Tải bản đầy đủ (.doc) (113 trang)

Phong cách truyện ngắn vũ trọng phụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (457.12 KB, 113 trang )

1

bộ giáo dục và đào tạo
Trờng đại học vinh
==== ====

Trần Thị Phơng Thảo

Phong cách truyện ngắn
vũ trọng phụng

luận văn thạc sĩ ngữ văn

Vinh - 2008


2


3

Lời cảm ơn
Trong quá trình nghiên cứu, tôi đã nhận đợc sự giúp đỡ của các thầy cô
giáo trong tổ Lý luận văn học, khoa Ngữ văn, khoa Sau Đại học - Trờng Đại
học Vinh, sự động viên, giúp đỡ của bạn bè và ngời thân. Đặc biệt là sự hớng
dẫn tận tình của PGS. TS. Đinh Trí Dũng.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành sâu sắc tới PGS.TS. Đinh Trí
Dũng, các thầy giáo, cô giáo và các bạn đã giúp tôi hoàn thành luận văn này.
Vì đây là công trình nghiên cứu đầu tiên về phong cách truyện ngắn
Vũ Trọng Phụng nên chắc chắn không tránh khỏi những khiếm khuyết. Rất
mong nhận đợc những lời chỉ bảo, nhận xét của thầy cô giáo và các bạn.


Xin chân thành cảm ơn!

Vinh, tháng 12 năm 2008
Tác giả

Trần Thị Phơng Thảo

Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài


4

1.1. Vũ Trọng Phụng là một nhà văn lớn, một hiện tợng độc đáo nhng
cũng đầy phức tạp trong nền văn học Việt Nam. Với 27 năm của cuộc đời và
10 năm cầm bút, Vũ Trọng Phụng đã để lại trong kho tàng văn học Việt Nam
một số lợng tác phẩm đồ sộ với 8 cuốn tiểu thuyết, 1 truyện vừa, 7 phóng sự, 6
vở kịch, 29 truyện ngắn, 2 tác phẩm dịch và nhiều bài báo, trong đó nội dung
t tởng mang giá trị tố cáo xã hội mạnh mẽ và nghệ thuật sắc sảo tài hoa. Trong
đó có tác phẩm đợc gọi là ghê gớm có thể làm vinh dự cho mọi nền văn học.
Nhà văn Vũ Trọng Phụng nổi tiếng với tiểu thuyết Giông tố, Số đỏ, Vỡ
đê phóng sự Cạm bẫy ngời, Kỹ nghệ lấy Tây, Cơm thầy cơm cô nhng ngời
ta cha nói nhiều đến truyện ngắn, kịch ngắn của ông, rất ít ngời biết ông đứng
vào hàng ngũ những ngời viết văn và bắt đầu nổi tiếng từ truyện ngắn. Vì vậy,
nghiên cứu truyện ngắn Vũ Trọng Phụng góp phần khẳng định thêm t tởng,
quan niệm, tài năng nghệ thuật của nhà văn trong một cái nhìn hoàn chỉnh và
hệ thống.
1.2. Vũ Trọng Phụng đã chọn cho mình con đờng của chủ nghĩa hiện
thực ngay từ những ngày đầu cầm bút. Nếu nh trong truyện dài ông đề cập
nhiều đến những vấn đề rộng lớn mang tính thời sự sâu sắc thì trong phạm vi

truyện ngắn với dung lợng gọn nhẹ hơn nhà văn nghiêng về những khía cạnh
tình cảm, đạo đức, nhân sinh, nhân tình thế thái, cả những khát vọng trong
bối cảnh đen tối đảo điên của xã hội thực dân nữa phong kiến khi đề cập tới
những vấn đề trên, chất hiện thực trong truyện ngắn của ông vẫn nhức nhối ám
ảnh bạn đọc, đó là những câu chuyện chân thực, sống động bằng một lối văn
mới mẻ, sáng sủa, khác với một số ngời viết đơng thời đang còn say dùng lối
văn du dơng, trầm bổng, đầy sáo ngữ. Truyện ngắn của ông gần với những
truyện của Phạm Duy Tốn, Nguyễn Công Hoanvì vậy, nghiên cứu truyện
ngắn Vũ Trọng Phụng chúng ta sẽ hiểu hơn về truyện ngắn hiện thực nói
riêng, truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 nói chung


5

1.3. Trong chơng trình học phổ thông, học sinh đợc tiếp cận Vũ Trọng
Phụng từ những tác phẩm tiểu thuyết nh Giông Tố, Số Đỏ. Tuy nhiên việc hiểu
biết thêm về truyện ngắn của ông là điều cần thiết để phục vụ tốt hơn cho việc
giảng dạy tác giả này.
2. Lịch sử vấn đề
Bài phê bình đầu tiên về tác giả Vũ Trọng Phụng là bài của Lê Tràng
Kiều (viết về vở kịch Không một tiếng vang, đăng trên Tân thiếu niên số
4/1934), đến nay, khi thống kê cha thật đầy đủ đã có ngót 300 bài nghiên cứu,
đó cha kể một số luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ bàn về cuộc đời và sáng tác
của Vũ Trọng Phụng. Đó là một khối lợng không ít nếu đem so với lịch sử
nghiên cứu về một số tác giả nổi tiếng đơng thời
Khi tìm hiểu các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng, những nhà nghiên cứu
thấy rằng tài năng của ông không chỉ thể hiện qua tiểu thuyết Giông tố, Số đỏ,
Vỡ đê hay phóng sự Cạm bẫy ngời, Kỹ nghệ lấy Tây mà còn thể hiện ở
thể loại truyện ngắn. Khi cái tên Vũ Trọng Phụng xuất hiện trên tờ Ngọ báo
với một số truyện ngắn Thủ Đoạn, Chống nạng lên đờng (1931) và sau đó

xuất bản tập kịch Không một tiếng vang lập tức đợc chú ý và dần dân trở nên
thân thuộc với độc giả.
Có nhiều nhà nghiên cứu quan tâm đến truyện ngắn của ông nh Lê Thị
Đức Hạnh, Tôn Thảo Miên, Vũ Bằng, Nguyễn Hoành Khung những bài viết
của các tác giả, theo chúng tôi đã có những đóng góp nhất định trên hành trình
tìm hiểu thể loại truyện ngắn của nhà văn.
Nhà nghiên cứu Tôn Thảo Miên đã lột tả đợc phần nội dung chính trong
truyện ngắn Vũ Trọng Phụng: Vũ Trọng Phụng có niềm tâm sự chua xót với
đời, ông vạch trần mặt trái xấu xa giả dối, tàn nhẫn, vô lơng tâm của con
ngời, ngời ta lừa dối nhau, thủ đoạn với nhau để sống (Nhân quả, Thủ đoạn,
Con ngời điêu trá) ngời ta lạnh lùng thờ ơ với thân phận cô đơn, với cái chết bi


