Tải bản đầy đủ (.doc) (116 trang)

Thế giới nghệ thuật tiểu thuyết thần thánh và bươm bướm của đỗ minh tuấn luận văn thạc sĩ ngữ văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (511.89 KB, 116 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
T R Ư Ờ N G Đ Ạ I H Ọ C V I N H
---------------------------------------

LÊ THỊ HỒNG

THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT TIỂU THUYẾT
THẦN THÁNH VÀ BƯƠM BƯỚM
CỦA ĐỖ MINH TUẤN
Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số: 60.22.34

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. Biện Minh Điền


2

Nghệ An, 2012


MỤC LỤC
Trang


4

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài


1.1. Tiểu thuyết thực sự đã trở thành nhân vật chính trên sân khấu
văn học hiện đại. Vốn là một thể loại năng động, nhạy cảm, và có tầm khái
quát lớn những vấn đề về đời sống, con người, và xã hội, tiểu thuyết ngày
càng đi sâu khám phá sâu sắc diện mạo mới của cuôc sống. Ở nước ta, tiểu
thuyết chỉ thực sự được khẳng định nhờ tài năng của các cây bút Tự lực
Văn đoàn và các nhà văn hiện thực giai đoạn 1930 – 1945. Trên những kinh
nghiệm khá phong phú nhưng ít nhiều còn mới mẻ đó, tiểu thuyết Việt Nam
sau 1945 tự điều chỉnh hướng đi để trở thành một vũ khí đa dụng trước yêu
cầu phục vụ kháng chiến và công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa. Các tác
phẩm mang tinh thần sử thi trở thành dạng thức tiểu thuyết điển hình trong
giai đoạn hai cuộc kháng chiến vệ quốc. Tiểu thuyết Việt Nam đương đại
(từ 1986 đến nay), phát triển theo nhiều khuynh hướng khác nhau, trong đó
rất đáng chú ý là khuynh hướng hiện thực huyền ảo. Phát triển theo khuynh
này, các tác giả tiểu thuyết có thể phản ánh hấp dẫn lôi cuốn chân thực một
cuộc sống với những bộn bề thay đổi như vũ bão. Với những tác phẩm nổi
tiếng, tạo được ấn tượng mạnh mẽ đối với bạn đọc như: Những đứa trẻ chết
già (Nguyễn Bình Phương ), Mảnh đất lắm người nhiều ma (Nguyễn Khăc
Trường), Cõi người rung chuông tận thế (Hồ Anh Thái), Quái vật (Trần Thị
Hồng Hạnh),… thì Thần thánh và bươm bướm của Đỗ Minh Tuấn đã gây
được làn sóng mạnh trong công chúng và dư luận.
1.2. Đỗ Minh Tuấn – một hiện tượng khá đặc biệt của văn học, nghệ
thuật Việt Nam đương đại. Ông là một gương mặt rất tài hoa, thành công trên
nhiều lĩnh vực như phim truyện nhựa, tiểu phẩm hài, thơ, hội hoạ, tiểu thuyết.
Gần đây nhất tiểu thuyết Thần thánh và bươm bướm của ông đã gây chú ý sâu
sắc cho giới nghiên cứu và đông đảo công chúng độc giả. Thần thánh và


5

bươm bướm - tác phẩm đoạt Giải C của cuộc thi là một trong hai cuốn sách

đặc biệt (bên cạnh Thần thánh và bươm bướm là cuốn Lửa đắng của Nguyễn
Bắc Sơn), vì đã phản ánh được hiện thực đời sống ngày hôm nay nhanh chóng,
sâu rộng và sinh động không kém gì phóng sự báo chí.
1.3. Tiểu thuyết Thần thánh và bươm bướm của Đỗ Minh Tuấn đặt ra
nhiều vấn đề cần phải được nghiên cứu, tìm hiểu. Đấy là một thế giới nghệ
thuật sống động, độc đáo với sự thành công về thể hiện một bức tranh nông
thôn đầy trăn trở, một thế giới huyền ảo mơ thực, nghệ thuật xây dựng nhân
vật, ngôn ngữ và giọng điệu.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
2.1. Sau khi ra đời, Thần thánh và bươm bướm đã nhận được sự ủng hộ
nhiệt tình của bạn đọc đặc biệt là các nhà nghiên cứu. Sự kiện đáng chú ý nhất
là vào ngày 25/ 11/2011 tại trụ sở của Hội Nhà văn Việt Nam (số 9 Nguyễn
Đình Chiểu, Hai Bà Trưng, Hà Nội) dưới sự chủ trì của nhà thơ Hữu Thỉnh,
chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam, đã diễn ra buổi toạ đàm văn học về tiểu thuyết
Thần thánh và bươm bướm. Tham dự buổi tọa đàm có nhà văn Nguyễn Trí
Huân, Phó chủ tịch Hội, nhà văn Nguyễn Khắc Trường, Chủ tịch Hội đồng
văn xuôi Hội Nhà văn; các nhà lí luận phê bình: Phong Lê, Phương Lựu, Trần
Đình Sử, Lưu Khánh Thơ và nhiều nhà văn, nhà thơ, nhà báo cùng bạn đọc
yêu mến, quan tâm đến tác phẩm Thần thánh và bươm bướm… Hầu hết đều
đánh giá cao tác phẩm nghệ thuật này, coi đây là một tác phẩm xuất sắc về
nông thôn trong thời buổi kinh tế thị trường. Nhà thơ Hữu Thỉnh đánh giá:
“Riêng Thần thánh và bươm bướm được đánh giá là tiểu thuyết mang tính hài
hước và giả tưởng từ lâu đã trở nên hiếm hoi trên văn đàn (sau Vũ Trọng
Phụng)”. GS Trần Đình Sử: “Những trang đầu tiên của “Thần thánh và bươm
bướm” mới đọc tưởng như có tính “cà trớn” nhưng càng đọc càng bị hấp dẫn.
Các tình huống không thực trong đời sống lại là hiện thực tinh thần, nhiều


