Tải bản đầy đủ (.doc) (55 trang)

Cái tôi cô độc trong thơ mới 1932 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (353.07 KB, 55 trang )

Trờng đại học Vinh
Khoa ngữ văn
=== ===

cái tôi cô độc trong thơ
mới
1932 - 1945
khóa Luận tốt nghiệp đại học
Chuyên ngành: văn học Việt Nam hiện đại

Ngời hớng dẫn khoa học:

TS. biện minh điền

Sinh viên thực hiện:

Vơng thanh tuấn

Lớp:

43B1 - Ngữ văn

Vinh, 5/2006
= =


Lời nói đầu
Thơ mới ra đời đã ngót 70 năm, thời gian ấy so với lịch sử là không dài,
nhng với Thơ mới là cả một bớc đờng biết bao thăng trầm, thử thách để từng
bớc khẳng định mình. Dới ánh sáng của công cuộc đổi mới hiện nay, những
giá trị tinh thần của quá khứ trong, đó có trào lu Thơ mới đã và đang đợc nhìn


nhận, đánh giá trên cảm quan, t duy mới. Tình hình nghiên cứu Thơ mới ngày
càng mở ra nhiều triển vọng tốt đẹp.
Khoá luận chúng tôi chọn đề tài: "Cái tôi cô độc trong Thơ mới
1932 - 1945", mong muốn góp phần vào việc nghiên cứu cái tôi trữ tình Thơ
mới một cách đầy đủ hơn, hệ thống hơn.
Khoá luận đợc thực hiện và hoàn thành dới sự hớng dẫn khoa học chu
đáo của Thầy giáo TS. Biện Minh Điền và sự động viên khích lệ của các thầy
giáo, cô giáo trong khoa Ngữ văn trờng Đại học Vinh cùng gia đình và bạn bè.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc.
Vinh, tháng 5 năm 2006.
Tác giả khoá luận

Vơng Thanh Tuấn

2


Mở đầu
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Thơ mới 1932 - 1945 đã đạt đợc những thành tựu nổi bật. Hiện nay,
Thơ mới đang đợc giới nghiên cứu tiếp tục quan tâm. Thơ mới đợc xem xét
một cách toàn diện hơn, sâu sắc hơn. Khóa luận của chúng tôi góp một phần
nhỏ vào hoạt động nghiên cứu đầy khó khăn thử thách, nhng cũng đầy hứng
thú và hết sức cần thiết này.
1.2. Từ khi Thơ mới ra đời đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu
về nó trên các bình diện khác nhau. Trong đó, cái Tôi trữ tình, Cái Tôi cô
độc vẫn đang là vấn đề quan tâm của giới nghiên cứu. Trong giới hạn của
luận văn, chúng tôi muốn làm sáng tỏ Cái Tôi cô độc trong Thơ mới 1932 1945 một khía cạnh độc đáo của cái Tôi trữ tình trong Thơ mới 1932 - 1945.
1.3. Hiện nay, Thơ mới đợc đa vào giảng dạy ở các bậc học khá nhiều,
việc tìm hiểu cái Tôi trữ tình trong Thơ mới, đặc biệt là nghiên cứu Cái Tôi

cô độc trong Thơ mới sẽ góp phần vào việc nhìn nhận đánh giá những giá trị
của Thơ mới để phục vụ việc giảng dạy, học tập mảng thơ này ngày càng có
hiệu quả.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
2.1. Trong lịch sử thơ ca dân tộc, Thơ mới 1932 - 1945 là một hiện tợng
văn học hết sức đặc biệt. Nghiên cứu Thơ mới, các công trình nghiên cứu dù ít
dù nhiều đã chỉ ra đợc nhiều điều mới mẻ. Kết quả các công trình nghiên cứu
chứng tỏ sự quan tâm của giới nghiên cứu về một phong trào thơ ca có nhiều
thành tựu nhng cũng không ít biến cố và thăng trầm. Trong 70 năm qua, có
khá nhiều công trình nghiên cứu về Thơ mới. Tuy nhiên, mỗi công trình
nghiên cứu có một cách tiếp cận riêng, khám phá riêng. Sau đây là một số
công trình tiêu biểu về nghiên cứu về Thơ mới:
Trớc năm 1945: Đây là thời kì đầu, việc nghiên cứu về Thơ mới thời
gian này cha nhiều. Có thể kể đến các công trình nghiên cứu nh: Việt Nam
3


Văn học sử yếu của Dơng Quảng Hàm [9], Thi nhân Việt Nam của Hoài
Thanh và Hoài Chân [17]. Trong đó, Thi nhân Việt nam của Hoài Thanh và
Hoài Chân là một công trình có giá trị. Đặc biệt, những bài giới thiệu về mỗi
nhà thơ là phần đặc sắc nhất, nó thự sự gây hớng thú cho độc giả và giúp ích
rất nhiều cho giới nghiên cứu.
Giai đoạn từ 1945 - 1985: Thời gian này, giới nghiên cứu vẫn tiếp tục
đẩy mạnh việc nghiên cứu Thơ mới càng đợc đẩy mạnh. Có thể kể đến một số
công trình tiêu biểu nh Phan Cự Đệ với Văn học lãng mạn Việt Nam 1930 1945 [5]. Bùi Văn Nguyên - Hà Minh Đức với Thơ ca Việt Nam hình thức và
thể loại [13], Huỳnh Lý - Nguyễn Đăng Mạnh - Nguyễn Hoành Khung Nguyễn Trác - Hoàng Dung với Lịch sử Văn học Việt Nam giai đoạn 1930 1945. ở Miền Nam có Thanh Lãng với Phê bình văn học thế hệ 32, Phạm Thế
Ngũ với Việt Nam văn học sử giản ớc tân biên (tập III). Các công trình kể
trên do giới hạn của cái nhìn một thời, do hạn chế về phơng pháp nghiên cứu,
mặc dù đã đạt đợc nhiều thành tựu nhng việc nghiên cứu Thơ mới mới dừng
lại ở những vấn đề chung cơ bản.

Từ 1986 đến nay: Dới ánh sáng của đờng lối đổi mới, cùng với những
giá trị tinh thần khác của quá khứ, Thơ mới đợc nhìn nhận lại một cách đầy đủ
hơn, đúng đắn hơn. Các công trình nghiên cứu tiêu biểu của giai đoạn này có
Thơ mới và sự đổi mới thi pháp thơ trữ tình Việt Nam (Trần Đình Sử), Thơ
mới những bức thăng trầm (Lê Đình Kỵ) [11], Một thời đại trong thi ca (Hà
Minh Đức) [8], Con mắt thơ (Đỗ Lai Thuý) [19], Thơ mới, bình minh thơ Việt
Nam (Nguyễn Quốc Tuý) [16], Nhìn lại một cuộc cách mạng trong thi ca
(Huy Cận - Hà Minh Đức), Giảng văn Văn học lãng mạn 1930 - 1945 (Văn
Tâm) Ngoài ra, trên tạp chí Văn học có khá nhiều bài viết đề cập đến Thơ
mới: Hoài Thanh và thi nhân Việt Nam (Lê Phong), Kế thừa truyền thống dân
tột trong đổi mới thơ ca qua kinh nghiệm lịch sử của phong trào Thơ mới
(Nguyễn Đăng Mạnh), Loại hình câu Thơ mới (Lê Tiến Dũng) [3], Thiên
nhiên nh một biểu hiện của cái Tôi trữ tình trong Thơ mới (Phan Huy Dũng)
[4], Bàn thêm về vai trò và tác dụng của Thơ mới nhân đọc phong trào Thơ
4