6

thơng của đồng loại (Tội ngời cô, Bà lão loà, Một cái chết). Các mối quan hệ
của nó đã đợc bộc lộ một cách sinh động, chân thật đến tàn nhẫn. Ông cũng
nhấn mạnh tới phần nghệ thuật của truyện ngắn: ấn tợng ông để lại trong
lòng độc giả hôm qua và hôm nay không chỉ vì ý nghĩa xã hội, vì giá trị nội
dung mà điều quan trọng là tài năng độc đáo trong nghệ thuật trào phúng của
ông (Lời giới thiệu Truyện ngắn Vũ Trọng Phụng in trong Vũ Trọng Phụng
toàn tập - tập 5, Nxb Văn học, Hà Nội).
Theo nhà nghiên cứu Lê Thị Đức Hạnh, vấn đề nổi bật trong truyện ngắn
Vũ Trọng Phụng vẫn là đồng tiền, đồng thời nhà văn nghiêng về những khía
cạnh tình cảm, đạo đức, nhân sinh, nhân tình thế thái, tâm lý con ngời và cả
những khát vọng (Truyện ngắn và kịch ngắn Vũ Trọng Phụng - báo Ngời
Hà Nội, số 127 - 18/11/1989).
Bên cạnh việc phát hiên ra tính chất phê phán xã hội trong truyện ngắn
của Vũ Trọng Phụng, các nhà nghiên cứu trên còn thấy trong nhà văn tấm
lòng cao cả lấp lánh ẩn chứa sau những trang viết, sau lớp bi kịch đời thờng

Vũ Trọng Phụng vẫn giữ nguyên một nguyên tắc sáng tạo là lấy xã hội, con
ngời của thời đại làm đối tợng nghiên cứu với cái nhìn đầy căm phẫn, muốn
lật nhào những cái tiêu cực. Tính chất trào phúng, sự khái quát triết lý luôn nổi
bật trong các truyện ngắn. Đồng thời một điều mới mẻ là sự xuất hiện những
truyện ngắn tâm lý, khắc hoạ nhân vật với những điều bình dị, bình thờng
trong cuộc sống hàng ngày, những bon chen, những ghen tuông, sự lỡ dỡ tình
duyên
Các nhà nghiên cứu cũng quan tâm đặc biệt tới nghệ thuật truyện ngắn
của Vũ Trọng Phụng. Tác giả Nguyễn Thành (trong Truyện ngắn Vũ Trọng
Phụng- tạp chí văn học số 6/1995) có những nhận xét tinh tế: Truyện tâm
lý: Lòng tự ái, Cái ghen đàn ông, Đồng tiền, Một đồng bạc, Con ngời điêu
trá là đóng góp của Vũ Trọng Phụng vào xu hớng phân tích tâm lý của


7

truyện ngắn Việt Nam 1930 - 1945, ngôn ngữ sống động, khai thác trạng thái
tâm lý khác nhau trong cuộc sống thờng ngày, đề cập sự tha hoá đạo đức nh
một nghịch cảnh đáng phê phán, nhân vật có thật sự đồng cảm với số phận
đáng thơng của ngời nghèo khổ () Câu văn khúc triết, rõ ràng, giọng văn
hóm hỉnh, văn tả ngời tả cảnh tinh tế sắc sảo, linh hoạt hình thức kết cấu, bố
cục truyện ngắn mới mẻ, sống động.
Tiểu thuyết và Phóng sự của Vũ Trọng Phụng thể hiện phong cách riêng.
Nhng truyện ngắn Vũ Trọng Phụng cũng có phong cách đặc sắc riêng của nó.
Vì vậy, Lê Tràng Kiều viết: Tôi phải chú ý đến ông ngay vì bằng một lối văn
rất trôi chảy, gọn ghẽ, rõ ràng, ông kể chuyện có duyên tệ.
Khi ông đăng truyện Chống nạng lên đờng (1930) trên tờ Ngọ báo tác giả
Vũ Bằng có viết: Tôi thấy văn anh là trời , mà văn tôi là vực và có lúc tôi đã
tự nhủ: sao lại có ngời viết truyên ý nhị mà mê ly đến thế. Tôi bị Vũ Trọng
Phụng chinh phục ngay từ truyện đầu của anh (Dẫn theo Vũ Trọng Phụng về

tác gia và tác phẩm).
Gần đây nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân và Peter Zinoman đã phát hiên
một loạt truyên ngắn của Vũ Trọng Phụng cha in thành sách mà in trên các
báo Hà Nội trớc năm 1945 (Vẽ nhọ bôi hề - gồm những tác phẩm mới tìm thấy
năm 2000 - Peter Zinoman su tầm, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội và cuốn Chống
nạng lên đờng - chùm sáng tác mới tìm thấy năm 2000 - Lại Nguyên Ân su
tầm, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội).
Trớc đó, Nguyễn Đăng Mạnh đã tuyển chọn những truyện ngắn của Vũ
Trọng Phụng trong sách Tuyển tập Vũ Trọng Phụng của mình từ khoảng 1931
đến năm 1939. Nguyễn Hoành Khung (trong giáo trình Văn học Việt Nam
1900 - 1945 - Nxb Giáo dục, Hà Nội) cũng nghiên cứu truyện ngắn Vũ Trọng
Phụng theo từng thời kỳ sáng tác gắn liền với sự thay đổi phức tạp về t tởng
của tác giả. Ông nhận thấy có một số hạn chế mà Vũ Trọng Phụng vớng phải


8

đó là khi đề cập đến vấn đề đồng tiền, sự phê phán trở nên trừu tợng, siêu
hình, mất đi ý nghĩa xã hội vì nhằm vào tâm lý ngời đời chung chung, đề
cập về tính ích kỷ hèn hạ của con ngời nhng không thấy đợc điều kiện xã hội
nào đã làm nảy nỡ những thói xấu ấy.
Cho đến nay, vẫn có nhiều công trình nghiên cứu về tác phẩm Vũ Trọng
Phụng nói chung và truyện ngắn của ông nói riêng, vì những giá trị của những
tác phẩm mà ông để lại là rất lớn. Đã có luận văn tốt nghiệp Đại học của Đào
Thanh Nga nghiên cứu về Đặc điểm truyện ngắn Vũ Trọng Phụng nhng ở luận
văn đó chỉ khảo sát ở một phạm vi nhỏ. ở luận văn này chúng tôi mở rộng
khảo sát toàn bộ truyện ngắn Vũ Trọng Phụng để có một cái nhìn hệ thống
hơn nhằm tiếp tục khẳng định những cống hiến to lớn của một tài năng nh Vũ
Trọng Phụng.
3. Phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Phạm vi nghiên cứu
- Đối tợng nghiên cứu: Những đặc điểm nổi bật trong phong cách truyện
ngắn Vũ Trọng Phụng
- Phạm vi t liệu khảo sát
Luận văn đi vào tìm hiểu truyện ngắn của Vũ Trọng Phụng đợc in từ
khoảng 1930 về sau, đợc đăng trên Hạ thành Ngọ báo, Hà Nội báo, Đông Dơng tạp chíđợc tập hợp trong các tập truyện ngắn Vũ Trọng Phụng: Truyện
ngắn Vũ Trọng Phụng, (1996) Lê Thi Đức Hạnh - Xuân Tùng (su tầm và
tuyển chọn), Nxb Hội nhà văn, Vẽ nhọ bôi hề (những tác phẩm mới tìm thấy
năm 2000), Peter Zinoman su tầm, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội, Chống nạng lên
đờng (sáng tác đầu tay mới tìm thấy cuối năm 2000 - Lại Nguyên Ân su tầm),
Nxb Hội nhà văn, Hà Nội
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu


9

Luận văn xác định vai trò, vị trí của truyện ngắn Vũ Trọng Phụng trong
bức tranh chung của truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 và trong sự
nghiệp của ông.
Tìm hiểu phong cách truyện ngắn Vũ Trọng Phụng trên nhiều phơng
diện: Lựa chọn đề tài, cảm hứng sáng tạo, tình huống, nhân vật, giọng điệu,
ngôn ngữ
4. Phơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, luận văn của chúng tôi sử dụng các phơng pháp
sau:
- Phơng pháp thống kê - phân loại
- Phơng pháp phân tích - tổng hợp
- Phơng pháp so sánh - đối chiếu
5. Đóng góp của luận văn
Luận văn tìm hiểu quan niệm nghệ thuật về hiện thực cuộc sống và con

ngời, tìm hiểu về các mảng đề tài, chủ đề, cảm hứng sáng tạo của nhà văn Vũ
Trọng phụng cũng nh tìm hiểu những cách tân nghệ thuật qua tình huống
truyện, nghệ thuật xây dựng nhân vật, giọng điệu, ngôn ngữ nhân vật để nhận
diện phong cách truyện ngắn của nhà văn Vũ Trọng Phụng.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, nội dung chính của
luận văn đợc triển khai trên 3 chơng.
Chơng 1. Truyện ngắn Vũ Trọng Phụng trong bức tranh chung của
truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945
Chơng 2. Phong cách truyện ngắn Vũ Trọng Phụng nhìn từ phơng diện
lựa chọn đề tài và cảm hứng sáng tạo.
Chơng 3. Phong cách truyện ngắn Vũ Trọng Phụng nhìn từ phơng diện
tình huống, nhân vật, giọng điệu và ngôn ngữ.


10

Chơng 1
truyện ngắn Vũ Trọng Phụng trong
bức tranh chung của truyện ngắn
việt nam giai đoạn 1930 - 1945
1.1. Khái niệm truyện ngắn và u thế của thể loại truyện ngắn
1.1.1. Khái niệm truyện ngắn
Khi xác định nội hàm khái niệm truyện ngắn, không ít nhà nghiên cứu
dựa trên các tiêu chí của truyện vừa và tiểu thuyết. Trong Từ điển văn học ở
mục truyện ngắn viết: Hình thức tự sự loại nhỏ. Truyện ngắn khác với truyện
vừa ở dung lợng nhỏ hơn, tập trung mô tả một mảng của cuộc sống: một biến
cố hay một vài biến cố xẩy ra trong một giai đoạn nào đó của đời sống nhân
vật, biểu hiện một mặt nào đó của tính cách nhân vật, thể hiện một khía cạnh
nào đó của vấn đề xã hội.

Cốt truyện của truyện ngắn thơng diễn ra trong một không gian và thời
gian hạn chế. Kết cấu của truyện ngắn cũng không chia thành nhiều tuyến
phức tạp. Truyện ngắn đợc viết ra để tiếp thu liền một mạch, đọc một hơi
không nghỉ, nên đặc điểm nổi bật của truyện ngắn là tính ngắn gọn. Để thể
hiện nổi bật t tởng chủ đề, khắc hoạ sắc nét tính cách nhân vật, đòi hỏi nhà
văn viết truyện ngắn phải có trình độ điêu luyện, biết mạnh dạn gọt tỉa và dồn
nén. Do đó, trong khuôn khổ ngắn gọn, những truyện ngắn thành công có thể
biểu hiện đợc những vấn đề xã hội có tầm khái quát rộng lớn [457].
Theo Từ điển thuật ngữ văn học Truyện ngắn là tác phẩm tự sự cỡ nhỏ.
Nội dung của thể loại truyện ngắn bao trùm hầu hết các phơng diện của đời


11

sống: đời t, thế sự, hay sử thi, nhng cái độc đáo của nó là ngắn. Truyện ngắn
đợc viết ra để tiếp thu liền một mạch, đọc một hơi không nghỉ [314].
Do khuôn khổ ngắn nhiều khi làm cho truyện ngắn có vẻ gần gũi với các
hình thức truyện kể dân gian nh truyện cổ, giai thoại, truyện cời, hoặc gần với
những bài ký ngắn, nhng thực ra nó gần với tiểu thuyết hơn cả là hình thức tự
sự tái hiện cuộc sống đơng thời. Truyện ngắn có thể kể về cả một cuộc đời hay
một đoạn đời, một sự kiện hay một chốt lát trong cuộc sống nhân vật. Nhng
cái chính của truyện ngắn không phải ở hệ thống sự kiện mà ở cái nhìn tự sự
đối với cuộc đời.
Khác với tiểu thuyết là thể loại chiếm lĩnh đời sống trong toàn bộ sự đầy
đặn và toàn vẹn của nó, truyện ngắn thờng hớng tới sự khắc hoạ một hiện tợng, phát hiện một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh hay đời sống tâm hồn
của con ngời. Vì thế, trong truyện ngắn thờng có ít nhân vật, ít sự kiện phức
tạp. Nếu mỗi nhân vật của tiểu thuyết là một thế giới, thì nhân vật của truyện
ngắn là một mảnh nhỏ của thế giới ấy. Yếu tố quan trọng bậc nhất của truyện
ngắn là những chi tiết có dung lợng lớn và lối hành văn mang nhiều ẩn ý, tạo
cho tác phẩm những chiều sâu cha nói hết.

Truyện ngắn với đặc điểm thể loại riêng biệt chỉ thực sự phát triển ở các
nền văn học hiện đại. Đó là kiểu t duy khá mới, vì vậy nói chung truyện ngắn
đích thực xuất hiện muộn trong lịch sử văn học. ở nhiều nớc trên thế giới,
truyện ngắn gắn liền với hoạt động báo chí vì khuôn khổ báo chí không cho
phép dài. Truyện ngắn nói chung không phải vì truyện của nó ngắn, mà vì
cách nắm bắt cuộc sống của thể loại. Tác giả truyện ngắn thờng hớng tới sự
khắc hoạ một hiện tợng, phát hiện một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh
hay đời sống tâm hồn con ngời. Chính vì vậy trong truyện ngắn thờng ít nhân
vật, ít sự kiện phức tạp. Chỗ khác biệt quan trọng giữa tiểu thuyết và truyện


