Tải bản đầy đủ (.doc) (66 trang)

Tìm hiểu phần ngữ pháp trong bộ SGK ngữ văn THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (312.9 KB, 66 trang )

Trờng đại học vinh
Khoa ngữ văn
=== ===

lê thị hồng nhung

tìm hiểu phần ngữ pháp
trong bộ sgk ngữ văn thpt

khóa luận tốt nghiệp đại học

Vinh, 2009


Khãa luËn tèt nghiÖp

2

Trêng §¹i häc Vinh

=  =

Sinh viªn: Lª ThÞ Hång Nhung

Líp: 46B2 - Ng÷ v¨n


Trờng đại học vinh
Khoa ngữ văn
=== ===


Khóa luận tốt nghiệp đại học

tìm hiểu phần ngữ pháp
trong bộ sgk ngữ văn thpt

Chuyên ngành: ngôn ngữ

Giáo viên hớng dẫn:

TS. đặng lu

Sinh viên thực hiện:

lê thị hồng nhung

Lớp:

46B2 - Văn

Vinh, 2009


Khãa luËn tèt nghiÖp

4

Trêng §¹i häc Vinh

=  =


Sinh viªn: Lª ThÞ Hång Nhung

Líp: 46B2 - Ng÷ v¨n


Lời nói đầu
Lời đầu tiên cho phép em đợc bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy
cô giáo trong chuyên ngành ngôn ngữ cùng các thầy cô giáo Khoa Ngữ văn Trờng Đại học Vinh, những ngời đã dạy dỗ, truyền đạt kiến thức và dìu dắt
em trởng thành trong suốt khoa học vừa qua.
Đặc biệt, em xin trân trọng gửi lời cảm ơn tới thầy - Tiến sĩ Đặng Lu,
ngời đã nhiệt tình hớng dẫn và dành nhiều công sức giúp em hoàn thành tiểu
luận này.
Do thời gian nghiên cứu có hạn nên kết quả đạt đợc mới chỉ là bớc đầu,
khó tránh khỏi những thiếu sót. Vậy nên, em rất mong nhận đợc các ý kiến
đóng góp của thầy cô cùng các bạn để đề tài ngày càng hoàn thiện hơn.
Vinh, tháng 4 năm 2009
Sinh viên

Lê Thị Hồng Nhung


Mục lục
Trang
Mở đầu....................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài...................................................................................1
2. Lịch sử vấn đề.......................................................................................2
3. Đối tợng, nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu.....................................5
4. Phơng pháp nghiên cứu.......................................................................6
5. Cấu trúc luận văn.................................................................................6
Nội dung................................................................................................7

Chơng 1: Tổng quan về phần tiếng việt trong bộ sgk
ngữ văn thpt cơ bản.......................................................................7
1.1. Những quan điểm mới trong biên soạn SGK Ngữ văn.................7
1.2. Vài nét về bộ sách Ngữ văn THPT cơ bản...................................14
1.3. Phần tiếng Việt trong bộ SGK Ngữ văn THPT cơ bản..............19
Tiểu kết.....................................................................................................22
Chơng 2: Nội dung phần ngữ pháp trong bộ sgk ngữ
văn thpt cơ bản..............................................................................24
2.1. Vị trí của phần ngữ pháp trong bộ SGK Ngữ văn THPT cơ bản
...................................................................................................................24
2.2. Định hớng chơng trình....................................................................24
2.3. Tri thức trong các bài ngữ pháp....................................................25
2.3.1. Những vấn đề lí thuyết về ngữ pháp..............................................26
2.3.2. Những nội dung thực hành về ngữ pháp........................................30
2.4. Tri thức ngữ pháp trong các bài có liên quan.............................33
2.4.1. Tri thức ngữ pháp trong loạt bài về các phong cách chức năng...33


Khóa luận tốt nghiệp

7

Trờng Đại học Vinh

2.4.2. Tri thức ngữ pháp trong bài Những yêu cầu về sử dụng tiếng Việt
...............................................................................................................37
2.4.3. Tri thức ngữ pháp trong bài Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt
...............................................................................................................39

Sinh viên: Lê Thị Hồng Nhung


Lớp: 46B2 - Ngữ văn


2.4.4. Tri thức ngữ pháp trong Đọc - hiểu văn bản.................................40
2.4.5. Tri thức ngữ pháp trong Làm văn..................................................42
Tiểu kết.....................................................................................................44
Chơng 3: Nhận xét về phần ngữ pháp trong bộ sgk ngữ
văn thpt cơ bản..............................................................................45
3.1. Về dung lợng, trọng tâm, tính khoa học của tri thức ngữ pháp45
3.2. Về tính hệ thống của tri thức ngữ pháp.......................................49
3.3. Về tính kế thừa và phát triển của tri thức ngữ pháp..................50
3.4. Về khả năng vận dụng tri thức ngữ pháp....................................51
Tiểu kết.....................................................................................................52
Kết luận...............................................................................................53
Tài liệu tham khảo.......................................................................55


Khóa luận tốt nghiệp

9

Trờng Đại học Vinh

Mở đầu
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Cũng nh những bình diện khác (ngữ âm, từ vựng, phong cách), ngữ
pháp chiếm một vai trò không thể thay thế đợc trong hệ thống ngôn ngữ. Nó
chi phối mạnh mẽ việc sử dụng các đơn vị ngôn ngữ để tạo thành lời nói, làm
cho ngôn ngữ thực hiện đợc chức năng là công cụ giao tiếp trong đời sống xã