mới của Phan Cự Đệ (Nguyễn Đức Đàm), Nói thêm về điểm khởi đầu của
phong trào Thơ mới 1932 - 1945 (Lại Nguyên Ân), Trở lại ý kiến của phong
trào Thơ mới (Nguyễn Quốc Tuý) Thời gian này, việc nghiên cứu Thơ mới
toàn diện hơn, sâu sắc hơn và do vậy tầm vóc Thơ mới hiện ra đầy đủ hơn.
Nhìn chung, việc nghiên cứu Thơ mới còn nhiều chỗ trống. Trong đó có cả
vấn đề Cái Tôi cô độc mà chúng tôi cần nghiên cứu.
2.2. Trong thơ, vấn đề chủ thể, vấn đề cái Tôi trữ tình có một ý nghĩa
hết sức quan trọng. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về cái Tôi trữ tình, cái
Tôi Thơ mới 1932 - 1945 giúp chúng ta hiểu sâu sắc hơn bản chất của nó.
Luận văn chúng tôi tập trung đặc biệt chú ý tới Cái Tôi cô độc một phơng diện
biểu hiện độc đáo của cái Tôi trữ tình trong Thơ mới 1932 - 1945. Cái Tôi trữ
tình chính là cái Tôi tác giả đã đợc nghệ thuật hoá, lý tởng hoá, điển hình hoá.
Trần Đình Sử có nhiều công trình nghiên cứu về cái Tôi trữ tình: Thi

pháp thơ Tố Hữu 1987, Phẩm chất cái Tôi trữ tình tác giả đã tiếp cận cái
Tôi trữ tình nh một hiện tợng nghệ thuật.
Trong Tìm hiểu thơ Mã Giang Lân đề cập cái Tôi trong thơ trữ tình.
Theo tác giả sáng tạo thơ là một hành động chủ quan. Tác giả còn cắt nghĩa trờng hợp nhà thơ là một nhân vật và nhà thơ hoá thân thành cái Tôi trữ tình.
Hai cái đó không đối lập, không tách rời mà có sự thông nhất với nhau.
Trong Thơ trữ tình Việt Nam 1975 - 1990, Lê Lu Oanh nghiên cứu cái
Tôi trữ tình của một giai đoạn thơ ca với nhiều kiểu cái Tôi trữ tình trong đó.
Ngoài ra, tác giả còn phân biệt với các khái niện gần gũi: Chủ quan, chủ thể,
chủ thể trữ tình, nhân vật trữ tình
Trong các công trình nghiên cứu trên Cái Tôi cô độc Trong Thơ mới
cha đợc nói tới, nhng các công trình nghiên cứu đó là chỗ dựa là nền tảng lý
luận quan trọng để chúng tôi có dịp bày tỏ những luận điểm của mình theo đề
tài đã chọn.
2.3. Phong trào Thơ mới lãng mạn (1932 - 1945) là một hiện tợng văn
học rất đa dạng, phong phú và phức tạp. Vì thế, xung quanh vấn đề này cho đến
nay, ý kiến của các nhà phê bình, nghiên cứu và của d luận nói chung vẫn còn
5


nhiều điểm cha thống nhất. Ngót 70 năm đã trôi qua kể từ ngày Thơ mới ra đời,
tuy nhiên vấn đề Thơ mới lãng mạn cho đến nay vẫn còn ý nghĩa thời sự.
Nhìn chung trên báo chí, sách vở và các giảng đờng đại học vẫn còn tồn
tại những khuynh hớng đánh giá rất khác nhau. Một khuynh hớng hầu nh
muốn phủ nhận hoàn toàn những Nhân tố yêu nớc và tiến bộ, giá trị nhân
bản cũng nh những đổi mới hết sức quan trọng về thi pháp và t duy thơ, Một
cuộc cách mạng trong thi ca, của phong trào Thơ mới lãng mạn. Còn khuynh
hớng thứ hai là không thừa nhận Thơ mới có khuynh hớng tiêu cực và thoát ly
và bằng cách này hay cách khác cố tình đề cao quá mức những mặt tiến bộ và
tích cực của phong trào Thơ mới, hoặc thổi phồng ảnh hởng của các nhà A đối
với thơ ca thế kỷ XX. Đó là cha kể đến khuynh hớng đề cao một chiều thơ ca

lãng mạn trong các công trình nghiên cứu ở miền Nam trớc đây.
Hơn 70 năm trôi qua kể từ ngày Thơ mới ra đời một thời gian so với lịch
sử thì không dài nhng đủ để chúng ta nhìn lại và đánh giá đúng những giá trị
của phong trào Thơ mới 1932 - 1945. Chúng tôi cho rằng, Thơ 1932 - 1945 là
một hiện tợng đánh dấu bớc ngoặt trong lịch sử thơ ca dân tộc. Thơ mới lãng
mạn có cái buồn uỷ mỵ, tiêu cực và nhìn chung có khuynh hớng thoát ly khỏi
những vấn đề búc xúc của đời sống, của cách mạng. Tuy nhiêu, ở nớc ta thời
kỳ cách mạng tháng tám. Từ những ngời phát ngôn cho quan điểm Nghệ
thuật vì nghệ thuật bằng những lời lẽ thành thực và ngây thơ. Những thi sỹ
đắm mình trong cái Tháp ngà của chủ nghĩa lãng mạn cho đến những kẻ đề
xớng một cái Tôi to tớng, kênh kiệu đi lù lù giữa cuộc đời và ném đá vào
những kẻ xung quanh tất cả những nhà văn đó nói chung vẫn mang tinh thần
dân tộc và thái độ bất mãn với xã hội kim tiền ô trọc. Với thói hống hách lấy
thịt đè ngời của bọn cầm quyền thống trị. Trờng Chinh nhận định: Các tầng
lớp t sản dân tộc và tiểu t sản tri thức Việt Nam tìm thấy trong chủ nghĩa lãng
mạn một tiếng thở dài chống chế độ thuộc địa. Đó là một lời đánh giá
nghiêm khắc, lòng yêu thơng con ngời và cuộc sống trong tác phẩm lãng mạn
của những nhà văn tiểu t sản tri thức ở một nớc thuộc địa là hoàn toàn đúng.
Thơ mới là một hiện tợng rất phong phú nhng cũng rất phức tạp. Các nhà phát
ngôn cho quan điểm Nghệ thuật vì nghệ thuật quan điểm nhân sinh có màu
6


sắc t sản ở một nớc thuộc địa. Trong những ngày đầu cách mạng, một sự đánh
giá thật sự khoa học có lý có tình nh trên của Đảng sẽ có khả năng thu hút lôi
cuốn đốt sáng lên tinh thần dân tộc từ lâu vẫn còn âm ỉ trong tâm hồn của ngời
trí thức mất nớc đa họ đứng vào hàng ngũ mặt trận văn hoá cách mạng.
Phong trào Thơ mới 1932 - 1945 nh trên đã nói thật sự là một bớc ngoặt
lớn Một cuộc cách mạng trong thi ca nó thể hiện một bớc tổng hợp hết sức
quan trọng giữa thành tựu của thi ca Phơng Tây và thi ca Phơng Đông với

truyền thống thi ca dân tộc. Chính nhờ bớc tổng hợp đó mà thi ca Việt Nam đã
tiến nhanh trên con đờng hiện đại hoá.
Hiện nay, Thơ mới không những đợc trả lại đúng vị trí của nó mà còn đợc khám phá, nghiên cứu cả về chiều sâu đem lại những điều mới mẻ. Việc
nghiên cứu Cái Tôi cô độc trong Thơ mới cũng chính là những đóng góp của
khoá luận này. Theo chúng tôi đợc biết thì những tài liệu đề cập đến Cái Tôi
cô độc trong Thơ mới cha nhiều, cha trở thành một khung hớng nghiên cứu
riêng về cái Tôi trữ tình trong Thơ mới, vì vậy đó cũng là một là một lý do để
chúng tôi tiến hành nghiên cứu. Dựa trên ý kiến ban đầu chúng tôi muốn có
một cái nhìn về Cái Tôi cô độc trong Thơ mới, một cách đầy đủ rõ hơn và có
hệ thống.
3. Đối tợng nghiên cứu và giới hạn của đề tài
Đối tợng nghiên cứu của khoá luận là Cái Tôi cô độc trong Thơ mới
1932 - 1945 (chủ yếu trong thơ của một số tác giả nh: Thế Lữ, Xuân Diệu,
Huy Cận, Nguyễn Bính, Huy Thông, Chế Lan Viên, Nguyễn Nhợc Pháp, Vũ
Đình Liên, Hàn Mặc Tử, Vũ Hoàng Chơng và thơ ca nhóm Xuân thu nhã
tập).
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Nhận diện Cái Tôi cô độc trong cái Tôi trữ tình của Thơ mới và tìm
hiểu mối quan hệ của Cái Tôi cô độc với những cái Tôi khác trong Thơ mới.
4.2. Phân tích, chứng minh sự chi phối của Cái Tôi cô độc ảnh hởng
đến cảm hứng sáng tạo của các nhà Thơ mới.
7


