Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

ỨNG DỤNG DẦU DỪA TRONG VIỆC NGĂN CẢN SỰ PHÁT TRIỂN CỦA VI RÚT HIV

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (721.04 KB, 23 trang )

Trường Đại Học Công Nghiệp Thực Phẩm TP HCM
Khoa: Công Nghệ Sinh Học
----------*****----------

Bài Tiểu Luận
Môn Vi Sinh Vật Học
Đề Tài:

GVHD : Nguyễn Thị Quỳnh Mai
Sinh Viên Thực Hiện:
1. Nguyễn Công Nguyên (2008100186)
2. Nguyễn Văn Hữu (2008100117)
3. Trịnh Phi Hãn (2008100301)
4. Phạm Văn Tuyên (2008100165)
Năm Học 2011-2012

1


Trường Đại Học Công Nghiệp Thực Phẩm TP HCM
Khoa: Công Nghệ Sinh Học
----------*****----------

Bài Tiểu Luận
Môn Vi Sinh Vật Học
Đề Tài:

GVHD : Nguyễn Thị Quỳnh Mai
Sinh Viên Thực Hiện :
1. Nguyễn Công Nguyên (2008100186)
2. Nguyễn Văn Hữu (2008100117)


3. Trịnh Phi Hãn (2008100301)
4. Phạm Văn Tuyên (2008100165)
Năm Học 2011-2012

2


MỤC LỤC
I/GIỚI THIỆU DẦU DỪA..................................................................................................5
1/ Thành phần chính trong dầu dừa :...............................................................................5
2/ Một số thành phần khác có trong dầu dừa :.................................................................8
a. myristic acid.................................................................................................................8
II/ DẦU DỪA VÀ VIRUS HIV........................................................................................12
1/Cấu trúc và hoạt dộng của virut HIV..........................................................................12
2/ Tình hình việc sử dụng một số loại thuốc điều trị HIV.............................................13
3/Tác dụng dầu dừa lên virus hiv...................................................................................14
4/ Một số tác dụng tích cực của dầu dừa lên virus HIV. Những trường hợp thành công
nhất định :......................................................................................................................15

V/ KẾT LUẬN..............................................................................................Trang 21

3


Lời Mở Đầu

Trong thời đại phát triển khoa học- công nghệ chủa TK 21, con người đã dần
khám phá ra những điều mới lạ và giải thích những hiện tượng mà trước giờ chưa
giải thích được. Trong lĩnh vực công nghệ sinh học có những bước phát triển vượt
bậc, nghiên cứu ra nhiều cái mới, góp phần vào việc nâng cao cuộc sống của con

người. Tuy nhiên, có một vấn đề mà đã từ lâu cho đến nay vẫn là nổi đau đầu mà
con người vẫn chưa giải quyết được, đó là căn bệnh thế kỉ “HIV”, dù đã phát hiện
ra căn cơ gây bệnh đã lâu nhưng cho đến nay vẫn chưa có thuốc đặc trị đặc hiệu.
Đây là lý do tạo nên sự hứng thú cho nhóm chúng tôi nghiên cứu về vấn đề này,
dầu dầu dừa một phương thuốc mới đã có những thành công nhất định trong việc
điều trị bệnh này. Tuy chưa được xem là thành công thực sự và tài liệu nghiên
cứu cũng khá hạn chế nhưng với sự thích thú chúng tôi vẫn quyết định chọn đề tài
này. Chắc chắn bài tiểu luận nhỏ này còn nhiều thiếu sót mong bạn đọc góp ý để
bài tiểu luận hoàn chỉnh hơn.
Chân thành cảm ơn!

4


I/GIỚI THIỆU DẦU DỪA
1/ Thành phần chính trong dầu dừa :
Dầu dừa đã được mệnh danh là “dầu lành mạnh nhất trên trái đất.” Điều gì làm
cho dầu dừa là loại tốt như vậy? Điều gì làm cho nó nên khác biệt với các loại dầu
khác, đặc biệt là chất béo bão hòa ?
Sự khác biệt nằm trong cấu trúc phân tử của chất béo. Tất cả các chất mỡ và dầu
được cấu thành bởi các phân tử acid béo. Có hai phương pháp để phân loại acid
béo.
*Thứ nhất, căn cứ trên sự bão hòa. Chúng ta có chất béo bão hòa (saturated fats),
chất béo không bão hòa đơn ( monounsaturated fats), chất béo không bão hòa kép
(polyunsaturated fats).
*Thứ hai, căn cứ trên chuỗi carbon. Acid béo gồm những chuỗi dài nguyên tử
carbon và những nguyên tử hydrogen đính vào đó. Chúng ta có acid béo chuỗi
ngắn, chuỗi 4 và 6 carbon (short chain fatty acid: SCFA), acid béo chuỗi trung
bình (medium chain fatty acid: MCFA), chuỗi 8, 10, và 12 carbon, và acid béo
chuỗi dài, chuỗi 14 hay nhiều hơn carbon (long chain fatty acid: LCFA).

