Thực trạng PTKT gắn với BVMT ở Việt Nam ra sao?
- Những giải pháp nào để gắn kết giữa PTKT và BVMT ở Việt Nam?
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích
Làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của PTKT gắn với BVMT trong quá
trình phát triển đất nước; trên cơ sở đó đề xuất, phương hướng và giải pháp cơ bản
nhằm gắn kết PTKT với BVMT góp phần bảo đảm PTBV ở Việt Nam.
* Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích nêu trên, luận án có nhiệm vụ:
- Làm rõ những vấn đề lý luận về PTKT, về môi trường và BVMT.

- Phân tích mối quan hệ, sự tác động qua lại giữa PTKT với môi
trường và BVMT. Nội dung gắn kết giữa PTKT với BVMT.
- Đánh giá thực trạng PTKT gắn với BVMT ở Việt Nam từ năm
2001-2013 và rút ra những vấn đề bức xúc cần giải quyết.
- Trình bày, phương hướng và các giải pháp cơ bản gắn kết PTKT với
BVMT nhằm bảo đảm PTBV ở nước ta đến năm 2020.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là PTKT gắn với BVMT nhằm
PTBV ở Việt Nam, dưới góc độ khoa học kinh tế chính trị, tức là luận án
nghiên cứu mối quan hệ, tác động qua lại giữa PTKT với môi trường và
BVMT; xác định những quan điểm, phương hướng và giải pháp gắn kết
PTKT với BVMT ở tầm khái quát vĩ mô.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Thời gian từ 2001-2014 và tầm nhìn đến năm 2020.
5. Dự kiến những đóng góp mới của đề tài luận án
- Góp phần bổ sung lý luận về PTKT gắn với BVMT trong tiến trình
PTBV ở nước ta.
- Đánh giá thực trạng gắn PTKT với BVMT của Việt Nam giai đoạn
2001-2014.
- Đề xuất hệ thống các giải pháp gắn PTKT với BVMT ở nước ta,
trong đó nhấn mạnh đến các giải pháp liên quan đến định hướng TTKT gắn
với thân thiện môi trường; áp dụng các biện pháp, công cụ kinh tế trong
quản lý tài nguyên, môi trường…
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận án được kết cấu làm 3 chương (riêng phần tổng quan nghiên cứu
của đề tài sẽ được đặt sau phần mở đầu và không thành một chương).



3

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
Luận án tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài, gồm 2 nội
dung lớn:
1. Các công trình nghiên cứu về tăng trưởng, phát triển kinh tế
(PTKT) và bảo vệ môi trường, với bốn nội dung:
1.1. Các tác giả nước ngoài nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế (TTKT) và
PTKT, thông qua các lý thuyết, các mô hình tăng trưởng của trường kinh tế cổ
điển, của C.Mác, của trường phái Keynes, trường phái tân cổ điển
1.2. Các nghiên cứu về TTKT, PTKT của các tác giả trong nước, đã làm rõ
khái niệm TTKT, PTKT, nội hàm của chất lượng TTKT, các chỉ tiêu đánh giá
chất lượng và thước đo chất lượng TTKT và đánh giá thực trạng TTKT và chất
lượng TTKT ở Việt Nam thời kỳ đổi mới.
1.3. Các nghiên cứu về môi trường và bảo vệ môi trường (BVMT) theo
nhóm vấn đề: Môi trường và chức năng của môi trường; Bảo vệ môi trường và
phát triển bền vững (PTBV).
1.4. Các nghiên cứu về mối quan hệ và sự gắn kết giữa phát triển kinh tế và
bảo vệ môi trường chỉ rõ: PTKT và BVMT có mối quan hệ mật thiết với nhau, làm
tiền đề và điều kiện cho nhau, đồng thời có mâu thuẫn với nhau. Các phương thức
gắn kết PTKT với BVMT là: gắn TTKT, PTKT với sử dụng có hiệu quả nguồn tài
nguyên thiên nhiên và BVMT; Kết hợp chặt chẽ giữa PTKT với quản lý tài nguyên
và BVMT; định hướng tăng trưởng, PTKT gắn với thân thiện môi trường.
2. Khái quát kết quả chủ yếu của các công trình đã công bố và những
vấn đề đặt ra luận án tiếp tục giải quyết
* Khái quát kết quả chủ yếu của các công trình đã công bố
Các công trình nghiên cứu về tăng trưởng và PTKT của các tác giả trong
nước và ngoài nước đã tập trung làm rõ: Lý thuyết TTKT ngày càng được bổ
sung, phát triển, TTKT xét trên yếu tố đầu vào của sản xuất bao gồm: lao động,

vốn, kỹ thuật - công nghệ. Các nhà kinh tế học hiện đại còn cho rằng chính sách
của Chính phủ có vai trò thúc đẩy tăng trưởng.
TTKT là xét về mặt lượng, là sự phát triển theo bề rộng, là điều kiện cần
cho sự phát triển, song chưa đủ, vì PTKT không chỉ có tăng trưởng mà PTKT còn
đòi hỏi tốc độ tăng trưởng cao và duy trì trong dài hạn; nền kinh tế phát triển có
hiệu quả thể hiện qua năng suất lao động xã hội cao và ổn định, hệ số, hiệu quả sử
dụng vốn hợp lý, nền kinh tế có sức cạnh tranh cao… TTKT gắn liền với phát
triển xã hội và đi đôi với BVMT.
Các nghiên cứu về vấn đề môi trường đã tập trung và làm rõ phạm trù môi
trường sinh thái, suy thoái, suy thoái và ONMT, những hoạt động và nội dung BVMT.
Các công trình nghiên cứu cũng đã nói tới mối liên hệ và tác động của
PTKT đến môi trường và BVMT gắn với sự PTBV. Và cũng đã đề cập đến sự
mâu thuẫn giữa hệ thống kinh tế và hệ thống môi trường.


4

* Những "khoảng trống" đặt ra luận án tiếp tục giải quyết:
Một là: Vì sao cần phải gắn kết giữa PTKT với BVMT trong khung
khổ PTBV?
Hai là: Các nội dung, hình thức để gắn kết PTKT với BVMT là gì?
Ba là: Trong bối cảnh toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và
sự ĐBKH toàn cầu… thì các giải pháp để gắn PTKT với BVMT là gì?
Những kết quả nghiên cứu về vấn đề PTKT, BVMT… tác giả luận án sẽ
tiếp thu có chọn lọc trong quá trình thực hiện đề tài luận án và sẽ nghiên cứu, bổ
sung phát triển những "điểm trống" nêu trên - đó là hy vọng của tác giả. Vì thế, đề
tài luận án của tác giả lựa chọn là không trùng lặp với các công trình đã công bố cả
về tính chất của đề tài (Kinh tế chính trị) lẫn nội dung và hình thức.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ

VỀ GẮN PHÁT TRIỂN KINH TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN
1.1. Lý luận về phát triển kinh tế và bảo vẹ môi trường
1.1.1. Lý luận về tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế
1.1.1.1. Tăng trưởng kinh tế
TTKT là sự gia tăng thu nhập hay sản lượng thực tế được tính toán
cho toàn bộ nền kinh tế (của một quốc gia hay một vùng hay một ngành
trong một thời gian nhất định, thường là một năm). TTKT xét ở yếu tố đầu
vào là do 3 yếu tố: số lượng vốn đầu tư, số lượng lao động và TFP mà chủ
yếu là tiến bộ công nghệ, kỹ thuật, hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào là
lao động và vốn đầu tư.
Trong nền kinh tế thị trường, TTKT về mặt lượng được đánh giá chủ yếu
thông qua các chỉ tiêu: Tổng sản phẩm quốc nội (GDP), tổng sản phẩm quốc dân
(GNP), tổng thu nhập quốc dân (GNI), GDP/người/năm. Trong đó, GDP thường
là chỉ tiêu quan trọng nhất và được sử dụng phổ biến nhất.
Các nhân tố tác động đến TTKT bao gồm: các nhân tố kinh tế: vốn vật chất
nhà máy, thiết bị, máy móc, nhà xưởng, các trang thiết bị được sử dụng như những
yếu tố đầu vào trong sản xuất); lao động, vốn, con người, tiến bộ kỹ thuật.
Các nhân tố kinh tế khác, gồm: vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI),
thương mại quốc tế (xuất nhập khẩu hàng hoá), vai trò nhà nước và chi tiêu công
cộng, cơ cấu ngành kinh tế, vai trò của doanh nghiệp nhà nước. Các nhân tố phi
kinh tế: các yếu tố văn hoá - xã hội. Thể chế kinh tế - xã hội và sự tham gia của
cộng đồng.
1.1.1.2. Phát triển kinh tế
- PTKT là sự biến đổi về quy mô, cơ cấu, chất lượng của nền kinh tế gắn với việc
đảm bảo tiến bộ, công bằng xã hội, sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên và BVMT.


