Tải bản đầy đủ (.pdf) (154 trang)

Tính từ chỉ màu sắc trong tác phẩm viết về đề tài miền núi của tô hoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 154 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA SƯ PHẠM
BỘ MÔN SƯ PHẠM NGỮ VĂN

NGUYỄN MINH GIÁP
MSSV: 6075333

TÍNH TỪ CHỈ MÀU SẮC TRONG TÁC PHẨM VIẾT VỀ
ĐỀ TÀI MIỀN NÚI CỦA TÔ HOÀI
Luận văn tốt nghiệp đại học
Ngành Sư phạm ngữ văn

Cán bộ hướng dẫn:

NGUYỄN VĂN TƯ

Cần Thơ, 5 - 2011

3


ĐỀ CƯƠNG TỔNG QUÁT
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề
3. Mục đích nghiên cứu
4. Phạm vi nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu
B. PHẦN NỘI DUNG CHÍNH
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ TỪ LOẠI TÍNH TỪ
1. Những quan niệm khác nhau về từ loại tính từ


1.1. Khái niệm
1.2. Đặc trưng
1.3.1. Chức năng cú pháp
1.3.2. Khả năng kết hợp
1.3. Phân loại
2. Tính từ chỉ màu sắc
2.1. Khái niệm
2.2. Đặc trưng
2.3. Phân loại
CHƯƠNG 2: TÍNH TỪ CHỈ MÀU SẮC TRONG TÁC PHẨM CỦA TÔ HOÀI
1. Vài nét về nhà văn Tô Hoài
1.1. Tiểu sử và cuộc đời
1.2. Sự nghiệp sáng tác
2. Tính từ chỉ màu sắc trong tác phẩm của Tô Hoài
2.1. Thống kê
2.2. Phân loại
2.3. Miêu tả tính từ chỉ màu sắc trong tác phẩm của Tô Hoài
2.4. Nhận xét, đánh giá
C. PHẦN KẾT LUẬN
PHỤ LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỤC LỤC
4


LỜI NÓI ĐẦU
Trong bốn năm học ở giảng đường đại học thì luận văn là một học phần quan
trọng đối với mỗi sinh viên. Nó giúp sinh viên làm quen và thực hiện một đề tài nghiên
cứu khoa học. Từ đó rèn luyện cách làm việc khoa học và ý thức thực hiện một đề tai
nghiên cứu khoa học.

Người viết hoàn thành một đề tài nghiên cứu khoa học và thu được những kết
quả nhất định, đó là nhờ sự hướng dẫn tận tình của quý thầy cô. Người viết xin gửi lời
tri ân đến quý thầy cô đã tạo điều kiện thuận lợi cho người viết thực hiện đề tài này.
Đặc biệt, người viết xin gửi lời cảm ơn chân thành đến thầy Nguyễn Văn Tư, người đã
tận tụy, nhiệt tình trực tiếp hướng dẫn người viết trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Cảm ơn bạn bè, gia đình đã động viên, giúp đỡ người viết trong thời gian qua.

5


A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tính từ là từ loại có vị trí quan trọng trong hệ thống thực từ nói riêng và trong
hệ thống từ loại nói chung của tiếng Việt. Từ loại tính từ trong tiếng Việt có số lượng
lớn, đảm nhiệm việc chỉ ra tính chất, đặc trưng của các sự vật, hiện tượng. Trong đó
tính từ chỉ màu sắc là một lớp từ để lại cho người viết nhiều nhất những ấn tượng và
những băn khoăn,… Với ý muốn được tìm hiểu rõ hơn, sâu sắc hơn về từ loài tính từ,
người viết chọn và ngiên cứu về tính từ để thực hiện ý muốn đó.
Đồng thời, người viết cũng nhận thấy trong nền văn chương Việt nam, Tô Hoài
là một tác giả lớn có những thành công xuất xắc. Người viết có ấn tượng đặc biệt đối
vối các tác phẩm viết về đề tài miền núi của Tô Hoài. Đọc những trang viết ấy của
ông, người viết có thêm những hiểu biết về đời sống, con người và thiên nhiên miền
núi; đồng thời cũng nhận thấy Tô Hoài có lối văn miêu tả hết sức độc đáo. Đặc biệt,
cách sử dụng, tạo dựng các tính từ chỉ màu sắc của Tô Hoài có ý nghĩa quan trọng
trong những trang văn miêu tả ấy.
Người viết mong muốn có được những kiến thức cần thiết cho việc thực hiện
một đề tài nghiên cứu khoa học, nhằm tạo thuận lợi cho học tập, nghiên cứu và công
tác sau này. Đồng thời, có thêm những hiểu biết sâu sắc hơn về từ loại tính từ và lớp
tính từ chỉ màu sắc qua việc khảo sát làm rõ ý nghĩa của lớp từ này trong ngữ cảnh,
văn cảnh, và tìm hiểu, đánh giá việc vận dụng lớp tính từ chỉ màu sắc của Tô Hoài

trong các sáng tác về đề tài miền núi. Do đó, người viết chọn nghiên cứu đề tài “Tính
từ chỉ màu sắc trong tác phẩm viết về đề tài miền núi của Tô Hoài”.

2. Lịch sử vấn đề:
Như đã nhận định, tính từ là một từ loại có tầm quan trọng rất lớn trong hệ
thống thực từ. Chính vì vậy mà trong các công trình nghiên cứu, nhiều nhà nghiên cứu
đã quan tâm khảo sát.
Trong lịch sử nghiên cứu về vấn đề ngôn ngữ của tiếng Việt cũng có một số
người cho rằng tiếng Việt không có từ loại như các ngôn ngữ Châu Âu. Các nhà
nghiên cứu ngôn ngữ Grammont, Lê Quang Trinh – Hồ Hữu Tường cho rằng Tiếng
Việt không có từ loại.
Ở đây, người viết theo quan điểm của đa số các nhà nghiên cứu cho rằng Tiếng
6


Việt có từ loại và điểm qua một số tài liệu, công trình nghiên cứu về từ loại tính từ để
làm rõ tình hình nghiên cứu về từ loại tính từ nói chung, trong đó có lớp tính từ chỉ
màu sắc.
Trong “Cú pháp tiếng Việt”, NXB Khoa học xã hội Hà Nội - 1992, Hồ Lê chủ
yếu đi vào nghiên cứu khả năng kết hợp của tính từ, đồng thời chỉ ra ranh giới giữa
động từ và tính từ. Tuy nhiên, lớp tính từ chỉ màu sắc hầu như không được tác giả đề
cập.
Bùi Tất Tươm trong “Giáo trình tiếng Việt”, NXB Giáo dục - 1995, nghiên cứu
về tính từ trong mối tương quan với các từ loại khác và đi đến khẳng định vị trí của từ
loại tính từ. Tác giả cho rằng “Tính từ là từ loại cơ bản. Tính từ có vị trí quan trọng
sau danh từ và động từ”. [24; tr.139]. Ông nêu lên một cách đầy đủ về ý nghĩa khái
quát, đặc điểm cú pháp và cách phân loại tính từ. Tuy nhiên, tính từ chỉ màu sắc cũng
không được tác giả đi sâu nghiên cứu.
Trong “Nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt”, NXB Giáo dục -1997, Nguyễn
Kim Thản đã nêu lên hai đặc điểm ngữ pháp của tính từ: “có thể trực tiếp làm vị ngữ