Dầu dừa phần chính được cấu tạo bởi acid béo chuỗi trung bình (ABctb), cũng
được gọi là triglycerides chuỗi trung bình (Tctb).
Triglyceride được hình thành bằng cách kết hợp glyxêrin với ba phân tử của axit
béo. Các phân tử glyxêrin có ba nhóm chức hiđrôxl (HO-). Mỗi axit béo có một
nhóm chức carboxyl (COOH). Trong triglyceride, các nhóm chức hiđrôxyl của
glyxêrin kết hợp với các nhóm cacboxyl của axit béo hình thành liên kết este:
HOCH2CH(OH)CH2OH

+

RCO2H

+

R'CO2H

+

R''CO2H



RCO2CH2CH(O2CR')CR'' + H2O

5


Ba axit béo (RCO2H, R'CO2H, R''CO2H trong phương trình ở trên) thường khác
nhau. Chiều dài của chuỗi các axit béo trong triglyceride tự nhiên khác nhau,
nhưng hầu hết có 16, 18, hoặc 20 nguyên tử carbon. Các axit béo tự nhiên được

tìm thấy ở thực vật và động vật thường chỉ gồm các số chẵn của các nguyên tử
carbon. Tuy nhiên, vi khuẩn có khả năng tổng hợp các chuỗi axít béo có số nguyên
tử carbon lẻ và phân nhánh. Vì vậy, mỡ của các động vật nhai lại có các chuỗi
axít béo số lẻ, chẳng hạn như 15, là do vi khuẩn trong dạ cỏ tổng hợp mà thành.
Rất nhiều các axit béo là không bão hòa (unsaturated), và không bão hòa đa (polyunsaturated). Hầu hết các chất béo tự nhiên có chứa một hỗn hợp phức tạp của các
triglyceride, vì vậy, chúng tan chảy trong một phạm vi nhiệt độ rộng.
Hầu hết chất mỡ và dầu chúng ta ăn hàng ngày là acid béo chuỗi dài . Stearic acid
là chuỗi acid béo18 carbon , có nhiều trong thức ăn hàng ngày của chúng ta.
Kích cỡ của chuỗi acid béo rất quan trọng. Tại sao? Vì cơ thể chúng ta đáp ứng và
chuyển hóa mỗi acid béo một cách khác nhau tùy theo kích cỡ của chúng.
Vì chuỗi trung bình nhỏ hơn chuỗi dài chúng được tiêu hóa cách dễ dàng và hòa
tan trong nước nhiều hơn. Cho nên nó không cần enzymes của tuyến tụy và mật
của gan cho việc tiêu hóa của chúng. Vì vậy dầu dừa có thể cung cấp nguồn dinh
dưỡng nhanh chóng và dễ dàng không bắt hệ enzymes của cơ thể chịu gánh nặng
khi tham gia vào việc tiêu hóa.
Cách chất béo được tiêu hóa và chuyển hóa như sau:
Khi bạn ăn thức ăn có chứa triglycerides chuỗi dài, chúng đi qua bao tử rồi vào
ruột. Hầu hết sự tiêu hóa triglycerides chuỗi dài xảy ra ở ruột. Enzymes của tuyến
tụy và mật của túi mật cần thiết cho việc tiêu hóa này. Khi triglycerides chuỗi dài
được tiêu hóa, dây nối chùm acid béo đứt ra, từng đơn vị acid béo này được gọi là
lipoprotein ngấm vào thành ruột. Những lipoprotein này đi vào máu và luân

6


chuyển khắp cơ thể. Khi luân chuyển, chúng phóng thích những hạt của chất béo
vào máu. Những hạt này được thấy ở tế bào mỡ và mãng xơ vữa của động mạch.
Khi triglycerides chuỗi trung bình (Tctb) được ăn, tiến trình xảy ra khác hẳn,
chúng cũng đi qua bao tử rồi vào ruột, nhưng vì chúng được tiêu hóa quá dễ dàng
nên ngay khi vừa rời bao tử là chúng đã tự tách ra thành từng đơn vị acid béo rồi.

