Tải bản đầy đủ (.doc) (115 trang)

Sự thay đổi về địa giới hành chính và dân cư ở huyện đô lương (nghệ an) từ năm 1963 đến năm 2011 luận văn thạc sĩ lịch

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.56 MB, 115 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
----------------------------

HOÀNG THẾ GIÁP

SỰ THAY ĐỔI VỀ ĐỊA GIỚI HÀNH CHÍNH
VÀ DÂN CƯ Ở HUYỆN ĐÔ LƯƠNG (NGHỆ AN)
TỪ NĂM 1963 ĐẾN NĂM 2011
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã Số: 60.22.54

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ

Người hướng dẫn khoa học:
PGS. HOÀNG VĂN LÂN

Nghệ An, 2012


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, trong quá trình nghiên cứu, tôi đã nhận
được sự giúp đỡ tận tình của PGS. Hoàng Văn Lân. Tôi xin chân thành bày tỏ
lòng biết ơn sâu sắc đến Thầy.
Nhân dịp này, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy cô
giáo khoa Lịch sử, khoa đào tạo Sau đại học trường Đại học Vinh, Trung tâm
Thư viện Nguyễn Thúc Hào, Thư viện tỉnh Nghệ An, Cục Thống kê Nghệ An,
UBND huyện Đô Lương, Trung tâm lưu trữ UBND tỉnh Nghệ An…gia đình
và bạn bè đã cung cấp tư liệu, động viên, giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi
cho tôi hoàn thành luận văn này.
Quá trình thực hiện luận văn tuy đã cỗ gắng hết sức, song không thể


tránh khỏi những thiếu sót do chưa có kinh nghiệm và kiến thức đầy đủ. Tôi
mong được sự góp ý chân thành của các thầy cô và bạn bè.
Xin chân thành cảm ơn!
Vinh, tháng 10 năm 2012
Tác giả
Hoàng Thế Giáp


MỤC LỤC
Trang


DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
CNXH

:

Chủ nghĩa xã hội

NXB

:

Nhà xuất bản

THCS

:

Trung học cở sở


THPT

:

Trung học phổ thông

TW

:

Trung ương

UBND

:

Ủy ban nhân dân

DSKHHGĐ :

Dân số kế hoạch hóa gia đình.

CP

:

Chính phủ




:

Nghị định



:

Quyết định

CT

:

Chỉ thị

ODA

:

Hỗ trợ phát triển chính thức


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Về mặt khoa học
Chọn đề tài “ Sự thay đổi về địa giới hành chính và dân cư ở huyện Đô
Lương (Nghệ An) từ năm 1963 đến năm 2011” làm đề tài nghiên cứu là nhằm
giải quyết những nội dung về mặt khoa học như sau:

Trong tiến trình lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta từ thời
đại Hùng Vương tới thời đại hồ Chí Minh, hầu hết các địa giới hành chính
giữa các trấn, lộ, đạo, phủ, huyện, làng, xã,…đều có những sự biến đổi nhất
định, ít có sự ổn định bền vững. Trong khi đó, việc thay đổi địa giới hành
chính lại gắn với nhiều biến đổi về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh
quốc phòng của cả một cộng đồng dân cư trong suốt thời gian dài. Do vậy,
việc nghiên cứu về những thay đổi, điều chỉnh địa giới hành chính của các
trấn, lộ, phủ, huyện, làng, xã,…là một đề tài có giá trị cho việc nghiên cứu về
lịch sử dân tộc nói chung, lịch sử vùng miền, tỉnh và huyện nói riêng.
Đặc biệt, từ trước tới nay việc nghiên cứu sự thay đổi địa giới hành
chính và dân cư của huyện Đô Lương chưa được nghiên cứu một cách cụ thể.
Vì điều kiện lịch sử riêng của nó: trước năm 1963, Đô Lương thuộc huyện
Anh Sơn, đến ngày 19/04/ 1963 theo Quyết định 52/QĐ - CP của Hội đồng
Chính Phủ, Đô Lương được chia tách. Vì thế, việc nghiên cứu địa giới hành
chính và dân cư của huyện còn một cách chung chung. Do đó, việc nghiên
cứu về “sự thay đổi về địa giới hành chính và dân cư ở huyện Đô Lương từ
1963 đến năm 2011” là góp phần vào việc nghiên cứu một vấn đề còn nhiều
khoảng trống trong lịch sử dân tộc nói chung và lịch sử huyện Đô Lương nói
riêng .
1.2. Về mặt thực tiến
Từ năm 1963 đến năm 2011, phạm vi không gian địa lý của huyện cũng
có nhiều sự thay đổi trong bối cảnh lịch sử của tỉnh nhà nói riêng và đất nước

5


nói chung. Đặc biệt trải qua cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc ta chống
lại đế quốc Mỹ xâm lược và trong công cuộc đổi mới hiện nay. Những biến
động và thay đổi dồn dập đó của lịch sử huyện nhà gắn liền với lịch sử dân
tộc nói chung và tỉnh Nghệ An nói riêng. Đề tài góp phần vào việc nghiên cứu

một cách có hệ thống toàn diện những thay đổi về địa giới hành chính, dân cư
của huyện Đô Lương (Nghệ An) nhằm góp phần lấp một khoảng trống trong
nghiên cứu lịch sử địa phương lâu nay, để giúp cho người đọc có cái nhìn cận
cảnh và toàn diện hơn về lịch sử địa phương.
Sự thay đổi địa giới hành chính của huyện Đô Lương trong thời gian
qua kéo theo sự thay đổi về dân cư và ảnh hưởng của nó đến những vấn đề
quản lý đất đai, phân bố lại vị trí các vùng dân cư, sự phát triển kinh tế văn
hóa, giáo dục, y tế, bố trí lại cán bộ quản lý, hệ thống cơ sở hạ tầng... Đề tài
không chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu những thay đổi về địa giới hành chính,
dân cư mà phạm vi nội dung của đề tài còn được mở rộng sâu hơn nhằm tạo
bức tranh toàn cảnh về bước đường phát triển của huyện nhà trong những
năm khói lửa chiến tranh và trong công cuộc đổi mới hiện nay.
Ngoài những nét riêng trong quá trình phát triển của huyện Đô Lương
từ 1963 đến năm 2011, thì huyện Đô Lương còn mang những nét chung giống
các huyện, thị ở nước ta trong quá trình hình thành và phát triển từ nửa sau
thế kỷ XX đến nay.Vì vậy, nghiên cứu về những thay đổi về địa giới hành
chính và dân cư huyện Đô Lương là góp phần vào việc nghiên cứu về hệ
thống huyện, thị ở nước ta. Đây là một vấn đề lớn đang được giới sử học đặc
biệt quan tâm trong giai đoạn hiện nay. Là người con sinh ra trên vùng đất Đô
Lương, thông qua việc nghiên cứu đề tài, tôi muốn góp phần nhỏ bé của mình
vào việc xây dựng và phát triển quê hương.
Với những lý do trên, chúng tôi quyết định chọn đề tài: “Sự thay đổi về
địa giới hành chính và dân cư ở huyện Đô Lương (Nghệ An) từ năm 1963
đến năm 2011” làm đề tài luận văn thạc sĩ cho mình.