hội. Ngữ pháp cũng có vai trò quan trọng trong việc tổ chức hoạt động tạo lập
và lĩnh hội văn bản. Vì vậy, dạy ngữ pháp đã trở thành một nhiệm vụ không
thể thiếu trong nhà trờng phổ thông.
1.2. ngữ pháp tiếng Việt đợc dạy từ các lớp của bậc tiểu học, qua các lớp
của Trung học cơ sở và đến các lớp của Trung học phổ thông. Đi vào tìm hiểu,
ta thấy, chơng trình ngữ pháp tiếng Việt ở trờng Trung học phổ thông tập trung
vào phần cú pháp, nghĩa là phần ngữ pháp ở bậc câu. Các vấn đề thuộc về từ
pháp, từ loại và cụm từ đã đợc giải quyết ở các lớp dới, nên không trực tiếp đề
cập đến trong nội dung chơng trình, tuy rằng vẫn liên quan đến cú pháp. Nh
vậy, đây là một trong những nội dung quan trọng của chơng trình tiếng Việt,
đòi hỏi phải đợc nghiên cứu kĩ lỡng từ nhiều góc độ.
1.3. ở sách giáo khoa Tiếng Việt THPT chỉnh lý hợp nhất năm 2000,
phần câu đợc dạy một cách có hệ thống nhng lại nặng về tính hàn lâm, quá coi
trọng lý thuyết. Xu hớng dạy học tiếng mẹ đẻ hiện nay trên thế giới là chú
trọng hớng vào hoạt động giao tiếp, chú trọng mặt hành chức của ngôn ngữ.
Việc ra đời chơng trình Ngữ văn THPT mới đáp ứng đợc nhu cầu cấp thiết đó.
Một trong những thay đổi quan trọng nhất của chơng trình và sách giáo
khoa THPT môn Ngữ văn lần này là việc biên soạn hai bộ sách theo hai mức
độ khác nhau. Sách biên soạn theo chơng trình chuẩn gọi là Ngữ văn cơ bản,
sách biên soạn theo chơng trình nâng cao gọi là Ngữ văn nâng cao. Trong đó
sách Ngữ văn cơ bản đựơc xác định là mặt bằng kiến thức, dành cho những
học sinh thi tốt nghiệp THPT và đợc sử dụng rộng rãi trong các nhà trờng. Do

Sinh viên: Lê Thị Hồng Nhung

Lớp: 46B2 - Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp


10

Trờng Đại học Vinh

công việc biên soạn lại SGK mới đợc tiến hành, có nhiều đổi mới về nội dung,
thế nhng thời gian áp dụng vào thực tế dạy học còn ngắn, chắc chắn nhiều vấn
đề cần phải đợc thảo luận, rút kinh nghiệm. Xuất phát từ những lí do đó,
chúng tôi chọn đề tài: Tìm hiểu phần ngữ pháp trong bộ sách
giáo khoa ngữ văn THPT cơ bản cho khóa luận tốt nghiệp đại học
của mình.
2. Lịch sử vấn đề
Nhận thức đợc vị trí quan trọng của môn Tiếng Việt trong nhà trờng, từ
năm 1980 đến nay, phần ngữ pháp tiếng Việt đợc đặc biệt coi trọng. Theo đó
đã xuất hiện nhiều bài viết bàn về vấn đề dạy ngữ pháp trong nhà trờng, cụ thể
hơn là ở góc độ câu.
Trong bài Một số vấn đề dạy ngữ pháp ở nhà trờng (in trong cuốn
Những vấn đề ngữ pháp tiếng Việt hiện đại), Lê Cận đã nghiên cứu ngữ pháp
theo quan điểm thực hành giao tiếp, dới ánh sáng của lý thuyết hoạt động lời
nói. Ông cho rằng: câu là trung tâm của ngữ pháp, đơn vị ngữ pháp mà sự liên
kết tạo nên văn bản phục vụ cho mục đích giao tiếp. Tác giả khẳng định: một
trong những vấn đề chủ yếu trong việc nghiên cứu câu là cấu trúc của câu và
chức năng của các thành phần tạo nên câu, trên cơ sở đó mà tìm hiểu chức
năng ngữ pháp trong câu tiếng Việt [18, tr. 50 - 56]. Nh vậy, theo quan điểm
của Lê Cận, ngữ pháp cần dạy học ở nhà trờng chủ yếu phục vụ cho mục đích
giao tiếp. Ông đã đặt việc dạy học ngữ pháp vào trong hoạt động hành chức
của nó.
Nhóm tác giả: Lê A - Nguyễn Quang Ninh - Bùi Minh Toán trong cuốn
Phơng pháp dạy học tiếng Việt cũng quan tâm tới việc tìm hiểu vấn đề này.
Theo các tác giả, nội dung phần ngữ pháp trong chơng trình và sách giáo khoa
Tiếng Việt ở Trung học phổ thông đề cập đến ba vấn đề ở bậc câu: cấu tạo ngữ

pháp, sự liên kết trong văn bản và bình diện ngữ nghĩa [1, tr. 126].

Sinh viên: Lê Thị Hồng Nhung

Lớp: 46B2 - Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp

11

Trờng Đại học Vinh

Có thể thấy: nhóm tác giả này đã đi vào ba mảng lớn trong phần ngữ
pháp ở bậc Trung học phổ thông. Nhìn chung, hớng nghiên cứu này rất sát với
chơng trình và sách giáo khoa tiếng Việt.
Trong Sổ tay tiếng Việt phổ thông trung học, Đinh Trọng Lạc đã đề cập
đến nội dung phần ngữ pháp tiếng Việt theo hớng hệ thống hoá một cách ngắn
gọn các kiến thức cơ bản, để giúp các em học sinh phổ thông trung học có tài
liệu học tốt môn Tiếng Việt.
Tác giả đã cho chúng ta có một cái nhìn sơ giản, dễ hiểu về câu với các
phơng diện nh:
Định nghĩa câu
Thành phần câu
Phân loại câu (dựa vào cấu trúc và dựa vào mục đích nói
năng)
Các phép tu từ cú pháp:

- Phép liên kết
- Phép nối

- Phép lặp
- Phép thế
- Phép liên tởng

Ngữ nghĩa của câu:

- Phát ngôn
- ý nghĩa mệnh đề
- ý nghĩa tình thái
- Nghĩa hiển ngôn
- Tiền giả định
- Nghĩa hàm ngôn
[17, tr. 49-78].