6


ngẫu nhiên phi lý nhưng là tất yếu của trạng thái tâm lý người nông dân đầy
cảm tính”. Nhà văn Nguyễn Khắc Trường: “Văn xuôi quan trọng là giọng điệu
riêng, Đỗ Minh Tuấn có và đó là điều làm tôi ngạc nhiên; nó là thứ nhiều
người không có tuy sách xuất bản ra thì nhiều. Lâu nay văn chương chúng ta
nghiêm túc quá, đọc khá mệt. Cái làm nên thành công của Thần thánh và
bươm bướm là trong thực tế không thể có một “làng” như vậy, không thể có
những tình tiết phi lý như vậy, tất cả hoàn toàn giả tưởng nhưng đọc xong lại
tin, có lẽ là bởi Đỗ Minh Tuấn đã quan sát nông thôn, hiểu và khái quát được
những đặc tính cơ bản nhất của người nông dân. Giọng hài là của hiếm, nó
làm nên cái duyên, cái giọng riêng nhưng cũng làm cho nhiều chỗ hời hợt,
chưa sâu. Ngôn ngữ đối thoại hay, trần trụi nhưng không thô tục”. Phong Lê:
“Thần thánh và bươm bướm là một biếm họa, giả thiết về niềm tin ngây thơ do
dốt nát và cả tin hay có thể do khát vọng đổi đời vì đói nghèo quá lâu đời, cái
gì cũng có thể thành thần thánh, đây là thành công nổi bật lên hơn nửa thế kỷ
văn chương của ta. Vấn đề nông dân nông thôn đồng nghĩa với dân tộc đặt ra
rất hay, là nhếch nhác hóa: nông thôn hóa thành thị, là đô thị hóa nông thôn rồi
tay trắng không nghề nghiệp”. Nhà văn Văn Chinh: “Thần thánh và bươm
bướm - tác phẩm đoạt Giải C của cuộc thi là một trong hai cuốn sách đặc biệt
(bên cạnh Thần thánh và bươm bướm là cuốn Lửa đắng của Nguyễn Bắc Sơn),
vì đã phản ánh được hiện thực đời sống ngày hôm nay nhanh chóng, sâu rộng
và sinh động không kém gì phóng sự báo chí”. Ngoài ra tiểu thuyết còn nhận
được sự đánh giá của nhiều tác giả khác: dịch giả Phạm Viết Đào; nhà thơ,
NSND Huy Quang; nhà phê bình Đỗ Ngọc Yên; nhà thơ Ánh Hồng; nhà phê
bình trẻ Đặng Thân.
2.2. Luận văn là công trình đầu tiên tìm hiểu thế giới nghệ thuật tiểu
thuyết Thần thánh và bươm bướm của Đỗ Minh Tuấn với cái nhìn tập trung và
hệ thống.


7


3. Đối tượng nghiên cứu và giới hạn của đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu: đối tượng nghiên cứu của luận văn là thế
giới nghệ thuật tiểu thuyết Thần thánh và bươm bướm của của Đỗ Minh Tuấn.
3.2. Giới hạn của đề tài: Đề tài bao quát tiểu thuyết Thần thánh và
bươm bướm của Đỗ Minh Tuấn (đặt trong bối cảnh chung của tiểu thuyết Việt
Nam đương đại)
Văn bản tác phẩm dùng để khảo sát, luận văn dựa vào cuốn: Đỗ Minh
Tuấn, Thần thánh và bươm bướm, Nxb Văn học, Hà Nội, 2009.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn đặt ra 3 nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Đưa ra một cái nhìn chung về tiểu thuyết của Đỗ Minh Tuấn trong
bối cảnh của tiểu thuyết Việt Nam đương đại (từ 1986 đến nay), nhận diện cái
mới lạ của tiểu thuyết Thần thánh và bươm bướm.
4.2. Khảo sát, phân tích, xác định các hiện tượng tạo thành thế giới nghệ
thuật (con người và hiện thực) được nhận thức, phản ánh trong tiểu thuyết
Thần thánh và bươm bướm của Đỗ Minh Tuấn.
4.3. Khảo sát, phân tích, xác định cách thức tạo dựng thế giới nghệ thuật
(bút pháp, giọng điệu, ngôn ngữ,…) của Đỗ Minh Tuấn trong tiểu thuyết Thần
thánh và bươm bướm.
Cuối cùng rút ra một số kết luận về thế giới nghệ thuật tiểu thuyết Thần
thánh và bươm bướm của Đỗ Minh Tuấn, về khuynh hướng hiện thực huyền
ảo trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau, trong đó
có các phương pháp chủ yếu: phương pháp thống kê - phân loại, phương pháp
phân tích - tổng hợp, phương pháp so sánh – loại hình, phương pháp cấu trúc hệ thống.


8


6. Đóng góp và cấu trúc của luận văn
6.1. Đóng góp
Luận văn là công trình tìm hiểu thế giới nghệ thuật tiểu thuyết Thần
thánh và bươm bướm của Đỗ Minh Tuấn với cái nhìn tập trung và hệ thống.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc
tìm hiểu, nghiên cứu tiểu thuyết Thần thánh và bươm bướm của Đỗ Minh
Tuấn nói riêng, tiểu thuyết Việt Nam đương đại nói chung.
6.2. Cấu trúc của luận văn
Ngoài Mở đầu và Kết luận, nội dung chính của luận văn được triển khai
trong ba chương:
Chương 1. Hiện tượng Đỗ Minh Tuấn và sự xuất hiện tiểu thuyết Thần
thánh và bươm bướm
Chương 2. Hiện thực và con người trong tiểu thuyết Thần thánh và
bươm bướm
Chương 3. Phương thức tổ chức thế giới nghệ thuật tiểu thuyết Thần
thánh và bươm bướm của Đỗ Minh Tuấn
Cuối cùng là Tài liệu tham khảo.


9

Chương 1
HIỆN TƯỢNG ĐỖ MINH TUẤN VÀ SỰ XUẤT HIỆN
TIỂU THUYẾT THẦN THÁNH VÀ BƯƠM BƯỚM
1.1. Đỗ Minh Tuấn và con đường đến với tiểu thuyết
1.1.1. Đỗ Minh Tuấn – một hiện tượng đáng chú ý của văn học Việt
Nam đương đại
Sự xuất hiện của ông làm cho người đọc phải bất ngờ bởi một tài năng
hiếm có. Trần Đình Sử trong bài tham luân: “Thần thánh và bươm bướm - một

tiểu thuyêt về văn hoá Việt Nam của Đỗ Minh Tuấn” có khẳng định: “Đỗ
Minh Tuấn là một nghệ sĩ đa tài. Anh đã gây ấn tượng cho người tiếp nhận về
điện ảnh, về thơ ca, về hội hoạ, về lý luận phê bình, giờ anh lại gây ấn tượng
về tiểu thuyết”. Trên lĩnh vực sân khấu điện ảnh từ năm 2001 đến nay anh đã
cho ra mắt hàng chục vở hài kịch sâu sắc, gai góc và rất ăn khách, gây tiếng
vang cả trong và ngoài nước như: Sống nhờ Telephon, Con một, Mượn răng,
Chữa ngọng, Sống chết theo Mốt, Củ khoai vĩ đại, Internet về làng, Cuội buôn
quan, Lễ nhận huân chương, Loa phường thời chứng khoán… Không chỉ vậy
anh còn cho ra đời các tác phẩm nổi tiếng trong và ngoài nước như các phim
nhựa: Ngọn đèn trong mơ; Dịch cười; Người đàn bà nghịch cát; Hoa của Trời
và các phim video Thằng Cuội; Tôn Ngộ Không đến Việt Nam; Đi bầu Thành
hoàng; Tết sớm; Đón khách; Dạy chồng; Sứ giả làng; Công ty co giãn mênh
mông. Đặc biệt bộ phim Vua bãi rác là đỉnh cao trong sự nghiệp điện ảnh của
ông được đề cử đại diện Việt Nam tham dự giải Oscar. Các tác phẩm đều đặt
ra những vấn đề sâu sắc, vừa tràn đầy những cảm xúc nhân văn, vừa có sức
mạnh phê phán mang hơi thở nóng hổi của đời sống hôm nay, vừa có chiều
sâu triết lý với những ẩn dụ có tính nhân loại.