6


2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong những năm gần đây, thực hiện chủ trương của BCH TW Đảng

và nghị quyết của BTV Tỉnh ủy Nghệ An, các địa phương trong tỉnh đang tích
cực viết lịch sử Đảng bộ xã, lịch sử xã, nhưng vần đề biến đổi về địa giới
hành chính và dân cư của các địa phương vẫn chưa được quan tâm chú ý đúng
mức. Cho đến nay, vẫn chưa có một công trình chuyên sâu nào nghiên cứu về
đề tài: “Sự thay đổi về địa giới hành chính và dân cư ở huyện Đô Lương từ
năm 1963 đến năm 2011” một cách đầy đủ và có hệ thống. Trong nhiều năm
gần đây, cũng đã có những công trình nghiên cứu về huyện Đô Lương ở
những góc độ khác nhau đã đề cập đến một số khía cạnh của vần đề này.
Cuốn sách “Lịch sử Đảng bộ huyện Đô Lương” tập I (1930 - 1963),
NXB Nghệ An, “Lịch sử Đảng bộ huyện Đô Lương” tập II (1963 - 2005),
NXB Nghệ An của Ban chấp hành Đảng bộ huyện Đô Lương, đã dành một
phần nhỏ đề cập về lãnh thổ địa giới hành chính và dân cư của huyện Đô
Lương và sự tách, nhập thành lập một số xã mới trong huyện trong các giai
đoạn phát triển của địa phương cũng như của dân tộc.
Một số bài viết tìm hiểu về di tích lịch sử văn hóa, về truyền thống đấu
tranh,...và những chuyển biến kinh tế - xã hội ở Đô Lương của những học giả
và các con em địa phương trong những năm gần đây như:
1.Nguyễn Trí Nghị (2005), Tìm hiểu một số di tích lịch sử - văn hóa ở
huyện Đô Lương - Nghệ An, Đại học Vinh.
2.Nguyễn Thị Hằng (2009), Tìm hiểu một số dòng họ tiêu biểu ở Đông
Sơn, Đô Lương, Đại học Vinh.
3.Nguyễn Thị Kim Oanh (2006), Tìm hiểu một số nghề thủ công truyền
thống ở Đô Lương - Nghệ An, Đại học Vinh.
4.Trần Thị Quyên (2007), Đảng bộ Đô Lương với quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế thời kỳ đổi mới (1986 - 2006), Đại học Vinh.

7


5.Mai Thị Lan Phương (2009), Cuộc vận động giải phóng dân tộc ở Đô

Lương (Nghệ An) giai đoạn từ 1939 đến 1945, Đại học Vinh.
Ngoài ra một số các tài liệu mà tác giả liệt kê trong phần tài liệu tham
khảo cũng đề cập ít nhiều đến sự thay đổi địa giới hành chính và dân cư của
huyện Đô Lương, mặc dù còn mang tính chất sơ lược và đơn lẻ nhưng đó
cũng là nguồn tài liệu quan trọng để chúng tôi so sánh đối chiếu và đi sâu vào
nội dung đề tài đề cập đến.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu, các bài viết trên đây đã làm
sáng tỏ một số vần đề của huyện nói chung và vấn đề địa giới hành chính, cư
dân của huyện nói riêng. Tuy nhiên, nếu xét một cách khách quan toàn diện
thì cho đến nay vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách cụ thể,
chi tiết về những thay đổi địa giới hành chính và dân cư của huyện Đô Lương
từ năm 1963 đến năm 2011. Vì vậy, đề tài này tác giả mong muốn có thể tập
trung nghiên cứu một cách hệ thống những thay đổi về địa giới hành chính và
dân cư ở huyện Đô Lương từ năm 1963 đến năm 2011.
3. Đối tượng và phạm vị nghiên cứu đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những thay đổi về địa giới hành chính
và dân cư ở huyện Đô Lương (Nghệ An) từ năm 1963 đến năm 2011 cũng
như ảnh hưởng tác động của vấn đề đó với đời sống của kinh tế, văn hoá, xã
hội, an ninh quốc phòng của dân cư huyện Đô Lương.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Về không gian: đề tài chỉ tập trung nghiên cứu những thay đổi về địa
giới hành chính, dân cư ở huyện Đô Lương từ năm 1963 - 2011
Về thời gian: chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu những thay đổi về địa
giới hành chính, dân cư trong thời gian từ năm 1963 đến năm 2011 trên địa
bàn huyện Đô Lương, ngoài ra còn có những nội dung khác nhưng nằm trong
phạm vi nghiên cứu của đề tài.

8



4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tư liệu
Chúng tôi đã tiến hành thu thập, sưu tầm, các nguồn tư liệu từ: các nghị
quyết, nghị định của Chính phủ, của tỉnh Nghệ An; các đề án xây dựng tỉnh
Nghệ An cũng như của Ủy ban nhân dân huyện Đô Lương; các phòng ban
huyện ủy, ủy ban nhân dân huyện như: phòng thống kê, phòng lưu trữ, phòng
dân số; tài liệu từ các thư viện như: thư viện Quốc gia, thư viện tỉnh Nghệ An,
thư viện Đại học Vinh, thư viện huyện Đô Lương; các Bảo tàng; tài liệu từ
các phòng ban của cục Thống kê tỉnh Nghệ An; tài liệu ở các xã; một số công
trình nghiên cứu của các nhà nghiên cứu lịch sử, dân tộc học, xã hội học, còn
phải kể đến nguồn tài liệu từ các cuốn Gia phả của các dòng họ trên địa bàn
huyện,.. có liên quan đến đề tài đã được công bố.
Ngoài ra chúng tôi còn tham khảo thêm một số luận văn tốt nghiệp cao
học, thạc sỹ chuyên ngành lịch sử Việt Nam đã được bảo vệ tại Đại học Vinh,
Đại học sư phạm Hà Nội có nội dung liên quan đến đề tài, một số bài báo, báo
cáo tổng kết hàng năm của huyện, xã về tình hình kinh tế, xã hội, văn hoá,
giáo dục, y tế, an ninh quốc phòng... cũng được chúng tôi tham khảo để đối
chiếu, so sánh.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này chúng tôi sử dụng nhiều phương pháp phục vụ
cho nghiên cứu chuyên nghành như: Đối chứng, so sánh, thống kê, xử lý tư
liệu. Từ đó có cơ sở để nhìn nhận, phân tích, đánh giá vấn đề. Đồng thời sử
dụng hai phương pháp truyền thống quan trọng là phương pháp lôgic, phương
pháp lịch sử để mở rộng nhiều nguồn tư liệu, sự kiện lịch sử với mục đích
khôi phục lại bức tranh quá khứ đúng như nó đã tồn tại. Sau cùng là tổng hợp,
khái quát để đưa ra những đánh giá chung nhất, khách quan và chính xác
nhất.