12

ngắn là ở nếu nhân vật chính của tiểu thuyết thờng là một thế giới thì nhân vật
truyện ngắn là một mảnh nhỏ của thế giới.
Cốt truyện của truyện ngắn thờng tự giới hạn về không gian, thời gian, nó
có chức năng nhận ra một điều gì sâu sắc về cuộc đời, về con ngời. Kết cấu
truyện ngắn thờng không nhiều tầng, nhiều tuyến mà thờng đợc dùng theo
kiểu tơng phản hoặc liên tởng. Chi tiết và lời văn là những yếu tố quan trọng
cho nghệ thuật viết truyện ngắn. Lối kể và cách kể chuyện là những điều đợc
ngời viết truyện ngắn đặc biệt chú ý khai thác và xử lý, nhằm đạt hiểu quả
mong muốn.
Tìm hiểu các truyện ngắn xuất sắc của L. Tônxtôi, Gorki, Sêkhốp,
Sôlôkhốp, Đôđê, Mêrimê, Môpatxăngcác truyện ngắn của Lỗ Tấn, hoặc
truyện ngắn của các tác giả Việt Nam trớc cách mạng tháng tám nh Nguyễn
Khải, Đỗ Chu, Nguyễn Thành Longđều thấy các đặc điểm đó. Cốt truyện
của nó nổi bật, hấp dẫn. Cái chính của truyện ngắn thờng là một sự tơng phản,
liên tởng. Bút pháp trần thuật thờng là chấm phá. Yếu tố có ý nghĩa bậc nhất
của truyện ngắn là chi tiết có dung lợng lớn và hành văn mang ẩn ý tạo ra cho
tác phẩm những chiều sâu cha nói hết. Ngoài ra, giọng điệu, cái nhìn cũng hết

sức quan trọng, làm nên cái hay của truyện ngắn. Truyện ngắn là một thể loại
dân chủ, gần gũi với đời sống hàng ngày, lại súc tích dễ đọc.
ở Việt Nam, khi bàn về truyện ngắn, nhà văn Nguyễn Công Hoan đã giải
thích về truyện ngắn: Trớc hết ta nên phân biệt thế nào là truyện ngắn, thế nào
là truyện dài, từ loại truyện viết theo nghệ thuật Âu Tây hay là loại mới có
trong văn học Việt Nam, từ ngày ta chịu ảnh hởng của văn học Pháp. Ngày xa,
ta chỉ có truyện kể bằng miệng hoặc viết bằng văn vần. Những truyện Hai ông
phật cãi nhau, Muỗi nhà, Muỗi đồng trong Thánh Tông di thảo là viết theo
nghệ thuật á đông. Hoàng Lê nhất thống chí là lịch sử ký sự, chứ không phải


13

là lịch sử tiểu thuyết. Cho nên loại truyện viết theo nghệ thuật Âu tây, ta theo
Trung Quốc mà gọi là tiểu thuyết, và cái nào viết trong vài trang gọi là tiểu
thuyết đoản thiên, cái nào viết hàng trăm trang gọi là trờng thiên - tiểu thuyết.
Năm 1932 báo Phong hoá dịch đoản thiên tiểu thuyết ra tiếng ta gọi là truyện
ngắn. Rồi từ đó trờng thiên tiểu thuyết gọi là truyện dài và trung thiên tiểu
thuyết gọi là truyện vừa.
Trong cuốn Nghệ thuật viết truyện ngắn và ký khi bàn về truyện ngắn
giáo s văn học ngời Pháp D.Gôrônôki viết: Truyện ngắn là một thể loại muôn
hình muôn vẻ biến đổi không cùng. Nó là một vật biến hoá nh quả chanh của
lọ lem. Biến hoá về khuôn khổ: ba dòng hoặc ba mơi trang. Biến hoá về kiểu
loại tính chất, trào phúng, kỳ ảo, hớng về biến cố thật hay tởng tợng, hiện thực
hay trào phúng. Biến hoá về nội dung: thay đổi vô cùng vô tận. Muốn có chất
liệu để kể, cần có một cái gì đó xẩy ra, dù đó chỉ là một sự thay đổi chút xíu
về sự cân bằng, về các mối quan hệ. Trong thế giới của truyện ngắn, cái gì
cũng thành biến cố. Thậm chí sự thiếu vắng tình tiết diễn biến cũng gây hiệu
quả vì nó làm cho sự chờ đợi bị hẫng hụt [tr 79].
1.1.2. Ưu thế của thể loại truyện ngắn

Truyện ngắn tự nó đã hàm chứa cái thú vị của những điều sâu sắc trong
một hình thức nhỏ, gọn gẽ và truyền dẫn cực nhanh những thông tin mới mẻ.
Đây là thể loại văn học có nội khí một lời mà thiên cổ, một gợi mà trăm
suy.
Truyện ngắn là sự phá vỡ chiều hớng êm ả và sự cân bằng vốn đang trở
thành vô nghĩa. Nó đẹp nh một tiếng nổ của ánh sáng, nó giảm trừ tối đa sự
lòng thòng nhân quả hay nói nh R. Barthes, truyện ngắn tiềm tàng sự trục trặc,
lăn tăn trong quan hệ nhân quả. Lý do đa đẩy câu chuyện không phải là chuỗi
liên tục sự kiện mà là một ám ảnh tâm hồn trong quá trình chuyển biến lơng
tri, trong những thời khắc có ý nghĩa nhất của đời ngời. Với Chekhov, những


14

thời khắc đợc xem là có ý nghĩa nhất lại chẳng có chút gì quan trọng cả. Trái
lại có những thời khắc bất thờng đã đem lại t tởng lớn lao. Lấy thời khắc làm
động lực và kết nối câu chuyện đợc kể, truyện ngắn nói chung u tiên cho
quảng giữa, phần đầu hoặc phần cuối truyện thờng phải đợc cắt xén đi để
tránh sự kéo dài loãng nhạt. Mạch kể trong truyện ngắn không chỉ đợc sắp xếp
theo thời gian tuyến tính mà theo sơ đồ ma trận, gồm có nhiều chiều khác
nhau mà ngời đọc có thể đột kích thâm nhập cùng một lúc để thấy tất cả
những chiều kích ấy cũng có mặt. Truyện ngắn tạo ra chiều hớng tiếp nhận
đồng bộ và tiết kiệm thời gian. Có thể hình dung truyện ngắn là bức phù điêu
ảo ảnh, là một khối vờn điêu khắc đa sắc và hiện thực. Đồng thời, dung lợng
ngắn là một thế mạnh để truyện ngắn chinh phục độc giả đơng đại.
Truyện ngắn là thể loại văn học rất nhạy cảm với những biến đổi của đời
sống xã hội. Với hình thức gọn nhẹ, truyện ngắn luôn bắt kịp những vận động
của xã hội và tái hiện đợc mọi biến thái trớc đời sống vật chất cũng nh tinh
thần của con ngời. Ngày nay, trớc thực trạng muôn vẻ của cuộc sống đang lên,
các nhà văn đang ra sức sáng tạo, đa lại cho văn học nớc nhà ngày càng nhiều

các tác phẩm truyện ngắn có giá trị. Tên tuổi của các nhà văn hiện đại viết
truyện ngắn nh Nam Cao, Nguyễn Công Hoan, Thạch Lam, Nguyễn Minh
Châu, Nguyễn Huy Thiệpluôn có vị trí trang trọng trong đời sống tinh thần
của ngời yêu văn học.
Truyện ngắn gắn chặt với báo chí. Đây là một thế mạnh, bởi hiện tại báo
chí đang bùng nổ với tốc độ chóng mặt. Ngời đọc dễ hình thành thói quen đọc
một câu chuyện trong vài chục phút, hoặc có thể đến vài giờ. Điều này tạo
điều kiên hết sức thuận lợi để các cây bút khẳng định tài năng. Với hình thức
gọn nhẹ, truyện ngắn luôn bắt kịp những vận động biến đổi của xã hội và tái
hiện đợc mọi biến thái trớc đời sống với muôn hình muôn vẻ. Tuy truyện ngắn
đợc xem là tác phẩm tự sự cỡ nhỏ nhng nó lại là thể loại phát hiện nghệ thuật
đời sống theo chiều sâu. Nh nhà văn Nguyên Ngọc đã từng phát biểu trong