10

Trong lĩnh vực thơ ca ông cũng dành nhiều tâm huyết của cuộc đời
mình và đạt đươc những thành quả quan trọng. Lần trả lời phỏng vấn phóng
viên báo Vietimes ông có nói: “Tôi đã làm thơ với cảm xúc tuôn trào, có khi
làm một ngày cả chục bài thơ, nằm trên giường viết vì nhà chật quá, có hơn
mười mét vuông, lại hay ngập nước mưa lõng bõng. Bài thơ Mẹ tôi người hay
lo được giải Nhất thi thơ Báo Văn nghệ cũng là viết trên giường, viết liền một
mạch trong một buổi tối. Năm 1992 tôi đã cho xuất bản liền 4 tập thơ, tổng
cộng gần 600 trang. Thời sinh viên GS Lê Đình Kỵ đã đưa thơ tôi cho các nhà
thơ Xuân Diệu, Chế Lan Viên định giới thiệu một trang trên báo Văn nghệ với

bài viết của ông. Nhưng Xuân Diệu bảo là nó mới hai mươi tuổi mà đã suy tư
như một ông già nên Văn Nghệ lại thôi. Sau đó, tôi cũng được giải nhất thi thơ
báo Văn nghệ và nhiều giải thơ hay khác”. Như vậy không riêng gì trong lĩnh
vực tiểu thuyết và điện ảnh mà trong lĩnh vực thơ ca tác giả cũng có nhiều
thành tựu rất xuất sắc. Nhà phê bình Đặng Tiến ở Paris đã viết: “Tuấn làm mới
ngôn ngữ hội hoạ cũng như đã làm mới ngôn ngữ thơ ca. Cả thơ và hoạ đều tài
tử, tài hoa, mơ mộng và giàu suy tưởng”. Nhà thơ Hữu Thỉnh tuyên bố rõ với
tôi mấy lần là nếu có một người thuộc lứa thơ thập kỷ 80 Hữu Thỉnh cần ngả
mũ kính chào thì đó là Đỗ Minh Tuấn. Gần đây nhất, có một độc giả là anh
Phạm Lưu Vũ khen thơ tình của tôi không kém Tagore. Ngoài ra trên lĩnh vực
hội hoạ và lý luận phê bình ông cũng có những thành tựu đáng được lưu danh.
Đỗ Minh Tuấn quả là con người tài hoa hiếm có, bởi có cái nhìn sâu sắc đa
diện về cuộc sống như vậy nên những tác phẩm của ông luôn nhận được cảm
tình sâu sắc từ bạn đọc. Trong tiểu thuyết có cái nhìn của điện ảnh, có cảm xúc
sâu lắng của thơ ca… Bởi vậy tiểu thuyết Thần thánh và bươm bướm trong
tương lai sẽ có mặt sân khấu điện ảnh và chắc chắn sẽ nhận được sự mến mộ
của bạn đọc.


11

1.1.2. Con đường đến với tiểu thuyết của Đỗ Minh Tuấn
Nếu nói con đường đến với tiểu thuyết của Đỗ Minh Tuấn đầy chông
gai thử thách thì chắc không hoàn toàn đúng, vì từ khi sinh ra ông đã được
thiên phú cho tài năng này, nhưng có thể do thời gian ông chưa thể xuất bản
một tiểu thuyết nào. Trong cuộc trò chuyện với các phóng viên ông có nói:
“Nếu xuất bản tiểu thuyết chỉ để "khoe tài", thì tôi đã cho in tiểu thuyết từ lâu
rồi. Thật ra, tôi viết tiểu thuyết về sinh viên từ đầu thập kỷ 70 khi còn đang
học Tổng hợp Văn. Tôi đã gửi cuốn tiểu thuyết Từ chân trời một người (gần
500 trang) tới NXB Văn học từ năm 1974. Nhà văn Nhật Tuấn đã biên tập bản

thảo này và có những nhận xét rất tốt, nhưng cuốn tiểu thuyết không được in
ra vì gai góc đụng chạm đến mối quan hệ giữa lãnh đạo và quần chúng trong
môi trường đại học. Cách đây dăm bảy năm, Nhà sách Kiến thức cho đánh
máy bản thảo này đề nghị tôi cho họ làm thủ tục xuất bản. Nhưng tôi chần chừ
vì muốn cuốn tiểu thuyết đầu tiên ra mắt bạn đọc của mình là cuốn tiểu thuyết
viết về những vấn đề hôm nay bằng bút lực hôm nay. Nên việc cho ra đời tiểu
thuyết Thần thánh và bươm bướm xuất phát từ một thôi thúc mạnh mẽ: muốn
có tiếng nói văn học về đời sống và con người hôm nay”.
Như vậy bút lực tiểu thuyết của ông không phải đến khi Thần thánh và
bươm bướm ra đời nó mới đươc hình thành, mà thật ra nó đã giúp ông rất
nhiều trong mấy chục năm tham gia làm phim. Một nhà phê bình người Mỹ đã
nhận định: "Hành trình tìm lại nhân tính của một đại ca bãi rác đủ để xây dựng
một cuốn tiểu thuyết hay hoặc một bộ phim kinh điển kiểu Nhật Bản thời hậu
chiến như phim của Mizoguchi". Chính sự thay đổi của cuộc sống nông thôn
thời hội nhập, và những vấn đề nhạy cảm như mê tín dị đoan, chữa bệnh bằng
tình dục, chất độc da cam đã thôi thúc ông phải lên tiếng bằng những hình
tượng nghệ thuật cụ thể. Và rồi tiểu thuyết Thần thánh và bươm bướm xuất
hiện giữa sân khấu nghệ thuật với niềm ngưỡng vọng của tất cả mọi người.


12

1.2. Sự xuất hiện của tiểu thuyết Thần thánh và bươm bướm
1.2.1 Bối cảnh ra đời của tiểu thuyết thần thánh và bươm bướm
Đại thắng mùa xuân 1975 mở ra một trang sử mới cho đât nước. Hai
miền Nam Bắc sum họp, cả nước cùng bắt tay vào xây dựng công cuộc chủ
nghĩa xã hội. Bên cạnh niềm vui ấy nhân dân ta lại chuẩn bị đương đầu với
những khó khăn thử thách đấy là những vấn đề về kinh tế, văn hoá, xã hội…
Nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng chúng ta cũng vượt qua được những tháng
ngày khó khăn vất vả ấy và gặt hái được những thành tựu quan trọng, đặc biệt

từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12- 1986). Đại hội vạch ra được
nhiều đường lối chính sách quan trọng nhằm đưa đất nước thoát khỏi cảnh
nghèo nàn lạc hậu, đưa đất nước phát triển theo con đường công nghiệp hoá
hiện đại hoá, chuyển đổi từ cơ chế quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường,
đẩy nhanh tốc độ đo thị hoá. Diện mạo đất nước nhanh chóng được thay đổi,
đời sống nhân dân được nâng cao. Việc giao lưu hội nhập quốc tế được đẩy
nhanh, từ đó chúng ta có thể tiếp thu được những tiến bộ, tinh hoa văn hoá của
nhân loại. Tinh thần dân chủ trong thời kì này được phát huy một cách tối đa.
Báo cáo chính trị của ban chấp hành trung ương Đảng tại Đại hội VI đã nêu
rõ: “Thái độ của Đảng ta trong việc đánh giá tình hình là nhìn thẳng vào sự
thật, đánh giá đúng sự thật”, “đối với nước ta đổi mới đang là nhu cầu cấp
thiết của sự nghiệp cách mạng, là vấn đề có ý nghĩa sống còn”, “phải đổi mới
trước hết là đổi mới tư duy”, như vậy chúng ta mới có thể sớm hoàn thành
được quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, đưa đất nước thoát khỏi
nghèo nàn và lạc hậu.
Sự thay đổi về hoàn cảnh xã hội kéo theo những thay đổi khác về văn
hoá. Phong Lê có viết: “Trên tinh thần dân chủ và cởi mở mà Đảng ta đã
khuyến khích, sau các Đại hội VI và Đại hội VII của lịch sử, giữa bao vấn đề
kinh tế bề bộn, chúng ta mong tìm chìa khoá giải quyết ở văn hoá, là khái