9



5. Đóng góp của luận văn
Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách tương đối toàn diện, có
hệ thống và những thay đổi địa giới hành chính, dân cư của huyện Đô Lương
(Nghệ An) từ năm 1963 đến năm 2011.
Luận văn đã hệ thống được những tài liệu liên quan đến đề tài để các
tác giả khác có thể tham khảo khi nghiên cứu về huyện Đô Lương, lịch sử
huyện Đô Lương nói riêng, lịch sử Nghệ An nói chung.
Thông qua hệ thống nguồn tư liệu phong phú, bước đầu luận văn đánh
giá những tác động do sự thay đổi địa giới hành chính, tên gọi đến đời sống
kinh tế, văn hóa, tình hình chính trị, xã hội, giáo dục... cũng như những hạn
chế do tác động của sự thay đổi địa giới hành chính trên địa bàn huyện Đô
Lương trong phạm vi thời gian đề tài xác định.
Luận văn trình bày nguyên nhân dẫn đến thay đổi địa giới hành chính
và dân cư ở một huyện cụ thể, từ đó rút ra một số nhận xét về những điểm
chung và riêng trong quá trình thay đổi địa giới hành chính, dân cư ở Đô
Lương so với các huyện khác trong tỉnh Nghệ An.
Luận văn cũng góp phần cung cấp tài liệu để giảng dạy lịch sử địa
phương, góp phần giáo dục truyền thống yêu quê hương, đất nước cho thế hệ trẻ.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung chính của luận văn được trình
bày trong ba chương:
Chương 1: Sự thay đổi địa giới hành chính ở huyện Đô Lương từ năm
1963 đến năm 2011
Chương 2: Sự thay đổi dân cư ở huyện Đô Lương từ khi thành lập
huyện cho đến năm 2011
Chương 3: Tác động của thay đổi địa giới hành chính và dân cư đến
quá trình phát triển ở huyện Đô Lương


10


NỘI DUNG
Chương 1
SỰ THAY ĐỔI ĐỊA GIỚI HÀNH CHÍNH Ở HUYỆN ĐÔ LƯƠNG
TỪ NĂM 1963 ĐẾN NĂM 2011
1.1. Vài nét về địa giới hành chính và dân cư ở vùng đất Đô Lương trước
khi thành lập huyện
1.1.1. Địa giới hành chính, tên gọi
Đô Lương là huyện nằm về phía bắc thành phố Vinh, Phía Đông giáp
huyện Nam Đàn, Nghi Lộc, phía Bắc giáp huyện Yên Thành, phía Tây giáp
huyện Tân Kỳ, Anh Sơn và phía Nam giáp huyện Thanh Chương.
Địa hình của Đô Lương nghiêng dần về Đông. Diện tích đất trồng trọt
của huyện được phân bố trên các vùng: bán sơn địa, vùng lúa, vùng ven bãi
sông Lam và các vùng kinh tế mới. Vùng rừng đồi và ven theo các bãi sông
rất thuận lợi cho việc trồng các loại cây hoa màu, cây lâu năm, đặc biệt là cây
công nghiệp. Ruộng đất phì nhiêu được trải ra thành cánh đồng vừa rộng, vừa
bằng phằng lại có hệ thống tưới tiêu khá tốt, nên rất thuận lợi cho việc đẩy
mạnh thâm canh tăng năng suất. Đô Lương trở thành một trong những vùng
trọng điểm lúa của tỉnh Nghệ An.
Sông Lam là con sông lớn nhất của tỉnh Nghệ An, bắt nguồn từ đất Lào
chảy qua các huyện vùng thượng rồi đổ về Đô Lương, chia huyện thành hai
phía tả ngạn và hữu ngạn. Ngoài ra, Đô Lương còn có các con sông nhỏ phụ
lưu của sông Lam chảy từ nhiều vùng khác nhau về rồi đổ vào sông Lam. Các
con sông lớn, nhỏ phục vụ tưới tiêu, bồi đắp phù sa đem lại sự phì nhiêu cho
đồng bãi và tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao lưu mọi mặt trong đời sống
kinh tế, xã hội.
Đô Lương nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm nên có
những thuận lợi như: nắng lắm, mưa nhiều, độ ẩm cao nên rất thuận lợi cho


11


việc phát triển trồng trọt, chăn nuôi. Nhưng bên cạnh những yếu tố thuận lợi
đó Đô Lương còn chịu sự khắc nghiệt của thiên nhiên như việc hình thành các
vùng tiểu khí hậu, lượng mưa, nắng phân bố không đều trong năm nên thường
xảy ra hạn hán, lũ lụt thường xuyên. Nên từ lâu con người ở đây đã biết đoàn
kết, gắn bó với nhau để chống đỡ mọi khó khăn dưới nhiều hình thức phong
phú như: phường, hội...
Với sự phong phú về tài nguyên, đất đai, khí hậu nên rất thuận lợi cho
việc phát triển cây trồng, vật nuôi. Ngoài việc trồng cây lương thực nơi đây còn
có những loại cây đặc sản nổi tiếng như Bưởi Lương Sơn, Vải Thanh Lưu, Nhãn
Khả Quan,…Bên cạnh đó, Đô Lương còn nổi tiếng với nghề thủ công truyền
thống như: Nồi đất ở Trù Sơn, Gạch ngói ở Đà Sơn, nuôi Tằm dệt Vải…Ngoài
ra Đô Lương còn có các nghề như: mộc, rèn, làm đá, đan lát mây tre,…
Đô Lương có một hệ thống giao thông thuận lợi cả về đường thủy lẫn
đường bộ. Nhất là từ khi con đường quốc lộ số 7 đi qua huyện thì từ Đô
Lương, ta có thể đi đến mọi miền một cách thuận lợi, dễ dàng. Do đó mà
người ta đã ví Đô Lương như một dúm vó, cái “dúm vó” tuyệt vời ấy từ xưa
tới nay là huyết mạch trong việc giao lưu kinh tế, văn hóa.
Căn cứ vào các nguồn sử liệu thời phong kiến trong và ngoài nước
cũng như các tư liệu nghiên cứu về lịch sử và khảo cổ của các nhà khoa học
ngày nay, quá trình hình thành và biến đổi các đơn vị hành chính vùng đất Đô
Lương xưa và nay được ghi chép qua các nguồn tư liệu như sau:
Huyện Đô Lương ngày nay, xưa vốn là phần đất thuộc bộ Việt Thường,
một trong 15 bộ của nước Văn Lang thủa các Vua Hùng dựng nước. Trong
thời kì chống lại ách đô hộ của phong kiến phương Bắc, Đô Lương thuộc các
đơn vị hành chính khác nhau. Đời nhà Hán, Đô Lương thuộc phần đất của
huyện Hàm Hoan, đời Đông Ngô là đất của huyện Đô Giao, đời Đường thuộc

huyện Nhật Nam của châu Hoan [4; 9].