4.3. Phân tích làm sáng tỏ sự chi phối của Cái Tôi cô độc tới việc tìm
tòi các phơng tiện biểu hiện phù hợp.
5. Phơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi đã kết hợp sử dụng nhiều phơng
pháp khác nhau,trong đó có các phơng pháp chính:
Phơng pháp lịch sử: Đặt các nhà Thơ mới với biểu hiện Cái Tôi cô

độc trong hoàn cảnh lịch sử và văn học đơng thời.
Phơng pháp so sánh: Có sự phân tích tổng hợp đến sâu chuỗi khái quát
để làm rõ Cái Tôi cô độc trong phong trào Thơ mới 1932 - 1945.
Phơng pháp thống kê, phân loại, phơng pháp phân tích tổng hợp.
6. Đóng góp và cấu trúc của khoá luận
6.1. Vấn đề Cái Tôi cô độc trong Thơ mới 1932 - 1945 đợc tìm hiểu
nghiên cứu một cách tập trung và có tính hệ thống.
6.2. Tơng ứng với nhiệm vụ đã đặt ra, ngoài mở đầu và phần kết luận,
nội dung khoá luận đợc triển khai trong 3 chơng:
Chơng 1:

Thơ mới 1932 - 1945 và sự thể hịên cái Tôi trữ tình.

Chơng 2:

Cái Tôi cô độc một biểu hiện đặc biệt của cái Tôi trữ tình
trong Thơ mới 1932 - 1945.

Chơng 3:

Nghệ thuật thể hiện Cái Tôi cô độc của các nhà Thơ mới
1932 - 1945.

Cuối cùng là tài liệu tham khảo.

Chơng 1:
Thơ mới 1932 - 1945 và sự thể hiện cái Tôi trữ tình
8



1.1. Thơ mới 1932 - 1945, hiện tợng đánh dấu bớc ngoặt lớn trong lịch sử
thơ ca dân tộc
Trong hàng ngàn năm lịch sử của thơ ca dân tộc chúng ta đã rất tự hào
về những gì cha ông đã làm đợc cho nền thi ca đó với rất nhièu tên tuổi làm
rạng danh cho dân tộc nh Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Hồ Xuân
Hơng... Nhng có thể nói cha lúc nào trong nền thơ ca nớc nhà lại có một sự
bùng nổ nghệ thuật nh ở thời kì 1932 - 1945 của thế kỷ XX với sự ra đời của
phong tràn Thơ mới. Có thể nói đây là một cuộc biến thiên lớn trong thi ca mà
hàng ngàn năm mới xuất hiện, Thơ mới ra đời đã làm nên một thời đại mới,
Thời đại trong thi ca (Hà Minh Đức) [8]. Phong trào Thơ mới ra đời là một
bớc ngoặt lớn trong lich sử thơ ca dân tộc, với một đội ngũ các cây bút trẻ có
tri thức lại đợc tiếp xúc với luồng gió văn minh Phơng Tây tràn vào Việt Nam.
Thơ mới ra đời mang theo cả một hệ thống thi pháp mới, hệ thống thi pháp
hiện đại. Có thể nói, Thơ mới ra đời là một hiện tợng văn học mới lạ đóng một
mốc son trong lịch sử thơ ca dân tộc.
1.1.1. Sự ra đời phong trào Thơ mới 1932 - 1945
Một phong trào văn học ra đời bao giờ cũng phản ánh những đòi hỏi
nhất định của xã hội. Văn học lãng mạn từ 1932 trở đi là tiếng nói của gian
cấp t sản và tiểu t sản thành thị với những t tởng tình cảm mới những thị hiếu
thẩm mỹ mới cùng với sự giao lu văn hoá Đông Tây là nguyên nhân chính làm
cho phong trào Thơ mới ra đời.
Chính những đổi mới trong sinh hoạt t tởngvà sự tiếp xúc văn hoá phơng Tây đặc biệt là Pháp đã dần dần mang đến cho tầng lớp thanh niên tiểu t
sản thành thị những rung động mới. Họ yêu đơng mơ mộng, vui buồn đã khác
các cụ nhà nho ngày xa nhiều lắm. Trong buổi diễn thuyết ở nhà học hội Quy
Nhơn hồi tháng 6 năm 1934, Lu Trọng L nói: Các cụ ta a những màu đỏ
choét, ta lại a những màu xanh nhạt, các cụ bâng khuâng vì tiếng trùng đêm
khuya, ta lại nao nao vì tiếng gà gáy lúc đúng ngọ. Nhìn một cô gái xinh xắn
ngây thơ các cụ coi nh đã làm một điều tội lỗi ta thì cho là mát mẻ nh đứng tr9



ớc một cánh đồng xanh. Cái ái tình của các cụ thì chỉ là sự hôn nhân, nhng đối
với ta thì trăm hình muôn trạng, cái tình say đắm, cái tình thoảng qua, cái tinh
gần gụi, cái tình xa xôi, cái tình trong giây phút, cái tình ngàn thu. Chính vì sự
khác nhau sâu xa đó gia hai thế hệ mà những thơ ngâm hoa vịnh nguyệt sáo và
cũ ríc trên Nam phong, văn học tạp chí, tiếng dân không còn phù hợp với tình
cảm của họ nữa. Phong trào Thơ mới lãng mạn ra đời năm 1932, chính là để
đáp ứng nhu cầu tình cảm và thẩm mỹ của một tầng lớp thanh niên mới.
Con đờng văn thơ lúc bấy giờ đối với một số thanh niên trí thức tiểu t
sản là một lối thoát ly trong sạch là nơi để gửi gắm nỗi niềm tâm sự. Không
đánh Pháp không đi theo cách mạng, nhng vẫn có thể làm văn chơng. Và theo
họ, làm văn chơng có lẽ cũng là một cách để tỏ lòng yêu nớc. Thật đúng nh
đồng chí Trờng Chinh nhận định: các tầng lớp t sản dân tộc và tiểu t sản trí
thức Việt Nam tìm thấy trong chủ nghĩa lãng mạn một tiếng thở dài chống chế
độ thuộc địa. Đó là quá trình hình thành và ra đời của phong trào Thơ mới
1932 - 1945.
1.1.2. Thơ mới 1932 - 1945 với sự cách tân thơ Tiếng Việt
Ba thập kỷ đầu của thế kỷ XX nhân dân Việt Nam đã có cái vơn vai kì
diệu một cuộc duy tân tụ cờng có tính chất phục hng một cuộc cả cách có tính
cách mạng về văn hoá đã diễn ra và đã thành công, tạo đà cho dân tộc bớc vào
đời sống hiện đại của nhân loại. Dĩ nhiên cái vơn vai kì diệu về văn hoá này là
nằm trong cái vơn vai kì diệu về mọi mặt của đời sống dân tộc để trả lời câu
hỏi: Dân tộc Việt Nam có thể vơn vai hoà nhập vào cuộc sống hiện đại của
nhân loại hay không? Có thể nói, đây là cái bản năng sinh tồn cái tiềm thức vơn dậy của dân tộc trớc hiểm họa bị tụt hâụ không hoà nhập đợc vào cộng
đồng nhân loại đã bớc vào đời sống hiện đại. Cho nên trong ý nghĩ sâu xa đây
là sức mạnh của sự trỗi dậy của bản năng tiềm thức, của tâm linh và tâm thức
dân tộc trớc hiểm họa bị sống trong vòng nô lệ bị tụt hậu. Thơ mới 1932 1945 ra đời với sự cách tân thơ Tiếng Việt là một đóng góp trong công cuộc
cải cách văn hoá dân tộc. Phong trào Thơ mới là một cuộc đánh giá lại các thể
thơ cũ tiếp thu những cái tốt đẹp của truyền thống cũ đồng thời học tập một
cách có sáng tạo thơ ca nớc ngoài nhất là thơ Pháp. Các thi sỹ thấy trong thơ
10