15

một cuộc trao đổi về truyện ngắn: Trong độ ba trang, mấy nghìn chữ mà rõ
mặt cả cuộc đời, một kiếp ngời, một thời đai. Các truyện ngắn bây giờ rất
nặng, dung lợng của nó là dung lợng của cả cuốn tiểu thuyết.
1.2. Phong cách nghệ thuật
1.2.1. Về khái niệm phong cách
Phong cách là một thuật ngữ đợc sử dụng trong nhiều ngành khoa học
khác nhau. Ngay trong giới nghiên cứu văn học, nhiều quan niệm, định nghĩa
khác nhau về phong cách cũng đang tồn tại. Trong công trình Cá tính sáng
tạo của nhà văn và sự phát triển văn học, viện sĩ Khrapchenkô đã đa ra nhiều
quan niệm khác nhau của các tác giả nghiên cứu xung quanh định nghĩa về
phong cách (V.Kovalev, L.Novicchenco, V.Turbin), theo ông các định
nghĩa này xoè ra nh cái quạt mà một phía thì thừa nhận phong cách là một
phạm trù lịch sử - thẩm mỹ rộng nhất, bao quát nhất, nhng phía khác lại coi
phong cách nh một đặc điểm của từng tác phẩm riêng lẻ. Phong cách là một

lĩnh vực cực kỳ phức tạp của lý luận văn học. Khrapchenkô coi phong cách là
thủ pháp biểu hiện cách khai thác hình tợng đối với đời sống, nh thủ pháp
thuyết phục và thu hút độc giả, cũng trong công trình này ông viết: Phong
cách là một tổng thể toàn vẹn những sự kiện biểu cảm khiến cho lời phát ngôn
có một sắc thái ý nghĩa đặc biệt, bất chấp cấu trúc ngữ nghĩa cơ bản của phát
ngôn ấy. Cần coi những sự kiện biểu cảm này là những sự kiện phong
cách sẽ đợc nghiên cứu không phải trong thi pháp học và từ chơng học mà là
trong một bộ môn ngữ văn đặc biệt. Phong cách học cần nắm bắt những sự
kiện này không phải một cách tách biệt mà bao giờ cũng phải nắm bắt trong
tính toàn bộ của chúng vốn đặc trng cho từng tác phẩm, từng tác giả (hoặc
từng giai đoạn phát triển sáng tác của tác giả ấy), từng trờng phái, từng nớc,
từng thời đại.
Theo Phan Ngọc phong cách là một cấu trúc hữu cơ tất cả các cách lựa
chọn tiêu biểu, hình thành một cách lịch sử và chứa đựng một giá trị lịch sử có


16

thể cho phép ta nhận diện một thời đại, một thể loại, một tác phẩm hay một
tác giảnó chứa đựng một cái nhìn đối với hiện thực [45, tr 22].
Trong cuốn Mấy vấn đề nguyên lý văn học, theo Nguyễn Lơng Ngọc:
phong cách không phải là một cái gì đó bất biến, nó đã từng thay đổi với quá
trình phát triển của sự nghiệp văn chơng. Phong cách đó là hình thức của chủ
thể. Phong cách là gơng mặt tinh thần. Buffon từng khẳng định: Phong cách là
bản thân con ngời - có thể nói, đây là lần đầu tiên có sự khẳng định bản chất
chủ thể của phong cách. Trong thực tiễn sáng tạo văn học nghệ thuật, rất nhiều
nghệ sĩ lớn, nhà văn lớn đã đóng dấu ấn phong cách của mình vào tác phẩm và
nhờ vậy khi tiếp nhân các tác phẩm, chúng ta nhận ra đó là tác phẩm của nghệ
sĩ nào, nhà văn nào nếu họ thực sự có phong cách riêng. Phong cách cá nhân
tạo nên sự đa dạng, phong phú của phong cách văn học. Bản chất phong cách

học đã là cái nhìn nghệ thuật thì cái nhìn ấy phải mang tính cá nhân của con
ngời văn hoá, lịch sử cụ thể.
Phong cách là những gì làm nên đặc sắc riêng của mỗi ngời. Tuy nhiên
cần phân biệt cái riêng làm nên đặc sắc, làm nên tinh tuý, song cũng có cái
riêng chỉ là sự khác ngời, khác đời một cách thuần tuý.
1.2.2. Về khái niệm phong cách nghệ thuật (phong cách nhà văn)
Phong cách nghệ thuật là một phạm trù thẩm mỹ, chỉ sự thống nhất tơng
đối ổn định của hệ thống hình tợng của các phơng tiện biểu hiện nghệ thuật,
nói lên cái nhìn độc đáo trong sáng tác của một nhà văn phong cách l à quy
luật thống nhất các yếu tố chỉnh thể nghệ thuật, là biểu hiện của tính nghệ
thuật. Không phải bất cứ nhà văn nào cũng có phong cách. Chỉ những nhà văn
có tài, có bản lĩnh mới có đợc phong cách độc đáo riêng. Cái nét riêng ấy thể
hiện ở các tác phẩm và đợc lặp đi lặp lại trong nhiều tác phẩm của nhà văn
làm cho ta có thể nhận ra sự khác nhau giữa nhà văn này với nhà văn khác


17

[18, tr 212]. Nói đến phong cách là nói đến đặc trng độc đáo, có ý nghĩa thẩm
mỹ và mang tính quy luật, thể hiện qua hệ thống sáng tác của nhà văn.
Phong cách là sự độc đáo về t tởng cũng nh nghệ thuật, là phẩm chất
thẩm mỹ thể hiện trong sáng tác của những nhà văn u tú. Nó đòi hỏi trớc hết,
nhà văn phải đem lại một tiếng nói mới cho văn học. Nếu không có tiếng nói
ấy thì dù vấn đề lập trờng, vốn sống tự cho là đã giải quyết đến đâu chăng nữa
thì tác phẩm của nhà văn vẫn bị rơi vào quên lãng. Nghệ thuật tối kỵ sự chung
chung lặp lại. Lẽ đơng nhiên cái gọi là độc đáo, vẻ riêng, là phải ít thấy ở ngời
khác, nhng ở riêng nhà văn đó thì phải xuất hiện thờng xuyên có tính chất bền
vững, nhất quán. Bằng không sự độc đáo kia chỉ là ngẫu nhiên, nhất thời gặp
may.
Nguyễn Đăng Mạnh trong cuốn Nhà văn hiện đại - chân dung và phong