5


Đây cũng là 3 nhóm chỉ tiêu trụ cột của kế hoạch PTKT-XH của mỗi quốc
gia. PTKT nhanh, hiệu quả và bền vững thể hiện ở các mặt sau:
(1) Tốc độ tăng trưởng cao và được duy trì trong thời gian dài; (2) Nền
kinh tế có hiệu quả, năng suất lao động cao, sức cạnh tranh của nền kinh tế cao…
(3) Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tiến bộ, hiện đại; (4) TTKT gắn với
việc thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, giải quyết các vấn đề xã hội khác và
BVMT.
Có 3 nhóm chỉ tiêu đánh giá PTKT: chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh tế; chỉ
tiêu phản ánh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế: ngành kinh tế, vùng kinh tế và thành
phần kinh tế; chỉ tiêu thước đo chất lượng TTKT liên quan đến phát triển xã hội và
BVMT: giải quyết việc làm, xoá đói, giảm nghèo, tiến bộ và công bằng xã hội,
phòng chống ONMT…
Như vậy, PTKT là sự phát triển toàn diện bao gồm các khía cạnh vật chất
và tinh thần, kinh tế và xã hội, môi trường, chất lượng và số lượng. PTKT phải có
sự "sáng tạo'' lớn hơn và tiến bộ không ngừng cả về kinh tế, xã hội và nâng cao
chất lượng môi trường, chất lượng cuộc sống của con người. PTKT bền vững bao
hàm cả nội dung bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học, cân
bằng hệ sinh thái.
1.1.2. Môi trường, ô nhiễm môi trường và bảo vệ môi trường
1.1.2.1. Môi trường và chức năng, vai trò của nó
(1) Khái niệm môi trường, Luật BVMT của Việt Nam sửa đổi năm 2014,
Điều 3, chương I ghi: "Môi trường là hệ thống các yếu tố vật chất tự nhiên và nhân
tạo có tác động đối với sự tồn tại và phát triển của con người và sinh vật".
Môi trường sống của con người theo chức năng được chia thành 3 loại;
Một là, môi trường tự nhiên (Natural environment).
Hai là, môi trường xã hội (Social environment).
Ba là, ngoài ra, người ta nói đến môi trường nhân tạo (artifical
environment), bao gồm các nhân tố do con người tạo nên hoặc chịu sự chi phối
của con người, như: các yếu tố vật lý, hoá học, sinh học và xã hội.
Tuy nhiên, trong thực tế cả 3 loại môi trường đều cùng tồn tại, xen kẽ lẫn

nhau, tương tác nhau rất chặt chẽ.
Do tính phức tạp và đa dạng của môi trường nên các nhà nghiên cứu còn
phân biệt môi trường theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
- Môi trường theo nghĩa rộng là các yếu tố tự nhiên và xã hội cần thiết cho
sự sinh sống, sản xuất của con người, như: tài nguyên, thiên nhiên, không khí,
nước, đất, ánh sáng, cảnh quan, quan hệ xã hội…
- Môi trường theo nghĩa hẹp, chỉ tính đến các yếu tố tự nhiên và xã hội trực
tiếp tác động đến chất lượng cuộc sống của con người, mà không tính tới yêu tố tài
nguyên thiên nhiên.
Môi trường có 4 chức năng cơ bản: (i) là không gian sống của con người và
sinh vật; (ii) là nơi chứa đựng làm sạch, đồng hoá các chất thải sản sinh ra từ hoạt


6

động của con người và của các loài sinh vật, nhưng khả năng cung cấp và hấp thụ
của môi trường không phải là vô hạn; (iii) là nơi cung cấp tài nguyên cần thiết
cuộc sống và hoạt động sản xuất của con người; (iv) là nơi cung cấp và lưu giữ
thông tin cho con người.
Vai trò của môi trường là: không chỉ cung cấp "đầu vào" mà còn chứa
đựng ''đầu ra" cho các quá trình sản xuất và đời sống; môi trường liên quan đến
tính bền vững, ổn định của sự phát triển kinh tế - xã hội.
1.1.2.2. Ô nhiễm môi trường và các biến thái của nó
* Ô nhiễm môi trường
Theo Luật BVMT của Việt Nam năm 2004, Điều 3, chương I, ghi:
"ONMT là sự biến đổi của các thành phần môi trường không phù hợp với quy
chuẩn kỹ thuật môi trường và tiêu chuẩn môi trường gây ảnh hưởng xấu đến con
người và sinh vật". Các dạng ô nhiễm: Ô nhiễm không khí, ô nhiễm nước, ô
nhiễm đất. Ngoài ra, còn có ô nhiễm phóng xạ, sóng từ, tiếng ồn, ánh sáng…
ONMT gây thiệt hại đối với con người và sinh vật.

* Suy thoái môi trường là sự giảm về chất lượng và số lượng của các thành
phần môi trường, gây ảnh hưởng xấu cho đời sống của con người và sinh vật.
* Khủng hoảng môi trường là các suy thoái về chất lượng môi trường sống
trên quy mô toàn cầu đe doạ cuộc sống của loài người trên trái đất.
1.1.2.3. Bảo vệ môi trường
Theo Điều 3, chương I, Luật BVMT năm 2004 của nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam hoạt động BVMT là hoạt động gìn giữ, phòng ngừa, hạn chế
các tác động xấu đến môi trường, ứng phó với sự cố môi trường, khắc phục ô
nhiễm, suy thoái, phục hồi và cải thiện môi trường; khai thác, sử dụng hợp lý và
tiết kiệm tài nguyên môi trường, bảo vệ đa dạng sinh học".
BVMT là mục tiêu đặt ra cho tất cả các quốc gia, các tổ chức trên hành tinh
chúng ta. Ở nước ta, Đảng và Nhà nước đã xác định BVMT là nhiệm vụ, quyền
lợi của toàn dân.
Để BVMT, Luật BVMT của Việt Nam năm 2014, Điều 7, chương I,
nghiêm cấm 10 hành vi gây ONMT hoặc liên quan đến ONMT.
Như vậy, BVMT chính là giúp cho sự PTKT cũng như xã hội được bền
vững. BVMT là việc làm không chỉ có ý nghĩa hiện tại, mà quan trọng hơn, cao
hơn là nó có ý nghĩa cho tương lai.
1.2. Gắn phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường
1.2.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự gắn kết giữa phát triển kinh tế với
bảo vệ môi trường
* Quan niệm về sự gắn kết giữa PTKT với BVMT
Sự gắn kết giữa PTKT với BVMT về thực chất là giải quyết đúng đắn quan
hệ biện chứng giữa kinh tế và môi trường (theo nghĩa rộng), giữa PTKT với
BVMT, nhằm hướng tới đảm bảo tính thống nhất giữa PTKT với BVMT, đồng


7

thời khắc phục sự mâu thuẫn giữa PTKT với BVMT.

Cũng có thể hiểu PTKT gắn với BVMT là thực hiện sự hài hoà mục tiêu
PTKT với BVMT nhằm giải quyết sự "xung đột" hay "lệch pha" giữa PTKT với
BVMT trong tiến trình phát triển bền vững của đất nước.
* Các nhân tố:
Thứ nhất, mối quan hệ biện chứng giữa PTKT với môi trường và BVMT.
Thứ hai, xu hướng phát triển bền vững trên thế giới.
Thứ ba, những quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
ta về PTKT gắn với BVMT trong tiến trình PTBV.
Thứ tư, mô hình tăng trưởng kinh tế.
Thứ năm, sự nhận thức và ý thức gắn PTKT với BVMT của mọi người trong
xã hội, nhất là các chủ thể kinh tế, các doanh nghiệp, các ngành, các cấp… cũng ảnh
hưởng đến sự gắn kết PTKT với BVMT trong tiến trình PTBV.
1.2.2. Các hình thức chủ yếu thể hiện sự gắn kết giữa phát triển kinh tế
và bảo vệ môi trường
1.2.2.1. Gắn tăng trưởng phát triển kinh tế với sử dụng có hiệu quả nguồn
tài nguyên, chống ô nhiễm môi trường
1.2.2.2. Phát triển kinh tế gắn với thân thiện môi trường, bao gồm:
Thứ nhất, là PTKT xanh.
Thứ hai, phát triển các ngành kinh tế theo hướng hiện đại, công nghệ cao,
sạch, tiêu tốn ít năng lượng, như:
(1) Phát triển công nghiệp theo hướng sản xuất và tiêu dùng bền vững.
(2) Phát triển nền nông nghiệp sinh học hay nông nghiệp sinh thái.
(3) Sự hài hoà giữa phát triển thương mại (chủ yếu là xuất nhập khẩu hàng
hoá) với BVMT.
1.2.2.3. Lồng ghép và gắn kết các vấn đề môi trường và sử dụng hiệu quả
các nguồn tài nguyên thiên nhiên trong quá trình xây dựng chiến lược, quy hoạch
và kế hoạch phát triển các ngành và vùng lãnh thổ. Đó là:
Xây dựng và phát triển nền kinh tế quốc dân ở cả vĩ mô và vi mô, dài hạn
và ngắn hạn cần có sự kết hợp việc khai thác các tiềm năng PKT-X H với việc giữ
gìn BVMT đảm bảo PTBV.