13

niệm bao gồm sự tổng hoà các giá trị tinh thần và tri thức con người”[34,173].
Văn hoá vốn là lĩnh vưc khá nhạy cảm, sau chiến tranh nhiều chuẩn mực văn
hoá có sự thay đổi sâu sắc. Trong chiến tranh cả nước đoàn kết một lòng, dồn
hết tinh thần, của cải, vật chất cho sự sống còn của đất nước. Con người cá
nhân trong giai đoạn này ít được nói tới. Nhưng trở lại thời bình con người
phải đối mặt với bao vất vả mưu sinh, do vậy bắt đầu xuất hiện những vấn đề
phức tạp.

“Văn học là bức tranh phản ánh đời sống”, vì vậy khi đời sống thay đổi
thì văn học cũng thay đổi để kip thời đáp ứng nhu cầu. Đúng như Phong Lê
từng khẳng định: “Đất nước trước nhu cầu phát triển là cơ sở cho sự phát triển
mới của văn học, khác với nhiều thời kỳ trước đây. Một mặt văn học chuyển
động theo những đòi hỏi của cuộc sống, mặt khác trên quỹ đạo mới đó, văn
học cũng tự vận động, tự phát triển theo chính nhu cầu của bản thân”[34,197].
Như vậy, với công cuộc đổi mới đất nước, văn học đứng trước nhu cầu mạnh
mẽ của sự tự biến đổi. Nghĩa là trong một chừng mực nào đó, nó luôn phải tự
làm mới mình. Văn học trong 30 năm trước (1945 - 1975), hoàn thành một
cách xuất sắc sứ mệnh cao cả của một nền văn học phục vụ cách mạng, cổ vũ
chiến đấu vì tổ quốc, dân tộc. Đây là thời kỳ văn học mang đậm khuynh
hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, vấn đề về số phận cá nhân và hạnh phúc
con người ít được đề cập đến, văn học chỉ tập trung nói tới những vấn đề của
cộng đồng dân tộc. Những nội dung này sẽ còn chi phối văn học những năm
tiếp sau nó. Nhưng với sự thay đổi mạnh mẽ của đời sống thẩm mỹ nền văn
học cũng dần được thay đổi. Với ý thức tích cực tìm tòi và sáng tạo các nhà
văn đang cố gắng tìm cho mình một lối đi riêng. Ý thức cá nhân đã tác động
đến tư tưởng, bút pháp, chủ đề, phong cách. Những người tiên phong trong thể
nghiệm tìm tòi đổi mới phải kể đến Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma
Văn Kháng, Lê Lựu, Phạm Thị Hoài, Tạ Duy Anh, Nguyễn Huy Thiệp… (văn


14

xuôi), Thanh Thảo, Lê Đạt, Thu Bồn, Hoàng Hưng, Hoàng Cầm…(thơ ca). Có
thể khẳng định rằng sự “cởi trói” cho văn nghệ đã đáp ứng được nhu cầu của
đông đảo quần chúng. Văn học có dấu hiệu chuyển lên một đường ray mới, có
lúc ngập ngừng, rụt rè, có lúc lại bạo dạn sấn sổ, dẫu thế nào mặc lòng, nó
không còn chấp nhận sự bình yên với kiểu cũ. Trong giai đoạn này, văn học
đang được vận động theo hướng dân chủ hoá. Văn học không chỉ là tiếng nói

của cộng đồng vì cộng đồng mà còn là lời nói, tâm sự của từng cá nhân, kinh
nghiệm suy nghĩ của từng cá nhân để làm giàu thêm cho cộng đồng. Quan
niệm về vai trò văn học, kiểu nhà văn cũng khác trước, có sự đề xuất suy nghĩ,
đối thoại với người đọc về mọi vấn đề của cuộc sống. Cùng với sự thay đổi
trong quan niệm của nhà văn thì quan niệm về hiện thực cũng được mở rộng
và mang tính toàn diện. Hiện thực không chỉ là hiện thực cách mạng với
những biến cố lịch sử, hiện thực còn là đời sống của mỗi cá nhân, với những
vất vả suy tư trong cuộc đời. Đấy là nỗi đau còn vương lại sau những năm
tháng chiến tranh gian khổ, đấy là những bất cập khi giao thoa với nhiều nền
văn hoá trên thế giới. Từ trong chiến tranh trở về, từ đây nhà văn có thể sống
thật với những lo âu trăn trở đời thường.
Trong xu hướng đấy, tiểu thuyết cũng có những bước chuyển biến lớn
để đáp ứng được những nhu cầu mới của thời đại. Sự thay đổi đó của tiểu
thuyết diễn ra trên nhiều phương diện: đề tài, chủ đề, cách tiếp cận hiện thực
của nhà văn… Nếu như nhìn qua thơ Việt Nam từ sau 1975 đến nay vẫn còn
đang ở thời kì tìm đường, đang bước “vạn sự khởi đầu nan” của một giai đoạn
mới thì tiểu thuyết đã có được những thành công đáng ghi nhận, góp phần tích
cực vào quá trình đổi mới văn học. Nếu xem tiểu thuyết từ 1986 đến nay như
một vườn hoa, thì người đọc như đang lạc vào một mê cung với trăm nghìn
thứ hoa đang ngạt ngào khoe sắc. Chưa bao giờ như bây giờ, mỗi ngày không
chỉ một cuốn sách mà nhiều cuốn sách đã hiện diện trên các nhà sách với “bao


15

bì” bắt mắt. Đúng như Bích Thu trong một bài trên tạp chí văn học đã khẳng
định: “Các thế hệ nhà văn từ U70 đến @ vẫn mải miết trên cánh đồng chữ
nghĩa, lặng lẽ cho ra mắt bạn đọc của mình những đứa con tinh thần của mình
và không phải ngẫu nhiên người ta đã cảm nhận bây giờ là “thời của tiểu
thuyết” (Nguyễn Huy Thiệp) [55,17]. Chúng ta có thể liệt kê rất nhiều tác