không cần hệ từ “là” làm môi giới” [22; tr.206]; tính từ “Không kết hợp được với
“hãy” …” [22; tr.206]. Ngoài ra, ông còn so sánh tính từ trong tiếng Việt với tính từ
trong ngôn ngữ Ấn - Âu để chỉ ra sự khác biệt và nêu lên cách phân loại tính từ. Còn
về lớp tính từ chỉ màu sắc, tác giả không đề cập đến.
Diệp Quang Ban và Hoàng Văn Thung trong “Ngữ pháp tiếng việt” tập một,
NXB Giáo dục -1998, cũng đã chỉ ra đặc trưng của tính từ, đồng thời ông đi vào phân
loại và miêu tả tính từ. Ngoài ra ông còn đề cập đến tính chất đặc biệt của lớp từ mô
phỏng và nhận định: “Chức năng cú pháp của từ mô phỏng giống chức năng của tính
từ: Dùng làm kèm bổ nghĩa danh từ hay động từ và làm vị ngữ trong câu”. [2; tr.106].
Cũng như các nhà nghiên cứu khác, tác giả cũng chỉ nhắc đến tính từ chỉ màu sắc như
là 1 tiểu loại nhỏ chứ không nghiên cứu sâu.
Trong “Ngữ pháp tiếng Việt”, NXB Giáo dục -1999 của Đỗ Thị Kim Liên cũng
nêu lên ý nghĩa, khả năng kết hợp của tính từ, chỉ ra những đặc điểm của tính từ khác
động từ và phân chia tính từ thành các tiểu nhóm. Nói về tiểu nhóm tính từ chỉ màu
sắc, tác giả cũng chỉ nêu sơ lược về ý nghĩa, khả năng kết hợp của chúng.
Còn “Ngữ pháp tiếng Việt – từ loại ”, NXB Đại học quốc gia Hà Nội - 2001 của
Đinh Văn Đức, là một công trình nghiên cứu đầy đủ và sâu sắc hơn cả về từ loại tính
từ. Công trình nghiên cứu này đã chỉ ra ý nghĩa, vị trí, phân loại và khả năng kết hợp
7


của tính từ. Tác giả nghiên cứu, trình bày trên cơ sở so sánh giữa tính từ tiếng Việt với
tính từ trong các ngôn ngữ Ấn – Âu; so sánh và chỉ ra sự khác biệt giữa tính từ và
động từ, danh từ trong tiếng việt. Tác giả cũng trình bày tỉ mỉ về chức năng cú pháp
của tính từ. Ngoài ra, tác giả còn đề cập đến đoản ngữ. Tuy nhiên, lớp tính từ chỉ màu
sắc vẫn không được tác giả nhắc đến nhiều.
Nguyễn Chí Hòa trong “Ngữ pháp tiếng Việt thực hành” NXB Đại học quốc gia
Hà Nội - 2004, cũng trình bày khá đầy đủ về đặc điểm và phân loại tính từ. Nhưng lớp
tính từ chỉ màu sắc chỉ được tác giả nhắc đến trong phần phân loại như là một nhóm
nhỏ của nhóm tính từ miêu tả đặc điểm sự vật.

Còn Nguyễn Thiện Giáp trong “Giáo trình ngôn ngữ học” NXB Đại học Quốc
gia Hà Nội 2008, lại khảo sát về vị trí xuất hiện, chức năng, khả năng kết hợp, về ý
nghĩa của tính từ, trong tiếng Anh, Pháp, Nga, và nhận định: “Trong tiếng Việt, những
ý nghĩa biểu hiện bằng tính từ tiếng Anh, tiếng Nga,…lại được biểu hiện bằng vị từ…”
[9; tr.79].
Qua việc khảo sát tình hình nghiên cứu về từ loại tính từ. Từ trước đến nay,
người viết nhận thấy tính từ tiếng Việt đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và có
nhiều tác giả trình bày khá đầy đủ. Tuy nhiên hầu hết các tác giả cũng chỉ đề cập tới
loại từ này cũng chỉ ở mức độ khái quát. Còn về lớp tính từ chỉ màu sắc thì chưa có
một công trình nghiên cứu nào khảo sát tỉ mỉ và trình bày một cách đầy đủ, sâu sắc.
Lớp tính từ chỉ màu sắc chỉ được đề cập đến ở dạng một tiểu loại của tính từ và dẫn
một vài ví dụ minh họa. Về đặc điểm, tính chất của lớp từ này chỉ được nhắc đến thông
qua đặc điểm tính chất của từ loại tính từ, còn khái niệm đặc trưng riêng và cách phân
loại thì chưa được nêu lên.
Về Nhà văn Tô Hoài và các thành tựu văn chương của ông cũng được nhiều nhà
nghiên cứu, phê bình văn học nói đến, trong đó có những bài viết, những công trình
nghiên cứu về tác phẩm viết về Tây Bắc của ông. Tiêu biểu có thể kể đến “Tô Hoài
với Miền Tây” của Phan Cư Đệ trong sách “Tác phẩm và chân dung” NXB Văn học
năm 1984; “Truyện Tây Bắc của Tô Hoài” trong sách “Lịch sử văn học Việt Nam” tập
4, NXB Giáo dục 1980; “Vợ chồng A Phủ” bài viết của Đỗ Kim Hồi trong sách
“Giảng văn văn học Việt Nam”, NXB Giáo dục năm 1997; “Tô Hoài – về tác phẩm”,
NXB Giáo dục năm 2001… Trong các bài viết, về Nhà văn Tô Hoài và tác phẩm của
ông, các tác giả đi vào khai thác, trình bày một cách sâu sắc về các vấn đề như: đề tài,
chủ đề, nhân vật, nghệ thuật, tư tưởng… Qua đó khẳng định tài năng và những đóng
8


góp cho nền văn học Việt Nam. Các bài viết này đã nói lên được đặc điểm của tác
phẩm viết về đề tài miền núi của Tô Hoài, cách nhìn nhận , phản ánh sâu sắc của Nhà
văn Tô Hoài- “người có công đầu trong việc khai khẩn vùng đất mới” [16; tr.518] Tây

Bắc.
Tuy nhiên, việc tìm hiểu tính từ chỉ màu sắc trong sáng tác về đề tài miền núi
của Tô Hoài cho đến nay vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu.
Vì vậy, có thể nói “Tính từ chỉ màu sắc trong các tác phẩm viết về đề tài miền
núi của Tô Hoài” là một vấn đề cho đến nay vẫn chưa có công trình nào bàn đến.
3. Mục đích yêu cầu nghiên cứu:
Đi vào nghiên cứu vấn đề “Tính từ chỉ màu sắc trong tác phẩm viết về đề tài
miền núi của Tô Hoài”, người viết tiến hành khảo sát lớp tính từ chỉ màu sắc để góp
phần làm sáng tỏ hơn về từ loại tính từ. Đồng thời chỉ ra giá trị, tác dụng, chức năng
của lớp tính từ chỉ màu sắc, làm nổi bật hiệu quả nghệ thuật, giá trị thẩm mĩ của nó
nhằm đi đến làm sáng tỏ phương diện nghệ thuật sử dụng ngôn từ của nhà văn Tô
Hoài.
Qua quá trình nghiên cứu, tìm hiểu, người viết thu thập kiến thức, kinh nghiệm,
kĩ năng giúp ích cho việc học tập, giảng dạy và nghiên cứu khoa học sau này.

4. Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu về tính từ chỉ màu sắc và những tác phẩm viết về đề tài miền
núi của Tô Hoài có chứa tính từ chỉ màu sắc. Người viết sẽ thu thập, khảo sát những
tài liệu về từ loại Tiếng Việt và những tác phẩm viết về đề tài miền núi của Nhà văn
Tô Hoài. Về tác phẩm của Tô Hoài, người viết sẽ khảo sát những tác phẩm văn xuôi
trong các quyển “Truyện Tây Bắc - ký và truyện ngắn” và “Miền Tây”. Bên cạnh đó,
người viết còn tìm hiểu thêm về việc dùng tính từ chỉ màu sắc trong một số tác phẩm
của một vài nhà văn khác nhằm đối chiếu, so sánh để hiểu rõ hơn về lớp từ này và việc
vận dụng tính từ chỉ màu sắc của Nhà văn Tô Hoài.

5. Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện đề tài, trước tiên người viết tiến hành thu thập tài liệu về từ loại
tính từ của tiếng Việt, tác phẩm viết về đề tài miền núi và một số tác phẩm của nhà văn
khác. Tiếp đến, người viết đọc và thống kê, phân loại tính từ chỉ màu sắc trong tác
9



phẩm viết về miền núi của nhà văn Tô Hoài. Sau đó người viết phân tích, miêu tả
những tính từ đã thống kê, chứng minh, làm nổi bật giá trị biểu đạt của lớp từ này
trong tác phẩm. Bên cạnh đó, người viết còn so sánh việc sự dụng tính từ chỉ màu sắc
của nhà văn Tô Hoài với một số nhà văn khác. Cuối cùng người viết sẽ tổng hợp và
đưa ra kết luận cho vấn đề nghiên cứu.

10


B. PHẦN NỘI DUNG CHÍNH
Chương 1:
KHÁI QUÁT VỀ TỪ LOẠI TÍNH TỪ
1. Từ loại tính từ.
1.1. Những quan niệm khác nhau về từ loại tính từ.
Trong “Ngữ pháp tiếng Việt” tập 1, NXBGD - 1998, Diệp Quamg Ban và
Hoàng Văn Thung cho rằng “Lớp từ chỉ nghĩa đặc trưng (đặc trưng của thực thể hay
đặc trưng của quá trình) là tính từ. Ý nghĩa đặc trưng được biểu hiện trong tính từ
thường có tính chất đối lập phân cực (thành cặp trái nghĩa) hoặc có tính chất mức độ
(so sánh và miêu tả theo thang độ)” [2; tr.173].
Theo Đỗ Thị Kim Liên trong “Ngữ pháp tiếng Việt”, NXBGD-1999, thì tính từ
là từ chỉ tính chất, màu sắc.
Đinh Văn Đức trong “Ngữ pháp tiếng Việt từ loại” cũng đưa ra định nghĩa:
“Tính từ tiếng Việt là từ loại chỉ ra được đặc trưng của tất cả những gì (khái niệm)
được biểu đạt bằng danh từ và động từ” [8, 147]. Định nghĩa này đã phân định từ loại
của một tập hợp từ tiếng Việt, đó là từ mô phỏng (tượng thanh, tượng hình).
Các quan niệm trên về từ loại tính từ không hoàn toàn giống nhau, nhưng nhìn
chung đều nêu lên được đặc trưng, ý nghĩa của từ loại tính từ, cho thấy vị trí, giá trị
của tính từ trong tiếng Việt.


1.2. Khái niệm.
Từ những quan niệm trên, có thể rút ra khái niệm tính từ như sau:
Tính từ là những từ dùng để chỉ tính chất, trạng thái, đặc trưng của sự vật, thực
thể hay vận động, quá trình.
Từ lâu, tính từ vẫn thường được quan niệm là từ loại chỉ các khái niệm về tính
chất, màu sắc của sự vật. Hay khái quát hơn thì tính từ là từ loại chỉ đặc trưng nói
chung.
Về vấn đề khái niệm tính từ, cần phân tích thêm để làm rõ.
Khái niệm đặc trưng của tính từ, có thể hiểu đó là đặc trưng cho chủ thể. Nó chỉ
ra những thuộc tính về màu sắc, mùi vị, hình dạng, kích thước, về phẩm chất, mức độ
của thực thể, vận động, quá trình.
Như vậy, đặc trưng là nét khác biệt về những thuộc tính, chỉ ra cái hạn định cho
11


mỗi đối tượng.
Ý nghĩa đặc trưng một mặt nó là cái có sẵn, là dấu hiệu gắn với những sự vật,
thực thể, hoạt động; mặt khác, nó cũng đi liền với cách nhận thức, đánh giá chủ quan
của con người đối với thực tại
Ví dụ: Bức tranh này đẹp !
Căn nhà kia xấu.
Tính từ xuất hiện trong diễn ngôn là yếu tố phụ nghĩa cho những từ nào đi cùng
nó (thường là danh từ hoặc là động từ). Vì vậy, ý nghĩa đặc trưng của tính từ tạo nên
mối liên kết, thống nhất cao giữa các yếu tố từ vựng và ngữ pháp. Với yếu tố từ vựng,
ý nghĩa tính từ liên quan trực tiếp đến nội dung phản ánh thực tại. Trên bậc ngữ pháp,
khái niệm đặc trưng có tính chất quan hệ, thể hiện mối liên kết giữa các khái niệm.
Ví dụ: Khái niệm thực thể (danh từ): Huế, có thể trở thành khái niệm đăc trưng
(tính từ) nếu thêm phó từ chỉ mức độ rất: rất Huế.


1.3. Đặc trưng của từ loại tính từ.
1.3.1. Chức năng cú pháp.
Giống như danh từ và động từ, từ loại tính từ cũng có chức năng cú pháp của
một thực từ: có thể làm thành phần chính, cũng có thể làm thành phần phụ trong câu
tiếng Việt.
- Chức năng định ngữ.
Trong các hệ thống ngôn ngữ Ấn - Âu, khái niệm đặc trưng trong quan hệ với
từ loại thường được chia ra hai kiểu ngữ pháp khác nhau:
+ Tính từ biểu đạt ý nghĩa đặc trưng cho khái niệm thực thể (danh từ).
+ Trạng từ biểu đạt ý nghĩa đặc trưng cho khái niệm về vận động (động từ).
Còn trong Tiếng Việt, không có sự phân biệt cho hai quan hệ ngữ pháp này.
Chức năng của tính từ có sự thống nhất với chức năng của trạng từ. Tính từ vừa có thể
làm định tố cho danh từ, vừa có thể làm định tố cho động từ. Khả năng này cho phép
tính từ tiếng Việt mở rộng chức năng định ngữ.
Ví dụ:

nhà cao

múa đẹp

sông rộng

làm nhanh

- Chức năng vị ngữ.
Chức năng vị ngữ của tính từ có nét giống với động từ, tính từ cũng có thể trực
tiếp làm vị ngữ trong câu.
12



Ví dụ: Giọng hát không hay nhưng ấm.
Tính từ có thể trực tiếp làm vị ngũ hay làm thành tố của vị ngữ.
- Ngoài ra, tính từ tiếng Việt còn có thể đảm nhiệm một số chức năng khác:
+ Làm bổ tố:

Cô ấy học giỏi

+ Làm chủ ngữ:

Giỏi đã giỏi rồi

1.3.2. Khả năng kết hợp.
Tính từ là một thực từ, cho nên có thể kết hợp với những từ phụ để tạo thành
đoản ngữ - ngữ tính từ.
Về bản chất ý nghĩa thì tính từ khác động từ, nhưng về đặc ngữ pháp tính từ lại có
nhiều điểm giống động từ. Vì vậy, trong khuôn khổ của cấu trúc ngữ tính từ, các thành
phần phụ của động từ đồng thời cũng là thành phần phụ của tính từ. Ngoài ra, tính từ
còn có thành phần phụ chuyên dùng của nó.
- Tính từ có thể tiếp nhận các phụ từ của động từ.
+ Có thẻ kết hợp với các phó từ: đã, đang, sẽ…
Ví dụ: đã lạnh, sẽ ấm, đang đẹp…
+ Có thể kết hợp với các phó từ: vẫn, còn, cứ…
Ví dụ: Cô ấy vẫn trẻ; anh ấy cứ đẹp…
+ Có thể kết hợp với các phó từ: hãy, đừng, chớ…
Ví dụ: Hãy mạnh dạn, chớ tham lam, đừng ngu xuẩn
+ Có thể kết hợp với các phó từ: lên, đi, lại, ra…
Ví dụ: “Lúc ấy, mặt cậu ta xám lại” [13; tr.220]
Anh ấy gầy sọc đi, trông cao hẳn lên.
- Các phụ từ chuyên dùng của tính từ:
So với động từ, tính từ phổ biến với các phụ từ chỉ mức độ: rất, lắm, quá, hơi,

khá, cực kì…
Ví dụ: rất đắt; quá chậm chạp, đẹp cực kì…
Các từ này được dùng như một yếu tố tình thái biểu thị cảm giác hay sự đánh
giá chủ quan của phát ngôn (có thể là so sánh, nhấn mạnh)
Đặc điểm này của tính từ phần nào giúp ta phân biệt tính từ với động từ.
Nói chung, hầu hết các tính từ đều kết hợp được với phụ từ chỉ mức độ. Duy chỉ
có những tính từ chỉ mức độ tuyệt đối, bản thân nó đã mang ý nghĩ tình thái, mức độ,
và những từ biểu thị bản chất như trống, mái… thì không kết hợp vối từ tình thái chỉ
mức độ.
13