cách đã viết: Tôi hiểu phong cách nghệ thuật là một khái niệm thuộc phạm trù
thẩm mĩ. Có nghĩa là, nhà văn phải thật sự có tài năng, phải thật sự sáng tạo ra
đợc những tác phẩm có giá trị nghệ thuật cao mới đợc xem là nhà văn có
phong cách. Phong cách là một chỉnh thể nghệ thuật. Mỗi nhà văn có phong
cách tạo ra cho mình thế giới nghệ thuật riêng. Thế giới nghệ thuật ấy dù
phong phú đa dạng thế nào vẫn có tính thống nhất. Cơ sở của tính thống nhất
này là một nhỡn quan riêng về thế giới, và sâu xa hơn nữa là t tởng nghệ thuật
riêng của nhà văn. Chừng nào cha nhận ra tính thống nhất ấy thì chừng đó cha
thể xem là đã nắm đợc phong cách của một nhà văn. Phong cách bao gồm
những đặc điểm độc đáo của các tác phẩm của một nhà văn từ nội dung đến
hình thức. Nhng phong cách là một cái gì đó cụ thể, hữu hình, có thể và mô tả
đợc. Cho nên nói phong cách, dù có đề cập đến nội dung t tởng, cũng phải chỉ
ra đợc nội dung ấy đã đợc hình thức hoá nh thế nào. Trong quá trình sáng tác
của nhà văn, phong cách nghệ thuật của ông ta luôn luôn chuyển từ tác phẩm


18

này đến tác phẩm khác. Bởi vì viết văn là một hoạt động sáng tạo. Mà đã là
sáng tạo thì luôn luôn phải đổi mới, nhng dù đổi mới nh thế nào, phong cách
vẫn vận động trên cơ sở thống nhất, khiến cho các tác phẩm của nhà văn dù có
những nét rất khác nhau vẫn là tác phẩm của ông ta chứ không phải là của ai
khác. Phong cách một khi đã định hình thì thờng có tính bền vững. Vì tạo ra
phong cách, ngoài thế giới quan còn có rất nhiều nhân tố khác nh truyền thống
gia đình, hoàn cảnh sống, môi trờng thiên nhiên, môi trờng văn hoá, thói quen
suy nghĩ, cảm xúc, cái tạng riêng của nhà vănnhững tác phẩm ấy, những
thói quen ấy không dễ gì thay đổi. Tất cả đều có ảnh hởng lớn tới sự hình
thành phong cách của nhà văn tơng lai.
Suy cho cùng phong cách của một nhà văn là vấn đề cái nhìn, nhng cái
nhìn ấy toát lên từ tất cả các yếu tố hình thức và nội dung của tác phẩm, từ hệ

thống hợp nhất các giá trị về thực tế tiêu biểu đối với nhà văn và phơng pháp
nghệ thuật của nhà văn ấy. Nghĩa là cần đợc tiếp cận với tính cách một hệ
thống cụ thể về hình thức và nội dung, toát lên từ một cấu trúc hữu cơ tất cả
các kiểu lựa chọn [72, tr 15].
Từ điển văn học viết: phong cách là chỗ độc đáo mang phẩm chất thẩm
mĩ cao đợc kết tinh trong sự sáng tạo của nhà văn. Không phải bất cứ nhà văn
nào cũng tất yếu có phong cách, mặc dù nói cho cùng nhà văn nào cũng có
đặc điểm. Song đặc điểm mờ nhạt cha đủ, phải là chỗ thật độc đáo không thể
thay thế đợc mới làm nên phong cách. Chỉ cần lặp đi lặp lại đã gọi là đặc
điểm, nhng phong cách tuy cũng đòi hỏi sự bền vững, không chấp nhận sự
phai mờ, nhng phải sự lặp đi lặp lại một cách đổi mới [ tr 214].
Tuỳ theo nhà văn cụ thể mà phong cách có thể tập trung biểu hiện ở bất
kỳ một hay vài yếu tố trong tác phẩm. Có thể nói có bao nhiêu yếu tố trong tác
phẩm thì có bấy nhiêu chỗ để cho phong cách của từng nhà văn thể hiện.
Phong cách có thể biểu hiện ở việc chọn đề tài. Có nhà văn a chọn những đề


19

tài nên thơ, lại có nhà văn thích những đề tài rắc rối, phức tạp. Phong cách có
thể biểu hiện ở cảm hứng chủ đạo. Có nhà văn ca ngợi thì xúc động lòng ngời,
nhng phê phán thì hời hợt. Ngợc lại cũng có nhà văn phê phán đầy sức thuyết
phục, nhng ngợi ca thì nhạt nhẽo - dĩ nhiên đây là nói ca ngợi và phê phán một
cách đúng đắn, loại trừ những thứ tô hồng và bôi đen. Có nhà thơ thì thiên về
trí tuệ sắc lạnh, cũng có nhà thơ lại thiên về tình cảm ngọt ngào. Phong cách
cũng biểu hiện ở việc khắc hoạ nhân vật. Có nhà văn viết hay loại nhân vật
này nhng lại xây dựng thất bại loại nhân vật khác. Phong cách cũng biểu hiện
ở thể loại. Mỗi nhà văn chỉ viết đợc một thể loại, hoặc nều viết đợc nhiều thể
loại thì cũng chỉ thành công ở một hay vài thể loại nào đó thôi. Còn trong
ngôn ngữ, thì một số nhà văn độc đáo ở những hệ thống tu từ khác nhau cũng

có điều dễ thấy. Qua đây ta thấy phong cách có thể thiên về nội dung t tởng
hoặc thiên về hình thức nghệ thuật
Phong cách là phẩm chất tơng đối ổn định của sáng tác. Các đặc điểm
của nó đợc lặp đi lặp lại tơng đối thờng xuyên, ít thay đổi. Nhng đây là ổn
định trong sự phong phú, đa dạng, có biến đổi chứ không phải là sự lặp lại
giản đơn, nghèo nàn, đơn điệu. Tuy nhiên, sự ổn định là cơ bản, nhờ thế nó
mới trở thành một phong cách phân biệt với các phong cách khác. Chẳng hạn,
có thể nói tới phong cách trữ tình của thơ Tố Hữu bởi nét trữ tình này về cơ
bản là ổn định, đợc lặp lại tơng đối, thờng xuyên trong các sáng tác của ông.
Tuy nhiên, trữ tình trong Từ ấy không hoàn toàn giống trữ tình trong Việt Bắc,
cũng khác với trong Gió lộng, Ra trận và đặc biệt là khác với trữ tình trong
Một tiếng đờn.
Mỗi nhà văn trong quá trình sáng tạo đều cố gắng tìm cho mình một lối
đi riêng, một phong cách không trộn lẫn. Sẽ không có những khái niêm về
phong cách trở thành chuẩn mực chung cho tất cả. ở đây ngời viết không đa


20

ra quan niệm riêng nào trên cơ sở các quan niệm về phong cách và từ thực tế
nghiên cứu về khái niệm này cũng là để phù hợp với phạm vi của đề tài tác giả
luận văn chỉ chọn một quan niêm phù hợp để từ đó khảo sát, tìm hiểu phong
cách truyện ngắn Vũ Trọng Phụng nhằm khẳng định giá trị nghệ thuật đích
thực và vị trí của nhà văn trên lộ trình văn học.
Phong cách nghệ thuật, nét riêng của nhà văn không phải là cái gì nhất
thành bất biến mà nó luôn vận đông biến đổi. Vì viết văn là một hoạt động
sáng tạo, mà sáng tạo lại luôn đòi hỏi sự đổi mới. Điều này đợc giải thích bởi
nhiều nguyên nhân. Song dẫu đổi mới thế nào thì phong cách vẫn vận động
trên cơ sở thống nhất, khiến cho tác phẩm của nhà văn dù có những nét khác
nhau vẫn là của ông ta chứ không phải của ai.