Pháp sự tự do phóng túng về câu chữ có thể vận dụng để diễn đạt những tình
cảm mới phức tạp.
Trong khoảng thời gian từ 1932 - 1936, Thơ mới đã làm một việc định
giá lại các thể thơ cũ và kết quả cho thấy nh sau: Thể luật thi có phần nào gò
bó cứng nhắc (nhất là về phơng diện bố cục, đổi ý, đổi chữ) khó khăn cho việc
thể hiện nội dung t tởng tình cảm.
Thơ mới có sự cách tân đối với những gì tốt đẹp nhất của thơ cũ vẩn đợc
duy trì mặc dù đợc thể hiện dới bút pháp nghệ thuật hoàn toàn mới ví nh một
số bài thơ của Văn Dật trong Bâng khuânghay của Hàn Mặc Tử trong Gái
quê vẩn còn giữ đợc nhạc điệu lối ngũ ngôn cổ phong xa. Thất ngôn của
Thâm Tâm vẩn còn cái rắn rỏi gân guốc của câu thơ cổ:
Thà với mãng phu ngoài bến nớc
Uống dăm chén rợu quăng tay thớc
Cái sống ngang tàng quen bốc men
(Thâm Tâm)
Nhng nhìn chung Tống biệt hành của Thâm Tâm vẫn nghiêng về vần
bằng và có những bâng khuâng của thời đại mới.
Nhìn chung thì thất ngôn, ngũ ngôn của Thơ mới mềm mại uyển chuyển
hơn thơ cổ phong. Những bài thơ thất ngôn của Xuân Diệu (Huyền diệu,
Nguyệt cầm) là một sự kết hợp giửa thể thơ với những ảnh hởng của thơ Pháp
để tạo nên cái rất Xuân Diệu.
Thơ mới có khả năng diển đạt hơn lối thơ cũ nhờ ở thể linh hoạt
trong cách hiệp vần, phong phú nhạc điệu ngắt nhịp sinh động, ngôn ngữ gợi
cảm, đầy hình tợng. Tất nhiên có đợc điều kì diệu đó cũng là vì nó biết tiếp
thu đúc kết những thành tựu của thơ cũ và phát triển lên ở mức độ cao hơn,
mới hơn. Nhờ sự ảnh hởng của thơ Pháp, Thơ mới đã sử dụng những hình
thức khá phong phú. Huy Thông xây dựng thể thơ kịch (Tiếng địch sông Ô,
Anh nga) gọi là thơ kịch nhng thực chất là một bài thơ dài, (Mị Châu Trọng

Thuỷ) của Xuân Diệu cũng vậy hình thức đối thoại giúp cho ý thơ đi xa hơn,
11


đỡ đơn điệu hơn. Hơn nữa phù hợp với sự diễn biến của tình cảm. Thi sĩ có thể
sử dụng nhiều thể thơ khác nhau trong một bài thơ kịch. Vì là thơ kịch nên
Huy Thông ít chú ý đến kịch tính cũng nh trang trí dàn cảnh ngời ta có thể
nghĩ đến Tiếng Ca, Tiếng địch làm nền cho Anh nga và Tiếng địch sông
Ô. Nhng những tiếng vọng đi vọng lại lại nh một điệp khúc đó chỉ cốt giữ lấy
không khí chung thống nhất cho bài thơ và phần nào nói lên sự cách tân, thay
đổi trong câu chuyện. Huy Thông, Xuân Diệu cũng sử dụng khá nhiều loại
điệp khúc. Đây đợc xem là một phơng diện cách tân của Thơ mới, Thơ Tiếng
Việt.
Một trong những thành tựu khá quan trọng của Thơ mới là sự vận dụng
nhạc điệu để diễn tả tình cảm của Thơ mới là nhạc điệu quen thuộc dân tộc
nhng các nhà Thơ mới đã tiếp thu những thành tựu về nhạc điệu trong Thơ
Pháp và Thơ Đờng. L Trọng L có một tâm hồn lãng mạn nhng về nghệ thuật
Thơ ông chịu ảnh hởng của ba trờng phái:Lãng mạn, thi sơn, tợng trng. Thi sĩ
đã thành công trong việc tạo ra một âm nhạc dịu gợi cảm nh trong thơ tợng trng Pháp (Tiếng thu, Ma). Tiếng thu Lu Trọng L có chịu ảnh hởng ít nhiều
nhạc điệu của bài Tiếng hát mùa thu của Verlaine.
Cũng nh thế đọc điệu buồn của Huy Cận ta có thể liên Tởng đến Ma
rơi dìu dịu trên thành phố của của Verlaine. Tất nhiên cả Lu Trọng L và Huy
Cận đều giữ đợc một nhạc điệu rất á Đông, rất Việt Nam. Bích Khê cũng rất
chú ý đến tác dụng truyền cảm của nhạc điệu. Trong bài Mộng cầm ca có
những câu láy đi láy lại rất khéo ta nghe phảng phất âm điệu tiếng nhạc Velse
trong bài Gia điệu buổi chiều của Baudelaie.
Một điểm khá đặc biệt là mặc dầu phá võ khuôn khổ của Thơ Đờng nhng Thơ mới ít nhiều vẫn giữ lại nhạc điệu của Thơ Đờng. Ta hãy so sánh
những câu Thơ Đờng với những câu thơ của các nhà Thơ mới để thấy đợc sự
cách tân của các nhà Thơi mới:
Vân khai vân thuỷ cô phàm viễn

Lộ nhiêu Lơng sơn nhất mã trì
Cao Thích
12


Hay:
Lỡng cá hoàng li minh thuý liễu
Nhất nàng bạch lộ hớng thanh thiên
Đỗ Phủ
Với:
Vờn ai mớt quá xanh nh ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Hàn Mặc Tử
Hay:
Nắng đã xế về bên xứ bạn
Chiều ma trên bãi nớc sông đầy
Huy Cận
Trên đây chúng tôi đã nói đến sự kế thừa và sự cách tân trong nghệ
thuật Thơ mới. Nội dung t tởng và tình cảm và những yêu cầu phát huy bản
ngã của một lớp ngời mới đã làm cho khuôn khổ cũ bị rạn nứt và đa đến
những sự thay đổi phù hợp về phơng diện nghệ thuật thi ca. Cái Tôi xuất
hiện trong Thơ mới đã mang đến một cái nhìn một lối t duy rất khác lạ với
Thơ cũ đó là một cái nhìn cá thể hoá. Một cái nhìn khám phá của một thi
pháp mới. Thơ mới không sa vào cái nhìn ớc lệ lối nói sáo cũ của thơ Nam
Phong và Văn học tạm chí (các nhà Thơ cũ nhìn thiên nhiên vẫn không
ngoài Phong, hoa, tuyết, nguyệtvà gọi ngời yêu thì vẫn cứ Nơng tử ơi! phu
nhân ơi! Thơ mới đã mang đến một Cái Tôi trữ tình mới một lí tởng thẩm
mỹ mới. Bớc vào làng Thơ mới, một số thi sĩ bỗng nhiên thay đổi hẳn cách
nhìn, cách nghĩ Đông Hồ già cỗi trong Nam Phong, bỗng chốc trở thành cô
gái xuân hay Hàn Măc Tử đang ngâm vịnh thơ Đờng trên Phụ nữ tân văn,

Sài Gòn, cũng chuyển về Thơ mới với tập Gái quê có đợc diện mạo mới mẻ
và những thành tựu đó là do các nhà Thơ mới đã biết đúc kết tiếp thu vốn cũ