Còn những từ chỉ mức độ thấp: xanh xanh, đỏ đỏ, hiu hiu, xa xa… vẫn có thể
kết hợp phụ từ tình thái chỉ mức độ như: hơi, hơi hơi…
Ví dụ: hơi xanh xanh, hơi xa xa…
Ngoài ra tính từ còn có thể kết hợp với các thành tố phụ là thực từ:
+ Tính từ kết hợp với danh từ có xu hướng cố định, là kiểu cấu trúc từ ghép hóa
Ví dụ: to gan, ấm đầu, xấu tính…
+ Tính từ kết hợp với danh từ không có xu hướng cố định
Ví dụ:

Nước đầy ruộng
Ruộng đầy nước

1.4. Phân loại tính từ
Vấn đề phân loại tính từ cho đến nay vẫn chưa có sự thống nhất. Trong các
công trình nghiên cứu đã khảo sát, mỗi tác giả dựa trên mỗi phương diện khác nhau và
đưa ra cách phân loại tính từ khác nhau.
Đỗ Thị Kim Liên trong “Ngữ pháp tiếng Việt”, NXB Giáo dục – 1999, đã chia
tính từ thành bốn nhóm: nhóm tính từ chỉ tính chất – phẩm chất, nhóm tính từ chỉ trạng

thái, nhóm tính từ chỉ kích thước và nhóm tính từ chỉ màu sắc; Nguyễn Chí Hòa trong
“Ngữ pháp tiếng Việt thực hành”, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, lại chia tính từ thành
ba nhóm: nhóm tính từ miêu tả trạng thái, nhóm tính từ miêu tả đặc điểm của sự vật và
nhóm tính từ miêu tả về mức độ; còn trong “Ngữ pháp tiếng Việt” tập 1, NXB Giáo
dục, Diệp Quang Ban và Hoàng Văn Thung lại chia tính từ thành hai nhóm: nhóm tính
từ chỉ đặc trưng không xác định thang độ và nhóm tính từ chỉ đặc trưng xác định thang
độ.
Tham khảo những cách phân lọai của các tác giả kể trên, người viết nhận thấy
cách phân loại của hai tác gải Diệp Quang Ban và Hoàng Văn Thung là đơn giản và
đảm bảo được những tiêu chí cơ bản về ý nghĩa, khả năng kết hợp của tính từ và tính
bao quát hơn cả. Do vậy, người viết chọn cách chia tính từ thành hai nhóm: nhóm tính
từ chỉ đặc trưng không xác định thang độ và nhóm tính từ chỉ đặc xác định thang độ.

1.4.1. Tính từ chỉ đặc trưng không xác định thang độ
Đây là nhóm tính từ mà ý nghĩa tự thân của chúng không hàm chứa sự đánh giá
mức độ về đặc trưng.
Những từ này có thể kết hợp rộng rãi với các phụ từ chỉ mức độ: rất, lắm, quá,
14


vô cùng, cực kỳ,…
Chúng cũng có thể tạo nên những cấu trúc so sánh biểu thị ý nghĩa đặc trưng
như một chuẩn:
Ví dụ: Đen như cột nhà cháy
Xấu như ma
- Nhóm tính từ này gồm:
+ Những từ chỉ đặc trưng hình thể: vuông, tròn, thẳng, cong, béo, gầy,...
+ Những từ chỉ đặc trưng màu sắc: xanh, đỏ, tím, vàng,…
+ Những từ chỉ đặc trưng phẩm chất: tốt, xấu, vụng, khéo, hay, dỡ, quan
trọng,…

+ Những từ chỉ đặc trưng về lượng: nhiều, ít, đông, rậm, thưa, dài, ngắn, rộng,
hẹp,…
+ Những từ chỉ đặc trưng cường độ: mạnh, nhẹ, nhanh, chậm, sáng, tối, nóng,
lạnh,…
+ Những từ chỉ đặc trưng âm thanh: ồn, ồn ào, im, im lặng, im lìm vắng lặng,…
+ Những từ chỉ đặc trưng mùi, vị: hôi, thơm, đắng, ngọt, chát,…
+ Những từ chỉ trạng thái tâm lý: vui, buồn, hạnh phúc, đau khổ,…

1.4.2. Tính từ chỉ đặc trưng xác định thang độ
Đây là lớp từ mà trong ý nghĩa tự thân của chúng đã hàm chứa sự đánh giá về
mức độ về đặc trưng, tính chất thường là mức độ tuyệt đối).
Chính vì vậy những từ này không kết hợp với các phụ từ chỉ mức độ và cũng
không đòi hỏi phụ từ đi kèm.
Trong lớp từ này có thể chia thành các nhóm nhỏ:
- Nhóm từ chỉ đặc trưng tuyệt đối không làm thành cặp đối lập. Các từ này
thuờng là từ láy hoặc từ ghép: xanh xanh, đỏ đỏ, vàng vàng, tím tím, trắng trắng, đỏ
lòm, xanh ngắt…
- Nhóm từ chỉ đặc trưng tuyệt đối có khả năng làm thành cặp đối lập: riêng,
chung, chính, phụ, độc nhất... Chúng thường đi kèm và bổ nghĩa cho danh từ, động từ.
- Nhóm từ chỉ đặc trưng mô phỏng: Nhóm từ này được hình thành dự trên sự
mô phỏng trực tiếp âm thanh hoặc mô phỏng gián tiếp hình thể, sự vật, tính chất.
Vd: ào ào, réo rắt, lêu đêu, lì tì…
Nhóm từ này có thể kết hợp hạn chế với phụ từ: hơi, hơi hơi
15


Vd: “ Đàn bà con gái, cả loạt khăn vuông lụa, cặp vái hoa rộn sực xà tích bạc,
róc rách, lẫn bà chu, nàng ả, bà nhì, bà mười nhì.” [13; tr. 300]

2. Tính từ chỉ màu sắc

2.1. Khái niệm
Tính từ chỉ màu sắc là lớp từ chỉ tính chất, đặc trưng về màu sắc của thực thể,
hiện tượng.

2.2. Đặc trưng của Tính từ chỉ màu sắc
- Chức năng cú pháp
+ Làm định ngữ cho danh từ
Vd: Bầu trời trong xanh đã tới sập.
+ Làm vị ngữ trong câu
Vd: “Những khóm rừng xanh om” [11; tr.104].
+ Làm trung tâm của cụm tính từ:
Vd: Nắng cứ xanh rờn những triền đồi.
+ Tính từ chỉ màu sắc không có chức năng bổ ngữ nên chúng không kết hợp với
động từ.
- Khả năng kết hợp
Là một tiểu loại của tính từ, tính từ chỉ màu sắc mang đầy đủ những đặc điểm
về khả năng kết hợp của tính từ. (Những đặc điểm này đã được trình bày trong phần
đặc trưng của từ loại tính từ. Ở đây người viết không nhắc lại.)
Tính từ chỉ đặc trưng tuyệt đối về màu sắc không tạo nên những cặp đối lập.