phẩm với những tên tuổi nổi tiếng, tạo được ấn tượng mạnh mẽ đối với bạn
đọc: Thời xa vắng (Lê Lựu), Mùa lá rụng trong vườn, Đám cưới không có
giấy giá thú (Ma Văn Kháng), Thiên Sứ (Phạm Thị Hoài), Bến không chồng
(Dương Hướng), Trò đùa của tạo hoá (Phạm Hoa), Thân phận của tình yêu
(Bảo Ninh), Người sông Mê (Châu Diên), Lên giàn hoả thiêu (Ngô Văn Phú ),
Mảnh đất lắm người nhiều ma (Nguyễn Khắc Trường), Chim én bay (Trí
Huân), Những mảnh đời đen trắng (Nguyễn Quang lập), Thần thánh và bươm
bướm (Đỗ Minh Tuấn)…
Vậy tại sao vườn hoa tiểu thuyết mang một sắc màu và sức sống diệu
kì ?. Theo M.Bakhtin: “Tiểu thuyết là loại văn chương duy nhất luôn luôn biến
đổi, do đó nó phản ánh sâu sắc hơn, cơ bản hơn, nhạy bén hơn của bản thân
hiện thực”[5,30]. Mỗi nhà văn đều có cách lựa chọn khác nhau khi tìm đến
tiểu thuyết, thể hiện trong đó một quan niệm, một cái nhìn về hiện thực cuộc
sống và con người, qua đó “cuộc sống hiện ra dường như ô hợp với tất cả sự
trần truồng, xấu xí ghê tởm của nó, đồng thời với tất cả vẻ đẹp trang nghiêm,
trong đó người ta mổ xẻ cuộc sống bằng con dao giải phẫu”(Biêlinxki). Tiểu
thuyết hấp thụ vào chính bản thân nó mọi yếu tố bề bộn của cuộc sống đủ khả
năng phơi bày đến tận cùng sự phức tạp muôn màu của hiện thực cuộc sống.
Một số tiểu thuyết gia phương Tây lại quan niệm tiểu thuyết phải giống
cuộc đời, tiểu thuyết phải giống sự thật. Nó phải tạo ra cái gì đó không có thực
nhưng lại giống thực. Slendal cho rằng: “tiểu thuyết là tấm gương lớn, truyện
ngắn là những mảnh vỡ từ tấm gương đó, mảnh này phản chiếu trời xanh,


16

mảnh kia phản chiếu vũng nước đục. Điều cốt yếu của tiểu thuyết là tạo ra một
cuộc đời tương tự, nhưng cuộc đời đó cần phải thực để cho giống thực tại và
nhắc nhở cái thực tại đó nếu bất cần ta có thể quên đi”.
Không phải ngẫu nhiên mà tiểu thuyết trở thành một thể loại giữ vị trí

trung tâm trong loại hình văn xuôi nghệ thuật, nó không phải là một thể loại đã
hoàn bị, có nòng cốt, hay nền móng đã đông cứng mà luôn biến đổi. Khi bàn
về tiểu thuyết, M.Bakhtin khẳng định: “Tiểu thuyết tiếp xúc với cái hiện tại
chưa hoàn thành, chính đặc điểm này không cho phép thể loại ấy bị đông cứng
lại. Người viết tiểu thuyết thiên về những cái gì chưa xong xuôi. Anh ta có thể
xuất hiện trong trường miêu tả ở bất cứ tư thế tác giả nào, có thể miêu tả
những sự việc có thật trong đời mình hoặc nói ám chỉ đến chúng, có thể can
thiệp vào cuộc trò chuyện giữa các nhân vật, có thể bút chiến công khai với
địch thủ văn học của mình”. Ý kiến này của M.Bakhtin, một mặt, khu biệt tiểu
thuyết với sử thi từ cái nhìn thi pháp thể loại, mặt khác khẳng định một thực
tế: nhà tiểu thuyết hoàn toàn tự do trong vương quốc sáng tạo nghệ thuật. Vì
thế, tiểu thuyết có thể đáp ứng được sự thay đổi như vũ bão của đời sống hôm
nay. Cùng với không khí đổi mới xã hội được mở ra từ sau Đại hội lần thứ VI
của Đảng (1986), sự thay đổi trong cách quan niệm về giá trị và bản chất nghệ
thuật là những nhân tố quan trọng tạo nên sự chuyển biến mang tính chất bước
ngoặt của văn học nói chung và tiểu thuyết nói riêng. Sau hơn 30 năm phát
triển trong hoàn cảnh chiến tranh, từ cảm hứng chung là ngợi ca hai cuộc
kháng chiến thần thánh của dân tộc, bắt đầu từ giữa những năm 80 của thế ki
XX văn học đã chuyển từ tư duy mang tính sử thi sang tư duy mang cảm hứng
thế sự đời tư. Nếu như trước kia, cảm hứng chung của văn học chỉ tập trung
nói đến những vấn đề cộng đồng, dân tộc, những hình ảnh các nhân vật anh
hùng trong kháng chiến, người ta dè dặt, né tránh những vấn đề mang tính cá
nhân, thì đến đây số phận cá nhân, những quan hệ xã hội phức tạp, những thay


17

đổi khó lường của đời sống được các nhà văn đặc biệt quan tâm. Đúng như
Mai Hải Oanh nhận xét: “Đây chính là lúc văn học cần có cái nhìn tỉnh táo và
sâu sắc hơn. Muốn vậy nhà văn phải vượt qua nỗ lực vượt qua lối phản ánh

hiện thực thông thường để vươn tới hiện thực bề sâu. Hiện thực ấy không hề
dâng sẵn đón chờ mà đòi hỏi nghệ sĩ phải khám phá và sáng tạo, phải tự cảm
thấy bằng nhạy bén của mình. Hiện thực ấy không chỉ hiện lên ở tầng lớp hữu
thức mà còn tiềm ẩn trong cõi vô thức, tiềm thức” [40,18]. Quả đúng như thế
tiểu thuyết từ sau 1986 đến nay đã làm được điều mà bạn đọc mong đợi ở nó,
một sự bứt phá mãnh liệt và một thành công rực rỡ. Thật ra cảm hứng về “cái
hôm nay” đã tạo ra một mảnh đất màu mỡ để các nhà văn khai thác. Nhà phê
bình văn học Lê Ngọc Trà từng viết: “Đó là mối quan hệ giữa cá nhân và cộng
đồng, sự xung đột giữa truyền thống và hiện đại, vấn đề chiến tranh và cách
mạng, thế hệ này với thế hệ khác, vấn đề tín ngưỡng và tâm linh, …”[57,35].
Đề cập đến vấn đề này Phong Lê cũng khẳng định: “Trên tinh thần dân chủ và
cởi mở mà Đảng đã khuyến khích, sau các Đại hội VI và Đại hội VII lịch sử,
giữa bao vấn đề kinh tế bộn bề, chúng ta mong tìm chìa khoá giải quyết ở văn
hoá, là khái niệm bao gồm sự tổng hoà các giá trị tinh thần và tri thức con
người”[34,173] .
Tiểu thuyết đang phát triển mạnh mẽ và phong phú trong giai đoạn này.
Chưa bao giờ lực lượng tiểu thuyết lại đông đến vậy. Đặc biêt, trong thời kì
này có rất nhiều tiểu thuyết đã được chuyển thành phim: Mảnh đất lắm người
nhiều ma (Đất và người – Nguyễn Khắc Trường), Ma làng (Trịnh Thanh
Phong), Luật đời và cha con (Luật đời – Nguyễn Bắc Sơn),vv…
Có được những thành công này là do ảnh hưởng của xu hướng dân chủ
hoá và những quan niệm rất đúng đắn của các nhà văn. Trong Gặp gỡ cuối
năm Nguyễn Khải đã nêu rõ quan niệm của mình: “tôi thích cái hôm nay, cái
hôm nay ngổn ngang bề bộn, bóng tối và ánh sáng, mảnh màu đỏ với màu đen,