Khi vào ruột chúng lập tức ngấm vào tĩnh mạch cửa để đi thẳng vào gan. Ở gan
chúng được dùng như nguồn nhiên liệu cung cấp năng luợng. Vì vậy acid béo ctb
không qua giai đoạn lipoprotein ở trong ruột và trong gan. Chúng không luân
chuyển trong máu, nên không đóng trong các tế bào mỡ và thành động mạch.
Chúng được dùng để cung cấp năng lượng, không tham dự vào lượng mỡ thừa của
con người , không gây nên xơ vữa cho động mạch vành.
Vì Tctb được tiêu hóa dễ dàng nên chúng cũng làm tăng sự hấp thụ các khoáng
chất như magnesium, calcium, vài loại vitamin B, vitamin A, D, E, K , beta
carotene, và vài amino acid ( vd: protein). Ví dụ: Các nghiên cứu cho thấy rằng
những triệu chứng do thiếu vitamin B giảm đi khi thêm dầu dừa vào thức ăn. Nhờ
giúp calcium hấp thu, dầu dừa giúp xương tăng trưởng và tránh được bệnh còi
xương.
A-xít béo chuỗi trung bình (ABctb) có trong sữa mẹ cung cấp nguồn dinh dưỡng
cũng như bảo vệ bé khỏi nhiễm trùng. Sữa mẹ càng có nhiều ABctb, bé càng khỏe
mạnh. Bình thường sữa mẹ có khoảng 3%-4% ABctb. Khi thêm dầu dừa vào thức
ăn của mẹ, ABctb gia tăng đáng kể. Ví dụ: ăn 3 muỗng canh dầu dừa trong một
bữa ăn, sẽ tăng lượng lauric acid từ 3,9% lên 9,6% sau 14 tiếng. Nếu người mẹ ăn
dầu dừa hàng ngày, sẽ tăng ABctb lên 18% giúp cho bé phát triển , khỏe mạnh và
có sức đề kháng cao. Vì lý do này, dầu dừa hay Tctb đã được thêm vào công thức
sữa cho bé ở nhà thương và trên thương trường.
Chất kháng vi sinh vật.

7


ABctb trong dầu dừa có khả năng diệt vi khuẩn, virus, nấm, và ký sinh trùng. Đặc
tính kháng vi sinh vật của ctba được tường trình đầu tiên bởi tiến sĩ Jon Kabara.
Toàn thể chất trong dầu dừa là triglycerides. (Tri: ba, di: hai, mono: một )
Triglycerides là ba acid béo liên kết với nhau nhờ phân tử glycerol.
Khi triglycerides bị phân tách ra ở đường tiêu hóa, từng acid béo lần lượt tách rời

ra.
Khi một acid béo tách ra, phần còn lại là diglycerides.
Khi hai acid béo tách ra, phần còn lại là monoglyceride.
Nếu cả ba acid béo cùng tách ra , chúng ta có glycerol và ba acid béo tự do.
Triglycerides và diglycerides không có tác dụng kháng sinh. Chính
monoglycerides và acid béo tự do ( ABctb) mang đặc tính kháng vi sinh vật này.
Ba Tctb quan trọng của dầu dừa là lauric acid (C12), carpic acid (C10), và
caprylicacid (C8). Như vậy tên riêng của những monoglycerides này là:
monolaurin, monocaprin, và monocaprylin. Tất cả ABctb và monoglycerides của
chúng đều có tính kháng sinh rất lớn. Monolaurin có khả năng lớn nhất trong việc
tiêu diệt các loại vi khuẩn, vi rút, và nấm. Tuy nhiên mỗi loại có đặc tính kháng
sinh riêng. Ví dụ: loại này hữu hiệu hơn trong việc diệt E. coli, loại kia hữu hiệu
hơn trong việc trừ nấm Candida albicans. Tất cả chúng hợp lực sẽ cung cấp hiệu
quả diệt trùng rộng nhất và mạnh nhất.
2/ Một số thành phần khác có trong dầu dừa :
a. myristic acid
Myristic acid, còn gọi là Axit tetradecanoic là một
acid béo bão hòa chung có công thức phân tử
CH3(CH2)12COOH.
Axit Myristic được đặt tên theo khoa học của hạt
nhục đậu khấu (được dùng trong gia vị) có tên là