2.3. Phân loại tính từ chỉ màu sắc
Tương tự như việc phân loại tính từ, ở đây người viết cũng dựa trên cơ sở ý
nghĩa và khả năng kế hợp để chia tính từ chỉ màu sắc thành hai loại:

2.3.1. Tính từ chỉ màu sắc không xác định thang độ
Lớp từ này gồm: xanh, đỏ, tím, vàng, đen, trắng, nâu, tím, xám, hồng…
Đây là lớp từ mang ý nghĩa tương đối về đặc trưng của màu sắc. Những từ này
có thể có thể kết hợp rộng rãi với các phụ từ chỉ mức độ: rất, lắm, quá,… Khi kết hợp
với những phụ từ chỉ mức độ này, ý nghĩa đặc trưng của tính từ chỉ màu sắc được tuyệt
đối hóa.

Ví dụ: Mái tóc cô ấy trước đây xanh cực kỳ.
Những từ này có thể kết hợp với danh từ và những từ so sánh tạo nên cấu trúc
16


so sánh.
Ví dụ: Xanh như lá, bạc như vôi, vàng như nghệ,…

2.3.2. Tính từ chỉ màu sắc xác định thang độ
Đây là lớp từ chỉ đặc trưng về màu sắc của sự vật, hiện tượng mà trong ý nghĩa
tự thân của chúng đã hàm chứa sự đánh giá mức độ.
- Lơp từ này gồm:
+ Đen đen, đen tuyền, đen sì, đen nhánh, đen đúa, màu mun, màu bồ hóng, màu
huyền,…
+ Trăng trắng, trắng nõn, trắng ngần, trắng bạc, màu vôi, màu sữa,…
+ Xanh xanh, xanh lè, xanh biếc, xanh dà, xanh nước biển, xanh da trời, xanh
đọt chuối, màu rêu,…
+ Đỏ đỏ, đỏ tươi, đỏ lòm, màu huyết dụ, màu son, màu mận chí n,…
+ Vàng vàng, vàng khè, vàng rộm, vàng rực, vàng mật ong, màu hoàng yến,
màu đất sét,…
+ Tim tím, tím rịm, tím ngắt, tím than, bầm tím, màu hoa cà,…
+ Xam xám, xám xịt, xám tro, xám ngắt,…
+ Nâu nâu, nâu non, nâu sồng, màu đất, màu vec-ni, màu cánh gián, màu cứt
ngựa,…
+ Hồng hồng, hồng rực, hồng hào, màu hoa đào,…
- Những từ hình thành theo cơ chế ghép hoặc láy có hai trường hợp biểu thị ý
nghĩa:
+ Biểu thị ý nghĩa nhạt hơn mức độ của màu sắc đặc trưng: trăng trắng, đỏ đỏ,
xanh xanh, xanh nhạt, vàng nhạt,…
+ Biểu thị ý nghĩa đậm hơn mức độ của màu sắc đặc trưng: trắng toát, đỏ lòm,

xanh ngắt, vàng khè, xám xịt, đen ngòm, đen đúa,…
- Ý nghĩa của lớp tính từ chỉ màu sắc xác định thang độ:
Cũng như lớp từ chỉ màu sắc không xác định thang độ, lớp từ chỉ màu sắc xác
định thang độ cũng có giá trị cơ bản là chỉ ra đặc trưng về màu sắc của thực thể, hiện
tượng. Ngoài ra, những tính từ chỉ màu sắc xác định thang độ còn có ý nghĩa tạo hình,
biểu cảm và bộc lộ thái độ, cách đánh giá của nguời nói, viết. Vì vậy, chúng có tác
dụng miêu tả, gợi cảm và có giá trị thẩm mỹ cao.
Ví dụ: Khuôn mặt trắng trẻo (+)
Khuôn mặt trắng hồng (+)
17


Khuôn mặt trắng nhợt (-)
Khuôn mặt trắng bệch (-)

18


Chương 2:
TÍNH TỪ CHỈ MÀU SẮC TRONG CÁC TÁC PHẨM VIẾT VỀ

ĐỀ TÀI MIỀN NÚI CỦA TÔ HOÀI.

1. Vài nét về nhà văn Tô Hoài.
1.1. Sơ luợc tiểu sử.
Tô Hoài tên thật là Nguyễn Sen. Ngoài bút danh Tô Hoài, dùng trong sáng tác
văn chương, ông còn có các bút danh khác dùng cho viết báo như: Mắt Biển, Mai
Trang, Duy Phương, Hoa Hồng…
Tô Hoài sinh ngày 27/9/1920 (túc ngày 16/8 năm Canh Thân). Quê nội của Tô
Hoài ở thị trấn Kim Bài, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây. Ông sinh ra và lớn lên ở quê

ngoại là làng Nghĩa Đô, phủ Hoài đức, tỉnh Hà Đông cũ – nay là phuờng Nghĩa Đô,
quận Cầu Giấy, Hà Nội.
Bút danh Tô Hoài gắn với hai địa danh là sông Tô Lịch và phủ Hoài Đức.
Xuất thân trong một gia đình nghèo làm nghề thủ công (dệt lụa), cuộc sống gặp
nhiều khó khăn. Vì vậy Tô Hoài chỉ học hết bậc tiểu học sau đó phải vừa tự học, vừa
đi làm để kiếm sống. Tô Hoài đã làm nhiều nghề: thợ thủ công , dạy học tư, bán hàng,
làm kế toán hiệu buôn.
Tô Hoài bắt đầu sự nghiệp văn chương của mình từ cuối những năm 30 của thế
kỉ XX, với những sáng tác được đăng trên “Hà Nội tân văn”, và “Tiểu thuyết thứ
bảy”.
Năm 1938, trong thời kì Mặt trận dân chủ, Tô Hoài tham gia phong trào “Ái
hữu thợ dệt” rồi làm thư kí ban trị sự Hội ái hữu thợ dệt Hà Đông. Sau đó ông tham gia
phong trào Thanh niên phản đế. Năm 1943 Tô Hoài gia nhập tổ Văn hóa Cứu quốc đầu
tiên của Hà Nội.
Sau cách mạng tháng tám, trong không khí sôi sục của kháng chiến chống Pháp,
Tô Hoài đã hòa mình với nhân dân và đã hoạt động sôi nổi. Ông tham gia phong trào
Nam tiến rồi lên Việt Bắc làm báo “Cứu quốc”. Sau đó ông đuợc cử làm chủ nhiệm
báo “Cứu quốc Việt Bắc”, chủ bút “Tạp chí Cứu quốc”. Từ 1951, Tô Hoài về công tác
trong hội văn nghệ Việt Nam.
19


Sau ngày hòa bình lập lại, năm 1957, trong Đại hội nhà văn lần thứ nhất, Tô
Hoài được bầu làm Tổng thư kí của hội. Từ 1958 đến 1980, ông tiếp tục tham gia ban
chấp hành, rồi phó tổng thư kí Hội nhà văn Việt Nam.
Từ năm 1986 đến 1996, Tô Hoài giữ chức Chủ tịch Hội văn nghệ Việt Nam .
Trong cuộc đời hoạt động sôi nổi của mình, Tô Hoài còn tham gia nhiều công
tác xã hội khác và giữ các chức vụ quan trọng trong nhiều tổ chức: Làm đại biểu Quốc
hội khóa VII; Phó chủ tịch ủy ban đoàn kết Á - Phi; Phó chủ tịch Hội hữu nghị Việt Ấn; Ủy viên ban chấp hành Hội hữu nghị Việt - Xô.