1.3. Bức tranh chung của truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945
1.3.1. Nguyên nhân thúc đẩy sự ra đời và phát triển của thể loại
truyện ngắn
1.3.1.1. Truyện ngắn ra đời là kết quả của quá trình hiện đại hoá văn
học Việt Nam
Cả một thế kỷ XX biến đổi và vận động có cả yếu tố mới và cũ của đời
sống kinh tế, chính trị, văn hoá. Văn học là thể loại không nằm ngoài quy luật
vận động đó. Sự tiếp xúc Âu Tây là cuộc biến thiên cha từng có trong lịch sử
dân tộc, hiện thực sôi động, sự bỡ ngỡ, khát vọng tìm hiểu khám phá, nhu cầu
khẳng định luôn thôi thúc đội ngũ nhà văn, nhà thơ. Những thể loại mới ra đời
đã đáp ứng đợc yêu cầu đó và không ngừng mở rộng khả năng chiếm lĩnh.
Đến năm 1932 có ba thể loại đạt những thành công đầu tiên là truyện ngắn,
kịch và tiểu thuyết.
Truyện ngắn là một thể loại khá năng động, nó không đòi hỏi một nội
dung quá đồ sộ nh tiểu thuyết, nó có ảnh hởng kịp thời trong đời sống, nó là


21

nhát cắt thời gian mỏng trong cả quãng đời của số phân con ngời, nhng lại
chứa đựng một dung lợng nghệ thuật lớn. Trong quá khứ so với tiểu thuyết,
truyện ngắn hiện đại Việt Nam đã thành công sớm hơn. ở thời Trung đai,
chúng ta cha có khái niệm truyện ngắn với t cách thể loại nhng có những
truyện viết ngắn: Việt điện U Linh, Truyền kì Tân Phả, Truyền kỳ Mạn Lục.
Truyện ngắn Việt Nam hiện đại có sự kết hợp hài hoà giữa cái truyền thống và
cái mới.
Nhà văn Nguyễn Trọng Quản có thể coi là ngời đầu tiên viết truyện ngắn
của văn học mới với tác phẩm Truyện thầy Lazarô Phiền, với nghệ thuật mới
mẻ, ngời trần thuật ở ngôi thứ nhất, sự mô tả đan xen đối thoại, xây dựng tình
huống nhân vật sám hối vì gây tội sát nhân và sự kết thúc tác phẩm bằng cái

chếtlà những điều mới so với truyện nghĩa hiệp Trung Quốc, tiểu thuyết
Minh - Thanh. Truyện thơ nôm của Nguyễn Đình Chiểu mà nhân dân Nam Bộ
rất mến mộ ở nữa cuối thế kỷ XIX. Tác giả Nguyễn Bá Học thuộc lớp nhà văn
nổi tiếng đầu tiên ở Việt Nam viết truyện ngắn phản ánh xã hội thành thị lúc
đó đang t sản hoá, những tác phẩm của ông nh: Câu chuyện gia đình, Câu
chuyện một tối của ngời tân hônông vừa học tập cách mô tả khách quan,
đúng hơn là mô tả cho hết hiện thực cuộc sống, vừa không dứt bỏ đợc quan
điểm văn học cũ, vừa làm quen với kể chuyên, mô tả, đối thoại của văn học
phơng Tây, vừa sử dụng văn biền ngẫu và hình ảnh ớc lệ tợng trng của văn học
truyền thống.
Truyện ngắn của Phạm Duy Tốn đã đạt đợc trình độ nhất định trong việc
thể hiện đặc trng thể loại. ông rất chú ý phơi bày thực trạng xã hội thối nát,
bất công của xã hội thuộc địa nữa phong kiến. Ông đã viết những truyện ngắn
hay nh Nớc mắt lắm nỗi, Con ngời Sở Khanh, Sống chết mặc bay Phạm Duy
Tốn làm xúc động lòng ngời bằng nghệ thuật mô tả chân thực những hiện tợng


22

ông quan sát. Nh vậy, tính chất hiện thực của truyện ngắn ngày càng đợc phát
triển sâu sắc và nó có nhiều thành công vào những thời kỳ sau.
Đến năm 1932, truyện ngắn phát triển thành thể loại mũi nhọn đạt đợc
những thành tựu xuất sắc với những tác giả tiêu biểu nh Nam Cao, Nguyễn
Công Hoan, Thạch Lam
1.3.1.2. Truyện ngắn giai đoạn 1930 1945 đã đạt những thành tựu lớn
với những tác giả tiêu biểu
Truyện ngắn hiện thực và truyện ngắn lãng mạn ra đời bởi nhu cầu phản
ánh đời sống và thế giới quan tác giả. Dù theo khuynh hớng nào đi nữa nhng
giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm vô cùng lớn lao, nó luôn bám sát
dòng chảy của cuộc sống. Những khía cạnh của hiện thực đợc rút ra mang

những cái nhìn, những bài học thấm thía về cuộc đời và số phận con ngời.
ở mảng truyện ngắn hiện thực giai đoạn 1930 1945, với tác phẩm Kép
T Bền, Nguyễn Công Hoan là ngời mở màn, cắm ngọn cờ chiến thắng cho
khuynh hớng văn học hiện thực. Ông viết tới 300 truyện ngắn, một con số kỷ
lục trong văn học Việt Nam, trong đó có không ít truyện thật xuất sắc: Tập
Kép T Bền, Hai thằng khốn nạn, Đào kép mới Truyện ngắn của ông làm nổi
bật lên sự bất công có tính chất giai cấp của xã hội, sự xung đột của những kẻ
giàu - nghèo, sự đụng chạm của cái giàu và cái nghèo trên đờng đời [58],
nghệ thuật truyện ngắn Nguyễn Công Hoan còn có rất nhiều ý nghĩa đối với
các thế hệ nhà văn sau ông.
Trong truyện ngắn Nam Cao, dấu ấn một thời kỳ đen tối để lại sâu đậm.
ông đã làm rõ đợc những bi kịch của kiếp ngời, đặc biệt là sự bần cùng hoá
của ngời nông dân và sự tha hoá của tầng lớp trí thức. Về mặt nghệ thuật
chúng ta thấy cha có một nhà văn nào đạt đến trình độ miêu tả tâm lý khắc
hoạ tâm trạng nh nhà văn Nam Cao.