Qua những gì nêu trên, có thể thấy: các nhà nghiên cứu đã có sự quan
tâm đúng mức tới vấn đề câu. Với hớng đi này, các tác giả đã chứng tỏ đợc

Sinh viên: Lê Thị Hồng Nhung

Lớp: 46B2 - Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp

12

Trờng Đại học Vinh

vai trò của câu trong hoạt động giao tiếp xã hội. Tuy nhiên, đây là các công
trình nghiên cứu với SGK Tiếng Việt, còn với SGK Ngữ văn mới thì vấn đề

này cha đợc tìm hiểu nhiều. Điều này đợc lý giải bởi rất nhiều lý do khác
nhau:
Trớc hết cần phải thấy rằng: chơng trình và sách giáo khoa Ngữ văn
THPT còn mới. Nó mới chỉ đợc hoàn chỉnh vào tháng 9 - 2008 khi bộ sách
giáo khoa Ngữ văn 12 xuất bản. Bởi vậy, cha có công trình nghiên cứu nào
đi sâu vào vấn đề nội dung phần ngữ pháp trong sách giáo khoa Ngữ văn
tích hợp.
Xung quanh chơng trình Ngữ văn tích hợp đã có một số bài viết quan
tâm đến vấn đề nội dung phần ngữ pháp, nhng các tác giả mới chỉ quan tâm
đến những vấn đề có tính chất vĩ mô, còn những vấn đề cụ thể trong chơng
trình lại cha đợc nghiên cứu. Tuy nhiên, những bài viết khoa học dới góc nhìn
sơ thảo này đã tạo tiền đề cho những ngời nghiên cứu đi sau. Có thể kể đến
một số bài nghiên cứu sau:
Đặng Lu với bài viết: Để dạy học tốt phần Tiếng Việt trong sách giáo
khoa Ngữ văn THPT (bộ mới) trong Kỷ yếu hội thảo khoa học dạy ngữ văn ở
trờng phổ thông theo chơng trình và sách giáo khoa mới, đã đa ra một số nhận
xét về chơng trình ngữ văn mới nói chung và phần Tiếng Việt nói riêng. Theo
tác giả: Sách Tiếng Việt thuộc chơng trình cũ rất chú trọng đến tính hệ thống
của các vấn đề trong nội bộ một cấp độ cũng nh giữa các cấp độ ngôn ngữ,
trong khi điều này không đợc chú ý nhiều ở chơng trình và SGK Ngữ văn 10
hiện hành [13, tr.167]. Tác giả cũng khẳng định thêm: Rất nhiều nội dung
có mặt trong SGK mới, thoạt nhìn có vẻ đơn giản, song xét kỹ chúng có sự
liên đới với những tri thức, những quan điểm, thậm chí những trờng phái
nghiên cứu chuyên ngành, không chỉ ở Việt Nam mà cả trên thế giới, bởi vì
chính những thành tựu về ngôn ngữ học và Việt ngữ học đã góp phần chi phối
việc lựa chọn tri thức tiếng Việt trong xây dựng chơng trình ngữ văn. Một ví

Sinh viên: Lê Thị Hồng Nhung

Lớp: 46B2 - Ngữ văn



Khóa luận tốt nghiệp

13

Trờng Đại học Vinh

dụ: việc dạy tiếng Việt gắn với hoạt động giao tiếp chính là hớng đi phổ biến
trên thế giới hiện nay [13, tr. 169].
Lê Hơng Giang trong bài Sách giáo khoa Ngữ văn 10 - đôi điều cảm
nhận, đã viết: Phần tiếng Việt và Làm văn đợc biên soạn theo hớng thực
hành. Tuy nhiên nếu so với mục tiêu cần đạt, thì thời lợng dành cho từng bài
thật khiêm tốn khó mà đạt đợc yêu cầu bài học. Phần luyện tập vốn có vị trí
quan trọng trong các bài học tiếng Việt và Làm văn, trên thực tế giáo viên đều
phải lớt nhanh vì không đủ thời gian. Nếu giáo viên chọn một bài hớng dẫn kỹ
cho học sinh thực hành, thì cũng chỉ đạt đợc một trong những yêu cầu của bài
học mà thôi [13, tr. 86].
Trong cuốn Tìm hiểu chơng trình và sách giáo khoa Ngữ văn THPT,
Đỗ Ngọc Thống cũng đã đề cập đến những nội dung đổi mới của chơng trình
Ngữ văn THPT nói chung và phần Tiếng Việt nói riêng. Tác giả khẳng định:
Chơng trình Tiếng Việt hiện hành tuy đã có điều chỉnh nhng vẫn khá nặng
nề. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, nhìn chung hiệu quả dạy học tiếng Việt
trong nhà trờng còn thấp, năng lực sử dụng tiếng Việt của HS, kể cả sinh viên
đại học còn nhiều hạn chế. Chơng trình ngữ văn mới đề cao phần Tiếng Việt
bằng cách coi trọng tính ứng dụng, vai trò và tác dụng của tiếng Việt trong
việc giúp HS đọc - hiểu và tạo lập văn bản. Tất cả các tri thức về từ vựng, ngữ
pháp, tu từ, văn bản, phong cách... đều đợc gắn với việc đọc - hiểu văn bản,
qua đó mà ôn lại, củng cố hoặc nâng cao [37, tr. 12-13].
Có thể thấy: chơng trình và SGK Ngữ văn THPT mới đợc hoàn chỉnh, nên

các tác giả cha có điều kiện và thời gian để đi sâu nghiên cứu tìm hiểu những nội
dung cụ thể của phần ngữ pháp. Trớc yêu cầu cấp bách của thực tiễn dạy học,
chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài này để nghiên cứu. Mong rằng, công trình của
chúng tôi sẽ cung cấp một phần tài liệu giúp cho việc nâng cao chất lợng dạy và
học ngữ pháp tiếng Việt trong nhà trờng phổ thông hiện nay.
3. Đối tợng, nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu
3.1. Đối tợng nghiên cứu

Sinh viên: Lê Thị Hồng Nhung

Lớp: 46B2 - Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp

14

Trờng Đại học Vinh

Luận văn sẽ tập trung khảo sát các bài về ngữ pháp trong bộ sách giáo
khoa Ngữ văn THPT thuộc chơng trình cơ bản.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.2.1. Đề tài này sẽ tiến hành tìm hiểu tổng quan về phần Tiếng Việt
trong bộ SGK Ngữ văn THPT cơ bản.
3.2.2. Tiến hành khảo sát, thống kê nội dung phần ngữ pháp trong bộ
sách giáo khoa Ngữ văn THPT cơ bản, qua đó, có cách nhìn đầy đủ, khoa học
về những kiến thức của phần ngữ pháp đợc dạy học trong chơng trình.
3.2.3. Đa ra những nhận xét về phần ngữ pháp trong bộ SGK Ngữ văn
cơ bản.
3.3. Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của đề tài là chỉ ra những đặc điểm về nội dung
phần ngữ pháp trong bộ SGK Ngữ văn, giúp giáo viên và học sinh giải quyết
những vớng mắc có thể nảy sinh trong quá trình thực hiện chơng trình mới.
4. Phơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi đã sử dụng các phơng pháp nghiên
cứu sau:
Phơng pháp khảo sát - thống kê - phân loại
Phơng pháp so sánh đối chiếu
Phơng pháp phân tích tổng hợp
5.

Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung của luận văn đựơc triển khai ở

ba chơng:
Chơng 1: Tổng quan về phần Tiếng Việt trong bộ SGK Ngữ văn THPT cơ bản
Chơng 2: Nội dung phần ngữ pháp trong bộ sgk ngữ văn thpt cơ bản
Chơng 3: Nhận xét về phần ngữ pháp trong bộ sgk ngữ văn thpt cơ bản
Sau cùng là Tài liệu tham khảo.

Sinh viên: Lê Thị Hồng Nhung

Lớp: 46B2 - Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp

15

Trờng Đại học Vinh


Chơng 1
tổng quan về phần tiếng việt
trong bộ sgk ngữ văn cơ bản
1.1. Những quan điểm mới trong biên soạn SGK Ngữ văn
1.1.1. Những yêu cầu về việc đổi mới chơng trình và SGK Ngữ văn
Sau năm 1975, chơng trình và SGK môn Văn - Tiếng Việt đợc tiến hành
cải cách, từ năm 1980 cho đến 1992 đã xong một vòng. Trong 12 năm ấy,
sách giáo khoa THCS bắt đầu viết năm 1985 và mãi đến năm 1999 (sau 10
năm) mới chỉnh lý. Sách THPT đợc biên soạn từ năm 1990 cho đến năm 2000
(sau 10 năm) mới tiến hành hợp nhất 2 bộ sách làm một. Nh thế, trong vòng
hàng chục năm, sách giáo khoa môn văn chỉ in tái bản chứ không phải viết
lại hoặc bổ sung, chỉnh lý. Nghĩa là không có gì thay đổi trừ 2 bài đối với
SGK Văn học lớp 12 đợc biên soạn lại năm 1995 theo yêu cầu của cấp trên.
Tuy nhiên, SGK Văn - Tiếng Việt chỉnh lý THCS năm 1995 và SGK hợp nhất
THPT năm 2000 không khác trớc là mấy. Mãi đến năm 2000 (sau 15 năm) chơng trình Ngữ văn THCS mới thật sự có những thay đổi lớn. Sự đổi mới chơng
trình và SGK mới của giáo dục phổ thông lần này là hoàn toàn cần thiết, bởi
những lý do cơ bản sau:
Thứ nhất, giai đoạn phát triển mới của đất nớc đòi hỏi đổi mới chơng
trình giáo dục phổ thông. Đó là giai đoạn đất nớc bớc sang thời kỳ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá; giai đoạn chuyển đổi từ cơ chế tập trung bao cấp
sang kinh tế có sự chi phối của cơ chế thị trờng; từ kinh tế nông nghiệp sang
kinh tế công nghiệp và kinh tế tri thức. Yếu tố quyết định cho sự thành công
của sự nghiệp ấy là con ngời. Vì vậy phải chăm lo phát triển con ngời. Nhà trờng phải thay đổi nội dung, phơng pháp giáo dục để chuẩn bị cho xã hội một
lớp ngời lao động mới, có những năng lực và phẩm chất phù hợp với yêu cầu
của đất nớc trong thời kỳ mới.

Sinh viên: Lê Thị Hồng Nhung

Lớp: 46B2 - Ngữ văn



Khóa luận tốt nghiệp

16

Trờng Đại học Vinh

Thứ hai, xu thế phát triển chơng trình và đổi mới quan niệm về SGK
phổ thông của các nớc trong khu vực và trên thế giới buộc Việt Nam phải đổi
mới. Xu thế giáo dục ấy đã đợc UNESCO đề xớng với bốn trụ cột: học để biết,
học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình. Theo tinh thần
này, chơng trình và SGK các nớc phát triển rất coi trọng thực hành, vận dụng,
nội dung tích hợp đợc nhiều mặt. SGK trở thành tài liệu định hớng cho học
sinh tự tìm hiểu, tự học, tự phát hiện, tự chiếm lĩnh tri thức mới.
Thứ ba, chơng trình và SGK hiện hành đã hoàn thành nhiệm vụ của giai
đoạn thống nhất hệ thống giáo dục phổ thông, song đến nay đã bộc lộ những
bất cập trớc những yêu cầu mới về mục tiêu, nội dung và phơng pháp.
Bộ SGK phổ thông (từ lớp 1 đến lớp 12) hiện hành đợc biên soạn từ
những năm 1980 - 1981, có nhiều u điểm nhng cũng khó tránh khỏi những
hạn chế, bất cập, nhất là đặt trong tình hình phát triển của xã hội hiện nay.
Cần khẩn trơng soạn thảo, thực hiện chơng trình, SGK mới theo Luật Giáo dục
(1998) và theo các nghị quyết của Quốc hội, Đảng, Nhà nớc để tạo nên chất lợng mới cho giáo dục.
Ngoài ra còn có các lý do khác buộc phải đổi mới chơng trình, SGK môn
Văn - Tiếng Việt.
Thứ nhất, đối tợng giáo dục đã thay đổi. Học sinh bậc THCS, THPT
những năm đầu thế kỉ XXI so với những năm 80 hoặc những năm trớc nữa là
rất khác nhau. Do môi trờng xã hội thay đổi, những tri thức và văn hoá phổ
thông hiện nay các em tiếp thu đợc từ nguồn thông tin khác nhau rất cao, đa
dạng, phong phú hơn nhiều so với những năm trớc đây, chính vì thế nhu cầu

của ngời học cũng rất khác trớc. Thêm vào đó là các yếu tố thể chất, tâm sinh
lý lứa tuổi của học sinh đầu thế kỷ này cũng đã thay đổi; nhiều quan niệm về
lối sống, đạo đức, quan niệm về các giá trị tinh thần và vật chất của học sinh
cũng thay đổi...Nh vậy, không thể không thay đổi nội dung, phơng pháp giáo
dục một khi đối tợng giáo dục đã thay đổi.