1.2. Sự nghiệp sáng tác.
Tô Hoài bắt đầu sự nghiệp sáng tác của mình từ cuối những năm 30 của thế kỉ
XX. Đến với văn chương ông nhanh chóng được người đọc chú ý với tác phẩm quan
trọng đầu tiên là “Dế Mèn phiêu lưu ký”. Quá trình sáng tác của Tô Hoài trải qua hai
thời kì trước và sau Cách mạng tháng Tám (1945), song cùng với sự phát triển của
cách mạng Việt Nam và những biến động của lịch sử. Tô Hoài chuyên viết văn xuôi,
các thể loại tiêu biểu như: Ký (bút ký, hồi ký, chân dung), truyện ngắn, tiểu thuyết. Tô
Hoài là cây bút văn xuôi độc đáo và có những đóng góp quan trọng trên các mảng đề
tài lớn: vùng quê ngoại thành Hà Nội, hiện thực và lịch sử; miền núi Tây Bắc – Việt
Bắc trong cách mạng, kháng chiến và xây dựng chủ nghĩa xã hội; sáng tác cho thiếu
nhi; chân dung và hồi ức.
Trong từng thể loại, từng mảng đề tài, Tô Hoài đều có nhũng sáng tác quan
trọng.
- Truyện ký:
+ Trước 1945: “O chuột” (tập truyện – 1942), “Nhà nghèo” (tập truyện – 1942),
“Giăng thề” (truyện vừa – 1942), “Quê nhà” (truyện dài -1942), “Cỏ dại” (hồi ức –
1944),…
+ Sau 1945: “Núi Cứu quốc” (tập truyện - 1948), “Ngược sông Thao” (phóng
sự - 1949), “Xuống làng” (tập truyện – 1951), “Truyện Tây Bắc” (tập truyện – 1953),
“Cứu đất cứu mường” (tập truyện – 1954), “Tào Lường” (tập truyện – 1955), “Vợ
chồng A Phủ” (kịch bản phim – 1960), “Miền Tây” (tiểu thuyết – 1967), “Nhật kí
vùng cao” (1969), “Lên Sùng Đô” (bút ký – 1969), “Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ” (tiểu
thuyết – 1971), “Quê nhà” (tiểu thuyết – 1980), “Họ Giàng ở Phìn Sa” (tiểu thuyết –
1988), “Cát bụi chân ai” (hồi ký – 1992), “Chuyện cũ Hà Nội” (tập I – 1998, tập II –
20


2000),…
- Sáng tác cho thiếu nhi:
+ Trước 1945: Con Dế Mèn, Dế Mèn phiêu lưu ký, Trê và cóc, Mực tàu giấy

bản, Nói về cái đầu tôi, Ngọn cờ lau, U Tám, Lá thư rơi, Võ sĩ bọ ngựa, Ba bà cháu,
Đám cưới chuột…
+ Sau 1945:
Truyện: Chiến sĩ Hà Nội, Chiếc xe bí mật, Đại đội Thăng Bình, Con gà lờ đờ,
Tuổi nhỏ trí cao, Vừa A Dính, Kim Đồng, Đảo hoang…
Kịch: Con mèo lười, Tích tịch tình tang.
Kịch phim: Kim Đồng, Ông Giàng, Trâu húc, Con mèo lười, Thạch Sanh…
Ngoài ra, Tô Hoài còn có những đóng góp trong lĩnh vực nghiên cứu, phê bình,
lí luận, có những bài viết về kinh nghiệm sáng tác: “Một số kinh nghiệm viết văn của
tôi” (1959), “Người bạn đọc ấy” (1963), “Nghệ thuật và phương pháp viết văn”
(1997).
Nhiều tác phẩm của Tô Hoài được dịch ra tiếng nước ngoài: tiếng Nga, Trung
Quốc, Pháp, Ba Lan, Cu Ba, Nhật Bản…
Tô Hoài có nhiều tác phẩm đạt giải:
+ Truyện Tây Bắc: Giải thưởng tiểu thuyết của Hội văn nghệ Việt Nam (1956)
+ Miền Tây: Giải thưởng Hội nhà văn Á – Phi (1970)
+ Quê nhà: Giải thưởng Hội văn nghệ Hà Nội (1980), Giải thưởng Hồ Chí
Minh, đợt 1 (1996).

2. Tính từ chỉ màu sắc trong tác phẩm viết về đề tài miền núi của Tô Hoài.
2.1. Thống kê: (Phụ lục).
2.2. Phân loại:
Trong số 20 tác phẩm (6 tác phẩm ký, 10 truyện, 4 tiểu thuyết), Tô Hoài đã sử
dụng tính từ chỉ màu sắc 1166 lần với tỉ lệ như sau:

21


Thứ
tự


Màu sắc

Không xác định thang độ

Xác định thang độ

Số lần sự dụng

Tỉ lệ ( % )

Số lần sự dụng

Tỉ lệ ( % )

1

Đen

75

12.5

70

12.3

2

Trắng


169

28.3

121

21.3

3

Xanh

85

14.2

120

21.1

4

Đỏ

134

22.4

121


21.3

5

Vàng

54

9.1

83

14.5

6

Tím

16

2.7

8

1.4

7

Xám


29

4.8

26

4.6

8

Nâu

17

2.8

11

1,9

9

Hồng

19

3.2

8


1.4

Tổng số

598

50.9

568

49.1

* Nhận xét
Tô Hoài sử dụng hầu hết các tính từ chỉ màu sắc cơ bản vốn có của ngôn ngữ
tiếng Việt. Đặc biệt, mức độ xuất hiện của tính từ chỉ màu sắc trong các tác phẩm viết
về đề tài miền núi là rất cao: 1166 lần.
Tác giả sử dụng cả hai lớp tính từ chỉ màu sắc không xác định thang độ và tính
từ chỉ màu sắc xác định thang độ. Hai lớp từ này có tỉ lệ tương đương nhau, tuy có sự
chênh lệch nhưng không đáng kể. Điều đó cho thấy cả hai lớp tính từ này đều có tầm
quan trọng trong tác phẩm của Tô Hoài.
Các lớp tính từ chỉ mau sắc được Tô Hoài sử dụng nhiều đó là các lớp tính từ
chỉ màu đen, trắng, xanh, đỏ, kể cả xác định độ và không xác định thang độ. Đó là
nhưng màu sắc cơ bản và có tầm quan trọng rất lớn trong tác phẩm. Tuy Nhiên, những
lớp tính từ chỉ màu sắc ít được sử dụng như tím, xám, nâu, hồng, nhưng chúng vẫn có
giá trị nhất định đối với tác phẩm của Tô Hoài.

2.3. Miêu tả tính từ chỉ màu sắc trong tác phẩm viết về đề tài miền núi của
Tô Hoài
Đối với tác phẩm văn chương tính từ chỉ màu sắc có ý nghĩa rất lớn trong việc

miêu tả thiên nhiên và cuộc sống con người. Nhờ vốn tính từ chỉ màu sắc trong tiếng
Việt phong phú và đa dạng, các nhà văn có thể vận dụng, sáng tạo để đưa vào trong tác
22


phẩm những sắc màu của cuộc sống vốn muôn màu muôn vẻ.
Vùng trung du miên núi phía bắc nước ta là vùng của những rừng cây núi đá,
của cỏ hoa, đặc biệt. Đây còn là địa bàn cư trú của nhiều dân tộc thiểu số với đời sống
văn hóa phong phú và đậm đà bản sắc. Chính thiên nhiên, cuộc sống nơi đây đã tự nó
ánh lên những màu sắc rực rỡ, lung linh muôn hồng, nghìn tía. Tô Hoài là một trong
những người đầu tiên đi “khai phá” vùng núi phía bắc. Trong những áng văn miêu tả
của nhà văn, tính từ chỉ màu sắc được sử dụng như một phương tiện nghệ thuật để làm
nổi bật những đặc trưng về thiên nhiên, về con người và bản sắc văn hóa của các dân
tộc miền núi phía Bắc. Điều này sẽ được làm rõ trong phần miêu tả những lớp tính từ
chỉ màu sắc dưới đây.