13


dân tộc, đồng thời ra sức học tập một cách có sáng tạo kinh nghiệm thi ca nớc
ngoài nh (thơ Đờng, thơ Pháp).
1.1.3. Vai trò vị trí Thơ mới 1932 - 1945 trong lịch sử văn học dân tộc
Nh chúng ta đã biết, Thơ mới ra đời đánh dấu bớc ngoặt trong lịch sử
văn học dân tộc là Cuộc cách mạng thi ca trong thế kỷ XX.
Nhì lại lịch sử văn học nớc nhà từ khi khởi nguồn đến bây giờ ta thấy
biết bao thăng trầm biến đổi. Đến thế kỷ XX, đặc biệt là giai đoạn 1932 - 1945
với sự ra đời của phong trào Thơ mới xuất hiện Một thời đại trong thi ca
(Hoài Thanh).
Khi Thơ mới ra đời đã có rất nhiều ý kiến không tán thành thậm chí còn
phủ nhận. Nhng rồi cái gì cũng vậy lúc mới ra đời thì thật khó chấp nhận nhng
có lẽ thờ gian là phép thử mầu nhiệm để đánh giá một hiện tợng gì đó. Đặc
biệt đây lại là một hiện tợng văn học mang tầm thời đại. Đã có hẳn cả một
cuộc đấu tranh trên văn đàn lúc bấy giờ giữa Thơ mới và Thơ cũ và rồi cái
gì đến sẽ đến Thơ mới đã giành đợc thắng thế trên văn đàn trớc hết Thơ
mới ra đời mang theo cả một hệ thống thi pháp hoàn toàn mới, nó chuyển đổi
thi pháp từ trung đại sang hiện đại, từ cái ta chung chung sang cái Tôi cá nhân
cá thể rõ rệt. Trong một thời gian rất ngắn hơn mời năm từ (1932 - 1945) nhng
đã có những tên tuổi nổi danh trong nền văn học dân tộc mà trớc đó phải đến
cả một thời gian dài hàng trăm năm có khi không có một tên tuổi nào nổi danh
cả. Nh: Huy Cận, Xuân Diệu, Thế Lữ, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử. Sự ra đời
của phong trào Thơ mới 1932 - 1945 đánh một mốc song chói lọi gây tiếng
vang lớn trên văn đàn Việt Nam và Thơ mới giữ vai trò vị trí rất quan trọng
trong lịch sử văn học nớc nhà. Cho đến hôm nay thế kỷ XXI những ảnh hởng

của phong trào Thơ mới trong đời sống văn học thì vẫn còn nguyên giá trị.

1.2. Sự thể hiện cái Tôi trữ tình trong Thơ mới 1932 - 1945
Thơ là vơng quốc của cái chủ quan (Hêghen). Nó là tiếng nó của cái
Tôi đặc biệt, cái Tôi trữ tình. Cha bao giờ cái Tôi trữ tình trong thơ lại phát
14


triển một cách mạnh mẽ rộng lớn đến nh vậy, cái Tôi trữ tình trong Thơ mới
thể hiện trên rất nhiều phơng diện, cái Tôi của tác giả đợc tự do phơi bày hết
tất cả những suy nghĩ tình cảm cảm xúc của mình ra giữa cuôc đời.
2.1.1. Khái niệm cái Tôi và các phơng diện biểu hiện của nó trong thơ
Trong những mức độ nhất định rải rác đâu đó trong lý luận văn học,
trong thực tiễn nghiên cứu văn học, ngời ta đã đề cập đến vấn đề cái Tôi, ở đây
chúng tôi cũng xin mạnh dạn trình bày một cách hiểu về cái Tôi. Cái Tôi đó là
kết quả của sự phát triển lịch sử. Nghệ thuật cách mạng t sản dân quền khẳng
định con ngời cá nhân với t cách là chủ thể hoạt động, và sau đó chủ thể lãng
mạn ra đời trong nghệ thuật nh là một giai đoạn phát triển của lịch sử văn học
u tiên thể hiện con ngời cá nhân và sự đối lập nó với thực tại không chỉ riêng
sự phát triển về mặt lịch sử xã hội đã sản sinh ra cái Tôi, nhà văn với t cách là
chủ thể có cá tính sáng tạo có ý thức cao về cá thể sáng tạo nghệ thuật ý thức
cao về phong cách, về nghề viết. Lấy mình làm đề tài, thể hiện mình trong tác
phẩm thành hình tợng nghệ thuật xng tôi hoặc không xng thể hiện trực tiếp
hoặc thông qua mô tả ngoại cảnh.
Nêu lên một cách hiểu trực tiếp trên, chúng tôi không có ý định định
nghĩa cái Tôi mà chỉ biểu hiện cách hiểu của mình về cái Tôi.
Rõ ràng, cái Tôi với ý nghĩa nh vậy đã có một vai trò quan trọng đối với
thơ. Lịch sử phát triển của Thơ mới về một phơng diện nào đó là lịch sử của
cái Tôi cá nhân cá thể. Lúc này, văn thơ là vấn đề chủ yếu nói về cái Tôi. Để
khẳng định Cái Tôi những thanh niên mới đã thực hiện đổi mới thơ ca, giải

phóng cái Tôi. Hoài Thanh đã từng nhận xét: Cá tính con ngời bị kìm chế
trong bao nhiêu lâu bỗng đợc giải phóng, sự giải phóng có thể tác hại ở chỗ
khác, nhng ở đây nó chỉ làm lợi cho thơ ca (Thi nhân Việt Nam).
Có thể nói, cái Tôi trong Thơ mới đợc biểu hiện trên tất cả mọi mặt của
đời sống tinh thần, đó là sự yêu ghét cái Tôi ấy đợc xem là Ngời bộ hành
phiêu lãng là Một khách tình sy, Một kiếp đi hoang hay Mộ kẻ lạc loài
cô độc vì Sinh nhầm thế kỷ
Đó là các phơng diện biểu cái Tôi trong Thơ mới 1932 - 1945.
15


1.2.2. Cái Tôi trữ tình trong Thơ mới 1932 - 1945 và các trạng thái biểu
hiện của nó.
Cái Tôi trữ tình của các nhà thơ là một cách nhìn và cảm thụ thế giới là
Trung tâm chi phối các nguyên tác tổ chức nên một thế giới nghệ thuật độc
đáo trong hình thức văn bản trữ tình. Khái niệm cái Tôi trữ tình là một trong
những khái niệm quan trọng của lý luận về thơ. Khái niệm này cha đợc vận
dụng nhiều trong lý luận truyền thống. Tuy nhiên, nó cũng đợc thể hiện phần
nào trong các kiến giải về Tình Tâm Chí Đạo trong thơ văn Lê Quý Đôn,
Nguyễn Bỉnh Khiêm, Cao Bá Quát Gần đây, cái Tôi trữ tình lại đ ợc giới
nghiên cứu lý luận quan tâm một cách toàn diện hơn dới nhiều góc độ nh triết
học, mỹ học, thi pháp học. Những công trình nghiên cứu này bớc đầu đã đem
lại những khả quan và mở ra một triển vọng hết sức lớn lao. Đó là từ những
năm 70, vấn đề cái Tôi trữ tình đợc đặt ra nh một đối tợng nghiên cứu ở một
số chuyên khảo về thơ, đó là công trình của Hà Minh Đức, Trần Đình Sử, Mã
Giang Lân. Mỗi công trình nghiên cứu có cái cách tiếp cận riêng về cái Tôi trữ
tình.
Cái Tôi trữ tình là trung tâm chi phối mọi yếu tố khác nh cảm hứng t tởng, hình ảnh giọng điệu lời thơ. Cái Tôi trữ tình không phải bao giời cũng là
cái Tôi của tác giả đã viết ra bài thơ. Nhà thơ không đồng nhất với cái Tôi trữ
tình nhng lại hoàn toàn thống nhất. Cái Tôi trữ tình là sự ý thức sâu sắc nhất

của chủ thể sáng tạo về chính mình trong nghệ thuật. Chủ thể cái Tôi trữ
tình tự hiểu mình là ai? Tự thấy mình là ai? Thấy họ là kẻ cô độc, là ng ời
thanh niên tràn đầy sức sống, tràn đầy nhiệt huyết, họ thấy họ là những thi
nhân kiểu mới những ngời đang làm thơ và làm thơ lúc này cũng đợc xem
là một nghề Nghề thi sỹ hay họ thấy họ Sinh nhầm thế kỷ. Chúng ta sẽ
điểm qua một số trạng thái biểu hiện của cái Tôi trữ tình trong Thơ mới
1932 - 1945.
Trớc tiên là cái Tôi cá nhân là một dạng thái điển hình của cái Tôi trữ
tình trong Thơ mới là sự ý thức về cá nhân cá tính của chủ thể. ở đây con ngời
đang trữ tình tự cảm thấy mình, nhận thức mình qua những xúc cảm của mình
và tự miêu tả bản thân mình. Đó là mới đích thực là cái chủ quan. Điều kiện
16