1.3. Kinh nghiệm của một số nước châu Á về phát triển kinh tế gắn với
việc bảo vệ môi trường và bài học rút ra cho Việt Nam
Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc - các quốc gia này có đặc điểm riêng
của mình, nhưng 3 nước này có những nét tương đồng. Thời kỳ đầu phát triển ít
chú ý đến BVMT, khai thác tài nguyên không hợp lý… Nhận thức được hậu quả
của ONMT các nước này đã có những chính sách hợp lý gắn PTKT với BVMT.
Những kinh nghiệm của các nước này về PTKT gắn với BVMT có giá trị tham
khảo cho Việt Nam.
Từ nghiên cứu kinh nghiệm riêng của Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản
trong việc gắn PTKT với BVMT, luận án đã rút ra một số bài học mà Việt Nam


8

có thể tham khảo vận dụng. Đó là:
Thứ nhất, nhận thức chung về vấn đề môi trường.
Thứ hai, ban hành và hoàn thiện hệ thống pháp luật BVMT, như: Luật đa
dạng sinh học, Luật phòng chống ô nhiễm nước, Luật BVMT. Hệ thống công cụ
kinh tế để phòng chống ô nhiễm được thể chế hoá trong các luật. Và thi hành
nghiêm pháp luật đối với các doanh nghiệp cá nhân khi vi phạm pháp luật, theo
nguyên tắc "gây ô nhiễm phải chịu phạt tiền". Áp dụng hệ thống thuế và phí ô nhiễm
(ô nhiễm nước thải, khí thải, phế thải…) để kiểm soát ONMT.
Thứ ba, quan tâm phát triển năng lượng tái tạo: thuỷ điện, mặt trời, gió…
Thứ tư, tăng đầu tư cho ứng dụng khoa học- công nghệ hiện đại, đặc biệt là
công nghệ sạch cho BVMT.
Thứ năm, hợp tác quốc tế trong việc chống ONMT và BĐKH.
Thứ sáu, tăng cường giáo dục, tuyên truyền nâng cao nhận thức về môi
trường và BVMT cho doanh nghiệp, cá nhân và cộng đồng…
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ GẮN VỚI BẢO VỆ MÔI

TRƯỜNG Ở VIỆT NAM THỜI KỲ TỪ 2001 ĐẾN 2013
2.1. Phát triển kinh tế gắn với bảo vệ moi trường xét trên một số
"mặt'' cụ thể
2.1.1. Tăng trưởng, phát triển kinh tế song hành với công tác bảo
vệ môi trường
2.1.1.1. Vài nét về thành tựu tăng trưởng, phát triển kinh tế
Trong những năm khởi đầu công cuộc đổi mới (1986-1991) tổng sản phẩm
quốc nội (GDP) tăng trưởng tương đối chậm. Khi quá trình đổi mới được đẩy
mạnh thì tốc độ tăng trưởng GDP đạt mức cao nhất và ổn định, trong hơn nửa thập
niên 1992-1997 tốc độ tăng trưởng GDP bình quân là 8,75%/năm.
Trong giai đoạn 1998-1999, tốc độ tăng trưởng giảm sút đáng kể: năm
1998 đạt 5,8%, năm 1999: 4,8%. Tuy vậy, chỉ hai năm sau nhờ quá trình đổi mới
và cải cách thể chế kinh tế tiếp tục được đẩy mạnh, tốc độ tăng GDP được khôi
phục trở lại. Tốc độ tăng GDP bình quân thời kỳ 2000-2007 là 7,55%/năm. Riêng
năm 2008 do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính và khủng hoảng
kinh tế toàn cầu, nền kinh tế Việt Nam có sự suy giảm đáng kể, nhưng tốc độ tăng
GDP vẫn đạt 5,66%.
Từ năm 2009-2013, tốc độ tăng trưởng GDP có xu hướng giảm nhưng vẫn
đạt bình quân 5,74%/năm.
Nhờ tăng trưởng cao và ổn định mà quy mô của nền kinh tế và thu nhập
bình quân đầu tăng lên đáng kể.
Thành tựu tăng trưởng là nhân tố chủ yếu góp phần làm tăng quy mô của
nền kinh tế và do đó tăng thu nhập bình quân đầu người: GDP tính bằng USD theo
tỷ giá thực tế, năm 2013 tăng 32,7 lần so với năm 1988 (170,635 tỷ USD so với


9

5,347 tỷ USD).
GDP bình quân đầu người/năm, năm 2013 (1899 USD) tăng 22 lần so với

năm 1988 (86USD). Đại hội lần thứ Xi của Đảng cũng khẳng định: "CCKT
chuyển dịch theo hướng tiến bộ… các lĩnh vực văn hoá, xã hội đạt thành tựu trên
nhiều mặt, nhất là xoá đói, giảm nghèo, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân
được cải thiện rõ rệt, dân chủ trong xã hội được mở rộng''.
Thành tựu tăng trưởng PTKT đã đưa nước ta vượt qua hai "cửa ải" quan
trọng: (i) Thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội; (2) Thoát ra khỏi danh sách các
nước kém phát triển và bước vào hàng ngũ các nước đang phát triển có thu nhập
trung bình. "Thế và lực của nước ta vững mạnh thêm nhiều; vị thế của Việt Nam
trên trường quốc tế được nâng lên, tạo ra những tiền đề quan trọng để đẩy nhanh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH) và nâng cao chất lượng cuộc sống
của nhân dân".
2.1.1.2. Một số kết quả của công tác bảo vệ môi trường trong tiến trình phát
triển đất nước thời gian qua
Nhận thức tầm quan trọng của việc PTKT gắn với BVMT, Chính phủ Việt
Nam đã bắt đầu thực hiện Chương trình nghị sự 21 về PTKT từ năm 1991. Qua đó
Việt Nam đã:
Thứ nhất, cam kết theo đuổi mục tiêu PTKT, PTKT phải đảm bảo hài hoà
với BVMT và công bằng xã hội.
Thứ hai, Việt Nam đã tích cực xây dựng một hệ thống các văn bản pháp luật
khá đầy đủ liên quan đến môi trường, như: Luật BVMT, Luật đa dạng sinh học,
Luật bảo vệ rừng, Luật thuỷ sản, Luật đất đai, Luật khoáng sản…
Thứ ba, tăng cường thể chế và bộ máy tổ chức nhà nước quản lý BVMT.
Thứ tư, nguồn lực tài chính và các điều kiện cần thiết cho BVMT được
đảm bảo theo hướng ngày càng tốt hơn. Ngân sách Nhà nước chi cho công tác
BVMT ở mức 1% tổng chi ngân sách hàng năm.
Thứ năm, xã hội hoá công tác BVMT, ứng phó với BĐKH được quan tâm
và đẩy mạnh hơn, mang lại những kết quả đáng khích lệ.
Thứ sáu, công tác giám sát, quan trắc BĐKH, môi trường; kiểm soát
ONMT được đẩy mạnh hơn. Công tác xử lý ONMT, nhất là xử lý các cơ sở gây ô
nhiễm nghiêm trọng được triển khai mạnh hơn.

Thứ bảy, hợp tác quốc tế về BVMT được coi trọng và đẩy mạnh.
2.1.2. Phát triển các ngành kinh tế gắn với bảo vệ môi trường
2.1.2.1. Phát triển nông nghiệp tác động đến môi trường ở nước ta
(+) Vài nét về PTKT-X H trong nông nghiệp
Từ khi có đường lối đổi mới, nhất là từ khi có Nghị quyết 10 của Bộ Chính
trị (khoá VI), nông nghiệp Việt Nam đã có sự chuyển biến căn bản, chúng ta đã
giải quyết được một vấn đề vô cùng trọng đại là đảm bảo an ninh lương thực quốc
gia và trở thành một nước xuất khẩu gạo lớn hàng đầu thế giới. Giá trị sản xuất
nông - lâm - thuỷ sản giai đoạn 1985-2011 tăng bình quân 5,4%/năm.
Năm 2012, tốc độ tăng giá trị sản xuất nông-lâm-thuỷ sản là 3,4%; năm
2013 đạt 2,95%, thấp hơn năm 2012; năm 2014 đạt 3,0%. Nhận xét: tốc độ tăng


10

trưởng giá trị sản xuất ngành nông - lâm - thuỷ sản có xu hướng giảm sút. Nông
nghiệp cung cấp sinh kế kiếm sống cho 9,53 triệu hộ ở nông thôn và 67,64 triệu
người ở nông thôn (năm 2013) và đóng góp vào GDP là 19,39%. Từ năm 20002010, tổng giá trị nông sản xuất khẩu đạt 106 tỷ USD, bình quân tăng 16,4%/năm;
kim ngạch xuất khẩu nông sản năm 2013 là 27,5 tỷ USD, 2014 đạt cao nhất 30,8
tỷ USD. Nông nghiệp đã đóng vai trò quyết định trong xoá đói, giảm nghèo.
(+) Tác động của sự phát triển nông nghiệp đến môi trường.
- Những tác động tích cực:
Những yếu tố tích cực đối với hệ sinh thái và BVMT mà nông nghiệp đã
và đang hướng tới thực hiện tốt, như: đổi mới cơ cấu cây trồng; cải tạo, bảo vệ đất,
khôi phục và phát triển tài nguyên rừng, thực thi nền nông nghiệp sinh thái, hạn
chế sử dụng hoá chất trong sản xuất nông nghiệp; thực hiện chăn nuôi bán công
nghiệp, công nghệ cao, triển khai mạnh mẽ mô hình vườn - ao - chuồng, đổi mới
phương thức sản xuất nông - lâm - thuỷ sản theo hướng hiện đại, ít gây ONMT.
- Những tác động tiêu cực:
Tăng trưởng nông nghiệp của Việt Nam thời gian qua chủ yếu dựa trên

thâm dụng tài nguyên, lạm dụng các chất hoá học trong sản xuất, chế biến, bảo
quản nông sản; mục tiêu kinh tế đạt được nhưng lại gây tác động xấu đến môi
trường, làm tăng mức độ ô nhiễm và suy yếu tài nguyên thiên nhiên (làm thoái hoá
đất, suy giảm rừng ven biển, tài nguyên nước ngầm,nguồn lợi hải sản ven bờ, đa
dạng sinh học…), như:
(1) Thời kỳ 1945-1975, cả nước mất khoảng 3 triệu ha rừng, bình quân
100.000ha/năm. Quá trình mất rừng diễn ra nhanh hơn ở giai đoạn 1975-1990:
mất 2,8 triệu ha, bình quân mất 140.000ha/năm.
(2) Thoái hoá đất và ô nhiễm đất là tình trạng phổ biến đối với nhiều vùng
ở nước ta. Diện tích đất bị thoái hoá nghiêm trọng:
Đất bị xói mòn, rửa trôi sạch, chua nhiều, chiếm 16,7 triệu ha.
Đất có độ phì nhiêu rất thấp và tầng đất mỏng chiếm 9 triệu ha.
Đất khô hạn, chiếm 3 triệu ha.
Đất bị phèn hoá, mặn hoá mạnh, chiếm 1,9 triệu ha.
(3) Sự lạm dụng đầu vào hoá chất, hạn chế trong quản lý tài nguyên nước
và ít tận dụng phụ phẩm nông nghiệp là nguyên nhân gây ô nhiễm cục bộ cũng
như tăng khí thải nhà kính. Môi trường ở nông thôn chưa được quản lý tốt. Ô
nhiễm nước thải, khí thải ở các KCN, làng nghề đang trực tiếp làm suy thoái môi
trường, gây nguy hiểm cho sinh kế bền vững của người dân và cạn kiệt nguồn lợi
thuỷ sản.
2.2.2.2. Phát triển công nghiệp tác động đến môi trường nước ta
Trong thời kỳ đổi mới, cùng với sự tăng trưởng chung của nền kinh tế, ngành
công nghiệp cũng có sự phát triển nhanh, đạt nhiều thành tựu quan trọng:
Tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp qua 17 năm (1991-2007) hầu như
liên tục đạt 2 chữ số (bình quân 15,28%/năm). Từ năm 2008-2013, do ảnh hưởng