18

đầy rẫy những biến động, những bất ngờ mới thật là một mảnh đất phì nhiêu
cho các cây bút thả sức khai vỡ”. Chính vì vậy, khi đọc tiếu thuyết hôm nay dễ

có một cảm giác phức tạp: thú vị và đau xót, căm phẫn và tin tưởng trước con
người và tất cả những gì nó tạo ra. Cái cảm giác phức tạp này có được chứng
tỏ tiểu thuyết hôm nay sát với đời sống, xông thẳng vào các “mắt bão” của
cuộc đời và nêu lên những vấn đề cực kì quan thiết với con người thông qua
những số phận có tính bị kịch.
Những năm gần đây, một tín hiệu đáng mừng cho văn học nói chung và
tiểu thuyết nói riêng là ngày càng xuất hiện những cây bút trẻ với thành công
xuất sắc. Tuy vậy, hiện nay tiểu thuyết Việt Nam đang đứng trước những thách
thức lớn lao trong thời kỳ quốc tế hội nhập, thời kỳ mà thế giới đang có những
bước tiến rõ rệt trong đó có lĩnh vực văn học. Với sự du nhập rất nhiều luồng
tư tưởng, tích cực có, tiêu cực có, điều đó có thể đem đến những thuận lợi cho
những nhà tiểu thuyết trong việc tìm kiếm vốn sống, vốn viết nhưng cũng có
thể đem lại cho mỗi nhà văn những thách thức không nhỏ.
Một trong những đề tài được các nhà văn tiếp cận nhiều nhất đấy là đề tài về
nông thôn. Thực ra không phải đến văn học đổi mới người ta mới quan tâm
đến đề tài này, mà trong giai đoạn văn học 1930 - 1945 nhiều nhà văn cũng rất
thành công khi khám phá hình ảnh những con người sau luỹ tre làng mộc mạc
chân thành. Có thể kể đến những tác phẩm nổi tiếng như Tắt đèn (Ngô Tất
Tố), Bước đường cùng (Nguyễn Công Hoan), Giông tố, Vỡ đê (Vũ Trọng
Phụng), và rất nhiều truyện ngắn nổi tiếng khác nữa của Nam Cao. Các nhà
văn này cho chúng ta thấy được một nông thôn nghèo đói với cảnh sưu cao
thuế nặng, với những người nông dân đang oằn mình cố vươn dậy thoát khỏi
sự de doạ của thần chết.
Văn xuôi viết về nông thôn những năm đổi mới này diễn ra trong bối
cảnh xã hội đổi thay với những bộn bề và ngổn ngang, gay cấn. Điều đặc biệt


19

là các nhà văn hôm nay có cái nhìn hoàn toàn thay đổi về cuộc sống. Nói về

vấn đề này Bùi Việt Thắng đã đưa ra những cái nhìn khá khách quan: “Các
nhà tiểu thuyết hôm nay đã từ bỏ lối nhìn dễ dãi về đời sống và con người.
Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Tường, Ác mộng của Ngô
Ngọc đã thôi không nhìn nông thôn với cảnh điền viên, trống dong cờ mở.
Nông thôn đích thực hiện ra trong tiểu thuyết của các nhà văn này trong khung
cảnh “trời long đất lở”, rối rắm và nhìn kỹ vào nông thôn ấy, ta sẽ thấy cả xã
hội Việt Nam mấy chục năm qua [52,8]. Từ sau 1986 trở đi một loạt những tác
phẩm hay viết về nông thôn ra đời, đặc biệt phải kể đến Mảnh đất lắm người
nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Bến không chồng của Dương Hướng,
Thuỷ đạo tặc của Hoàng Minh Trường, Dòng sông mía của Đào Thắng, Thần
thánh và bươm bướm của Đỗ Minh Tuấn.
1.2.2. Ý đồ nghệ thuật và những thành công của Đỗ Minh Tuấn
Bất kỳ một nhà văn nào khi sáng tác tác phẩm cũng gửi gắm những nỗi
niềm tâm sự khác nhau, đấy có thể là những trăn trở, suy tư trước hiện tại cuộc
sống, và đấy cũng có thể lại là một chút ngậm ngùi sâu lắng của cảm xúc đời
tư. Đỗ Minh Tuấn cũng vậy, ông xem công việc sáng tác nghệ thuật như một
công cụ để phản ánh cuộc sống đương thời. Rất nhiều bạn đọc quan tâm vì sao
cho đến tận bây giờ ông mới cho người đọc thưởng thức tài năng tiểu thuyết
của mình, mặc dù ông là con người rất tài hoa ?
Thật ra Đỗ Minh Tuấn đã viết tiểu thuyết từ rất lâu rồi, nhưng vì lí do cá
nhân đụng chạm đến nhiều vấn đề gai góc của xã hội nên tác giả không muốn
in. Cho đến gần đây có nhà xuất bản yêu cầu được in cuốn tiểu thuyết đó thì
tác giả chần chừ vì muốn cuốn tiểu thuyết đầu tiên ra mắt bạn đọc của mình là
cuốn tiểu thuyết viết về vấn đề hôm nay bằng bút lực hôm nay. Đỗ Minh Tuấn
cho biết việc cho ra đời tiểu thuyết Thần thánh và bươm bướm, xuất phát từ
một thôi thúc mạnh mẽ: “Muốn có tiếng nói văn học về đời sống và con người


20


hôm nay”. Như vậy ý đồ sáng tác nghệ thuật của tiểu thuyết Thần thánh và
bươm bướm đã rõ, không phải ông muốn “khoe tài” tiểu thuyết của mình, mà
thật ra tác giả muốn góp một tiếng nói thông qua các hình tượng văn học về
cuộc sống và con người hôm nay. Thông qua một thế giới nghệ thuật vừa thực
vừa hư, tác giả đã đề cập đến những vấn đề khá phổ biến trong xã hội như
chuyện xem bói, chữa bệnh bằng nghi lễ tình dục, chuyện mua bán côn trùng,
chuyện giải phóng mặt bằng xây sân golf, chuyện nạn nhân chất độc màu da
cam... Ông đã xây dựng những hình tượng nghệ thuật mang tính ẩn dụ để
nói lên khát vọng đổi đời, những khát vọng về danh dự và diện mạo thời
hội nhập, những dằn vặt giằng xé trong tâm hồn những người nông dân,
những cựu chiến binh – họ vừa muốn ủng hộ dự án khai thác tài nguyên để
đổi đời, vừa day dứt muốn làm người tử tế với nguyên vẹn đất đai và nhân
phẩm do tổ tiên truyền lại. Đồng thời, qua đây ông cũng muốn cố gắng cắt
nghĩa cái hành trình cay đắng của người Việt Nam khi họ chuyển từ chỗ
ngưỡng vọng thần linh tới chỗ đặt mọi hy vọng đổi đời vào bọ hung và
bươm bướm. Để rồi qua đó, tác giả cũng gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh
đối với cuộc sống hiện tại, trước những thay đổi bất thường và sự biến đổi
vô lường của cuộc sống thời hội nhập.
Từ khi ra đời, tiểu thuyết Thấn thánh và bươm bướm đã nhận được sự
ủng hộ nhiệt tình của công chúng bạn đọc. Không chỉ vậy, tác phẩm còn tạo ra
nguồn cảm hứng mới cho giới phê bình văn học. Tháng 11 năm 2011, tại Hà
Nội đã diễn ra buổi hội thảo về tiểu thuyết này. Nhiều tác giả phê bình đã đọc
những bài tham luận dành nhiều tình cảm cho tiêu thuyết. Đặc biệt tiểu thuyết
đã đạt giải C trong cuộc thi sáng tác tiểu thuyết vừa qua. Đó là kết quả của cả
một quá trình lao động sáng không biết mệt mỏi của ông.