để một chủ thể trữ tình bộc lộ tâm trạng cảm xúc của mình và theo từng cung
bậc là do đâu? chính là xuất phát từ nhu cầu tự ý thức, tự khẳng định, tự đánh
giá của chủ thể, tức là cái Tôi. Do đó thiếu sự ý thức về chủ thể không thể có
đợc tác phẩm trữ tình nh chúng ta đã biết cá nhân là thực thể đầu tiên là nên
mọi hình thức cộng đồng xã hội. Xã hội chỉ là xã hội khi có từng cá nhân cá
thể gộp thành. Cá nhân trớc hết là một thực thể tự nhiên, sinh học trớc khi có
một thực thể mang tính xã hội, bởi vậy khi nói đến sự sống của nhân loại, trới
hết là nói đến sự sống của tầng cá nhân. Cái Tôi cá nhân có một ý nghĩa đặc
biệt trong sự sống còn của nhân loại. Có điều, con ngời, trong đó có các nhà
văn, không phải bao giờ cũng nhận thức đó ý nghĩa đó. Để đi đến khái niệm
cái Tôi cá nhân đó là cả một quá trình.
Trong văn học phơng Tây ngay từ thời cổ đại, con ngời cá nhân đã xuất
hiện, con ngời cá nhân ở phơng Tây xuất hiện cùng với chủ nghĩa lãng mạn.
Đặc biệt đến thời Phục Hng, cái Tôi cá nhân có mặt một cách tự giác tự tin.
Cái đáng nói đến trong thời Phục Hng là chủ nghĩa nhân văn. Nó đem lại
nhiều quan niệm mới mẻ, góp tiếng nói mới vào trong văn học. Chính vì ý

thức đợc nó chủ nghĩa nhân văn thời Phục Hng là sự giải phóng con ngời khỏi
sự rằng buộc trong xã hội. Trên cơ sở đó, con ngời có điều kiện vơn lên sáng
tạo ra những giá trị văn học rực rỡ mà cho đến nay vẫn còn giá trị.
Có thể nói rằng, cha bao giờ nh trong Thơ mới 1932 - 1945, cái Tôi cá
nhân trỗi dậy mãnh liệt đến nh vậy. Cha bao giờ ngời ta thấy xuất hiện cùng
một lần một hồn thơ rộng mở nh Thế Lữ, mơ màng nh Lu Trọng L, hùng tráng
nh Huy Thông, trong sáng nh Nguyễn Nhợc Pháp, ảo não nh Huy Cận quê
mùa nh Nguyễn Bính, kỳ dị nh Chế Lan Viên và thiết tha rạo rực băn khoăn
nh Xuân Diệu. Thơ mới ra đời cũng mang theo một cái Tôi cá nhân một cái
Tôi cá thể hoá trong cảm xúc và thẩm mỹ.
Thời đại Thơ mới là thời đại của chữ tôi (Hoài Thanh). Cái Tôi trong
Thơ mới hiện hình đủ cung bậc, giọng điệu, tạo nên sự phong phú cho thơ ca
Tiếng Việt tìm hiểu cái Tôi cá nhân cũng chính là làm sáng tỏ hơn cái Tôi trữ
tình trong Thơ mới. Hơn bao giờ hết, cái Tôi trong Thơ mới có thể tự do theo

17


đuổi những tâm tình niềm say mê của họ mà không bị gò bó nh thơ xa. ở đó
họ có thể miêu tả cảnh đẹp của một làng quê Việt Nam không của thời nào:
Thong thả dân gian nghỉ việc đồng
Lúa thì con gái mợt nh nhung
Đầy vờn hoa bởi hoa cam rụng
Ngào ngạt hơng bay bớm vẽ vòng
(Nguyễn Bính)
Họ có thể miêu tả nỗi đau khổ, chán nản:
Với tôi tất cả nh vô nghĩa
Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau
(Chế Lan Viên)
Đó chính là dạng thái biểu hiện đầu tiên của cấu thành cái Tôi trữ tình

trong Thơ mới 1932 - 1945. Cùng với cái Tôi cá nhân, cái Tôi tuổi trẻ là một
yếu tố, một dạng thái biểu hiện cái Tôi trữ tình trong Thơ mới. Thực ra, cái Tôi
tuổi trẻ là một biểu hiện cụ thể của cái Tôi cá nhân trong trào lu thơ này. Tuổi
trẻ trớc hết là sự trẻ trung đầy nhựa sống và nhiệt huyết của sự sống. Thơ mới,
với một đội ngũ cầm bút lúc bấy giơ phần lớn còn rất trẻ tuổi đời mời chín đôi
mơi lai là tầng lớp trí thức Tây học khả năng sáng tạo dồi dào. Thêm vào đó
cái Tôi tuổi trẻ là cái Tôi trẻ trung sôi nổi. Tuổi trẻ là hiếu động, bồng bột
mộng mơ, a khám phá đổi mới. Chính cái Tôi tuổi trẻ làm cho cái Tôi trữ tình
trong Thơ mới thêm phong phú sinh động.
Cái Tôi tuổi trẻ biểu hiện trên nhiều phơng diện nh hình ảnh mùa xuân.
Thơ mới, cha bao giờ ngời ta tìm về mùa xuân nhiều nh các nhà Thơ mới. Họ
tìm thấy ở mùa xuân một sức sống phơi phới của tuổi trẻ. Các nhà thơ nh
Xuân Diệu, Thế Lữ, Huy Cận Có rất nhiều bài thơ viết về mùa xuân, đề cập
đến mối giao hoà giữa tuổi trẻ với mùa xuân.
Cái Tôi tuổi trẻ không chỉ đợc đề cập, biểu hiện một cách đằm thắm
qua hình ảnh mùa xuân sôi nổi rạo rực trong tình yêu mà còn đợc biểu hiện
18


qua sức sống của tuổi trẻ. Tuổi trẻ là tuổi sung sức, xông xáo, dám nghĩ
dám làm. Và họ không bao giờ chấp nhận cuộc sống tù túng gò bó mà có ý
thc luôn vơn tới những miền xa lạ để khám phá, mở mang sự hiểu biết. Vì
vậy, thời đại của Thơ mới là thời dại của tuổi trẻ tự do bộc lộ những khát
khao, những điều thành thực của mình một cách mạnh mẽ ch a từng có trong
thơ xa.
Bên cạnh cái Tôi cá nhân, cái Tôi tuổi trẻ thì cái Tôi thi nhân cũng là
một dạng thái biểu hiện của cái Tôi trữ tình trong Thơ mới.
Cái Tôi thi nhân là cái Tôi của nhà thơ chính là sự ý thức của cái Tôi cá
nhân trong nghệ thuật, bằng nghệ thuật các nhà thơ đã ý thức rất rõ nghiệp thi
sĩ của mình. Hai chữ Thi nhân chỉ đợc nhắc nhiều trong Thơ mới. Trong văn