12


Thời Lý - Trần - Hồ, Đô Lương thuộc huyện Đông Ngàn thuộc Châu
Hoan, theo sách “Đất nước Việt Nam qua các đời” của Đào Duy Anh “lấy
tên Đông Ngàn mà suy thì thấy rằng huyện ấy phải là ở trên bờ phía đông
(Đông Ngàn) sông Lam, có thể là là tương đương phần huyện Thanh Chương
và huyện Anh Sơn ở bên bờ tả ngạn [1; 160].
Thời Lê Sơ năm 1490, niên hiệu Hồng Đức thứ 21, đời vua Lê Thánh
Tông, Anh Sơn thuộc huyện Nam Đường, phủ Anh Đô, xứ Nghệ An.
Thời nhà Nguyễn trước năm 1822, Đô Lương thuộc tổng Đô Lương,
huyện Nam Đường, phủ Anh Đô. Theo sách "Tên làng xã Việt Nam đầu thế
kỷ XIX", Đô Lương là một Tổng thuộc huyện Lương Sơn, phủ Anh Đô, cụ thể
như sau: Phủ Anh Đô gồm có 2 huyện: huyện Hưng Nguyên và huyện Nam
Đường. Huyện Nam Đường Gồm có 8 tổng, 90 xã, thôn, phường, trại, sách,
giáp, vạn, đó là:
1. Tổng Non Liễu: 20 xã, thôn, giáp: Non Liễu, Yên Lạc, Thanh Tuyền,
Non Hồ, Vân Đồn, Chung Giáp, Thượng Hồng (thôn)
2. Tổng Lâm Thịnh có 15 xã, thôn, phường, giáp: Lâm Thịnh, thôn
Chung Mỹ, Duyên La, Trường Cát, Chung Cự (thôn Ngọc Đình, thôn Hoàng
Trù, thôn Kim Lạc, thôn Vân Hội, giáp khoa cử, phường Tiểu Ca), Gia Lạc,
Hữu Biệt, Vạn Thủy cơ Duyên La
3. Tổng Đại Đồng có 6 xã, thôn, giáp: Đại Đồng, Hiến Lạng, Đồng Luân
(thôn Luân, giáp Bào và giáp Chân Ngọc thuộc thôn Bào), Nông Sơn, Lạng Khê.
4. Tổng Hoa Lâm có 5 xã, thôn: Hoa Lâm, Động Liệt, Hoa Ổ, Đồng
Điên, Tràng Các
5. Tổng Đô Lương gồm 24 xã, thôn, giáp:
Đô Lương (xã): thôn Cẩm Hoa Thượng, thôn Cẩm Hoa Đông, giáp

Nghiêm Thắng, giáp Duyên Quang, thôn Đông Trung, thôn Hoa Viên, thôn
Phúc Thị. - Đại Tuyền (xã): thôn Phúc Thọ, Đông Am, giáp Trung An, thôn
An Thành - Bạch Đường: thôn Nhân Trung, thôn Phúc Tuyền, thôn Phúc An,

13


thôn Nhân Bồi, thôn Miếu Đường. - Diêm Trường: thôn An Tứ, Bỉnh Trung,
Chấp Trung - phường Thiên Lý, thôn Vĩnh Trung, phường Hồng Hoa, vạn
Trung Lở (sau đổi là ph. Duy Thanh)
6. Tổng Thuần Trung có 6 xã thôn: gồm các thôn Thuần Trung, Tràng
Bộc, Yết Nghi, Phật Kệ, Sơn La;
7. Tổng Bạch Hà có 5 xã: Bạch Hà, Nhân Luật, Lưu Sơn, Thanh Thuỷ,
Đào Ngoã.
8. Tổng Lãng Điền có 9 xã, vạn, sách, thôn: Lãng Điền, Mặc Điền, Tào
Nguyên, thôn Vạn Hộ, Cấm An, An Lương, vạn Lãng Điền, Mặc Điền, sách
Tào Giang [53; 103].
Đến năm Minh Mệnh thứ 3 (1822), phủ Anh Đô đổi ra thành phủ Anh
Sơn, đến năm Minh Mệnh thứ 21 đặt thêm huyện Lương Sơn. Từ năm 1840
Đô Lương thuộc huyện Lương Sơn phủ Anh Sơn [1;197]. Theo “Đồng
Khánh địa dư chí”, viết về phủ Anh Sơn như sau:
Phủ Anh Sơn ở phía tây thành tỉnh. Phủ kiêm lí 2 huyện Lương
Sơn, Nam Đường, thống hạt 2 huyện: Thanh Chương, Hưng Nguyên, Chân
Lộc. Phủ lị đặt ở thôn Bột Đà, xã Phật Kệ, tổng Thuần Trung, huyện Lương
Sơn. Bốn mặt đắp thành đất, chu vi 72 trượng (tả, hữu, trước, sau mỗi chiều
đều 18 trượng), xung quanh trồng tre gai, hai bên ngoài có hào rộng 1 trượng
5 thước, sâu 3 thước. Thành có 2 cửa: cửa Tiền và cửa Hậu, đều xây gạch.
Phủ hạt phía đông giáp biển cả, phía tây giáp phủ Tương Dương, phía
nam giáp Phủ Đức Thọ, phía Bắc giáp hai phủ Quỳ Châu và Diễn Châu. Đông
Tây cách nhau 224 dặm. Năm bắc cách nhau 88 dặm.

Huyện có 2 phủ Lương Sơn và Nam Đường do phủ kiêm lý, gồm 9 tổng:
1. Thuần Trung, gồm 17 xã, thôn:
Thôn: Bột Đà, Phượng Lịch, Thuần Hậu, Đông Bích, Trung Thượng, Mỹ
Trung, Tiên Cung, Doanh Châu, Thuận Lý, Phú Văn, Bảo Thiện, Mỹ Ngọc,
Lễ Nghĩa, Trung Hậu, Thượng Cát; xã: Sơn La, Trường Mỹ.

14


2. Tổng Bạch Hà, gồm 11 xã, thôn: Đào Mỹ, Văn Khuê, Triêu Dương,
Ngọc Mỹ, Ngọc Luật, Lưu Sơn, Thanh Tân, Bạch Hà, Long Thái, Văn Lâm,
Chi Phương.
3. Tổng Đô Lương, gồm 23 thôn: Yên Tứ, Bỉnh Trung, Chấp Trung,
Trường Thịnh, Cẩm Ngọc, Hương Liên, Đông Trung, Nghiêm Thắng, Phúc
Thuỵ, Diên Tiên, Tập Phúc, Nhân Bồi, Phúc Hậu, Nhân Trung, Phúc Yên,
Trạc Thanh, Thanh Đường, Vĩnh Sơn, Phúc Mỹ, Ân Thịnh, Phú Thọ, Yên
Thanh, Mỹ Hoà.
4. Tổng Đặng Sơn, gồm 28 xã, thôn: Nhân Hậu, Phú Nhuận, Xuân Chi,
Xuân Như, Đặng Lâm, Đặng Thượng, Long Bố, Khả Quan, Lương Điền, Khả
Phong, Đa Cai, Dương Long, Dương Xuân, Yên Phú, Vĩnh Yên, Yên Lĩnh,
Tri Lễ, Thanh Lãng, Phúc Sơn, Xuân Trường, Khai Lãng, Hội Lâm, Tam
Giang, Thanh Lương, Chân Suất, Xuân Thuỷ, Thanh Xuân, Lương Giang.
5. Tổng Lãng Điền, gồm 9 xã thôn: Mặc Điền, Lãng Điền, Hội Tiên,
Đại Điền, Vạn Hộ, Yên Lương, Cấm Võng, Tào Điền, Tào Giang.
Huyện Nam Đường: gồm 4 tổng, 73 xã, thôn, phường.
Từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta đến đầu năm 1946, phủ Anh
Sơn là một trong 6 phủ 5 huyện của tỉnh Nghệ An. Từ năm 1946 đến năm
1963 Đô Lương nằm trong huyện Anh Sơn - một trong 12 huyện của tỉnh
Nghệ An. Theo quyết định số 52/CP ngày 19 tháng 4 năm 1963 của Hội đồng
Chính Phủ, Anh Sơn được tách ra thành 2 huyện Đô Lương và Anh Sơn