11

của khủng hoảng kinh tế thế giới… tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp chỉ là

1 chữ số (bình quân 7,7%/năm). Sản lượng của ngành công nghiệp và xây dựng,
thời kỳ 2005-2013 chiếm khoảng 37% GDP.
Công nghiệp phát triển theo hướng đa dạng hoá sản phẩm với kỹ thuật tiên tiến
hiện đại sẽ góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng của ngành này. Áp dụng công nghệ
sản xuất sạch, sử dụng hợp lý và tiết kiệm các nguồn tài nguyên thiên nhiên và quy
hoạch ngành công nghiệp đồng bộ với quy hoạch môi trường, đặc biệt chú trọng các
khâu khai thác, sử dụng nguyên, nhiên liệu, xử lý tốt chất thải công nghiệp… là những
tác nhân tích cực BVMT trong quá trình phát triển ngành công nghiệp.
Tuy nhiên, sự phát triển công nghiệp tất yếu dẫn đến tăng nhu cầu sử dụng
năng lượng, nguyên liệu trong quá trình phát triển công nghiệp… thì lượng các
chất phế thải trong công nghiệp và tiêu dùng cũng sẽ tăng lên nhanh chóng, ở cả 3
dạng: lỏng, khí, rắn, gây ô nhiễm trong ngành công nghiệp.
Thực tế cho thấy, cùng với quá trình phát triển, các hoạt động công nghiệp đã
có tác động mạnh tới môi trường tự nhiên, gây ra sự suy thoái, ONMT.
Thứ nhất, theo Bộ Công nghiệp (2004), các ngành công nghiệp Việt Nam
có mức phá thải cao so với quy mô. Đặc biệt là các ngành luyện kim, thuộc da, dệt
nhuộm, khai khoáng, nhiệt điện…
Thứ hai, trong ngành công nghiệp, công nghệ lạc hậu, yếu kém là nguyên
nhân dẫn đến lãng phí và thất thoát tài nguyên. Xét dưới góc độ môi trường các
ngành công nghiệp của Việt Nam hiện nay có chi phí tài nguyên rất cao. Trên thế
giới để sản xuất 1 lít bia trung bình sử dụng khoảng 4 lít nước, song ở Việt Nam
hệ số sử dụng nước trên một đơn vị sản phẩm cao gấp 3 lần, đạt mức 13 lít nước, 1
lít bia. Một số ngành công nghiệp sử dụng năng lượng rất cao. Các số liệu so sánh
của Nhật Bản trong ngành thép cho thấy công nghệ sử dụng của Việt Nam hiện có
thời gian nấu cao hơn 350% so với thế giới, các chỉ tiêu hao thép phế liệu, điện và
điện cực đều quá cao, đặc biệt tiêu thụ điện năng bằng 257% so với các nước khác
trong khi công đoạn cán tốc độ chỉ bằng 12,7% tốc độ cán của các nhà máy thép
trên thế giới.
Ở Việt Nam, các doanh nghiệp gây ONMT đang trở nên nhức nhối và
gây bất bình trong xã hội. Năm 2007, Cục BVMT đã kiểm tra tổng cộng 384 cơ

sở, 47 KCN và 7 làng nghề trên địa bàn 41 tỉnh, thành phố trên phạm vi toàn
quốc đã phát hiện 69 cơ sở gây ONMT và 47 cơ sở gây ONMT nghiêm trọng.
Sự ONMT đã làm ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ con người. Theo kết
quả điều tra 275 doanh nghiệp thuộc các ngành hoá chất, cơ khí, luyện kim, vật
liệu xây dựng, có đến 23% số cơ sở này có nồng độ các chất khí độc hại vượt tiêu
chuẩn cho phép từ 1,5 đến 50 lần, gây ra các chứng bệnh về đường hô hấp, về mắt
và hệ thần kinh.
2.1.2.3. Phát triển các ngành dịch vụ với vấn đề bảo vệ môi trường
Ở đây tác giả luận án chỉ đi sâu phân tích 2 nhóm ngành dịch vụ, đó là:
thương mại quốc tế (hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hoá) và du lịch.


12

Một là, hoạt động thương mại quốc tế tác động đến môi trường.
Trong những năm qua, hoạt động xuất; nhập khẩu hàng hoá của nước ta đã
phát triển khá nhanh cả về quy mô và tốc độ, đã có những đóng góp to lớn vào
công cuộc đổi mới đất nước, là một trong những động lực chính của tăng trưởng
kinh tế, góp phần ổn định chính trị - xã hội.
(i) Thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá cũng đã tăng khả năng đáp ứng các quy
định và tiêu chuẩn quốc tế về môi trường và an toàn thực phẩm. Chẳng hạn năm
2009 có 295 doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam được EU cấp giấy chứng
nhận về chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm.
(ii) Tăng trưởng xuất khẩu tác động tích cực đến BVMT là: nâng cao nhận
thức về BVMT đối với các cơ quan quản lý và các doanh nghiệp xuất khẩu; thúc
đẩy các doanh nghiệp áp dụng các quy trình và công nghệ thân thiện với môi
trường; xây dựng tiêu chuẩn quốc gia theo hướng phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế
vệ sinh an toàn thực phẩm, quy trình sản xuất thân thiện với môi trường (PPM),
các quy định và tiêu chuẩn về bao bì, đóng gói, nhãn môi trường, nhãn sinh thái;
thúc đẩy các doanh nghiệp áp dụng mô hình quản lý môi trường tiên tiến, như:

ISO 14000, HACCP…
(2) Tác động tiêu cực của thương mại gây ra cho môi trường diễn ra rất đa
dạng, theo nhiều cách khác nhau, nó được thể hiện ở các khía cạnh sau đây:
(i) Tự do hoá thương mại khuyến khích các nước, đặc biệt là các nước
đang phát triển, khai thác ngày càng nhiều hơn các nguồn tài nguyên thiên
nhiên nhằm để đạt được TTKT nhanh chóng. Theo đó, là sự xuống cấp về
môi trường, cạn kiệt về tài nguyên thiên nhiên, suy giảm đa dạng sinh học,
làm mất cân bằng sinh thái…
(i i) Các cơ hội thương mại, cũng như việc mở rộng các hoạt động kinh tế,
kéo theo nhiều thay đổi trong cách thức sử dụng đất đai, đe doạ đến môi trường tự
nhiên. Với mục đích tăng lợi nhuận, hàng loạt các biện pháp kỹ thuật hiện đại
được sử dụng trong nông nghiệp như: Thâm canh tăng vụ, lạm dụng thuốc trừ sâu,
thuốc bảo vệ thực vật, phân hoá học… đã phá huỷ sự cân bằng sinh thái, thúc đẩy
nhanh quá trình bạc màu của đất.
(iii) Tự do hoá thương mại làm tăng nguy cơ ONMT qua biên giới (xuyên
quốc gia). Đó là ONMT từ việc nhập khẩu công nghệ lạc hậu, hàng hoá, không
đảm bảo các yêu cầu về môi trường, du nhập các loại động vật ngoại lai, chất thải
độc hại, buôn bán trái phép các loại động vật quý hiếm, bất bình đẳng trong việc
chia sẻ lợi ích tài nguyên đa dạng sinh học.
Hai là, du lịch với vấn đề môi trường.
Du lịch được ví như ngành công nghiệp không khói, phát triển du lịch sẽ
mang lại nhiều thu nhập cho quốc gia và phù hợp với xu thế phát triển kinh tế thị
trường, mở cửa, hội nhập.
Sự phát triển du lịch có ảnh hưởng đến môi trường theo cả 2 hướng: tích
cực và tiêu cực.