23

Truyện ngắn của các tác giả Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Vũ Trọng
Phụng cũng nh của Thạch Lam, Thanh Tịnh đều là những tác phẩm để đời.
1.3.2. Đôi nét về truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945
1.3.2.1. Về nội dung của truyện ngắn giai đoạn 1930 - 1945
Mỗi tác phẩm văn học mang một phong cách khác nhau, gửi gắm những
quan điểm nghệ thuật riêng, nhng sợi dây chung nhất giữa các tác giả là đặt
trên bối cảnh xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX. Bất kỳ nhà văn nào cũng tìm
cho mình một nguồn cảm hứng sáng tác. Nguồn cảm hứng đó không gì bằng
là chính nơi mình đang sống, đó là nguồn tài nguyên không bao giờ cạn, là
nguồn nhựa sống nóng hổi luôn chảy không ngừng.
Nội dung truyện ngắn của các tác giả có đề tài vô cùng phong phú từ

nông thôn cũ tới đô thị mới, ở đâu cũng bề bộn phức tạp. Nông thôn cũ trong
truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao là nơi tiêu điều xơ xác vô cùng, ở đây
cuộc sống nông thôn bị thế quần ng tranh thực của bọn địa chủ phong kiến
xâu xé, bóp nặn. Rồi sự vô nghĩa của nông thôn trong truyện ngắn Thạch
Lam: từ mùi quen của đất màu, mùi bèo ở dới ao, mùi rạ ẩm ớt và mùi phân
trâu nồng ấm, đến tiếng lá tre khô rào rạc, tiếng gió thổi qua đồng trống những
buổi chiều đông rét mớt, tiếng trống thu không của huyện đờng bị nhoè đi vào
bóng tối của một vùng quê mênh mông. Tuy nhiên, do tính chất của xã hội
đan xen cũ mới, sự xuất hiện của cuộc sống thành thị lấn át nông thôn. Cuộc
sống chạy đua với phong trào Âu hoá từ đó xuất hiện những kiểu ngời, loại
ngời mới nh: ông Thông, ông Phán, chủ hảng ô tô, ông chủ, bà chủ, t sản, gái
mới, những tri thức, những khu phố với những gia đình công phú quan trọng.
Cho dù viết về đề tài nào thì trung tâm phản ánh vẫn là cuộc sống đau khổ của
ngời dân dới đáy, những mảnh đời bất hạnh, bất lực trong xã hội. Một xã hội
mà tiền là cao hơn hết thảy, có tiền mới có nghĩa vợ chồng, anh em bè bạn,
tiền đè nghẹt mọi sự vơn lên thoi thóp của con ngời.


24

Trớc xã hội ấy, bên cạnh thế lực đồng tiền là sự xuất hiện cái mới, đó là
sự lai căng của phong trào Âu hoá mà con ngời cha kịp định hình nắm bắt.
Bọn giàu có thì ngày càng giàu ra mãi, còn ngời cực khổ thì càng cực khổ hơn.
Trong truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan Răng con chó của nhà t sản, ông
chủ hãng ô tô phóng xe đuổi theo lão ăn mày đã dám đánh gãy răng con chó
Tây của ông khi nó cắn anh ta A, mày tát gãy răng chó của ông, ông chỉ kẹp
cho mày chết tơi, rồi ông đền mạng. Bất quá ba chục bạc là cùng! - câu nói
bộc lộ đầy đủ bản chất giai cấp lang sói, cho thấy giá trị thảm hại của ngời
nghèo trong xã hội đồng tiền lạnh lùng. Chính vì xã hội cũ đầy bất công mà
nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao không thể đòi đợc

quyền làm ngời trong khi anh rất khao khát đợc làm ngời, đợc sống một cuộc
sống bình dị nh bao nhiêu con ngời khác.
Cũng vậy, trong rất nhiều truyện ngắn của Vũ Trọng Phụng, các nhân vật
đều là nạn nhân của xã hội ấy. Trong truyện Chống nạng lên đờng, nhân vật
thằng Hai Xuân cũng là một trong những nạn nhân đau khổ của xã hội ấy,
đến ngôi nhà nơi trú ngụ cuối cùng của nó cũng không dung chứa nỗi nó nữa.
Với đôi chân đã mất trong một lần kéo xe, ngời ta đền cho nó một đôi chân
gỗ, thế là từ đây trên nẻo đờng cơm áo, cuộc đời của nó trở thành mờ mịt
không mục đích.
Truyện ngắn 1930 1945 không đơn giản chỉ là phân tích, đi sâu khám
phá những nỗi đau mà còn mang một giá trị tố cáo đanh thép. Trong truyện
ngắn Chí Phèo, Nam Cao còn chỉ ra nguyên nhân của bi kịch cuộc đời Chí
Phèo. Con ngời nhân phẩm phải đoạn tuyệt hẳn với cái ác, vì nếu không đoạn
tuyệt đợc với cái ác thì không thể sống khi trong xã hội có những Bá Kiến,
Đồi Tảo, Lý Cờng.
Còn đối với Nguyễn Công Hoan, trong tác phẩm của mình ông đã vạch
mặt chỉ rõ bản chất của những kẻ giàu sang nh ông Huyện, ông Đốc, cử nhân,


25

bà Tham, bà Cử, rất lịch sự văn minh nhng lại ăn cắp ví tiền của nhau! ( Cái
ví ấy của ai). Nhà văn chua chát so sánh hai thằng ăn cắp: một hạng đói khát
phải ăn cắp dấm dúi để nuôi thân, một hạng giàu có, sang trọng ăn cắp đờng hoàng.
Truyện ngắn của Thạch Lam tuy d vị nhẹ nhàng nhng giá trị tố cáo cũng
rất sâu sắc. Những đứa trẻ trong Gió lạnh đầu mùa, Hai đứa trẻ, đáng lẽ phải
đợc vui chơi học hành thì xã hội đã vùi dập chúng bởi gánh nặng cơm áo, ứơc
mơ của chúng là những mảnh sáng lẻ loi để lại sau những chuyến tàu, đó là
những cảnh sống nghèo khổ khốn khó của mọi lớp ngời bình dân.
Nội dung truyện ngắn 1930 1945 phong phú, đa dạng về vấn đề xã hội

lúc bấy giờ. Tuy mỗi nhà văn nhìn từ một khía cạnh khác nhau, nhng họ đều
gặp nhau ở điểm chung là phê phán một xã hội bất công, coi trọng động tiền,
khinh rẻ con ngời. Coi thờng và luôn tìm cách bóp nghẹt những ngời dân khốn
khổ, đẩy họ đến bớc đờng cùng của cuộc đời. Bên cạnh đó các nhà văn trong
các tác phẩm của mình đã chỉ ra cái tàn bạo của xã hội thối nát lúc bấy giờ,

lên tiếng kêu cho những con ngời bần cùng dới đáy. Họ bênh vực và vạch
mặt xã hội đó qua ngòi bút của mình.
1.3.2.2. Về nghệ thuật truyện ngắn giai đoạn 1930 - 1945
Truyện ngắn là tác phẩm tự sự cỡ nhỏ nhng nội dung không đơn giản.
Giai đoạn 1930 - 1945 là thời kỳ thịnh đạt cho truyện ngắn đích thực xuất
hiên, nó mang một t duy mới, một cách nhìn đời, cách nắm bắt cuộc sống
riêng.
Mỗi tác giả đề cập đến nội dung nào thì cũng cần có phơng diện thể
hiện. Sự đa dạng của các tác giả truyện ngắn 1930 1945 cũng đem lại
những thành tựu nghệ thuật khác nhau.


×