(mới). Huyện Đô Lương là phần đất của các tổng: Bạch Hà, Thuần Trung, Đô
Lương, Yên Lăng và một phần của tổng Đặng Sơn (chiếm hơn 4 trong 6 tổng
của phủ Anh Sơn cũ.
1.1.2. Dân cư
Đô Lương là một huyện đồng bằng nhưng từ lâu lại có thế mạnh của
kinh tế trung du, tài nguyên phong phú, nhân lực dồi dào lại có hệ thống giao
thông thuận lợi. Từ lâu dân cư được xem là nguồn lực chính để phát triển

15


huyện nhà. Xét về nguồn gốc con người Đô Lương đã có từ xa xưa. Các tài
liệu khảo cổ học phát hiện các di cốt hóa thạch ở các vùng lân cận Đô Lương
như: Rạng, Dùng (Thanh Chương), Tân Kỳ, Diễn Châu, Nghĩa Đàn,…đã
khẳng định rằng cách đay 20 vạn năm đã có người sinh sống. Con người Đô
Lương cũng xuất hiện vào trong bối cảnh đó.
Trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử nước nhà, phải chịu đựng gánh
nặng của những cuộc chiến tranh tranh giành quyền lực, trên mảnh đất Đô
Lương đầy nắng và gió với nhũng khắc nghiệt của thiên nhiên các vùng quê,
các làng xã nông thôn đều gặp phải những khó khăn gian khổ, đã có những
người dân phải bỏ đất, bỏ làng ra đi. Tuy vậy, vẫn còn đó những người dân
bám đất, bám làng xây dựng nên những làng quê dân cư đông đúc sinh sống.
Mặc dù có những khó khăn gian khổ, nhưng đây vẫn là vùng đất hội tụ những
dòng họ nổi tiếng đến định cư hình thành nên các làng, xã.
Ở xã Bắc Sơn có dòng họ Hoàng Trần, theo gia phả để lại nguồn gốc
của họ Hoàng Trần từ họ Mạc, xuất phát từ làng Lương Đồng, Chí Linh Hải
Dương. Trong cơn biến loạn tháng 6 năm đinh Hợi 1527, Mạc Đăng Dung
chiếm ngôi nhà Lê lập ra triều Mạc tồn tại 150 năm. Năm 1592, do những
biến cố của lịch sử các vị họ Mạc phải thay tên đổi họ phân tán khắp nơi, ẩn
tích lãnh nạn. Năm 1575, Mạc Đăng Lượng là người chiêu dân lập ấp, lập dân

ra tổng Đặng Lâm (Nam Sơn, Bắc Sơn, Đặng Sơn ngày nay) [49; 2].
Ở xã Bài Sơn, Đô Lương có dòng họ Thái Đắc từ bắc vào đây lập
nghiệp ở thế kỷ thứ XVII. Đây là dòng họ luôn có đóng góp rất lớn sức người,
sức của trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, nhà thờ dòng họ là
nơi hoạt động bí mật của các đồng chí lãnh đạo, đây còn là địa điểm in ấn, cất
dấu tài liệu của Phủ ủy Anh Sơn. Nhà thờ Thái Đắc là một công trình kiến
trúc mang đậm bản sắc xứ Nghệ [51; 2].
Xã Đông Sơn có dòng họ Nguyễn Cảnh có nguồn gốc thiên lý Đông
Triều, tỉnh Quảng Ninh. Cuối đời Hồ ông tổ của họ Nguyễn Cảnh đã chạy

16


theo đoàn người loạn lạc đến Ninh Bình sau đó là Hương Sơn, Hà Tĩnh. Cuối
cùng theo nghĩa binh Lam Sơn diệt trừ giặc Minh, ông dời đến bến sông Lam
lần theo các xã huyện Thanh Chương, Đô Lương, tỉnh Nghệ An. Theo thời
gian dòng họ Nguyễn Cảnh ngày càng phát triển, chung sức cùng các dòng họ
nơi khác họ Nguyễn Cảnh sinh sôi nảy nở và đã thành một dòng họ lớn không
chỉ ở Nghệ An mà còn khắp mọi miền đất nước [30; 3]
Ở xã Tân Sơn có dòng họ Nguyễn Kim là một dòng họ có nguồn gốc
rất sớm, sự ra đời của dòng họ cũng như những dòng họ khác đã tạo nên một
cộng đồng dân cư sống và phát triển có bề dày hàng mấy thế kỷ từ buổi khai
sinh lập nghiệp cho đến ngày nay. Theo truyền thuyết và gia phả của dòng họ
để lại, tổ tiên dòng họ có nguồn gốc xuất xứ từ Thanh Hóa về lập nghiệp ở
đây vào buổi hoang sơ chưa có tên gọi. Cho đến nay, dòng họ đã trở thành
một dòng họ tương đối lớn và có vị trí quan trọng đóng góp vào nền kinh tế
của địa phương [48; 3]
Dưới thời thuộc Pháp, tình trạng dân cư huyện Đô Lương đã có nhiều
thay đổi. Trên mảnh đất này, dân cư ngày càng đông đúc vào những năm
1926 đến năm 1930, số dân của Đô Lương trên 70,000 người. Tuy nhiên, sau

khi đã thôn tính hoàn toàn nước ta, Pháp tiến hành tổ chức bộ máy nhằm áp
đặt sự thống trị, cướp bóc lâu dài trên đất nước ta. Riêng phủ Anh Sơn chúng
chia làm 6 tổng bao gồm: Lạng Điền, Đặng Sơn, Đô Lương, Thuần Trung,
Yên Lăng và Bạch Hà. Trong 6 tổng có 115 làng. Nông nghiệp vẫn được coi
là ngành kinh tế bao trùm của nhất của phủ Anh Sơn, vì thế nông dân là lực
lượng đông đảo chiếm phần đa. Tuy nhiên việc ruộng đất ngày càng tập trung
vào tay địa chủ và chủ yếu là bọn chức dịch, kỳ hào tay sai của chính quền
thực dân, sự chiếm hữu ruộng đất lớn của địa chủ đã đẩy phần lớn nông dân
địa phương vào tình trạng không tấc đất cắm dùi, ngày càng lệ thuộc bọn địa
chủ phú nông, quanh năm làm thuê cuốc mướn. Chỉ tỉnh riềng một số làng
như: Hội Tâm, Kim Liên, Vạn Phúc, số địa chủ ở đây có 1% dân số nhưng đã