13

Phát triển loại hình du lịch sinh thái hay du lịch xanh, du lịch có trách

nhiệm; tôn tạo cảnh quan sinh thái gắn với lợi ích của ngành du lịch; đổi mới
phong tục tập quán văn hoá, lễ hội… theo hướng thân thiện với môi trường; xây
dựng chính sách, quy chế dịch vụ, thương mại… liên quan đến môi trường và duy
trì, khôi phục nếp sống văn hoá lành mạnh có lợi cho môi trường… là những tác
nhân tích cực đến hệ sinh thái và BVMT trong hoạt động du lịch.
Hoạt động du lịch luôn luôn có mối liên hệ mật thiết, chặt chẽ với PTKT-X
H của từng vùng và cả nước; liên quan đến các công việc cụ thể; các quá trình khai
thác tài nguyên, môi trường.
Do nhu cầu phát triển du lịch, nên nhiều diện tích đất đai bị khai phá để xây
dựng kết cấu hạ tầng; đường giao thông, khách sạn, các công trình thể thao, các
khu vực vui chơi giải trí… điều này làm tổn hại tới cảnh quan thiên nhiên, các hệ
sinh thái.
Hoạt động du lịch luôn gắn liền với khai thác tài nguyên môi trường, cảnh
đẹp của núi, sông, biển… và các giá trị văn hoá nhân loại… Hoạt động du lịch
cũng có thể gây ONMT nước, không khí… do các hoạt động vận tải thuỷ, đường
bộ và hàng không, do xả thải, nước thải chưa qua xử lý của các cơ sở dịch vụ du
lịch và của cả khách du lịch. Ở nước ta hiện nay, tuy du lịch mang lại lợi ích kinh
tế - xã hội to lớn, nhưng cũng tác động tiêu cực đến môi trường ngày càng trở nên
rõ rệt hơn.
2.1.3. Thực trạng phát triển đến các khu đô thị và khu công nghiệp và
vấn đề ô nhiễm môi trường
Có thể thấy rằng từ khi đổi mới đến nay, các thành phố, các khu đô thị và
KCN ở nước ta phát triển tương đối nhanh và là những khu vực đi đầu trong quá
trình CNH, HĐH đất nước. Gần 30 năm đổi mới, quá trình đô thị hoá (ĐTH) ở
Việt Nam diễn ra khá nhanh, nhất là trong hơn 10 năm gần đây. năm 1990 tỷ lệ
ĐTH đạt 17-18% (cả nước chỉ có 500 đô thị lớn nhỏ), năm 2020 là 23,6% năm
2010 đạt 31% (trên 700 đô thị). Đại hội lần thứ Xi của Đảng ta dự kiến đến năm
2020 tỷ lệ ĐTH ở Việt Nam sẽ là 45%. Tại các thành phố, các khu đô thị với sự
sầm uất, đông dân cư và sự PTKT, văn hoá, xã hội… gia tăng khá rõ rệt.
- Quá trình CNH, HĐH đã hình thành các KCN.

Tính đến hết tháng 9-2012, cả nước có 283 KCN được thành lập với tổng
diện tích đất tự nhiên là khoảng 80.000ha, trong đó diện tích đất công nghiệp có
thể cho thuê đạt gần 52.100ha, chiếm khoảng 65% tổng diện tích đất tự nhiên; 178
KCN đã đi vào hoạt động với diện tích đất tự nhiên là 47.300ha và 150 KCN đang
trong giai đoạn giải phóng mặt bằng, xây dựng cơ bản với tổng diện tích đất tự
nhiên là 32.800ha.
Hình thành mạng lưới các KCN, khu kinh tế (KKT) đã thúc đẩy sản xuất
công nghiệp, dịch vụ phát triển, góp phần thúc đẩy tăng trưởng chung của cả nền
kinh tế. Các KCN, KKT đã giải quyết việc làm cho gần 2 triệu lao động trực tiếp
và hàng chục triệu lao động gián tiếp và tạo kim ngạch xuất khẩu gần 20% tổng
kim ngạch xuất khẩu cả nước.


14

Quá trình ĐTH và CNH, HĐH, một mặt, đóng góp vào sự phát triển
chung của đất nước, mặt khác, đã đang gây nhức nhối cho việc bảo vệ tài
nguyên, môi trường.
2.1.3.1. Ô nhiễm môi trường ở các khu đô thị ở Việt Nam
Quá trình ĐTH nhanh, theo chiều rộng và có sức lan toả mạnh đã có những
ảnh hưởng đáng kể đến môi trường, tài nguyên thiên nhiên, đến sự cân bằng sinh thái:
- Tài nguyên đất bị khai thác quá mạnh để xây dựng đô thị làm suy giảm
diện tích ao hồ, diện tích cây xanh do san lấp, chuyển đổi để xây dựng công trình
và nhà ở.
- Ô nhiễm nguồn nước ngầm: Tại một số đô thị lớn: Hà Nội, Hải Phòng,
Hạ Long, thành phố Hồ Chí Minh, Cà Mau nguồn nước ngầm đang có những
dấu hiệu cạn kiệt, ô nhiễm, nhiễm mặn, chất lượng suy giảm rõ rệt, nhất là ô
nhiễm asen và vật chất hữu cơ, các hợp chất nitơ… Đồng thời với tăng nhu càu
sử dụng nước thải là sự tăng khối lượng nước thải. Hiện chỉ có 30% nước thải ở
các khu đô thị được xử lý, còn lại là chưa qua xử lý xả thẳng vào môi trường,

vào các dòng sông gây ô nhiễm nhiều con sông chạy qua các thành phố.
- Ô nhiễm do chất thải rắn: chất thải sinh hoạt, rác thải, chất thải y tế, chất
thải công nghiệp…
- Ô nhiễm không khí tại các đô thị cũng khá nặng nề. Nguyên nhân gây
ONMT ở đô thị có nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó, chính sách đô
thị hoá nhanh, nhưng thiếu kiểm soát chặt chẽ.
2.1.3.2. Ô nhiễm môi trường tại các khu công nghiệp ở nước ta
Tại Việt Nam nhiều KCN đang gây ONMT nghiêm trọng, trong đó tỷ lệ
các chất độc hại đang tăng lên.
Theo Báo cáo môi trường quốc gia năm 2009, với chủ đề "Môi trường
KCN Việt Nam" thì hiện trạng môi trường xung quanh không ít các KCN Việt
Nam đang bị suy thoái nghiêm trọng. Khoảng 70% trong số hơn 1,3 triệu m3
thải/ngày từ các KCN được xả thẳng ra các nguồn tiếp nhận không qua xử lý đã
gây ONMT nước mặt. Có đến 57% KCN đang hoạt động chưa có hệ thống xử lý
nước thải tập trung. Không khí ở các KCN, đặc biệt là các KCN cũ, do các nhà
máy trong KCN sử dụng công nghệ sản xuất lạc hậu hoặc chưa đầu tư hệ thống xử
lý khí thải trước khi thải ra môi trường. Lượng chất thải rắn tại các KCn ngày càng
gia tăng, trong khi vấn đề thu gom, xử lý chất thải rắn còn nhiều bất cập.
Theo dự báo, tại thành phố Hồ Chí Minh và vùng kinh tế trọng điểm phía
Nam, đến năm 2010, nếu tất cả các KCN đều sử dụng hết diện tích, thì các xí
nghiệp sẽ thải ra một lượng chất thải rắn lên tới khoảng 3.500 tấn/ngày tức lớn gấp
29 lần so với hiện nay, trong đó khoảng 700 tấn chất thải độc hại.
Ở Việt Nam, việc các doanh nghiệp, kể cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài gây ONMT đang trở nên nhức nhối và gây bất bình trong xã hội. Các
vụ như Vedan xả nước thải ra sông Đồng Nai, Miwon xả nước thải, khí, chất rắn chưa
qua xử lý làm ONMT nghiêm trọng làm thay đổi khí hậu, sự đa dạng sinh học, làm
chết không ít các dòng sông, ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ con người.
Nguyên nhân chủ yếu của ONMT tại các KCN là sự bất cập của chính



15

sách quy hoạch và kế hoạch phát triển các KCN và phát triển công nghiệp.
2.1.4. Mô hình tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường
Phân tích MHTTKT và BVMT, tức là đánh giá MHTTKT dưới góc
độ PTBV và có ý nghĩa là phải xem xét tác động lan toả của TTKT đến yếu
tố xã hội, con người và tài nguyên môi trường.
MHTTKT của nước ta hiện nay dựa chủ yếu vào:
- Khai thác các nguồn tài nguyên, như: dầu thô, than đá, khoáng sản
khác, gạo, thuỷ sản, cao su, cà phê với công nghệ thô sơ, lạc hậu.
- Sử dụng lao động rẻ dưới hình thức gia công, lắp ráp với năng
suất lao động xã hội, giá trị gia tăng thấp và sản xuất phụ thuộc vào bên
ngoài rất lớn.
- Phát triển chủ yếu các ngành sản xuất mang tính chất truyền thống
với trình độ khoa học, công nghệ yếu kém, chi phí sản xuất trung gian còn
cao, hiệu quả không cao.
Thực thi MHTTKT này, nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng cao và liên
tục nhiều năm liền quy mô của nền kinh tế không ngừng được mở rộng, đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện đáng kể…, tạo nguồn
lực tài chính cho BVMT…
Tuy nhiên, theo đuổi mục tiêu TTKT nhanh trong nhiều năm, Việt
Nam đã phải trả giá cho những mất mát về tài nguyên và môi trường. Việt
Nam đang bị ONMT ngày càng nghiêm trọng, nguy cơ mất cân bằng sinh
thái, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên ngày càng rõ rệt… bởi sự phát triển các
loại hình sản xuất không thân thiện với môi trường.
Khai thác bừa bãi, không hợp lý và sử dụng lãng phí tài nguyên:
rừng, nước ngọt, khoáng sản và các loại tài nguyên khác, gây nên sự suy
kiệt tài nguyên, suy thoái môi trường, mất cân bằng các hệ sinh thái, đã
và đang diễn ra phổ biến, để lại nhiều hậu quả cho hiện tại và tương lai.
Chẳng hạn, sự suy giảm đa dạng sinh học, trong 4 thập kỷ qua, theo ước

tính sơ bộ: 200 loài chim bị tuyệt chủng và 120 loài thú bị diệt vong. Tê
giác hai sừng, heo vòi, bò xám, lan hài… Những loài hoang dã vốn bị
xếp hạng nguy cấp trong Sách đỏ Việt Nam 1992-1996 nay đã tuyệt
chủng hoàn toàn. Bộ sách đỏ 2007 công bố số lượng các loài động, thực
vật hoang dã bị đe doạ của Việt Nam đến nay đã lên đến 900 loài so với
700 loài trong những năm 1992-1996.
- Tài nguyên đất khai thác quá mức dẫn đến cạn kiệt, thoái hoá, sa
mạc hoá. Tình trạng ô nhiễm đất do phân bón, hoá chất bảo vệ thực vật, chất
thải, nước thải đô thị, KCN, làng nghề, sản xuất, dịch vụ và các chất độc hoá
học để lại sau chiến tranh cũng đáng báo động.
2.2. Đánh giá khái quát về phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường ở