21

1.3. Thần thánh và bươm bướm trong bức tranh chung của tiểu

thuyết Việt Nam đương đại
1.3.1. Cái mới lạ của tiểu thuyết Thần thánh và bươm bướm
Trong Văn học Việt Nam sau đổi mới (1986) nói chung và xét riêng về
văn xuôi (trong đó có tiểu thuyết), Thần thánh và bươm bướm của Đỗ Minh
Tuấn có một vị trí vô cùng quan trọng. Chỉ trong một thời gian ngắn, cuốn
sách đã gây được ấn tượng mạnh mẽ đối với bạn đọc và giới phê bình. Thành
công đó chứng minh cho những giá trị mà cuốn tiểu thuyết mang lại.
Viết về một đề tài không mới – đề tài về nông thôn và những người
nông dân, nhưng tác giả lại có những cái nhìn hoàn toàn mới về hình ảnh
những người nông dân trong thời buổi kinh tế thị trường. Đỗ Minh Tuấn đã
nhìn nhận một cách thực tế, trung thực, nghiêm ngặt, về hiện tại cuộc sống để
phát hiện ra những mặt sáng tối của nó, đó cũng chính là yêu cầu mới của văn
học. Nhà văn cần phải coi sự phản ánh hiện thực chính là lương tâm, là thiên
chức của người cầm bút. Nguyễn Minh Châu người luôn trăn trở một cách ráo
riết về sự đổi mới văn học đã đòi hỏi các nhà văn: “Viết sao cho chạm được
vào các tầng sâu, vào tận đáy sâu những sự thật về quê hương đất nước, dân
tộc mình” để tác phẩm “tiếp lá cà với đời sống, xông vào những chốn gai góc
thâm u của cuộc đời”. Đây là những thay đổi rất căn bản trong ý thức nghệ
thuật của nhà văn. Đề cập đến nội dung này Nguyễn Văn Hạnh nhấn mạnh
“làm văn học nghệ thuật mà lẩn tránh sự thực, không dám hay không nói đến
sự thật thì không thể biết mình đang ở đâu, đang đứng ở đâu, phải làm gì và
tiến hành như thế nào nữa. Giả dối làm tê liệt thần kinh, cằn cỗi tâm hồn, xúc
phạm lương tri… nhưng nó lại thường ngọt ngào trau chuốt. Còn sự thật thì
mộc mạc, trần trụi với những tích cực, cao đẹp của nó. Chỉ có sự thật mới phát
huy được ưu điểm, mới sửa chữa được khuyết điểm và sai lầm, đưa công việc
đến hiệu quả, định hướng cho những suy nghĩ và hành động” [25,215]. Có mặt


22


trong số đó Đỗ Minh Tuấn đã “xông thẳng” vào đời sống để tìm tòi khám phá
bộ mặt thật của đời sống hôm nay. Ông không ngần ngại đi vào những vấn đề
nóng bỏng của xã hội, những vấn đề mang tính nhạy cảm như mê tín dị đoan,
chất độc màu da cam, dự án sân golf… Không chỉ có vậy tác giả còn xây dựng
tiểu thuyết bằng những hình tượng rất độc đáo, ngôn ngữ vừa mang tính giễu
nhại, lại vừa hài hước sâu cay. Hơn 400 trang sách với 25 chương đã hấp dẫn
bạn đọc trên mọi phương diện từ nội dung đến hình thức. Nói đến điểm độc
đáo đặc sắc này. Trần Đình Sử trong bài tham luận tại buổi toạ đàm khẳng
định: “Tiểu thuyết của Đỗ Minh Tuấn có ba điểm đặc sắc. Một là phản ánh
hiện thực văn hoá nông thôn thời kinh tế thi trường; hai là sự khác biệt của hai
thế hệ cha - con; ba là tính hài hước giễu nhại xuyên suốt câu chuyện cười ra
nước mắt”. Đọc cuốn tiểu thuyết này, người đọc như thấy được một bức tranh
hiện thực về nông thôn thời đổi mới. Ở đó bắt gặp sự xuống cấp suy đồi về
văn hoá, những trăn trở suy tư của nông dân trước những thách thức mới. Bề
ngoài những tưởng có dự án đầu tư nước ngoài là hãnh diện, may mắn, nhưng
biết đâu đằng sau bức màn trắng tinh thơm tho ấy là những bi kịch, là những
cuộc đấu tranh gay gắt cam go, là những dấu chấm hỏi không lời giải đáp.
Không chỉ vậy, chúng tôi thiết nghĩ rằng cái mà cuốn tiểu thuyết này làm được
là một cái kết bỏ ngỏ. Nhiệm vụ của tác phẩm văn học là gieo vào lòng người
đọc một câu hỏi, chứ không nhất thiết phải tìm câu trả lời. Câu trả lời dành
cho toàn xã hội, trước hết là các nhà quản lý, các nhà nghiên cứu, các chuyên
gia văn hoá và phát triển. Hình ảnh và số phận của Thao cùng những kiếp
người khác sẽ mãi là sự ám ảnh đối với giới bạn đọc. Rồi đây khi gấp trang
sách lại nhưng cây gạo, những nghi lễ chữa bệnh bằng tình dục, hình ảnh
thằng Giác quăng bát hương… tạo ra một câu hỏi lớn đang chờ lời giải đáp
của toàn xã hội.