17


chiếm tới 60% ruộng đất. Năm 1930, ruộng đất ở đây có 1010 mẫu thì 610
mẫu nằm trong tay bọn địa chủ phú nông; người nông dân chỉ có 322 mẫu, 80
mẫu là ruộng công phe giáp, dòng họ. Cùng với việc thiếu thốn ruộng cày,
người nông dân phải chịu các khoản địa tô sưu cao thuế nặng và thường
xuyên phải đối mặt với thiên tai lũ lụt, hạn hán, đã làm cho hàng trăm người
chết đói, hàng nhàn người phải đi ăn xin, đời sống người nông dân vô cùng cơ
cực [4; 17]. Ngoài việc thực hiện những chính sách khai thác bóc lột về kinh
tế, thực dân Pháp còn thực hiện các chính sách văn hóa xã hội. Về mặt văn
hóa: Pháp đã xác lập một nền văn hóa thực dân nô dịch lâu dài ở nước ta,
chúng đã lợi dụng tôn giáo rượu cồn, thuốc phiện để ru ngủ và mê huặc nhân
dân ta. Thực dân pháp còn thực hiện chính sách ngu dân bằng cách kìm hãm
dân trí. Là một trong những Phủ lớn của Nghệ An với trên 70 nghìn dân mà
Anh Sơn vẻn vẹn chỉ có một trường tiểu học Pháp - Việt gồm 6 lớp, chủ yếu
dành cho con em quan lại, nhà giàu có. Nhà thương Đô Lương là trung tâm y tế
của Phủ với số lượng thầy thuốc ít ỏi, không đủ sức chăm lo sức khỏe cho một

Phủ lớn, nên hàng năm hàng ngàn người bị chết do dịch bệnh hoành hành.
Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, theo công điện số 351 ngày
12/2/1946, Ủy ban hành chính trung bộ ra quyết định số 86 - VP thành lập ở
phủ Anh Sơn 27 xã, là một trong những huyện lớn của tỉnh Nghệ An với số
dân đông đúc, ngay sau khi thành lập huyện đã phải tập trung giải quyết nạn
đói hoành hành. Riêng nạn đói đầu năm 1945, cả huyện Anh Sơn cũ có 2493
người chết, trong đó có 106 gia đình không còn sót lại người nào [4;100].
Những khó khăn đó đã làm tình trạng dân cư của huyện Đô Lương có những
biến đổi.
Mặc dù đã trải qua những thăng trầm cùng với lịch sử dân tộc. Nhưng
trong những khó khăn ấy, người dân Đô Lương vẫn hình thành nên những
truyền thống quý báu. Đó là truyền thống hiếu học, truyền thống chống giặc

18


ngoại xâm, truyền thống văn hóa. Đó chính là niềm tự hào, là sức mạnh để
giúp Đô Lương vượt qua những khó khăn.
Đô Lương từ xa xưa cũng đã nổi danh là vùng đất hiếu học. Quan niệm
về học hành ở đây rất đơn giản và rõ ràng: trước là học để biết, để hiểu đạo lý
làm người, sau nữa là để giúp đời giúp nước. Vì thế, ở mảnh đất này những
nhà nho thời xưa đã nổi về sự khẳng khái, chí hướng, hào hiệp và trọng khí
tiết. Nơi đây còn lưu danh những dòng họ truyền thống về trình độ học vấn
như dòng họ Nguyễn Cảnh ở Đông Sơn là dòng họ có truyền thống hiếu học.
Từ xa xưa đã có nhiều bậc tiền nhân học hành đỗ đạt làm rạng danh cho dòng
họ và địa phương, nổi bật là: Nguyễn Hữu Tố là Hàm Lâm Viện Trực Học Sỹ
Suy Sử Quán Toản Tư có nhiều đóng góp cho triều đình phong kiến nhà
Nguyễn và được nhà Nguyễn gia tặng sắc phong; Tiến sĩ Nguyễn Nguyên
Thành từng giữ chức Hàm Lâm Viện Biên Tu. Dòng họ Nguyễn Cảnh ở Đông
Sơn tiêu biểu cho truyền thống khoa bảng, điển hình là 4 nhà anh em ruột bốn

nhà khoa học đã bảo vệ xuất sắc luận án tiến sĩ nhiều ngành khoa học khác
nhau: Nguyễn Cảnh Toàn (1926) là Giáo sư Tiến sĩ nhà giáo nhân dân, thứ
trưởng bộ Giáo dục và đào tạo; Nguyễn Cảnh Cầu (1928) là nhà giáo ưu tú,
Tiến sĩ Y Khoa; Nguyễn Cảnh Hộ (1930) là Tiến sĩ Triết học, nhà giáo ưu tú;
Nguyễn Cảnh Cầm (1937) là Giáo sư Tiến sĩ ngành Thủy lợi.
Không những chỉ có những dòng họ nổi tiếng mà những con người trên
mảnh đất Đô Lương luôn thể hiện sự khát vọng vươn tới và thích học hành đỗ
đạt khoa bảng, với triết lý “học để biết, biết để làm người” điều đó lại được
chắt lọc, chưng cất qua bao thế hệ trở thành truyền thống hiếu học và tôn
trọng nhân tài. Nhân dân Đô Lương ngày nay với những tấm gương sáng như:
Anh hùng quân đội Nguyễn Quốc Trị, Anh hùng quân đội Đặng Quang Cầm,
Đại tá nhà thơ quân đội Vương Trọng, Giáo sư Tiễn sỹ Bùi Sỹ Mão, Giáo sư
Tiễn sỹ Thái Bá Cầu, Giáo sư Tiến sĩ nhà giáo nhân dân Hoàng Xuân Lượng,
Lê Danh Vĩnh thứ trưởng Bộ Công thương,…

19


Bên cạnh việc Đô Lương được xem là vùng đất văn hóa nổi tiếng hiếu
học, chính những tên đất, tên làng Bạch Ngọc, Văn Khuê, Văn Lâm, Văn
Tràng, Hòn Nghiêng, Hòn Mực,… từ lâu đã được nhân dân hình tượng hóa,
thì mảnh đất Đô Lương còn được biết đến với truyền thống đấu tranh chống
giặc ngoại xâm oai hùng.
Lịch sử Đô Lương gắn chặt với lịch sử Nghệ An, xứ sở mà bao đời
được coi là “lá chắn”, là “thánh địa”, là “phên dậu” có sự ảnh hưởng rất lớn
đến sự tồn vong phát triển của lịch sử dân tộc.
Buổi đầu nước ta giành độc lập tự chủ, dưới vương triều Lý danh xưng
Nghệ An được ra đời. Nơi đây được triều đình phong kiến cực kỳ chú ý vì
thường xuyên phải đối chọi với giặc ngoại xâm như Lão Qua (Lào), Chiêm
Thành…từ phía Nam. Bởi vậy, vua Lý đã cử những người thân tộc vào Nghệ

An để cai quản. Năm Tân Tị Càn Phù Hữu Đạo thứ tư (1041), vua Lý Thái
Tông xuống chiếu cho Ủy Minh Hầu Lý Nhật Quang con trai thứ tám của vua
Lý vào làm tri châu Nghệ An. Sau khi khảo sát địa lý, địa hình và ý chí của
quân thần, tri châu Lý Nhật Quang đã chọn vùng Bạch Đường (nay là 3 xã
Lam Sơn, Ngọc Sơn, Bồi Sơn) làm thủ phủ đặt bản doanh. Như vậy, Đô
Lương từng là bản doanh cả một vùng lớn cả ba châu Hoan - Diện - Ái (nay
tương đương là Nghệ An Hà Tĩnh và một phần Thanh Hóa) điều đó nói lên
rằng mảnh đất Đô Lương có vị trí chiến lược hết sức quan trọng. Từ hậu
phương vũng chắc Nghệ An, mà bộ máy lãnh đạo nơi tập trung quân lương
chủ yếu Bạch Ngọc (Đô Lương), nhà Lý đã lần lượt mở các cuộc tấn công
chinh phạt về phía nam và liên tiếp dành thắng lợi. Với vị trí chiến lược, địa
hình hiểm yếu và con người nổi tiếng về lòng nhân nghĩa Đô Lương trở thành
nơi đứng chân của các vị anh hùng hào kiệt. Có thể nói trong suốt chiều dài
lịch sử, từ thế kỷ XI đến nay, không có một cuộc nổi dậy nào của nhân dân
Nghệ An chống lại cường bạo để giữ gìn độc lập chủ quyền cho dân tộc mà
không có sự đóng góp to lớn về nhiều mặt của nhân dân Đô Lương. Những