học sự khởi đầu rất quan trọng. Sau sự khơi mở của Thế Lữ về hai chữ Thi
nhân, các nhà Thơ mới có điều kiện thổ lộ tâm sự riêng tây của mình một
cách tự nhiên hơn, thoải mái hơn. Nhà thơ Xuân Diệu trong bài Cảm xúc đã
định nghĩa danh hiệu thi sỹ một cách tự tin không hề ngại ngùng:
Là thi sĩ, nghĩa là ru với gió
Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây
Để linh hồn ràng buộc với muôn giây
Hay chia sẻ bởi trăm tình yêu mến.
(Cảm xúc)
Qua ví dụ trên, một lần nữa cho chúng ta có thể nhận thấy trong Thơ
mới khái niệm Thi sĩ, Thi nhân xuất hiện với một tần số cao. Tuy nhiên,
không nên máy móc xem xét trong bài thơ có xuất hiện Thi sĩ, Thi nhân
hay không. Nhận thức cái Tôi thi nhân là cả một quá trình. Theo sự phát triển
của thơ ca, về sau hai chữ đó không nhất thiết lúc nào cũng xuất hiện trong
thơ. Trong thơ Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận Nó đ ợc thay bằng các khái
niệm tơng đơng Bọn nhạc công, Con ngời vẩn vơ, Khách tình si Mà
khi đọc lên ngời ta vẫn hiểu. Tất nhiên các khái niệm này phải gắn với những
văn cảnh bộc lộ của nhà thơ. Trong thơ Xuân Diệu, nó đợc diễn đạt bằng các
19


mô típ lặp đi lặp lại: Thuyền h không bến đỗ, Con chim không tổ, Con
nai bị chiều đánh lới Bộc lộ một tâm trạng cô độc, lạc lõng của cái Tôi cá
nhân trớc cuộc đời:
Tôi là con nai bị chiều đánh lới
Không biết đi đâu đứng sầu bóng tối.
(Khi chiều giăng lới)
Tôi nh chiếc thuyền h, không bến đỗ.
Tôi chỉ là một con chim không tổ,
Lòng cô đơn hơn một đứa mồ côi,

Nhặt nụ cời của thiên hạ, than ôi.
Để tự nhủ: Ta đợc yêu đấy chứ.
(Dối trá)
Việc xng danh Thi sĩ của các nhà Thơ mới cũng là dịch để họ bày tỏ
những khát vọng, bộc lộ những tài năng nghệ thuật của họ. Những sự gia
công, đẽo gọt ngôn từ của Bích Khê, trau chuốt ngôn từ của Chế Lan Viên,
những phát hiện mới trong thơ Hàn Mặc Tử Những minh chứng rõ ràng của
việc hình thành khái niệm cái Tôi thi nhân của Thơ mới 1932 - 1945. Đó là
một dạng thái biểu hiện của cái Tôi trữ tình nhiều giọng điệu đan xen của Thơ
mới 1932 - 1945.
1.2.3. Những tơng đồng và dị biệt của cái Tôi trữ tình trong Thơ mới
1932 - 1945 và cái Tôi trữ tình trong thơ truyền thống
Trớc hết khi đi vào phần này, chúng tôi xin nói rõ quan điểm rằng,
chúng tôi không ý định so sánh cái Tôi trữ tình trong Thơ mới mà góp phần
làm nổi rõ cái tơng đồng và dị biệt của cái Tôi trữ tình trong Thơ mới với thơ
ca truyền thống.
Từ thơ ca truyền thống đến Thơ mới, đã là thơ trữ tình thì bao giờ cũng
in dấu ấn chủ quan của ngời sáng tạo. Từ trớc đến nay, khi nghĩ về ảnh hởng
của các nguồn văn hoá đối với Thơ mới, ngời ta quen nghĩ đến ảnh hởng của
20


văn hoá phơng Tây, văn hóa Pháp. Nhng chúng ta quên đi rằng thơ ca truyền
thống có một ảnh hởng vị trí rất quan trọng và rộng lớn đối với Thơ mới và
việc hình thành Thơ mới 1932 - 1945. Nh chúng ta đã biết, bất kỳ một cái gì
mới ra đời cũng đợc xây dựng trên nền tảng của cái cũ cái truyền thống nhng
nó chỉ tiếp thu những cái tinh hoa của truyền thống. Thơ mới 1932 - 1945 ra
đời ngoài tiếp xúc với văn hoá phơng Tây, văn hoá Pháp ra thì nó còn kế thừa
và phát huy những điểm có tính chất tuyệt mực của thơ ca truyền thống. Trong
Thi nhân Việt Nam khi đề cập đến ảnh hởng của thơ Đờng đối với Thơ mới,

Hoài Thanh còn cho biết Huy Cận làm những bài thơ có hồn thơ Đờng trớc
khi đọc thơ Đờng. Nguồn văn hoá phơng Đông, thơ Đờng, thơ Việt Nam trung
đại có ảnh hởng rất sâu sắc đến Thơ mới chẳng kém gì ảnh hởng của văn hoá
phơng Tây vào Thơ mới. Các nhà Thơ mới rất có ý thức trong việc học tâp có
sáng tạo tinh hoa của văn hoá phơng Đông, thơ Đờng và thơ Việt Nam trung
đại để sáng tác Thơ mới nhờ thế mà họ đã sáng tác đợc những bài thơ có giá
trị đặc biệt là trong việc thể hiện cái Tôi trữ tình. Trong hàng ngũ những nhà
Thơ mới làm thơ Đờng, nh thơ Đờng của Hàn Mặc Tử đã từng đợc Phan Bội
Châu khen ngợi. ảnh hởng cái Tôi trữ tình trong Thơ mới Việt Nam trung đại
hầu nh đều có ở trong mỗi nhà Thơ mới. Điều đó không khó hiểu lắm bởi vì
các nhà Thơ mới đều lớn lên trong bầu khí quyển của thơ Việt Nam trung đại
nói riêng và văn hoá phơng Đông nói chung. Có rất nhiều nhà Thơ mới làm
thơ đều có ảnh hởng của thơ Việt Nam trung đại, ví dụ đọc bài Tràng giang
của Huy Cận, những ai đã từng đọc thơ Đờng đều có cảm nhận đợc hồn thơ Đờng, hoặc là Lu Trọng L trong bài Tiếng thu cũng có ảnh hởng rất lớn của
thơ Đờng. Ngoài ra, Xuân Diệu cũng là một ngời có ảnh hởng rất lớn của thơ
Đờng và thơ trung đại Việt Nam mặc dù ông đợc đánh giá là nhà Thơ mới
nhất trong các nhà Thơ mới (Hoài Thanh).
Tuy có có cái tơng đồng trong cái Tôi trữ tình của thơ truyền thống với
Thơ mới nhng nó cũng có sự dị biệt giữa thơ truyền thống và thơ hiện đại, nếu
nó giống nhau thì không bàn làm gì nữa và Thơ mới chẳng hơn gì thơ ca
truyền thống cả. Thơ mới nó mới hơn trong việc thể hiện cái Tôi trữ tình.
Nh chúng ta đều biết cũng là tiếng nói cá nhân nhng trong thơ trumg đại, thơ
21


xa ngời ta không phô bày ra cái Tôi của mình một cách rõ ràng cụ thể mà ngời
ta dấu đi, hình ảnh nhân vật trữ tình không đợc khắc họa rõ nét mà hình nh chỉ
có cái ta, cái chung là điều mà thơ ca truyền thống hay thể hiện. Cái Tôi trữ
tình trong thơ truyền thống không rõ nét mạnh mẽ và phổ biến nh trong Thơ
mới 1932 - 1945.

Ta bắt gặp trong Thơ mới đâu cũng có chữ tôi, đâu cũng xng tôi một
cách mạnh mẽ không chút rụt rè. Cái Tôi khẳng định riết róng hơn, quyết liệt
hơn, rõ ràng hơn, chính vì vậy mà nó cũng chênh vênh hơn trớc. Tại sao vậy ?
Vì ý thức cá nhân của lớp thanh niên lúc này đợc tiếp xúc với văn hoá phơng
Tây, đặc biệt là văn hoá Pháp. Cho nên đọc Thơ mới, ta bắt gặp trong đó sự nở
rộ của cái Tôi trữ tình trên nhiều phơng diện mà Xuân Diệu đã từng tuyên bố
thẳng thắng:
Ta là Một, là Riêng, là Thứ Nhất
Không có chi bè bạn nổi cùng ta
(Hi Mã Lạp Sơn)
Trên đây là những tơng đồng và dị biệt của cái Tôi trữ tình trong Thơ
mới 1932 - 1945 với thơ truyền thống, đây không phải là trọng tâm của đề tài
chúng tôi nên chúng tôi chỉ điểm qua và dừng lại ở mức độ nêu vấn đề.