16

Việt Nam giai đoạn 2001-2013
2.2.1. Những kết quả tích cực
2.2.1.1. Về phát triển kinh tế - xã hội
Trong thời kỳ 2001-2013, Việt Nam đã tranh thủ thời cơ, thuận lợi, vượt
qua nhiều thách thức, nhất là những tác động tiêu cực của khủng hoảng tài chính
và suy thoái kinh tế toàn cầu, nền kinh tế bước phát triển khá, đạt được những
thành tựu cơ bản sau đây:
Một là, nền kinh tế tốc độ tăng trưởng cao và liên tục nhiều năm liền, quy
mô của nền kinh tế không ngừng được mở rộng.
Hai là, tăng trưởng, PTKT đã góp phần quan trọng vào giải quyết các vấn
đề xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội: nâng cao thu nhập của dân cư; đóng
góp quan trọng vào xoá đói, giảm nghèo; trẻ em được quan tâm bảo vệ, chăm sóc,
tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng đã giảm từ 33,4% vào năm 2000 xuống
18% vào năm 2008. Tuổi thọ bình quân tăng, năm 2000 bình quân là 67,8% tuổi,
năm 2010 tăng lên 72,8 tuổi; chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam có

nhiều tiến bộ và dần nâng cao thứ bạc trong quá trình đổi mới. Năm 1990, chỉ số
HDI là 0,608; năm 2005 là 0,794; năm 2010 là 0,728. Chỉ số HDI của Việt Nam
thuộc nhóm nước trung bình cao của thế giới; (6) Mức hưởng thụ văn hoá, điều
kiện tiếp cận thông tin của người dân được nâng lên rõ rệt. Hệ thống phúc lợi và
an sinh xã hội được coi trọng và từng bước mở rộng. Bảo hiểm y tế được mở rộng
từ 13,4% dân số năm 2000 lên khoảng 62% năm 2010…
2.2.1.2. Về bảo vệ môi trường
Việt Nam đã được ra chủ trương PTBV, tức là PTBV cả về kinh tế, xã hội
và môi trường. Trong những năm qua bên cạnh thành tựu về PTKT, thì công tác
BVMT từng bước đầu cũng đạt được những thành tựu khả quan.
Đảng và Nhà nước ta sớm có chủ trương, chính sách BVMT, tài
nguyên. Nhận thức của các cấp, các ngành và của nhân dân về BVMT, tài
nguyên được nâng lên. Bộ máy quản lý nhà nước về tài nguyên và môi
trường được từng bước kiện toàn từ Trung ương xuống địa phương, cơ sở.
Nhà nước đã ban hành chiến lược, chương trình mục tiêu quốc gia, kế hoạch
và các giải pháp cụ thể về BVMT và tài nguyên. Hợp tác quốc tế về BVMT
được đẩy mạnh.
2.2.2. Những yếu kém, bất cập
Trong khi khẳng định những kết quả đạt được hết sức quan trọng trong
PTKT với BVMT ở nước ta giai đoạn 2001-2013, luận án cũng chỉ rõ những
khiếm khuyết, những bất cập và những thành tựu đạt được về PTKT với BVMT
không những chưa tương xứng với tiềm năng, mà còn không thích ứng với yêu
cầu PTBV trong giai đoạn hiện nay. Cụ thể:
2.2.2.1. Những yếu kém, bất cập chủ yếu của phát triển kinh tế - xã hội
(i) Kinh tế phát triển chưa bền vững, sự tăng trưởng kinh tế của Việt Nam
chủ yếu dựa trên cơ sở thâm dụng tài nguyên và lao động giá rẻ; (ii) Cơ cấu kinh
tế chậm chuyển dịch theo hướng hợp lý và hiệu quả; (iii) Nguồn nhân lực dồi dào,
nhưng chất lượng thấp, thiếu hụt lao động chất lượng cao, kết cấu hạ tầng kinh tế -



17

kỹ thuật còn nhiều yếu kém; (iv) Các lĩnh vực văn hoá, xã hội, giáo dục có một số
mặt yếu kém chậm được khắc phục.
2.2.2.2. Những yếu kém, bất cập trong vấn đề bảo vệ môi trường
(1) Nhận thức và ý thức PTKT với BVMT của các ngành, các doanh
nghiệp và người dân chưa đầy đủ; thường coi trọng các mục tiêu kinh tế trước mắt
hơn các mục tiêu BVMT. Còn tồn tại không ít những bất cập, tiêu cực và gian dối
đối với lĩnh vực BVMT và khai thác tài nguyên thiên nhiên.
(2) Chất lượng môi trường ở nhiều nơi bị xuống cấp nghiêm trọng, chậm
được xử lý và khắc phục, gây bức xúc trong xã hội.
(3) Những quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về BVMT, bảo
vệ tài nguyên thiên nhiên còn chậm được cụ thể hoá thành cơ chế chính sách và
giải pháp cụ thể. Một số quy định pháp luật về BVMT, khai thác tài nguyên thiên
nhiên đã bộc lộ sự bất cập, không phù hợp với thực tiễn.
(4) Nguồn lực đầu tư cho BVMT còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu của
thực tiễn.
Tóm lại, thực trạng phát triển ở nước ta cho đến nay vẫn còn là mang
tính chất ''nâu" (theo cách phân loại phát triển của quốc tế), nghĩa là sự phát
triển mà trong đó tăng trưởng, PTKT dựa nhiều vào khai thác, sử dụng tài
nguyên thiên nhiên và môi trường vượt quá ngưỡng tự phục hồi của tự nhiên,
ngưỡng tiếp nhận chất thải của môi trường gây tổn hại, ô nhiễm, suy thoái môi
trường.
2.2.2.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong phát triển kinh tế gắn với
bảo vệ môi trường
Những hạn chế, yếu kém trên đấy có phần do nguyên nhân khách quan,
nhưng nguyên nhân chủ quan là chính:
- Tư duy PTKT-XH và BVMT chậm thay đổi, chưa đáp ứng kịp yêu cầu
phát triển đất nước; bệnh thành tích còn nặng.
- Còn có tư tưởng coi trọng số lượng, coi nhẹ chất lượng, đuổi theo tốc độ

tăng trưởng và cách thức tăng trưởng theo bề rộng, nhiều cấp lãnh đạo vẫn còn coi
TTKT mới là mục tiêu cần được ưu tiên hàng đầu còn BVMT chỉ là phương tiện
cho PTKT có thể thực hiện sau.
- Yêu cầu phát triển bền vững về kinh tế, xã hội và môi trường chưa được
quán triệt đầy đủ, sâu sắc trong các quy hoạch, kế hoạch, chương trình phát triển
và các dự án cụ thể.
- Những bất cập trong quản lý, điều hành của nhà nước trong quá trình phát
triển kinh tế - xã hội và BVMT.
- Nhận thức, ý thức và trách nhiệm BVMT của cán bộ, nhân dân… còn
nhiều hạn chế.


18

Chương 3
MỤC TIÊU, QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP
CHỦ YẾU ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Ở
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2014-2020
3.1. Bối cảnh, mục tiêu và những quan điểm định hướng phát triển
kinh tế gắn với bảo vệ môi trường
3.1.1. Bối cảnh mới liên quan đến phát triển kinh tế gắn với bảo vệ
môi trường
(1) Xu hướng phát triển của Việt Nam đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm
2030 là PTBV, bởi PTBV là xu thế phát triển chủ đạo của thế giới trong thiên niên
kỷ thứ ba này. Có thể hình dung con đường phát triển của Việt Nam đến năm 2020.
(2) Nhận thức mới về bảo vệ tài nguyên và môi trường trong bối cảnh biến
đổi khí hậu là tư duy phát triển trên thế giới đã thay đổi từ việc chú ý tới các giới hạn
của sự tăng trưởng dựa trên cơ sở khai thác tài nguyên sang các mối quan tâm chung
lớn hơn về môi trường sống, đặc biệt là về tài nguyên và môi trường, tức là chú
trọng đến phát triển kinh tế xanh, tăng trưởng xanh, hay kinh tế/xã hội các bon thấp.

(3) Một số vấn đề thực tiễn đặt ra trong công tác bảo vệ tài nguyên ở nước
ta thời gian qua.
Thực trạng phát triển ở nước ta cho thấy đến nay vẫn còn là mang tính chất
"nâu" (theo cách phân loại phát triển của quốc tế), nghĩa là sự phát triển mà trong
đó tăng trưởng, PTKT dựa nhiều vào khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên và
môi trường vượt quá ngưỡng tự phục hồi của tự nhiên, ngưỡng tiếp nhận thất thải
của môi trường, gây tổn hại, ô nhiễm, suy thoái môi trường.
Về thực hiện các mục tiêu chiến lược phát triển theo hướng bền vững giai
đoạn 2001-2010, đánh giá của Đảng và Nhà nước là: "nhiều mục tiêu chủ yếu của
chiến lược 2001-2010 đã được thực hiện" nhưng ''hầu hết các chỉ tiêu về BVMT,
khắc phục ô nhiễm đều không đạt kế hoạch".
3.1.2. Các mục tiêu phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường
Chiến lược PTKT-XH 2011-2020 được thông qua tại Đại hội lần thứ Xi
của Đảng đã xác định mục tiêu chủ yếu về phát triển kinh tế - xã hội và môi
trường như sau:
+ Về kinh tế:
Phấn đấu tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân
7-8%/năm. GDP năm 2020 theo giá so sánh bằng khoảng 2,2 lần so với năm
2010; GDP bình quân đầu người theo giá thực tế đạt khoảng 3.000USD.
Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô: Xây dựng cơ cấu kinh tế hiện đại, hiệu
quả. Tỷ trọng của các ngành công nghiệp và dịch vụ chiếm khoảng 80% trong
GDP. Giá trị sản phẩm công nghệ cao đạt khoảng 45% trong tổng GDP.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với chuyển dịch cơ cấu lao động, tỷ lệ
lao động nông nghiệp khoảng 30-35% lao động xã hội. Kết cấu hạ tầng tương


19

đối đồng bộ. Tỷ lệ đô thị hoá đạt trên 45%, số xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới
khoảng 50%.