20


thắng lợi vang dội của nghĩa quân Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo ở các trận Bồ
Đằng, Trà Lân (Con Cuông)…làm cho giặc Minh “khiếp vỡ mật” có sự hậu
thuẫn rất lớn về quân lương của nhân dân Đô Lương. Đến thời Lê - Mạc rồi
Trịnh - Nguyễn phân tranh từ thế kỷ XVI trở đi Nghệ An là vùng “đất căn
bản” nên trở thành điểm tranh dành của các bên và “nhân dân Đô Lương cũng
đã đứng dậy tham gia các cuộc khởi nghĩa của Lê Duy Mật. Sau khi thất bại ở
đàng ngoài ông chạy vào Trấn Ninh thổi bùng ngọn lửa ấu tranh từ kỳ Sơn
đến Đô Lương” [4; 15].
Từ sau khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta, triều đình phong
kiến nhà Nguyễn từng bước đầu hàng giặc, thế nhưng nhân dân ta vẫn tiến

hành các cuộc đấu tranh chống Pháp rất quyết liệt. Trong phong trào Cần
Vương, ở Đô Lương có các cuộc khởi nghĩa của Tiến sỹ Nguyễn Nguyên
Thành (xã Đông Sơn - Đô Lương ngày nay) khởi xướng lãnh đạo đã quy tụ
được đông đảo lực lượng tham gia, cuộc khởi nghĩa đã liên kết được với các
cuộc khởi nghĩa do Nguyễn Xuân Ôn (Diễn Châu), Lê Doãn Nhã (Yên
Thành) tạo thành một vùng căn cứ rộng lớn.
Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế Quốc Mỹ, Đô
Lương cũng là một trong những địa bàn trọng điểm chịu sự dày xéo của bom
đạn. Nhân dân nơi đây lại có tinh thần cách mạng lớn, nên Đô Lương trã trở
thành một trong những ngọn cờ đầu của phong trào cách mạng 1930 - 1931;
Đô Lương cũng là một trong ba nơi cùng với Bắc Sơn và Nam Kỳ đã nổ
những phát súng đầu tiên báo hiệu một thời kỳ cách mạng mới trong kháng
chiến chống Pháp (đó là binh biến Đô Lương 13/1/1941; khởi nghĩa Bắc Sơn
22/9/1940 và khởi nghĩa Nam Kỳ 23/11/1941)
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, “Đô Lương có hơn
84 vạn lượt người tham chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Nhân dân nơi đây đã
ủng hộ 713 chỉ vàng, 1745 ngôi nhà, 3885 tấn thóc, 6,6 tỷ tiền mặt. Tổng chi
viện cho chiến trường lên đến 38,24 tỷ đồng. Đô Lương còn bổ sung 19.053

21


thanh niên quân thường trực”[52; 6]. Đô Lương có vị trí chiến lược nên nơi
đây cũng hứng chịu hàng vạn tấn bom đạn, đặc biệt là địa bàn Cầu Đô Lương,
Đập Ba Ra, tuyến đường 15A…Chính sự kiên cường chiến đấu của quân dân
nơi đây, mà nay huyện Đô Lương đã được nhà nước phong tặng danh hiệu
“Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”.
Những giá trị về truyền thống hiếu học, truyền thống chống giặc ngoại
xâm, đã tạo nên truyền thống văn hóa vô cùng quý báu cho nhân dân và con
người Đô Lương. Người dân Đô Lương có một đời sống văn hóa phong phú

với truyền thống lâu đời. Người dân nơi đây rất coi trọng những giá trị thuần
phong, mỹ tục, tín ngưỡng và quá khứ.
Quá trình hình thành và phát triển Tôn giáo ở Đô Lương gắn với quá
trình hình thành và phát triển Tôn giáo ở nước ta. Tuy nhiên sự hình thành và
phát triển ở Đô Lương có những nét riêng. Trong buổi đầu nước ta giành độc
lập tự chủ, thời đại Lý - Trần xuất hiện hiện tượng Tam giáo đồng nguyên
(nho, phật, lão cùng tồn tại) nhưng Phật giáo được lấy làm Quốc giáo. Các
ông vua nhà Lý đều coi trọng Phật giáo, chú trọng xây dựng chùa chiền để thờ
tự, chính vì thế khi Lý Nhật Quang vào cai quản ở Nghệ An ông cũng rất
chăm lo coi trọng Phật giáo. Theo ông Nguyễn Đức Kiếm trưởng phòng bảo
tồn bảo tàng Nghệ An thì: “xứ Bạch Ngọc xưa kia là một trong những trung
tâm phật giáo của Nghệ An”. Những chứng tích nay còn để lại như: chùa Bà
Bụt, chùa Nhân Bồi, chùa Nhân Trung…Có lịch sử từ thời Lý minh chứng
cho điều đó. Không những thế những di tích này còn minh chứng cho những
tư tưởng tốt đẹp của Phật giáo đã ăn sâu vào tiềm thức của người dân nơi đây.
Cùng với Phật giáo, theo thời gian Thiên chúa giáo cũng được truyền
bá và hình hành trên địa bàn Đô Lương. Hiện nay toàn huyện có khoảng 8
nghìn người theo đạo Thiên chúa giáo chiếm 4% dân số của huyện. Tất cả có
4 xứ 24 họ với 1426 hộ. Bốn xứ đó là xứ Lưu Mỹ ở Trù Sơn có 6 họ với 596
hộ, xứ Thanh Tân ở Hiến Sơn có 6 họ với 243 hộ, xứ Sơn La ở Xuân Sơn có 5

22


dòng họ với 277 hộ, xứ Bột Đà ở Đà Sơn có 5 dòng họ với 310 hộ. Hoạt động
công giáo ở Đô Lương tương đối thuần, lương giáo sống một cách hòa thuận
chan hòa cùng nhau.[5; 199]
Tín ngưỡng với tư cách như một hình thức thể hiện niềm tin vào cái
thiêng liêng của con người, của một cộng đồng nào đó, ở một trình độ phát
triển xã hội cụ thể. Ở Đô Lương hoạt động tín ngưỡng phong phú gắn với đời