22


Chơng 2:
Cái Tôi cô độc một biểu hiện đặc biệt
của cái Tôi trữ tình trong Thơ mới 1932 - 1945

2.1. Những tiền đề xã hội - thẩm mỹ của Cái Tôi cô độc trong Thơ mới
1932 - 1945
Có thể nói rằng, sự gặp gỡ của văn minh phơng Tây là một biến thiên
trong lịch sử dân tộc ta. Nó làm thay đổi mọi mặt của đời sống Việt Nam. Đặc
biệt, đây là thời kì có nhiều biến đổi trong xã hội, hơn ai hết tầng lớp trí thức
là những ngời tiếp thu những biến động đó. Trong hoàn cảnh cái mới nẩy sinh,
buộc họ phải có sự lựa chọn. Một mặt, họ phải đối đầu với cái mới, mặt khác
họ lại phải nhìn về cội nguồn dân tộc, nh chúng ta biết cái mới và cái cũ bao
giờ cũng có lệch pha sự không ăn khớp, buộc họ phải lựa chọn hoặc đi

theo cái mới quên đi truyền thống, hoặc tìm về với truyền thống mà ngoảnh
mặt làm ngơ với những biến động của xã hội lúc bấy giờ, có thể nói điều đó
buộc các nhà Thơ mới vào một tình thế rất khó khăn trong sự lựa chọn, thậm
chí là bi kịch. Đây là một câu hỏi lớn đặt ra cho các nhà Thơ mới. Có thể nói,
đó là những tiền đề xã hội thẩm mỹ đầu tiên, là sự manh nha, làm nẩy sinh Cái
Tôi cô độc trong Thơ mới 1932 - 1945 . Chúng ta sẽ có dịp làm nổi rõ vấn đề
này ở các phần tiếp sau.
2.1.1. Khái niệm Cái Tôi cô độc
Nh chúng ta đã biết, cái Tôi là một khái niệm có nội hàm rộng lớn đến
nỗi khó xác định đợc toàn bộ ý nghĩa của nó. Theo Từ điển triết học, cái
Tôi có nghĩa là cá nhân, cá thể riêng lẻ của một ngời, cái Tôi đó làm nên sự
đa dạng phong phú và phức tạp cho cuộc đời. Thơ văn phản ánh hiện thực
tâm hồn con ngời, do đó cũng thể hiện cái Tôi ấy dới muôn màu muôn vẻ
khác nhau.

23


Thực ra, khái niệm Cái Tôi cô độc cha ai có định nghĩa một cách
chuyên biệt và cụ thể, cho nên vấn đề này trong lúc nghiên cứu chúng tôi cũng
chỉ mạo muội đa ra cách hiểu của mình về Cái Tôi cô độc.
Cô độc vốn là từ Hán Việt chỉ trạng thái tâm lí của con ngời chỉ sự lẻ
loi không nơi nơng tựa, thậm chí bị hắt ra ngoài cuộc sống của xã hội thực tại.
Hay nói cách khác, cô độc là một hiện tợng trái với sự hài hoà, hòa hợp với tập
thể hay cộng đồng xã hội. Cô độc chính là ý thức về bản ngã của từng cá nhân
khi cảm thấy mình bị tách ra khỏi cộng đồng, ra khỏi xã hội nhân quần. Gần
đây, khái niệm Cái Tôi cô độc đợc giới lý luận quan tâm nghiên cứu, bớc đầu
đã đem lại những kết quả cao, đó là những công trình nghiên cứu của: Hà
Minh Đức, Trần Đình Sử, Lê Đình Kỵ. Mỗi công trình nghiên cứu có một
cách tiếp cận riêng, quan niệm riêng về Cái Tôi cô độc trong Thơ mới. Theo

Hoài Thanh Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam, phong trào Thơ mới
1932 - 1945 ra đời gắn với sự xuất hiện cái Tôi cô độc đã tự khẳng định
mình bằng thực tế, sáng tác và sự đón nhận phía độc giả. Khi phát súng đầu
tiên của Thơ mới nổ ra với bài Tình già của Phan Khôi thì Thơ mới phát
triển nhanh ào ạt với những thành tựu rự rỡ và hàng loạt tên tuổi đợc nhắc đến.
Cùng lúc đó Cái Tôi cô độc xuất hiện với nhiều dáng vẻ (Hà Minh Đức) thời
đại Thơ mới ra đời là Thời đại mà mỗi con ngời tự cảm thấy mình là những
cá nhân cô đơn, lạc lõng bơ vơ Đó là những con ng ời cảm thấy rõ nhất cái
cá nhân, là lúc con ngời tự khám phá cá nhân mình, thổ lộ mình để mong tìm
sự đồng cảm ở một ngời khác cá nhân khác (Trần Đình Sử), Thơ mới là thơ
của cái Tôi (Lê Đình Kỵ) vì thế Cái Tôi cô độc cũng đồng thời xuất hiện trong
phong trào Thơ mới. Xét cho cùng, tâm trạng cô độc không phải lúc này, khi
những ngời tri thức tiểu t sản cảm thấy bơ vơ lạc lõng không khẳng định đợc
mình trong xã hội mới cảm thấy cô độc, mà đó là tâm trạng xuyên suốt cả tiến
trình văn học Việt Nam. Nó xuất hiện từ thơ Hồ Xuân Hơng đến Nguyễn Công
Trứ, từ thơ Nguyễn Du đến Tú Xơng:
Ưa thời thốn niệm bằng thuỳ tả
Duy hữu hàn sơn bản dà chung
(Tấc già lo đời nhờ ai miêu tả.
24


Chỉ có tiếng chuông từ bên núi lạnh vẳng đến)
(Bạch C Dị)
Nh ở trong thơ cổ Cái Tôi cô độc cha phải là cái Tôi cá nhân đợc ý
thức đầy đủ mà chỉ là cái Tôi cao cả, tĩnh lặng, tự đắc, tự tại dù ở trong nghịch
cảnh vẫn thấy gắn bó với một cái gì thiêng liêng bền chặt không di dịch.
Phong trào Thơ mới đã là sự hội tụ là nở hoa của hàng loạt cái Tôi trữ
tình trong Thơ mới.
Chúng ta cũng có thể rút ra đợc một số đặc điểm cơ bản của Cái Tôi cô

độc trong Thơ mới 1932 - 1945:
Cái Tôi cô độc chỉ là một phơng diện biểu hiện của cái Tôi trữ tình
trong Thơ mới.
Cái Tôi cô độc không phải bao giờ cũng là cái Tôi đã viết ra bài thơ nhà
thơ không đồng nhất với cái Tôi trữ tình nhng lại hoàn toàn thống nhất.
Cái Tôi cô độc là sự biểu hiện ý thức sâu sắc của chủ thể sáng tạo về
chính mình trong nghệ thuật.
Những Cái Tôi cô độc của phong trào Thơ mới đã góp phần tạo nên
những gơng mặt riêng nổi bật và đợm chất bâng khuâng của thời đại (Hoài
Thanh), cô độc là trạng thái tình cảm chung của nhiều nhà thơ trong phong
trào Thơ mới.
Huy Cận với nỗi cô độc:
Một chiếc linh hồn nhỏ.
Mang mang thiên cổ sầu
(Ê chề)
Xuân Diệu qua tiếng nói của thiên nhiên tạo vật:
Tôi là con nai bị chiều đánh lới
Không biết đi đâu đứng sầu bóng tối
(Khi chiều giăng lới)
Và Phạm Hầu lại có cách thể hiện riêng:
25


×