Sinh viên: Lê Thị Hồng Nhung

Lớp: 46B2 - Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp

17

Trờng Đại học Vinh

Thứ hai, những năm gần đây, thành tựu nghiên cứu của ngành khoa học xã
hội nhân văn, của lí luận dạy học bộ môn trong nhà trờng đã có nhiều đổi mới.
Những quan điểm và phơng pháp nghiên cứu, phơng pháp tiếp cận mới đã đem
đến cho khoa nghiên cứu văn học, phê bình văn học, lịch sử văn học, ngôn
ngữ học, Việt ngữ học... những sức sống mới. Nhiều thành tựu mới đợc khẳng
định, nhiều giá trị cũ đợc xem xét và đánh giá lại, không ít điều đã trở nên bất
cập, lạc hậu... cần loại bỏ. Chơng trình và SGK phổ thông không thể không
tiếp cận với sự thay đổi mới.
Nh vậy, vấn đề quan trọng nhất là chơng trình và SGK Ngữ văn thay đổi
nh thế nào chứ không phải có nên thay đổi hay không. Điều này sẽ đợc làm rõ
khi đi vào tìm hiểu những quan điểm mới trong việc biên soạn SGK Ngữ văn.
1.1.2. Những quan điểm mới trong biên soạn SGK Ngữ văn
Nh chúng ta đã biết, chơng trình và SGK Ngữ văn đợc xây dựng trên cơ

sở kế thừa những thành tựu của ngành văn học, ngôn ngữ học, tâm lý học, giáo
dục học, các thành tựu khoa học khác... đặc biệt là thành tựu của ngành phơng
pháp dạy học văn và tiếng mẹ đẻ theo những quan điểm mới về giáo dục,
nhằm hớng tới sự cập nhật với xu thế giáo dục hiện đại và những yêu cầu cấp
thiết của việc đào tạo nguồn nhân lực cho đất nớc trong những năm đầu thế kỉ
XXI. Điểm nổi bật trong việc biên soạn SGK Ngữ văn nói chung là sự vận
dụng hai quan điểm: tích hợp các nội dung học tập và tích cực hoá hoạt động
học tập của học sinh.
1.1.2.1. Tính tích hợp
Một đất nớc văn minh tiến bộ, trớc hết đất nớc ấy phải có nền giáo dục
khoa học hiện đại và u việt. ý thức đợc vai trò quan trọng của giáo dục trong
việc đào tạo nhân tài, góp phần đẩy mạnh sự phát triển nền kinh tế n ớc nhà,
mấy năm gần đây, nớc ta đã có sự đổi mới về nội dung, cũng nh phơng pháp,
quan điểm giảng dạy trong nhà trờng. Cùng với những bộ môn khác, môn
Ngữ văn có sự thay đổi lớn, trong đó quan điểm tích hợp đợc coi là thế mạnh

Sinh viên: Lê Thị Hồng Nhung

Lớp: 46B2 - Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp

18

Trờng Đại học Vinh

và cũng là u điểm lớn để giúp học sinh hệ thống hoá kiến thức một cách
vững chắc. Đây cũng là một nét mới trong việc biên soạn SGK Ngữ văn.
Hiểu một cách chung nhất, tích hợp là tạo ra mối quan hệ liên thông

giữa các phân môn bằng cách lựa chọn các đơn vị tri thức, các đơn vị bài học,
có thể phối hợp, tơng tác lẫn nhau một cách hiệu quả nhất. tích hợp đợc thực
hiện theo hai dạng, đó là tích hợp theo chiều dọc và chiều ngang. Cụ thể:
+ Tích hợp theo chiều ngang là sự tích hợp thể hiện mối quan hệ, sự liên
thông giữa đơn vị tri thức ở bộ môn này với tri thức ở bộ môn khác. Theo quan
điểm này, các phân môn Tiếng Việt, Đọc - hiểu và Làm văn trớc đây ít gắn bó
với nhau, nay đợc tập hợp xung quanh trục chủ điểm và các bài học. Các
nhiệm vụ cung cấp kiến thức và rèn luyện kỹ năng cũng gắn bó chặt chẽ với
nhau hơn trớc.
+ Tích hợp theo chiều dọc là sự tích hợp ở một đơn vị kiến thức và kỹ
năng mới với những kiến thức và kỹ năng đã học trớc đó theo nguyên tắc đồng
tâm. Cụ thể: kiến thức và kỹ năng của lớp trên, bậc học trên bao hàm kiến thức
và kỹ năng của lớp học dới, bậc học dới nhng cao hơn và sâu hơn. Đây là giải
pháp củng cố và dần dần nâng cao kiến thức, kỹ năng của học sinh, để các
kiến thức và kỹ năng ấy thực sự là của mỗi ngời học, góp phần hình thành ở
các em những phẩm chất mới của nhân cách.
Có thể nói: tích hợp là một quan điểm s phạm đã trở thành xu hớng
chung của nhiều nớc trên thế giới có nền giáo dục tiên tiến (Mĩ, Pháp, Trung
Quốc, Đức, Nhật...). Thực hiện quan điểm tích hợp trong việc biên soạn SGK
Ngữ văn là góp phần giải quyết những bài toán muôn thuở của giáo dục nh:
mâu thuẫn giữa khối lợng khổng lồ của tri thức văn minh nhân loại đang ngày
một tăng lên vùn vụt và thời gian học của học sinh ngày càng ít do sự chi phối
bởi nhiều nhu cầu của cuộc sống hiện đại; mâu thuẫn giữa việc ngời học
không đợc học thật sự mà ngời dạy học thay; mâu thuẫn giữa học (nhận thức)