8


Myristica fragrans. Bơ nhục đậu khấu chiếm 75% thành phần chất Trimyristin.
Bên cạnh đó, Axit myristic cũng được tìm thấy trong dầu dừa (18.9 %), dầu cọ, bơ
chất béo và là một phần nhỏ trong mỡ động vật khác. Nó cũng được tìm thấy trong
các phần tinh dầu từ tinh trùng cá voi.
Cơ thể của con người có thể sản xuất tất cả ngoại trừ hai trong số những Axit béo

cần thiết. Đó là Axit Linoleic (LA) và Axit Alpha-linolenic (LNA), những Axit
này được tìm thấy rộng dãi trong các loại dầu thực vật. Ngoài ra, dầu cá còn chứa
chuỗi Axit béo omega-3 eicosapentaenoic acid (EPA) và Axit docosahexaenoic
(DHA). Vì vậy họ không thể thực hiện trong cơ thể để tạo ra các chất thiết yếu đó
và phải được cung cấp từ trong thực phẩm, chúng được gọi là acid béo thiết yếu.
Hai Axit Hence linoleic và Axit linoleinic là hai Axit béo cần thiết cho con người.
Trong cơ thể, các Axit béo thiết yếu này sẽ được sử dụng chủ yếu để sản xuất các
chất nội tiết tố và điều chỉnh một loạt các chức năng như: điều chỉnh áp lực máu,
máu đông, hàm lượng mỡ trong máu, các phản ứng miễn dịch, và các phản ứng
viêm nhiễm trùng vết thương.
Khoa học ứng dụng cho các thảnh phần của Axit Myristic được sử dụng trong mỹ
phẩm, sữa tắm và các chế phẩm bôi thuốc nơi tốt hấp thụ qua da một cách hoàn
hảo.
b.Axít Linoleic
Linoleic acid (LA) là một omega-6 không bão hòa. Nó là
một chất lỏng không màu.
A xít Linoleic là một trong hai axit béo cần thiết mà người
và các động vật cần thiết phải ăn để tốt cho sức khỏe vì cơ
thể đòi hỏi A xít Linoleic cho quá trình trao đổi chất của cơ
thể. Tuy nhiên không thể tổng hợp được nó từ các thành

9


phần của thực phẩm khác nhau. Trong đó dầu dừa chiếm một tỉ trọng rất lớn a xít
Linoleic.
Linoleic acid là một acid béo cần thiết phải được tiêu thụ một cách thích hợp cho
sức khỏe. Một khi thiếu a xít Linoleic và a xít omega-6 béo khác trong chế độ ăn
uống sẽ sinh ra những nguyên nhân như tóc khô, rụng tóc và làm lâu khỏi các vết
thương

Phòng, chống ung thư
Một nghiên cứu ở chuột cho thấy chế độ ăn uống đủ thành phần a xít Linoleic có
thể giúp ngăn ngừa ung thư ở chuột. Nghiên cứu cho thấy tác động đáng kể của
CLA lượng trên giảm gây ung thư.
Xơ nang
Trẻ em bị xơ nang do thiếu acid béo thiết yếu vì vậy dẫn đến khả năng hấp thụ
thức ăn kém kém, điều này đã chỉ ra rằng với một liều lượng cao của a xít Linoleic
có thể hỗ trợ trong sự phát triển của trẻ nhỏ. Nghiên cứu đã xem xét hai nhóm trẻ
sơ sinh bị xơ nang về chế độ ăn với hai cấp độ khác nhau của a xít Linoleic. Kết
quả đã được chỉ ra rằng có một tác dụng tích cực đến sự phát triển của trẻ sơ sinh
bị xơ nang, đặc biệt là từ 6 đến 9 tháng tuổi.
Viêm da, Éc xi ma
Viêm da là một trong những dấu hiệu đầu tiên của triệu chứng thiếu acid béo cần
thiết ở cả người và động vật. Cho đến năm 1955, một trong những phương pháp
điều trị được áp dụng rộng rãi nhất cho căn bệnh Éc xi ma(eczema) bằng cách sử
dụng liều cao a xít Linoleic.
Tiểu đường