+ Về văn hoá, xã hội:
Chỉ số phát triển về con người (HDI) đạt nhóm trung bình cao của thế giới;
tuổi thọ bình quân đạt 75 tuổi; thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân; lao động qua đào
tạo đạt trên 70%, đào tạo nghề chiếm 55% tổng số lao động xã hội; tỷ lệ hộ nghèo
giảm bình quân 1,2-2%/năm; phúc lợi xã hội, an sinh xã hội và chăm sóc sức khoẻ
cộng đồng được bảo đảm. Thu nhập thực tế của dân cứ gấp khoảng 3,5 lần so với
năm 2010.
Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước, xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc…
+ Về môi trường
Đến năm 2020 đưa tỷ lệ che phủ rừng lên 45%; 100% cơ sở sản xuất mới
áp dụng công nghệ sạch hoặc trang bị các thiết bị xử lý chất thải; trên 80% cơ sở
sản xuất kinh doanh hiện có đạt tiêu chuẩn môi trường; các đô thị loại IV trở lên
và tất cả các KCN, khu chế xuất có hệ thống xử lý nước thải tập trung, 95% chất
thải rắn thông thường, 85% chất thải nguy hại và 100% chất thải y tế được xử lý
đạt tiêu chuẩn. Cải thiện và phục hồi môi trường các khu vực bị ô nhiễm nặng, chủ
động ứng phó có hiệu quả với BĐKH, đặc biệt là nước biển dâng.
3.1.3. Quan điểm cơ bản về phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi trường
ở Việt Nam giai đoạn 2014-2020
Một là, phát triển kinh tế phải coi trọng bảo vệ và cải thiện môi trường, với
mục tiêu phát triển và hạn chế tác hại của thiên tai, chủ động ứng phó với biến đổi
khí hậu.
Hai là, nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên, bảo vệ môi trường và chống
ô nhiễm môi trường.
Ba là, phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững là xu hướng chủ
đạo ở Việt Nam.
3.2. Giải pháp chủ yếu nhằm đảm bảo phát triển kinh tế gắn với bảo
vệ môi trường ờ Việt Nam giai đoạn 2014-2020
Các giải pháp nhằm đảm bảo PTKT gắn với BVMT cần được xây

dựng trên các nguyên tắc giảm thiểu mâu thuẫn giữa hệ thống kinh tế và hệ
thống môi trường thông qua việc thực hiện mục tiêu hài hoà giữa tăng
trưởng, PTKT với BVMT.
3.2.1. Thay đổi tư duy phát triển và nâng cao nhận thức, ý thức bảo vệ
môi trường
Thay đổi thực sự có tính "đột phá" về tư duy, nhận thức đối với tăng trưởng
và chất lượng TTKT và kiên quyết chấm dứt tư duy, quan điểm muốn tăng cao
GDP thì cứ khai thác tài nguyên đem đi bán. Trong việc lựa chọn và triển khai các
dự án khai thác tài nguyên khoáng sản, đất đai, nước ngọt, rừng phải thực sự


20

nghiêm túc và khoa học trong việc đảm bảo sinh kế của người dân và BVMT. Đã
đến lúc cần chấm dứt tư duy và hành động "kinh tế trước, môi trường sau" sang tư
duy và hành động "đạt các vấn đề tài nguyên và môi trường vào vị trí trung tâm
của các quyết định phát triển".
Đồng thời, cần đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, hình
thành ý thức tự giác BVMT trong nhân dân. Đưa công tác BVMT vào nội dung
sinh hoạt thường xuyên của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, đoàn thể , xã hội, trong
các nhà trường ở các cấp học, đưa công tác BVMT vào công tác thi đua, khen
thưởng, đánh giá thành tích cá nhân, tổ chức, vào hương ước của bản làng, nội quy
cơ quan, đơn vị, tổ chức đoàn thể, xã hội.
Hiện nay, người dân và các tổ chức xã hội là "trụ cột" trong việc tham gia
quản lý xã hội, trong đó có vấn đề giảm thiểu ONMT. Mỗi người dân cần có nhận
thức đúng đắn về vấn đề ONMT và sự tác động của nó đối với cuộc sống của
chính mình, từ đó có ý thức BVMT.
3.2.2. Đối với mô hình tăng trưởng và phát triển kinh tế hướng tới mục
tiêu thân thiện với môi trường
Mô hình tăng trưởng và phát triển đã thực thi ở nước ta mang nặng "tính

chất nâu", nên kinh tế tăng trưởng nhanh, nhưng sự phân hoá giàu nghèo trong xã
hội lại ít được cải thiện; môi trường và chất lượng của các thành phần môi trường
lại xấu đi và suy giảm. Đây là mô hình tăng trưởng, phát triển được thế giới cảnh
báo là không nên theo đuổi. Vì thế, cần phải chuyển đổi tính chất "nâu" trong tăng
trưởng và phát triển hiện nay ở nước ta sang tính chất xanh và bền vững thông qua
điều chỉnh hướng chiến lược, tăng trưởng và PTKT-XH. "Đặc biệt coi trọng chất
lượng, hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển giải quyết hài hoà mối quan hệ
giữa tốc độ và chất lượng tăng trưởng" và "phát triển nhanh gắn liền với PTBV là
yêu cầu xuyên suốt trong chiến lược". Phát triển kinh tế - xã hội phải luôn đi cùng
với bảo vệ và cải thiện môi trường.
Từ đó, giai đoạn 2011-2020 hướng đến phát triển mô hình tăng trưởng bền
vững đến mục tiêu thân thiện với môi trường, đề cao nhiệm vụ bảo vệ và cải thiện
môi trường.
TTKT theo hướng thân thiện với môi trường là TTKT phải đi đôi với sử
dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên, nâng cao khả năng tái sinh tài nguyên, phòng
chống ONMT, có phương án xử lý môi trường, kỹ thuật phòng chống và giải
quyết hệ quả ô nhiễm, có chính sách kinh tế phù hợp áp dụng cho các cơ sở kinh tế
gây ô nhiễm, thực hiện sự tham gia của cộng đồng trong vấn đề này; thực hiện quá
trình đa dạng hoá sinh học,…
Giải pháp chủ yếu để TTKT gắn với thân hiện môi trường là chú trọng phát
triển kinh tế xanh (KTX), với các biện pháp cụ thể:
+ Hoàn thiện và bổ sung thể chế, pháp luật về bảo vệ và chống ONMT.
+ Ban hành các chính sách hỗ trợ phát triển các dự án cải thiện và BVMT,
khắc phục tình trạng ONMT…


21

+ Cải tiến cơ cấu ngành nghề theo hướng hiện đại, công nghệ cao, sạch,
tiêu tốn ít năng lượng và nguyên liệu. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học đổi

mới công nghệ trong ngành công nghiệp; dành một tỷ lệ ngân sách thoả đáng cho
việc nghiên cứu ứng dụng các công nghệ tiên tiến như công nghệ sinh học, công
nghệ vật liệu mới, công nghệ sử dụng năng lượng tái tạo, công nghệ ít chất thải,
công nghệ xử lý ONMT…
+ Phát triển mạnh lĩnh vực dịch vụ môi trường và tái chế chất thải, sản xuất
sản phẩm thân thiện với môi trường sản phẩm xanh, phát triển mạnh các hoạt
động nghiên cứu và chuyển giao công nghệ trong lĩnh vực môi trường và phát
triển nhanh ngành công nghiệp môi trường trở thành ngành kinh tế mũi nhọn góp
phần bảo vệ môi trường.
+ Xây dựng và phát triển lối sống xanh, tiêu dùng xanh.
3.2.3. Nhóm các giải pháp gắn tăng trưởng, phát triển kinh tế với sử
dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên, chống ô nhiễm môi trường
Tài nguyên và môi trường có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong
một hệ sinh thái nhất định, thường gắn với hoạt động kinh tế, tài nguyên là
yếu tố đầu vào của hệ thống kinh tế, có thể đo, đếm, hạch toán được trong sổ
sách kế toán.
Các biện pháp cụ thể sau đây:
Thứ nhất, hoàn thiện và bổ sung thể chế, pháp luật về bảo vệ và chống ô
nhiễm môi trường, bao gồm:
+ Tiếp tục tập trung triển khai, hoàn thiện Luật BVMT và các luật
khác liên quan.
+ Lồng ghép và gắn kết vấn đề môi trường trong quá trình lập kế hoạch
PTKT-XH đất nước.
Thứ hai, sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên
- Tăng cường phát triển khoa học kỹ thuật cao nhằm tận dụng các nguồn tài
nguyên một cách hợp lý, tổng hợp và hiệu quả cao.
- Phát triển công nghiệp theo hướng sản xuất và tiêu dùng bền vững.
- Chuyển đổi cơ cấu sản xuất hàng hoá, xuất khẩu theo hướng hiệu quả và
bền vững, tức là phải tăng dần tỷ trọng hàng hoá xuất khẩu có giá trị kinh tế cao, chất
lượng cao, hàm lượng công nghệ, chất xám cao và giá trị gia tăng lớn, giảm dần việc

xuất khẩu các sản phẩm thô dựa vào lợi thế cạnh tranh về tài nguyên và lao động rẻ
như: dầu thô, than đá, gạo, chè, cà phê, cao su tự nhiên…
+ Khai thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên: khoáng
sản, tài nguyên đất, nước, tài nguyên biển…
3.2.4. Tăng cường quản lý nhà nước trong bảo vệ môi trường
Quản lý môi trường là một lĩnh vực quản lý xã hội, BVMT và các thành
phần của môi trường, phục vụ sự nghiệp PTBV, đồng thời sử dụng hợp lý tài
nguyên thiên nhiên và xã hội.
Quản lý môi trường được thực hiện bằng tổng hợp các biện pháp: luật
pháp, chính sách, kinh tế, kỹ thuật, công nghệ, xã hội, văn hoá, giáo dục…
Các biện pháp này có thể đan xen, phối hợp, tích hợp với nhau tuỳ theo
điều kiện cụ thể của vấn đề đặt ra.
Việc quản lý môi trường được thực hiện ở mọi quy mô: toàn cầu, khu vực,
quốc gia, tỉnh, huyện, cơ sở sản xuất, hộ gia đình…