Sinh viên: Lê Thị Hồng Nhung

Lớp: 46B2 - Ngữ văn



Khóa luận tốt nghiệp

19

Trờng Đại học Vinh

và hành (hoạt động) của ngời học... Việc tích hợp trong biên soạn SGK Ngữ
văn đợc thể hiện trên các phơng diện cụ thể:
Thứ nhất là khâu tổ chức biên soạn: Quan điểm mới trong tổ chức biên
soạn SGK là tổ chức một đội ngũ các nhà khoa học có một tổng chủ biên, có
ba chủ biên phụ trách ba phân môn khác nhau (Đọc - hiểu, Tiếng Việt và
Làm văn).
Thứ hai là tên môn học đợc thay đổi. Nh chúng ta đã biết, môn học này
ở chơng trình và SGK cũ có tên là Văn học - Tiếng Việt - Làm văn (tên của ba
phân môn ghép lại). Tơng ứng với tên gọi trên là ba bộ sách: Văn học, Tiếng
Việt và Làm văn đợc biên soạn một cách độc lập. Nay theo quan điểm tích
hợp, môn học này gọi là Ngữ văn và SGK đợc biên soạn cũng chỉ còn một
cuốn, chung cho cả ba phân môn.
Thứ ba là sự gắn kết, phối hợp các lĩnh vực tri thức gần nhau của các
phân môn Văn, Tiếng Việt, Làm văn. Theo tinh thần này, mỗi phân môn Văn
học, Tiếng Việt, Làm văn chỉ là một hợp phần trong môn học Ngữ văn nhng
giữa chúng có mối liên hệ rất chặt chẽ, hỗ trợ cho nhau. Do vậy, sự sắp xếp
các bài học trong sách là một chuỗi liên tục, phối hợp cả ba hợp phần. Trong
đó, hợp phần văn học (phần đọc văn) cung cấp tri thức về lịch sử, thể loại và
các văn bản, tri thức về phơng pháp đọc - hiểu. Còn hợp phần Tiếng Việt và
Làm văn giúp học sinh học và rèn luyện các năng lực biểu đạt, đặc biệt là các
năng lực nói và viết - năng lực sản sinh văn bản.
Có thể thấy, ở cả ba cấp học phổ thông, nội dung các bộ SGK đều bao
gồm ba phân môn: Tiếng Việt, Văn, Làm văn và đều đợc biên soạn theo quan
điểm tích hợp. Tuy nhiên, tỉ lệ nội dung của ba phân môn cũng nh mức độ và

cách thức tích hợp thì khác nhau. Đối với cấp tiểu học, học sinh tập trung học
tiếng Việt là chủ yếu, còn văn học chỉ làm ngữ liệu để dạy tiếng. Nh thế là đã
dạy học theo quan điểm tích hợp, nhng trục tích hợp ở đây dựa vào bốn kỹ
năng cơ bản: nghe, nói, đọc, viết. Lên cấp THCS, quan điểm tích hợp vẫn đợc

Sinh viên: Lê Thị Hồng Nhung

Lớp: 46B2 - Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp

20

Trờng Đại học Vinh

thực hiện, nhng trục tích hợp là kiểu văn bản với các hình thức cơ bản nh: tự
sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh, lập luận. Ngoài ra còn cung cấp cho học
sinh loại văn bản hành chính công vụ nh: th tín, biên bản, hợp đồng, báo cáo...
Đến cấp THPT, trục tích hợp là các thể loại tác phẩm đặt ra ở từng giai đoạn
của lịch sử văn học. Để đọc - hiểu tốt các tác phẩm, sách cung cấp cho học
sinh những công cụ giúp khám phá và tiếp nhận tốt các tác phẩm văn chơng
theo các thể loại cụ thể của từng thời kỳ.
Đây là cách biên soạn SGK văn học của nhiều nớc. Cộng hoà Pháp
chẳng hạn: học sinh lớp 10 ở Pháp học năm thế kỷ văn học (từ thế kỷ XVI đến
thế kỷ XX), lên lớp 11 học lại 5 thế kỷ văn học ấy, nhng không trùng lặp, vì
mỗi lớp khai thác theo các thể loại tác phẩm khác nhau. Và để giúp học sinh,
SGK văn học của Pháp đã cung cấp cho học sinh một hệ thống các công cụ
đọc - hiểu văn bản rất cơ bản và phong phú. Ví dụ, cũng là văn học thế kỷ
XVII nhng ở lớp 10 các tác phẩm đợc lựa chọn để làm sáng tỏ cho các phạm

trù nh: nghệ thuật Ba - rốc; ngôn ngữ và sáng tạo; văn lập luận; bi kịch; thơ
ngụ ngôn; chủ nghĩa cổ điển... Lên lớp 11, vẫn là văn học thế kỷ XVII nhng
các tác phẩm, tác giả lại đợc lựa chọn để làm sáng tỏ cho các phạm trù nh:
cách viết th tín; nhân vật của tiểu thuyết. Cứ nh thế mỗi thế kỷ văn học, học
sinh đợc cung cấp một số phạm trù nh là công cụ để khám phá tác phẩm văn
học của thế kỷ đó. Xem xét bộ SGK Văn học của Pháp, có thể thấy các soạn
giả đã rất chú ý đến việc hình thành và rèn luyện phơng pháp học, phơng pháp
đọc - hiểu và tiếp nhận tác phẩm cho học sinh [37, tr. 34-35].
Qua đây, có thể thấy rằng: biên soạn SGk theo quan điểm tích hợp sẽ
tạo điều kiện cho việc dạy học của giáo viên và học sinh. Bởi theo quan điểm
tích hợp, kiến thức của học sinh luôn đợc củng cố. Ngay khi đang tiếp thu
kiến thức mới, học sinh vẫn đợc nhắc lại kiến thức đã qua, kể cả những kiến
thức của bộ môn lẫn những kiến thức khác liên quan...