10


Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng bệnh nhân tiểu đường đòi hỏi lượng a xít
Linoleic cao hơn so với mức bình thường. Trong nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng
gia tăng lượng a xít Linoleic có khả năng làm suy nhược biến chứng của chứng
bệnh tiều đường.
Ngoài ra, Linoleic acid được sử dụng trong việc sản xuất ra xà phòng, dầu gội.
Linoleic acid đã trở thành ngày càng phổ biến trong ngành công nghiệp sản phẩm
làm đẹp bởi vì nó rất có lợi trên da. Các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng a xít linoleic
có thể chống viêm, khử mụn trứng cá, và khả năng giữ ẩm khi sử dụng để bôi trên
da.

c. Axít Lauric

Axit Lauric hay axit dodecanoic là axit chính có trong dầu
dừa và dầu cọ, và được cho là chất có tính chất kháng khuẩn
cao. Axit Lauric được sử dụng trong nhiều loại xà phòng và
dầu gội. Bởi vì lauric acid có đuôi hydrocarbon không phân
cực và phân cực một vùng đầu cực của axit cacboxylic, nó có
thể tương tác với các dung môi phân cực (quan trọng nhất là
nước) cũng như chất béo, cho phép nước để hòa tan chất béo. Điều này giải thích
cho khả năng của dầu gội để loại bỏ dầu mỡ từ tóc.

Lauric acid là acid chính trong dầu dừa và dầu hạt cọ (không nên nhầm lẫn với dầu
cọ), và được cho là có đặc tính kháng khuẩn. Đây cũng là tìm thấy trong sữa người
(6,2% trong hàm lượng chất béo), sữa bò (2,9%), và sữa dê (3,1%).

11


Axít lauric biến thành hợp chất monolaurrin với tác dụng chống các loại virus có
lớp vỏ lipid chẳng hạn như SARS và HIV. Monolaurin cũng phá hủy các loại vi
khuẩn và nấm gây hại nhất định. Trên thực tế, axít lauric đã được chiết xuất từ dừa
trong nhiều năm qua để làm thực phẩm cho trẻ sinh thiếu tháng, điều trị cho người
có vấn đề về miễn dịch và sử dụng trong đồ uống tăng lực.
Axit Lauric là một axit không tốn kém, có thời hạn sử dụng lâu, không độc hại và
an toàn để sử dụng.
II/ DẦU DỪA VÀ VIRUS HIV
1/Cấu trúc và hoạt dộng của virut HIV
Bên ngoài của một tế bào của con người, HIV tồn tại các hạt như gần hình cầu
(đôi khi được gọi là virion). Các bề mặt của mỗi hạt được tô điểm với rất nhiều gai
nhỏ. Một hạt HIV là khoảng 100-150 tỷ của một mét đường kính. Đó là về giống

như:
-0,1 micron
-4 phần triệu của một inch
-1 / 20 độ dài của một loại vi khuẩn E. coli
-1 / 70 đường kính của một con người CD4 + tế bào máu trắng.
Không giống như hầu hết các vi khuẩn, HIV hạt quá nhỏ để có thể nhìn thấy qua
kính hiển vi thông thường. Tuy nhiên, chúng ta có thể được nhìn thấy rõ ràng với
một kính hiển vi điện tử. HIV hạt bao quanh mình với bộ lông của vật chất béo
được gọi là phong bì virus (hoặc màng), khoảng 72 gai nhỏ, được hình thành từ
các protein gp120 và gp41. Dưới vỏ virus là một lớp được gọi là ma trận, được
làm từ các protein p17.

12


Các protein gp120 và gp41 cùng nhau
tạo nên sự đột biến mà dự án từ các hạt HIV, trong khi p17 hình thức ma trận và
các hình thức p24 cốt lõi
Cốt lõi virus (capsid) thường là hình viên đạn và được làm từ protein p24. Bên
trong lõi của ba loại enzim cần thiết cho nhân bản HIV không được gọi là sao chép
ngược lại, integrase và protease. Cũng được tổ chức trong phần lõi là vật liệu di
truyền của HIV, trong đó bao gồm hai sợi giống hệt nhau của RNA.
HIV tấn công vào cơ thể làm suy yếu hệ miễn dịch. Sau một thời gian nhất định hệ
miễn dịch của cơ thể sẽ bị suy yếu, các loại virus khác cũng như vi-khuẩn và nấm
độc sẽ tận dụng cơ hội này gây nhiễm trùng cho cơ thể. Các nhiễm trùng này là
nguyên nhân gây nên sự đau nhức, khó chịu và cuối cùng dẫn đến cái chết của các
bệnh nhân AIDS.
2/ Tình hình việc sử dụng một số loại thuốc điều trị HIV
Vì những nguyên nhân này mà bệnh nhân nhiễm HIV cần phải uống một loại
thuốc kháng sinh pha trộn gồm nhiều thứ như nhằm kháng virus, vi khuẩn và