23


1.3.2. Nhận diện khuynh hướng tiểu thuyết Thần thánh và bươm bướm
Sự đổi mới trong quan niệm về tiểu thuyết phản ánh tính dân chủ trong
văn học và đó là yếu tố quyết định tạo ra sự đa dạng của khuynh hướng tiểu
thuyết. So với nhiều nước khác trên thế giới thì tiểu thuyết Việt Nam ra đời
khá muộn. Do đề cao chủ nghĩa hiện thực nên các tiểu thuyết hướng về đời
sống trong văn học 1930 – 1945 được quan tâm: Giông tố, Số đỏ (Vũ Trọng
Phụng), Bước đường cùng (Nguyễn Công Hoan), Bỉ vỏ (Nguyên Hồng), Tắt
đèn (Ngô Tất Tố)… nhưng người ta ít quan tâm đến tiểu thuyết theo khuynh
hướng lãng mãn như của Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo… Đến văn học
1945 – 1975 tiểu thuyết phát triển khá mạnh mẽ với đội ngũ sáng tác đông
đảo, nhưng tiểu thuyết giai đoạn này tập trung ngợi ca vẻ đẹp của đất nước và
con người trong chiến tranh. Do hoàn cảnh đất nước tác động, nên tiểu thuyết
trong giai đoạn này mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Cuộc
sống và số phận đời tư của từng cá nhân con người không được tập trung khắc
hoạ miêu tả. Sau 1986 với sự thay đổi cơ bản về cuộc sống, tiểu thuyết đã
nhanh chóng thích ứng và kịp thời phản ánh những nhịp điệu thay đổi đó. Do
sự phức tạp của đời sống nên tiểu thuyết cũng phát triển với rất nhiều khuynh
hướng khác nhau. Trong đấy đáng chú ý nhất là tiểu thuyết viết theo khuynh
hướng “hiện thực huyền ảo”. Chúng ta có thể bắt gặp rất nhiều tác phẩm nổi
tiếng với những tên tuổi quen thuộc: Những đứa trẻ chết già, Thoạt kì thuỷ
(Nguyễn Bình Phương), Thiên sứ (Phạm Thị Hoài), Người sông Mê (Châu
Diên), Cõi người rung chuông tận thế, Mười lẻ một đêm (Hồ Anh Thái), Giàn
thiêu (Võ Thị Hảo), Thiên thần sám hối (Tạ Duy Anh),…
Theo Từ điển thuật ngữ văn học thì chủ nghĩa hiện thực huyền ảo là:
“Trào lưu văn học quan trọng của châu Mỹ la tinh, xuất hiện vào những năm
60 của thế kỷ XX. Các nhà văn của trào lưu này thường mượn truyền thuyết
dân gian cổ xưa để tạo ra các huyền thoại mới về hiện thực Châu Mỹ la tinh.


24


Các tác phẩm vừa có những cảnh tượng ly kỳ, hư ảo, vừa có những chi tiết
hoàn cảnh hiện thực, gây cho người đọc cảm giác về các hiện tượng nghịch lý.
Nguyên tắc sáng tác của các nhà văn này là: “biến hiện thực thành hoang
đường mà không đánh mất tính chân thực”. Để gây hiệu quả hoang đường các
nhà văn thường sử dụng hình tượng biểu trưng, ngụ ý, liên tưởng ám thị,
phóng đại, khoa trương, người và hồn bất phân, trật tự thời gian bị xáo trộn,
thực và ảo hoà quyện. Lăng kính huyền thoại đã giúp nhà văn vạch trần được
hiện thực đen tối tàn bạo của các chế độ độc tài, phê phán tình trạng khép kín
văn hoá, đoạn tuyệt giao lưu”[24, 66-67].
Yếu tố kỳ ảo xuất hiện trong văn học Việt Nam từ rất sớm. Ngay trong
văn học dân gian nó đã trở thành một thế giới thu hút nhiều bạn đọc đặc biệt là
các em thiếu nhi, đấy là thế giới của thần tiên cổ tích, với sự xuất hiện của các
vị thần, ông bụt…Thời phong kiến với quan niệm “Kính quỷ thần nhi viễn
chi” đây là vùng “cấm địa” đối với những môn đệ nơi cửa Khổng sân Trình.
Song bất chấp sự kìm kẹp của tư tưởng Nho giáo hà khắc truyện kỳ ảo vẫn nảy
mần và phát triển. Bằng chứng là tất cả những tác phẩm “kỳ” như: Thánh tông
di thảo, Truyền kỳ mạn lục, Tân truyền kỳ lục, Truyền kỳ tân phả, Lĩnh Nam
chích quái… đều do những đại diện ưu tú của Nho gia khai bút. Điều này
chứng tỏ sức hấp dẫn mạnh mẽ từ yếu tố kỳ ảo đã chi phối đến luỹ thành của
văn chương chính thống. Tác phẩm kỳ ảo không chỉ giúp gia tăng phương
diện thẩm mỹ nghệ thuật mà còn giúp tầng lớp Nho sĩ vốn chịu không ít kìm
hãm, bức bối của “Tam cương, Ngũ thường” tìm được con đường để giải toả
những uất ức, dồn nén, bộc lộ những suy nghĩ, chiêm nghiệm về cuộc đời. Về
cơ bản, tác phẩm này vẫn chưa thoát khỏi phạm vi của “tải đạo ngôn chí”
thuộc văn chương chính thống, nó là “dư ba” của thần thoại và cổ tích. Yếu tố
kỳ ảo xuất hiện nhiều trong truyện ngắn hiện đại. Đến giai đoạn này giữa cái
“chợ giời” của văn chương người ta thấy nổi lên “mảng độc” những cây bút



25

kỳ ảo với phong cách tài hoa độc đáo: Thế Lữ (Trại Bồ Tùng Linh), Tchya
Đức Tuấn (Ai hát giữa rừng khuya), Nhất Linh (Bóng người trong sương mù)
… đặc biệt là Nguyễn Tuân có hàng loạt những sáng tác kỳ ảo “yêu ngôn”:
Xác ngọc Lam, Loạn âm, Khoa thi cuối cùng… làm sinh động đời sống văn
học bấy giờ. Những truyện ngắn kỳ ảo này không chỉ đơn thuần nhằm thay đổi
“thực đơn cho cảm giác” mà cao hơn là phản ánh xã hội đương thời với những
phức tạp, oái ăm. Sự ra đời của các yếu tố kỳ ảo cho thấy tiềm năng sáng tạo
của các nhà văn, nhằm thúc đẩy quá trình hiện đại hoá văn học. Văn học 1945
- 1975 yếu tố kỳ ảo dường như vắng bóng nhường chỗ cho hiện thực mang
tính sử thi, bởi yêu cầu cấp thiết của hai cuộc kháng chiến chống Pháp và
chống Mỹ. Đến sau năm 1986 khuynh hướng hiện thực huyền ảo rất phát triển
“đa số các cây bút trẻ được người đọc ái mộ thường viết theo khuynh hướng
hiện thực huyền ảo”(Bùi Việt Thắng). Phần lớn họ thuộc thế hệ nhà văn
“không hề bị vướng mắc bởi cái nhìn sử thi” (Hoàng Ngọc Hiến). Sự nở rộ
của lớp nhà văn này theo Trần Quốc Vượng: “có thể diễn giải như một cơn lốc
giải toả khát vọng, khát vọng sáng tạo bị dồn nén từ lâu. Các nghệ sĩ đang tìm
kiếm bản sắc riêng cho mình”. Sự lên ngôi của khuynh hướng hiện thực huyền
ảo ngoài tiền đề vững chắc là tinh thần dân chủ cởi mở của đời sống, từ đội
ngũ sáng tác trẻ bắt nhịp nhanh với đổi mới còn có sự hậu thuẫn bởi những
thay đổi trong thị hiếu thẩm mỹ đưa đến nhận thức mới về cuộc sống. Đằng
sau bức màn lung linh huyền ảo ấy là những vấn đề gai góc, nổi cộm của thực
tại. Có thể khẳng định rằng, yếu tố huyền ảo được sử dụng khá phổ biến trong
văn xuôi thời kỳ đổi mới, đặc biệt là tiểu thuyết. Với khuynh hướng này nhà
văn có thể tạo ra nhiều yếu tố như hư thực, nhưng ẩn chứa trong ấy lại là thực
tại của cuộc sống con người. Họ có thể tạo ra một thế giới chỉ có trong tưởng
tượng nhưng thế giới đó lại giống với cuộc đời thực, và chúng ta có thể dễ
dàng bắt gặp đâu đây trong cuộc sống xung quanh mình. Hiện thực được mô



×