Sinh viên: Lê Thị Hồng Nhung

Lớp: 46B2 - Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp

21

Trờng Đại học Vinh

Xung quanh việc biên soạn SGK Ngữ văn theo quan điểm tích hợp đã
có rất nhiều ý kiến. Ông Vơng Trí Nhàn cho rằng: Sách giáo khoa đã ngán
đến tận cổ (Văn nghệ trẻ 34, ngày 24/ 8/ 2008). Ông Hoàng Xuân Tuyền thì
Ngán cả ba thứ: Sách giáo khoa, Sách bài tập và cả Sách giáo viên
(Văn nghệ trẻ 39, ngày 28/ 9/ 2008). Trớc đó, ông Hồ Ngọc Đại đã phản ứng

gay gắt: Tích hợp trong Ngữ văn là vớ vẩn. Đây là sự bắt chớc mấy chị em
bán nớc gội đầu 2 trong 1, 3 trong 1... Tôi cho tích hợp là hai chữ tệ hại
nhất, đấy là cách phá hoại giáo dục phổ thông hữu hiệu nhất. (Văn nghệ trẻ
19 ngày 21/ 5/ 2008).
Các tác giả đã nghiêm trọng hoá vấn đề khá nhiều, và cách nhìn của
các ông còn có những phiến diện nhất định. Thiết nghĩ, cần phải có một cách
nhìn đúng đắn, mang tính khoa học khi nhận định về quan điểm mới này của
giáo dục phổ thông.
1.1.2.2. Tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh
Đây là một quan điểm có ý nghĩa quan trọng không chỉ riêng môn Ngữ
văn mà còn quan trọng với tất cả các môn học khác trong nhà trờng phổ thông
các cấp. Quan điểm này đợc cụ thể hoá ở một số điểm sau đây:
a) Học sinh đợc coi là những đối tợng vốn có sẵn những tiềm năng mà
ngời giáo viên có nhiệm vụ đánh thức và tạo điều kiện để những tiềm năng đó
đợc phát triển tối đa, đặc biệt là tiềm năng sáng tạo. Chính vì thế, việc sắp xếp
các nội dung học tập, cách xây dựng hệ thống câu hỏi bài tập trong SGK Ngữ
văn đợc thực hiện theo cách tăng cờng tính chủ động sáng tạo, rèn kỹ năng tự
học ở ngời học, tạo điều kiện cho ngời dạy có thể thực hiện đợc vai trò tổ
chức, dẫn dắt các hoạt động học tập ở ngời học.
b) Giáo viên khuyến khích học sinh tìm hiểu câu hỏi, không đa ra câu
trả lời trớc. Không nên áp đặt một cách thô bạo, cứng nhắc kết quả hiểu và
cảm thụ của mình đối với học sinh. Tôn trọng, khuyến khích, động viên các
kết quả suy nghĩ và tìm tòi riêng, độc đáo của học sinh trong quá trình học

Sinh viên: Lê Thị Hồng Nhung

Lớp: 46B2 - Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp


22

Trờng Đại học Vinh

tập. Dù giờ ngữ hay giờ văn, không nên biến học sinh thành cái bình chứa để
giáo viên rót kiến thức vào. Bên cạnh đó, học sinh cũng phải tích cực trong
giờ học, không nên chỉ biết nghe, ghi, chấp nhận và làm theo mẫu một cách
thụ động.
Ví dụ: Trong bài Những yêu cầu về sử dụng tiếng Việt (Ngữ văn 10, tập
2), để làm rõ mục II (sử dụng hay, đạt hiệu quả giao tiếp cao), SGK đã đa ra
những câu hỏi để học sinh phải động não. Chẳng hạn: trong câu tục ngữ
chết đứng còn hơn sống quỳ, các từ đứng và quỳ đợc sử dụng theo nghĩa nh
thế nào? Việc sử dụng nh thế làm cho câu tục ngữ có tính hình tợng và giá trị
biểu cảm ra sao? Ví dụ: trong bài Đặc điểm loại hình của tiếng Việt (Ngữ văn
11, tập 2), ở phần luyện tập có câu hỏi: Tìm một câu tiếng Anh (hoặc tiếng
Pháp, tiếng Nga...) đã học, đối chiếu với câu tự dịch ra tiếng Việt, so sánh,
phân tích để đi đến kết luận: tiếng Anh (hoặc tiếng Pháp, tiếng Nga...) thuộc
loại hình ngôn ngữ hoà kết, tiếng Việt thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập.
Nh vậy, quan điểm tích cực hoá hoạt động học tập đợc phát huy trong
biên soạn SGK Ngữ văn chính là một cách để tăng cờng tính chủ động sáng
tạo của học sinh.
Việc biên soạn SGK Ngữ văn còn vận dụng một số quan điểm khác nh
đổi mới kiểm tra đánh giá. Và việc tiến hành một cách đồng bộ giữa mục tiêu,
nội dung, phơng pháp và kiểm tra, đánh giá là một trong những yêu cầu đổi
mới chơng trình và SGK hiện nay. Qua đây có thể khẳng định rằng: SGK Ngữ
văn đã vận dụng những quan điểm mới trong việc biên soạn, tạo điều kiện
thuận lợi cho việc dạy - học của giáo viên và học sinh.
1.2. Vài nét về bộ sách Ngữ văn THPT cơ bản
Tiếp nối SGK THCS, sách giáo khoa môn Ngữ văn THPT đã đa vào dạy

thí điểm ở 50 trờng thuộc 12 tỉnh thành trong toàn quốc từ tháng 9/2003. Sau
một thời gian thí điểm, hiện nay bộ sách Ngữ văn THPT đã đợc triển khai đại

Sinh viên: Lê Thị Hồng Nhung

Lớp: 46B2 - Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp

23

Trờng Đại học Vinh

trà trong toàn quốc. Chơng trình Ngữ văn THPT và SGK tơng ứng với chơng
trình ấy có nhiều thay đổi so với chơng trình và SGK hiện hành.
Một trong những thay đổi của chơng trình và SGK THPT môn Ngữ văn
lần này là biên soạn hai bộ sách theo hai mức độ của chơng trình. Biên soạn
theo chơng trình chuẩn gọi là sách Ngữ văn cơ bản. Sách này nhằm đáp ứng
cho các học sinh có nhu cầu nắm vững nội dung môn học để có thể hoàn
thành kỳ thi tốt nghiệp THPT. Biên soạn theo chơng trình nâng cao gọi là sách
Ngữ văn nâng cao. Sách này ngoài những nội dung có trong chơng trình chuẩn
còn có thêm một số yêu cầu và nội dung khác biệt, nhằm phân hoá và đáp ứng
nhu cầu của những học sinh không chỉ thi tốt nghiệp mà còn thi đại học vào
các ngành khoa học xã hội. ở đây, chúng tôi chỉ đi vào tìm hiểu vài nét về bộ
sách Ngữ văn THPT cơ bản.
Nhìn chung, sách Ngữ văn THPT cơ bản là bộ sách đợc đánh giá tốt,
biên soạn cẩn thận, công phu, đáp ứng yêu cầu của khung chơng trình, có
nhiều điểm mới.
1.2.1. Về nội dung