chống nấm. Trong hỗn hợp thuốc này cũng có cả các thành phần thuốc chống ung
thư vì hệ thống miễn dịch khi bị suy yếu sẽ dễ làm phát sinh bệnh ung thư. Bằng
cách dùng này, người bệnh thường gặp những phản ứng phụ không mong muốn.
Theo dòng thời gian, y khoa đã tiến những bước dài trong việc điều trị AIDS. Với
những phác đồ điều trị và hướng dẫn lối sống cho phù hợp, tuổi thọ của các bệnh
nhân nhiễm HIV đã được tăng dần. Các loại thuốc chống vi-rút HIV đã có tác
dụng làm chậm quá trình phát triển của bệnh. Nhưng đối với tuyệt đại đa số bệnh

13


nhân nhiễm HIV, giải pháp dùng thuốc này cũng không phải là một lựa chọn hữu
hiệu. Ngoài việc có các triệu chứng phụ không mong muốn do thuốc gây ra, chi
phí cho việc sử dụng thuốc kiểm soát vi-rút theo kiểu này có thể lên tới 15.000 đôla Mỹ cho mỗi người trong một năm. Con số này vượt quá khả năng tài chánh của
nhiều nạn nhân ở các nước nghèo. Hiện nay, chi phí cho tiền thuốc và dịch vụ y tế
cho điều trị HIV/AIDS đã được các quốc gia ưu đãi miễn phí. Tuy nhiên, người
bệnh phải dùng liên tục trong thời gian điều trị, đến một thời gian nhất định, cơ thể
sẽ kháng thuốc và thuốc sẽ bị vô hiệu.
Làm sao tìm được một phương pháp điều trị an toàn, hữu hiệu, rẻ tiền, đó mới là
cách duy nhất để làm giảm nỗi đau của hàng triệu triệu nạn nhân đang chịu căn
bệnh HIV/AIDS dày vò. Cũng may là các nhà nghiên cứu mới đây đã tìm ra một
giải pháp đầy triển vọng: dùng dầu dừa. Mặc dù dầu dừa chưa có vẻ như là một vị
anh hùng cứu tinh, nhưng những nghiên cứu gần đây cho thấy nó mang lại nhiều
hứa hẹn cho việc điều trị HIV/AIDS.
3/Tác dụng dầu dừa lên virus hiv
Dầu dừa được cấu tạo bởi một nhóm các chất béo đặc biệt có tên triglycerides
chuỗi trung bình. Khi Tctb đi vào cơ thể, cơ thể chúng ta sẽ biến Tctb thành chất
axít béo chuỗi trung bình, đó là ABctb và mono-glycerides, cả hai chất này đều có
đặc điểm là có khả năng chống virus. Những hiểu biết kiến thức về tác dụng của
dầu dừa đối với bệnh nhân HIV đã được phổ biến trong cộng đồng bệnh nhân kể

từ khi nhà nghiên cứu Iceland, Ông Halldor Thormar công bố nội dung nghiên cứu
từ đầu những năm 90. Từ đó, nhiều bệnh nhân HIV đã thành công khi làm giảm tải
được lượng virus và cải thiện về sức về sức khỏe một cách tổng quát qua việc
thêm dầu dừa hoặc các sản phẩm của dầu dừa vào trong bữa ăn của họ.
Những loại virus nào có lớp bao bọc bởi màng mỡ sẽ rất kỵ bởi tác động của
ABctb trong dầu dừa. Một khi ABctb tiếp xúc với những virus này, nó sẽ thấm vào