sống tinh thần của người dân nơi đây. Trong đời sống tinh thần, truyền thống
quý báu nhất của người dân Đô Lương là: đạo lý uống nước nhớ nguồn coi
trọng quá khứ. Trên địa bàn huyện hiện nay các di tích thuộc về tín ngưỡng
của tổ tiên vẫn còn dẫu tích và được bảo vệ rất chu đáo. Những di tích: đền
Quả Sơn, đền thờ Nguyễn Cảnh Hoan, đền Đức Hoàng, chùa Bà Bụt, Truông
Bồn,…đã và đang được khôi phục trở lại là minh chứng cho truyền thống tốt
đẹp ấy. Bên cạnh truyền thống uống nước nhớ nguồn coi trọng quá khứ,
huyện Đô Lương còn lưu giữ tồn tại các tín ngưỡng truyền thống của dân tộc
như: tín ngưỡng thờ cũng ông bà cha mẹ tổ tiên, tín ngưỡng phồn thực, tín
ngưỡng thờ thành hoàng,.. Tất cả tạo nên nét đẹp trong truyền thống văn hóa
của người dân Đô Lương.
1.2. Những thay đổi địa giới hành chính từ 1963 đến năm 2011
1.2.1. Từ năm 1963 - 1975
Trước năm 1963, Đô Lương thuộc huyện Anh Sơn, một trong những
huyện lớn của tỉnh Nghệ An. Đến đầu năm 1963, để đáp ứng nhu cầu và
nhiệm vụ mới, ngày 19/4/1963, Hội đồng Chính phủ ra quyết định 52/QD CP phê chuẩn việc chia tách huyện Anh Sơn cũ thành hai huyện huyện Đô
Lương và huyện Anh Sơn (hiện nay). Huyện Đô Lương là phần đất của các
tổng Bạch Hà, Thuần Trung, Đô Lương, Yên Lãng và một phần của tổng
Đặng Sơn (chiếm hơn 4 trong 6 tổng của phủ Anh Sơn cũ). Sau khi chia tách
huyện Đô Lương có tổng diện tích tự nhiên 35.594 ha, dân số có 19.8 vạn
người, được phân bố thành 32 xã và 1 thị trấn. Từ khi thành lập đến năm

23


1975, hầu như huyện Đô Lương không có sự thay đổi lớn về địa giới hành
chính, mà chỉ có những thay đổi trong việc mở rộng diện tích trong phạm vi
lãnh thổ huyện. Ngay trong đại hội Đảng bộ huyện Anh Sơn cũ được khai
mạc tại xã Liên Sơn (nay là thị trấn Đô Lương) đã quán triệt quyết định
52/QĐ - CP của Hội đồng Chính phủ. Riêng huyện Đô Lương, trên cơ sở tình

hình thực tế của một nông nghiệp thuần nông, đại hội đã đề ra phương hướng
chung là: nhanh chóng ổn định tình hình mọi mặt, sớm kiện toàn tổ chức từ
huyện đến cơ sở, chăm lo phát triển đời sống kinh tế, ổn định đời sống xã hội,
xây dựng quê hương Đô Lương giàu mạnh. Để thực hiện được nhiệm vụ đó,
huyện đã tiến hành hợp tác hóa từ quy mô thôn xóm, nay đã lên quy mô làng
xã và thu được những kết quả tích cực. Tuy nhiên, vẫn còn mâu thuẫn giữa
yêu cầu tập trung ruộng đất vào các hợp tác xã với chế độ công hữu công
quản với thực tế ruộng đất manh mún nhỏ lẻ. Vì thế năm 1963, toàn huyện đã
tiến hành khoanh vùng, quy hoạch cải tạo đồng ruộng, tạo điều kiện cho canh
tác thuận lợi. Những vùng đồng ruộng gồ gề, lồi lõm, nhiều đám nhỏ lẻ được
tập hợp lại thành vùng, thành khoảnh lớn hơn có diện tích hợp lý từ hai mẫu
đến bốn mẫu. Nhờ đó tạo những điều kiện thuận lợi cho thủy lợi và cơ giới
hóa. Năm 1964, để tránh hiện tượng bỏ hoang đất đai sản xuất kém, huyện đã
tiến hành nhiều biện pháp như thực hiện hình thức ba khoán, nhờ vậy sản xuất
hiệu quả cao hơn. Trong giai đoạn này, mặc dù bị thiên tai và chiến tranh phá
hoại. Nhưng huyện Đô Lương đã vượt qua khó khăn tiến hành khai hoang,
phục hóa mở rộng diện tích. Trong hai năm (1965 - 1966), toàn huyện cải tạo
được hơn 60% diện tích đất nông nghiệp, với hàng triệu ngày công. Cũng
trong thời gian này, cả huyện đã cất bốc 42 nghìn ngôi mộ trên đồng ruộng
quy tập về nghĩa trang để tăng thêm diện tích sản xuất và canh tác thuận lợi
hơn [5; 21].
Trong giai đoạn 1963 - 1975, huyện Đô Lương vẫn duy trì 32 xã và
một thị trấn, diện tích được mở rộng hơn trước nhưng chủ yếu là đất nông

24


nghiệp. Nguyên nhân là thời kỳ này mới tách huyện và phải đối đầu với hai
cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Vì vậy, lãnh đạo huyện phải tập
trung kiện toàn bộ máy và lãnh đạo nhân dân kháng chiến, nên chưa ra những

điều chỉnh thay đổi về địa giới hành chính, tránh sự đảo lộn gây mất ổn định
trong đời sống nhân dân, nhằm dễ dàng hơn trong công tác quản lý, để thực
hiện nững nhiệm vụ trước mắt. Mặt khác, đặc điểm của huyện là huyện nông
nghiệp thuần nông, vì vậy huyện tập trung chú trọng phát triển lĩnh vực nông
nghiệp. Mở rộng diện tích, cải tạo đất đai để sản xuất được xem là nhiệm vụ
chính, nên không chỉ ở giai đoạn này mà trong suốt quá trình lịch sử nhiệm vụ
khai hoang phục hóa luôn được đặt lên hàng đầu. Do vậy, chúng ta có thể
thấy những thay đổi trong diện tích đất tự nhiên của huyện Đô Lương chủ yếu
là đất nông nghiệp.
1.2.2. Từ năm 1976 - 2011
Ngay sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc, Đảng bộ và nhân
dân huyện Đô Lương nêu cao quyết tâm phấn đấu thực hiện thắng lợi các
nhiệm vụ mà đại hội lần thứ VIII đề ra. Trong đó nhiệm vụ mở rộng diện tích
canh tác vẫn đặt lên hàng đầu. Để đủ đất canh tác, Đảng bộ huyện đề ra
hướng giải quyết chuyển dân từ vùng đồng bằng lên vùng đồi để lấy đất tốt
đưa vào sản xuất và di dân ra các huyện bạn nơi đất rộng người thưa nhằm
giảm bớt mật độ dân số. Trong hai năm 1975 - 1976, huyện huy động được
một vạn lao động lên các vùng Ngọc Sơn, Lam Sơn, Bồi Sơn chuyển được
1600 hộ dân lên đồi trọc theo quy hoạch của huyện, để lấy 100 ha đưa vào
canh tác. Tổng cộng huyện đã giải phóng được 180 ha đất đưa vào sản xuất.
Cùng với việc mở rộng diện tích canh tác, cơ cấu lại vùng sản xuất với việc
điều chỉnh dân cư, nên đã nâng cao tỷ lệ bình quân ruộng đất cho một số xã.
Với 1300 lao động của các xã được huy động lên Giang Sơn chuyên khai phá
đất hoang để trồng Sắn, Khoai…kết quả là toàn huyện mở rộng diện tích được
370 ha, bước đầu xây dựng các vùng chuyên canh, vùng có cơ cấu cây trồng

25



×