1.2.1.1. Về lựa chọn hệ thống văn bản tác phẩm
Văn bản trong bộ sách Ngữ văn 10, 11, 12 so với bộ sách giáo khoa
hiện hành có nhiều thay đổi. Chẳng hạn, ngoài các tác phẩm quen thuộc đang
có trong bộ sách giáo khoa hiện hành, sách giáo khoa 10, 11, 12 đã đa vào
một số tác phẩm mới.
Những thay đổi về văn bản - tác phẩm trên đây xuất phát từ các lý
do sau:
a) Văn bản văn học không chỉ là các tác phẩm đợc sáng tác bằng t duy
hình tợng, chủ yếu dùng các yếu tố h cấu tởng tợng. Văn bản văn học còn là
những văn bản không phải h cấu tởng tợng, đợc viết bằng ngôn từ nghệ thuật
với nhiều thể loại khác nhau nh: sử ký, địa chí, văn nghị luận, văn thuyết
minh...

Sinh viên: Lê Thị Hồng Nhung

Lớp: 46B2 - Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp

24

Trờng Đại học Vinh

b) Sách Ngữ văn THPT lựa chọn các văn bản văn học theo tiêu chí thể
loại. Bám sát vào tiến trình lịch sử văn học để lựa chọn hệ thống tác phẩm tiêu
biểu cho các thể loại của mỗi giai đoạn văn học. Lấy văn học Việt Nam làm
trục chính và bổ sung các tác phẩm văn học nớc ngoài cùng thể loại một cách
tơng ứng - tơng đối để học sinh tiện so sánh, đối chiếu.
1.2.1.2. Về nội dung kiến thức và kỹ năng làm văn

Sách làm văn trớc đây dựa vào các thao tác để chia ra nhiều kiểu bài
nhỏ. Chúng tôi quan niệm bài văn là sự kết hợp và tổng hợp các thao tác cơ
bản, vận dụng các thao tác một cách tổng hợp, linh hoạt. Quan niệm này đã đợc thể hiện rõ trong chơng trình và SGK Ngữ văn THCS và đợc tiếp nối ở sách
Ngữ văn THPT.
Ngoài ra, sách Ngữ văn THPT còn chú ý rèn luyện kỹ năng nói, kỹ
năng tóm tắt văn bản, kỹ năng tạo lập một số văn bản hành chính - công vụ
nh: viết kế hoạch cá nhân, quảng cáo...
1.2.1.3. Về những tri thức của phần Tiếng Việt
Trong bộ sách hợp nhất, môn Tiếng Việt đợc dạy ở lớp 10, 11 nh một
phân môn tách biệt với Văn học và Làm văn. Nay Tiếng Việt đợc dạy ở cả 3
năm THPT, nhng theo một tinh thần khác và tập trung vào thực hành, vận
dụng những hiểu biết về tiếng Việt vào việc đọc - hiểu văn bản và tạo lập văn
bản. Thông qua vận dụng này mà củng cố, khắc sâu và nâng cao khả năng sử
dụng tiếng Việt cho học sinh. Phần này cũng cung cấp một số tri thức mới cha
có ở SGK Ngữ văn THCS nh:
Ngữ văn 10: Văn bản, Ngôn ngữ dạng nói và dạng viết, Khái quát về
lịch sử tiếng Việt, Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật, Phong cách ngôn ngữ
sinh hoạt.
Ngữ văn 11: Phong cách ngôn ngữ chính luận, Phong cách ngôn ngữ
báo chí, Từ ngôn ngữ chung đến lời nói cá nhân, đặc điểm loại hình tiếng
Việt.

Sinh viên: Lê Thị Hồng Nhung

Lớp: 46B2 - Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp

25


Trờng Đại học Vinh

Ngữ văn 12: Phong cách ngôn ngữ hành chính, Phong cách ngôn ngữ
khoa học, Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, Thi luật.
1.2.2. Về hình thức trình bày
Sách giáo khoa Ngữ văn THPT cơ bản đợc biên soạn theo lối tích hợp.
Theo đó, ba cuốn sách: Văn, Làm văn, Tiếng Việt trớc đây tồn tại độc lập thì
nay gộp lại trong một quyển. Đây không phải là sự sát nhập một cách cơ học,
máy móc 3 phân môn của bộ môn này mà là sự đáp ứng yêu cầu tích hợp của
chơng trình Ngữ văn mới. Trong sách Ngữ văn THPT, các bài học về đọc hiểu văn bản, Tiếng Việt và Làm văn đợc bố trí đan xen nhau, soi sáng và hỗ
trợ cho nhau. Tất cả các tri thức và kỹ năng của các phân môn đều tập trung
nhằm hình thành và rèn luyện cho học sinh năng lực đọc văn và làm văn.
Thông qua đọc văn, làm văn mà củng cố và phát triển các kỹ năng tiếng Việt,
văn học. Điều này sẽ đợc thể hiện rõ hơn khi đi vào tìm hiểu cấu trúc bài học
của nó. Chẳng hạn nh cấu trúc bài Tiếng Việt và Làm văn.
Bài học Tiếng Việt và Làm văn thờng có hai loại: bài học hình thành lý
thuyết và bài học thực hành (bao gồm cả các tiết học viết bài và trả bài của
Làm văn). Dù lý thuyết hay thực hành thì bài học cũng có nội dung luyện tập,
qua luyện tập mà hình thành củng cố lý thuyết. Vì thế, cấu trúc bài học Tiếng
Việt và Làm văn thờng theo các mục sau:
a) Bài học về lý thuyết


Tên bài học: Ví dụ Nghĩa của câu (SGK lớp 11, Tr.6, tập 2)

Kết quả cần đạt: nêu những yêu cầu học sinh cần đạt đợc về kiến
thức và kỹ năng qua bài học.
Nội dung bài học: trình bày một cách ngắn gọn nội dung lý
thuyết của bài học.

Luyện tập: nêu câu hỏi và bài tập nhằm củng cố, khắc sâu các nội
dung lý thuyết vừa học.

Sinh viên: Lê Thị Hồng Nhung

Lớp: 46B2 - Ngữ văn


×