22

Đối với Việt Nam thực hiện các giải pháp:
Một là, tiếp tục đổi mới, bổ sung, hoàn thiện chính sách pháp luật về
BVMT: Tiến hành rà soát một cách toàn diện hệ thống chính sách, pháp luật trên
các lĩnh vực kinh tế, xã hội; bổ sung, hoàn thiện chính sách pháp luật PTKT-XH
theo hướng đảm bảo hài hoà với thiên nhiên, thân thiện với môi trường, tăng
trưởng xanh theo hướng đảm bảo hài hoà với thiên nhiên, thân thiện với môi
trường, tăng trưởng xanh và PTBV.
Hai là, xây dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá và giám sát môi trường, và
tăng cường hoạt động R&D công nghệ xử lý chất thải, ứng dụng các giải pháp
kiểm soát ô nhiễm bằng cách sử dụng các công nghệ sản xuất tiết kiệm năng
lượng, vật liệu và thân thiện với môi trường.
Ba là, sử dụng công cụ kinh tế tài chính cho công tác BVMT.

- Thuế môi trường: chia thành: (i) Thuế gián thu: đánh vào giá trị sản phẩm
hàng hoá gây ô nhiễm trong quá trình sản xuất; (ii) Thuế trực thu: đánh vào lượng
chất thải độc hại đối với môi trường do cơ sở sản xuất gây ra.
- Phí môi trường: ví dụ như phí xử lý nước thải, khí thải, chôn lấp và phục
hồi môi trường trên bãi rác,… Phí môi trường có vai trò quan trọng nhất trong
kiểm soát ô nhiễm công nghiệp.
- Lệ phí môi trường và phạt ô nhiễm.
Bốn là, đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật
BVMT, đấu tranh phòng chống tội phạm môi trường, tăng cường thực thi chính
sách, pháp luật về BVMT. Kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước và xây dựng và
phát triển nguồn nhân lực chuyên trách BVMT.
3.2.5. Xã hội hoá bảo vệ tài nguyên và môi trường, nâng cao trách
nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong công tác bảo vệ môi trường
3.2.5.1. Xã hội hoá bảo vệ tài nguyên và môi trường, bao gồm: Mở rộng việc
đánh giá hiện trạng BVMT, tài nguyên theo hoạt động của các ngành, tổ chức cơ sở;
nghiên cứu ban hành Luật Cộng đồng BVMT, PTBV và ứng phó với biến đổi khí
hậu; Tạo điều kiện thuận lợi cho cộng đồng chủ động tổ chức hoạt động BVMT và
PTBV; Tăng cường đầu tư cho cộng đồng từ các nguồn kinh phí sự nghiệp.
3.2.5.2. Đề cao trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Việt Nam trong bảo
vệ môi trường, với các biện pháp sau đây:
Một là, nâng cao nhận thức về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
đối với BVMT.
Hai là, mỗi doanh nghiệp cần tuân thủ và thực hiện nghiêm túc các quy
định về BVMT.
Ba là, mỗi doanh nghiệp cần xây dựng và thực thi chiến lược kinh doanh
thân thiện với môi trường.
Bốn là, Nhà nước cần có chính sách ưu đãi về tài chính cho doanh nghiệp
đối với sản phẩm và quá trình sản xuất thân thiện với môi trường.



23

KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu những vấn đề lý luận về phát triển kinh tế và bảo
vệ môi trường ở Việt Nam, luận án đã tìm ra và bổ sung những vấn đề
dưới đây:
(1) PTKT được xem là quá trình gia tăng và tiến bộ về mọi mặt, mọi
phương diện của nền kinh tế. PTKT là quá trình biến đổi cả về lượng và
chất, là sự kết hợp một cách chặt chẽ quá trình hoàn thiện trên các phương
diện kinh tế - xã hội - môi trường của mỗi quốc gia.
Giữa môi trường và sự PTKT có mối quan hệ hết sức chặt chẽ: môi
trường là địa bàn và là đối tượng của sự phát triển, còn phát triển là nguyên
nhân tạo nên sự biến đổi của môi trường. Tác động của sự phát triển đến môi
trường thể hiện ở khía cạnh có lợi và cải tạo môi trường tự nhiên hoặc tạo ra
kinh phí cần thiết cho sự cải tạo đó, nhưng cũng có thể gây ra ONMT. Mặt
khác, môi trường đồng thời cũng tác động đến sự PTKT-XH thông qua việc
làm suy thoái nguồn tài nguyên đang là đối tượng của phát triển hoặc gây ra
thảm hoạ; thiên tai đối với các hoạt động kinh tế xã hội trong khu vực.
(2) Trong thực tiễn PTKT thường lệch pha với vấn đề BVMT. Hệ
thống kinh tế mâu thuẫn với hệ thống môi trường. Vì thế cần có sự gắn kết
chặt chẽ giữa PTKT với BVMT.
Qua nghiên cứu tác giả luận án nhận thấy có 4 nhân tố ảnh hưởng đến
sự gắn kết chặt chẽ giữa PTKT với BVMT, đó là: (1) Mối quan hệ biện
chứng giữa phát triển kinh tế với môi trường và BVMT; (2) Xu hướng
PTBV trên thế giới; (3) Những quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước ta về PTKT gắn với BVMT trong tiến trình PTBV; (4) Thực thi
mô hình tăng trưởng kinh tế.
Tác giả luận án đã bổ sung các hình thức chủ yếu thể hiện sự gắn kết
giữa PTKT với BVMT như: (i) Gắn PTKT với sử dụng có hiệu quả nguồn
tài nguyên và chống ô nhiễm môi trường; (ii) Phát triển kinh tế gắn với thân

thiện môi trường: Phát triển kinh tế xanh, phát triển các ngành kinh tế (nông
nghiệp, công nghiệp, thương mại, dịch vụ) theo hướng hiện đại, công nghệ
cao, sạch tiêu tốn ít năng lượng…; (iii) Lồng ghép và gắn kết các vấn đề môi
trường và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên trong quá
trình xây dựng chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển các ngành và
vùng lãnh thổ.
(3) Thực tế phát triển kinh tế ở nước ta trong thời gian qua cho thấy:
TTKT chủ yếu dựa trên cơ sở thâm dụng tài nguyên và lao động rẻ, tuy có
đem lại nhiều thành tựu về TTKT, song cũng để lại nhiều hệ luỵ về môi
trường - suy thoái, ONMT ngày càng nặng nề, đe doạ sự PTBV của quốc
gia. Nếu giai đoạn 2011-2020, xu thế này vẫn tiếp diễn, tức là lĩnh vực tài
nguyên và môi trường vẫn tiếp tục lạc hậu và ngày càng xa so với các lĩnh


24

vực kinh tế, xã hội, thậm chí không đạt mục tiêu về BVMT thì đất nước
không thể PTBV được. Vì vậy cần có những giải pháp có tính khả thi đảm
bảo thực hiện mục tiêu phát triển hài hoà giữa PTKT với BVMT.
Để PTKT gắn với BVMT một cách bền vững cần thực hiện nhiều giải
pháp đồng bộ, hiệu quả. Có thể kể đến một số giải pháp cơ bản nhất: Thay
đổi tư duy phát triển và nhận thức, ý thức BVMT; Đổi mới mô hình tăng
trưởng và PTKT hướng tới mục tiêu thân thiện với môi trường; Các giải
pháp gắn tăng trưởng, PTKT với sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên, chống
ONMT; Tăng cường quản lý nhà nước trong BVMT; Xã hội hoá bảo vệ tài
nguyên và môi trường, nâng cao trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong
công tác BVMT.
Thực hiện gắn kết giữa PTKT với BVMT là một trụ cột quan trọng
trong PTBV. Ở tầm vĩ mô, đó còn là nội dung có ý nghĩa chiến lược trong sự
nghiệp đi lên CNXH ở nước ta hiện nay. Trong điều kiện thực tế về tăng

trưởng, PTKT với BVMT đang hiện hữu ở Việt Nam hiện nay, thì việc sử
dụng đồng bộ các giải pháp trên sẽ đem lại hiệu quả cao nhất, đảm bảo cho
kinh tế tăng trưởng dựa trên việc khai thác hợp lý tài nguyên thiên nhiên,
giúp môi trường được tái tạo và phục hồi. Đó cũng là yêu cầu về PTBV mà
thế giới đương đại đặt ra cho mọi quốc gia dân tộc.



×