2.3.1. Tính từ chỉ màu sắc không xác định thang độ.
2.3.1.1. Màu đen
Tính từ chỉ màu sắc đen được Tô Hoài sử dụng tương đối nhiều trong tác phẩm.
So sánh về số lần sử dụng, màu đen chỉ đứng sau màu trắng, màu đỏ và màu xanh.
Màu đen là một màu cơ bản, là màu tối theo quan niệm người Việt, màu đen
thường được xem là yếu tố biểu trưng cho những điều không tốt đẹp, kém may mắn.
Trong tác phẩm của Tô Hoài , màu đen cũng được sử dụng với những nét ý nghĩa đó.
Có đôi chỗ trong tác phẩm, Tô Hoài sử dụng màu đen để miêu tả những đau
thương mất mát. Có khi, tác giả dùng màu đen để miêu tả màu máu. Máu vốn có màu
đỏ, nhưng ở đây là màu máu đã chảy ra, khô lại và chuyển thành màu đen. Đó là máu
của nhân vật Ông Mờng trong “Mường Giơn”, là một người vùng cao Tây Bắc tin theo
cách mạng, một lần bị ép đi phu cho Pháp, rồi phải trốn chạy vì bị phục kích, ông
Mờng xuất hiện với vẻ hớt hải, “máu trên mặt chảy khô đen xuống ngực áo… rồi
không kịp thở, vẫn cái áo đã đen máu trên ngực, ông lại đeo lãng cơm chạy lẫn vào

đám người nhốn nháo, túi bụi trong tiếng quát chửi, tiếng roi gậy vụt xuống đầu,
xuống lưng” [11; tr.385]. Sống trong cảnh kìm kẹp, áp bức, ông Mờng cũng như đồng
bào miền núi phải chịu đựng biết bao đau thương, mất mát và sống với những mối
hiểm nguy thường trực mà bọn thực dân có thể gây ra bất cứ lúc nào. Màu đen là màu
máu của đồng bào đã đổ vì sự áp bức, cũng là màu biểu trưng của những nỗi đau
thương mất mát.
Màu đen cũng được dùng để miêu tả bầu trời và bóng tối: “Vào quãng canh
23


một. Rét, gió dữ. Mây vở từng mảng rơi thấp xuống trôi nhanh trên đầu. Mỗi đám mây
đen vùn vụt đi” [11; tr.424], màu đen của những đám mây như phủ kín không gian, âm
u và khắc nghiệt. Màu đen còn len lỏi vào cả những dãy phố: “Trong khuya, nhà hai
bên phố càng tối đen” [12; tr.510]. Không còn là màu của bóng tối thông thường, mà
màu đen như dự báo, như đem đến cho con người những nỗi sợ hãi, những mối nguy
hiểm: “người ta bàng hoàng chết khiếp những cuộc lùng bắt ban đêm, dù là kẻ cướp
hay lính tráng thì cũng đều phải sợ thế cả.” [12; tr.510]. Như vậy, màu đen vừa miêu
tả màu của bóng tối, vừa là biểu trưng cho cuộc sống u tối đầy dãy những mối đe dạo,
những mối lo toan của đồng bào miền núi trong thời kỳ kháng chiến.
Màu đen khi được sử dụng để miêu tả con người trong những câu văn mang sắc
thái âm tính, Tô Hoài dùng để tả những kẻ xấu. Đó là màu trang phục của lão vua Mèo
giả: “Pàng trông thấy ông thầy cúng ở suối Ná Đắng khúm núm chắp hai tay trước
mặt thằng áo đen.” [12; tr.240]. Hay trang phục tên lính của vua Mèo: “Thằng áo đen
dí súng lúc nắng chợt đến” [12; tr.240],… Trong những trường hợp này, tuy màu đen
chỉ được dùng để tả trang phục, một cách giới thiệu màu trang phục bình thường,
nhưng nó lại như một yếu tố nói lên đặc điểm nhận dạng những kẻ xấu, cho nên dễ gây
những ấn tượng về điều xấu, những kẻ gieo rắc tai họa, theo chân bọn thực dân lừa
bịp, làm hại người dân.
Những trường hợp miêu tả trên đây, màu đen được tác giả sử dụng với sắc thái
âm tính, tạo ấn tượng về không gian u ám, hoàn cảnh tối tăm của miền núi phía Bắc

trong chiến tranh.
Bên cạnh việc dùng màu đen để miêu tả thiên nhiên, và những nỗi đau thương
phần lớn số tính từ chỉ màu đen được nhà văn dùng để tả con người, đặc biệt là trang
phục. Trong các tác phẩm của Tô Hoài, ta thấy xuất hiện nhiều hình ảnh những chiếc
áo, chiếc váy đen. Như trong “Miền Tây”, tác giả miêu tả trang phục của nhân vật Mỵ
với hai màu đen và trắng: “Cô Mỵ mặc tấm áo cánh trắng với cái quần lụa đen” [12;
tr.171]. Một chỗ khác, tác giả miêu tả vẻ đẹp của hai cô gái mậu mịch người Lô Lô.
Nét đẹp của trang phục đa màu sắc như được tôn lên bởi nền đen: “hai cô mậu dịch
người Lô Lô … Ngày chợ, diện váy áo dân tộc, hai cô cùng đẹp như nhau: áo chẽn
khuy chéo hoa đỏ thêu trên ngực, cái váy bốn thước láng đen xòe nhóng nhánh” [12;
tr.267]. Trang phục của nam giới cũng được miêu tả bằng màu đen, đó là màu áo của
ông Sếnh trong “Đà Bắc, Mai Châu ngày ấy” với “áo xuyến đen mới bóng nhoáng”
[13; tr.259].
24


Màu đen cũng được dùng để tả màu của những chi tiết trang phục khác (mũ, ô,
giày). “Dưới vành mũ phớt đen, sau gáy thò xuống một đuôi tóc dài chấm lưng…” [13;
tr.123]; “Ô đen, ô trắng quay tròn giữa những đốm chấm váy đỏ chót” [12; tr.161];
“có người trắng trẻo, cao lớn, quần áo dạ đen, mũ lưỡi trai, giày nhưng đen mới ,
tuyết còn ánh lên” [12; tr.460],…
Màu đen là màu tối, vô sắc, dùng tính từ chỉ màu đen để miêu tả trang phục, Tô
Hoài đã diễn tả được vẻ đẹp mộc mạc, chất phác của con người miền núi phía Bắc.
Nhà văn Nguyễn Minh Châu cũng chú ý miêu tả màu đen chiếc váy của nhân vật Y
Khiêu, một người dân tộc ở Tây Bắc: “Từ trong nhà, một người đàn bà váy đen xô
ra… Chị chạy xuống, nếp váy đen cứ quấn lấy bậc thang” [5; tr.9], “Chị ngồi trên hai
bắp chân thu về phía sau, dáng điệu khép nép, những nếp váy đen trùm đến mắt cá”
[5; tr.10]. Màu đen mộc mạc hòa hợp và tôn lên vẻ đẹp giản dị, chất phác của người
miền núi. Chính vẻ đẹp đó đã tạo nên những mối thiện cảm, gần gũi. Như trong truyện
ngắn “Suối nguồn”, Nguyễn Minh Châu có viết: “Cái tôi thích là những rặng mai

trong vườn, và dáng hiền lành thùy mị của những người con gái, mỗi năm đón tết, mặc
chiếc quần đen cắt dài hơn…” [5; tr.16]. Với Tô Hoài, cũng là màu đen của trang
phục, nhưng có khi nhà văn lại dùng để miêu tả sự nghèo khổ, cơ cực của những người
dân miền núi phía Bắc. Trong tiểu thuyết “Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ”, Mã Hợp cũng
như bao nhiêu người dân miền núi phía Bắc sống trong cảnh nghèo khó và bị áp bức,
bóc lột. Chống chọi với cảnh nghèo đó, Mã Hợp phải lăn lộn với nghề bán củi trong sự
khắc nghiệt của thiên nhiên. Sự nghèo khổ như hằn lên “cái áo bông đen đã rách còn
ẩn sì và trĩu những nước ở bó cũi rích xuống” [12; tr.450]. Màu đen chiếc áo bông ẩm
sương của Mã Hợp như là màu của thực tại cuộc sống, đồng bào miền núi phía Bắc
trong thời kỳ kháng chiến.
Như vậy, màu đen được tác giả sử dụng như thêm vào bức tranh đa sắc của
thiên nhiên, cuộc sống con người miền núi phía Bắc. Nó vừa là của màu của những nỗi
đau thương, vừa là màu đẹp đẽ, giản dị vốn có, vốn được ưa chuộng của người Tây
Bắc. Đó cũng là màu của vẻ đẹp tâm hồn, của sự thuần phác trong phẩm chất và cũng
biểu hiện của văn hóa của người đồng bào miền núi.

2.3.1.2. Màu trắng
Trong các sáng tác viết về miền núi, màu trắng là màu được Tô Hoài sử dụng
nhiều nhất. Đây là màu có ý nghĩa đặc biệt trong tác phẩm và được Tô Hoài sử dụng
25


với những sắc thái ý nghĩa khác nhau.
Màu trắng thuộc gam màu sáng và là một màu vô sắc. Theo quan niệm của
người Việt, màu trắng mang ý nghĩa biểu trưng cho sự trong sáng, đẹp đẽ và thanh
khiết, đồng thời cũng là màu tang tóc, đau thương. Đó là hai sắc thái ý nghĩa biểu
trưng cơ bản của màu trắng.
Trong tác phẩm viết về miền núi của Tô Hoài, màu trắng chủ yếu được dùng để
miêu tả thiên nhiên và trang phục với những sắc thái ý nghĩa khác nhau. Qua đó, Tô
Hoài làm bật nổi những nét đặc trưng của miền núi phía bắc.

So với tổng số lần sử dụng tính từ chỉ màu trắng không xác định thang độ, số
lần sử dụng tính từ chỉ màu trắng để tả thiên nhiên chiếm tỉ lệ khá cao. Có thể nói màu
trắng là màu chủ đạo trong bức tranh thiên nhiên của xứ sở có những núi đá, suối
nước, sương tuyết, có mùa đông lạnh giá, và những mùa hoa nở trắng rừng núi.
Miền Bắc nước ta có một mùa đông khắc nghiệt, vùng núi phía bắc, đặc biệt là
ở Tây Bắc thì mùa đông luôn gây ra những trở ngại rất lớn đối với đời sống sản xuất
và sinh hoạt của đồng bào nơi đây. Đọc tác phẩm của Tô Hoài, ta có thể hình dung
được phần nào đặc điểm của thiên nhiên khắc nghiệt ấy. Trong việc miêu tả thiên
nhiên bằng màu trắng, màu tuyết được tác giả đặc biệt chú ý: “Ngày xưa người Mèo ở
vùng phương bắc tuyết trắng đầy mùa đông” [7; tr.89]. Màu trắng của tuyết song hành
cùng cái giá lạnh của khí hậu miền núi phía Bắc đã từng đi vào sự tích của người Mèo:
“Người Mèo có sự tích từ phương bắc vượt năm nghìn ngọn núi tuyết trắng trốn nợ
chúa đất,…” [11; tr.192]. Màu tuyết trắng với cái lạnh giá của mùa đông như hằn sâu
thêm những nỗi gian truân của người dân tộc Mèo – tộc người thường sống trên những
ngọn núi cao phương Bắc. Trong tác phẩm kí “Lên Sùng Đô” Tô Hoài viết: “Những
câu chuyện từ xửa xưa các cụ già vẫn còn kể để mơ ước, để thèm – những câu chuyện
kể lại, chẳng ai được thấy bao giờ mà nghe cũng say, cũng thích, cũng thấy như in trở
lại vùng tuyết phương bắc, những đỉnh núi trắng, băng đóng quanh năm, leo mấy ngày
chưa vượt qua. Cần phải vượt qua, tìm chỗ mới, tìm may rủi.” [11; tr.98]. Màu trắng
của những ngọn núi tuyết gắn với đời sống du canh du cư của người Mèo, màu trắng
của tuyết như in vào tâm thức của người Mèo với cả những gian khổ và những mơ ước
trên những cuộc hành trình qua các đỉnh núi của cuộc đời họ.
Không chỉ màu tuyết trắng mới ẩn chứa sự khắc nhiệt của thiên nhiên miền núi,
mà màu trắng của sương, của màn mưa rừng cũng cho ta thấy những khó khăn, trở
ngại của thiên nhiên nơi đây. Trong tác phẩm của mình, nhiều lần Tô Hoài dùng màu
26


trắng để tả màu sương, như trong tiểu thuyết “Họ Giàng ở Phìn Sa”, tác giả miêu tả
màn sương trắng mù mịt như phủ lấp đi hình dáng của những chiến sĩ bộ đội Pa ThétLào: “Chỉ mấy bước, ba người bộ đội Pa Thét đã lấp vào làn sương màu trắng , màu

tím hoa thuốc phiện” [13; tr.107]. Sương trắng cũng mang theo cả sự giá lạnh, tỏa hơi
ẩm vào đoàn người, ngựa lính của ông Thống Lý trong “Miền Tây”: “khói và sương
quyện vào nhau, ẩm nặng vui áo chàm đen sẩm. Bờm ngựa, tóc người ướt trắng” [12;
tr.24].
Màu tuyết, màu sương đưa lại cho ta ấn tượng về cái giá lạnh khủng khiếp của
miền núi. Đó là đặc trưng của xứ sở có mùa đông giá buốt. Trong “Suối nguồn” của
Nguyễn Minh Châu , ta cũng bắt gặp màu trắng mịt mùng của màn sương như thế:
“Mới quá trưa mà sương sa trắng rừng núi. Ban ngày, nhiệt độ xuống dưới không.
Ban đêm càng buốt.” [5; tr.5]. Nguyễn Minh Châu cũng như Tô Hoài đã dùng màu
trắng để nói lên cái giá buốt của màn sương.
Nếu tuyết, sương trắng đưa lại ấn tượng về những mùa đông lạnh giá, thì màu
trắng của mưa lại gợi lên cảm giác rờn rợn trước sự mịt mùng của những cơn mưa
rừng. Màu của màn mưa được Tô Hoài miêu tả khá ấn tượng: “mưa tầm tã. Mưa trắng
núi, trắng trời” [11; tr.245], “ngoài kia, mưa vẫn trắng núi, trắng trời” [11; tr.247],…
Nhiều lần trong tác phẩm của mình, Tô Hoài dùng câu văn ngắn, với hai từ chỉ màu
sắc “trắng” đặt liên tiếp để tả cảnh mưa như thế. Cách miêu tả ấy gợi ấn tượng mạnh
về cái mịt mùng, mù mịt và khắc nghiệt của những cơn mưa rừng, mưa núi.
Màu trắng không chỉ được dùng để khắc họa sự khắc nghiệt của thiên nhiên
miền núi phía bắc. Nhìn ở một góc độ khác, màu trắng của tuyết phủ đầy mùa đông,
hay những ngọn núi trắng… cũng gợi cho ta ấn tượng về vẻ đẹp huyền ảo của thiên
nhiên nơi đây.
Màu trắng còn được Tô Hoài dùng để miêu tả bầu trời, bóng mây, ánh nắng.
Trong tiểu thuyết “Miền Tây”, có đoạn tác giả dùng màu trắng để chỉ màu của bầu
trời, của không gian. “Tiếng chó sủa, tiếng chuông cổ bò từ những làng “xóm xa nào
đấy chợt đến rồi vùi nhanh vào nền sương dày đặc đứng im. Đột nhiên, trời loãng
trắng ra. Gờ núi lóng lánh nạm ánh nắng. Dưới thung, cánh rừng màu đen xạm, đổ
màu xanh lơ.” [12; tr.252]. Màu trắng của luồng ánh sáng, của không gian, bầu trời,
ánh nắng làm loãng ra, tan đi sự mịt mùng, u ám và tạo nên sự thay đổi của cảnh sắc
thiên nhiên . Đó là sự thay đổi từ tối đến sáng, từ lạnh giá đến ấm áp, làm cho bức
tranh thiên nhiên trở nên đẹp hơn, vui hơn. Khi miêu tả ánh trăng: “Trăng sáng trăng

27


×