14


lớp màng bên ngoài của virus làm chúng bị mất ổn định tới mức màng bao bọc bị
tan rã và virus có thể bị giết chết. Virus HIV cũng có một màng mỏng chất béo
bao bọc tương tự, chính vì vậy mà nó sẽ dễ bị tác động hủy hoại bởi ABctb. Các
nghiên cứu đã chỉ ra rằng khi ABctb đưa vào máu và tinh dịch của bệnh nhân
HIV, các virus sẽ bị tiêu diệt ngay lập tức. Bác sĩ Thormar và các đồng nghiệp báo
cáo rằng ABctb tạo ra chất hydrogel. Nó có khả năng vô hiệu hóa virus cao tới hơn
100.000 lần trong ống nghiệm trong một phút. Các nhà nghiên cứu còn chỉ thêm
rằng chúng là “kẻ tiêu diệt các virus lây truyền qua đường tình dục”.
4/ Một số tác dụng tích cực của dầu dừa lên virus HIV. Những trường hợp
thành công nhất định :
Các nghiên cứu cho thấy ABctb không những hiệu quả đối với quá trình giảm tải
virus HIV mà nó còn có ý nghĩa đối với rất nhiều virus có màng bọc chất béo
khác. Chẳng hạn như các virus gây nên bệnh sởi, bệnh mụn giộp (herpes), viêm
gan C, Các bệnh về miệng, CMV (cytomegalovirus). Ngoài việc ABctb có khả
năng tiêu diệt các vi khuẩn có màng bao bằng mỡ mà còn tiêu diệt được các loại
nấm và cả kí sinh trùng.
Dầu dừa có công thức cấu tạo căn bản gồm ABctb và chúng có khả năng làm giảm
các nhiễm trùng cơ hội, các nhiễm trùng mà các bệnh nhân AIDS thường gặp.
Không giống như các hỗn hợp thuốc trong việc điều trị HIV/AID. Dầu dừa hoàn
toàn vô hại, nó là một sản phẩm hoàn toàn tự nhiên, được sử dụng như một loại

thức ăn an toàn từ hàng ngàn năm. Nó cũng không có những phản ứng phụ nguy
hại cho cơ thể.
Các triệu chứng thường gặp ở bệnh nhân AIDS như tiêu chảy, khả năng hấp thụ
chất béo kém, suy dinh dưỡng, sự sụt cân, suy kiệt và rất nhiều biến chứng khác
do bị nhiễm trùng từ môi trường ô nhiễm bên ngoài. Các cuộc nghiên cứu cho thấy
có những cải thiện vượt bậc về những tình trạng này khi các bệnh nhân được cho

15


dùng dầu dừa hoặc Tctb (triglycerides chuỗi trung bình). Ví dụ trường hợp của
C.A.Wanke và các đồng nghiệp thử nghiệm trên 24 bệnh nhân nhiễm HIV đang
trong tình trạng bị tiêu chảy, hấp thụ chất béo kém và suy dinh dưỡng. Những
bệnh nhân này được chia ngẫu nhiên vào một trong hai nhóm. Thành phần Tctb
được đưa vào khẩu phần của một nhóm và nhóm kia thì không. Các nhà nghiên
cứu kết luận rằng những bệnh nhân có được sử dụng Tctb trong bữa ăn giảm đáng
kể số lần đi tiêu chảy. Điều này cho thấy sự cải thiện rõ rệt trong tình trạng dinh
dưỡng. Sự hấp thụ tốt chất dinh dưỡng sẽ dẫn tới sức khỏe và chức năng miễn
nhiễm được cải thiện.
Tổ chức Keep Hope Alive (Hãy giữ hy vọng để sống) đã tập hợp tài liệu những
trường hợp được báo cáo về những cải thiện một cách rõ nét sau khi dùng các sản
phẩm dừa. Ở một số trường hợp đã hoàn toàn không còn dấu hiệu bị nhiễm trùng.
Trường hợp một người có khối lượng virus từ 600.000 đã giảm xuống tới mức
không tìm ra được nữa, trong vòng hai tháng do mỗi ngày dùng thêm một chén
nước cốt dừa cùng với ngũ cốc nấu chín cho chế độ ăn uống, đồng thời ăn nhiều
hoa quả tươi và rau cải tươi, trong khi đó người này không dùng đến bất cứ một
loại thuốc chống virus nào.
Trường hợp thứ hai, bệnh nhân có lượng virus 900.000, người này ăn một nửa trái
dừa mỗi ngày. Sau bốn tuần lễ dùng, lượng virus đã giảm xuống còn 350.000. Sau
hai tháng, lượng virus giữ nguyên như cũ và bác sĩ đã thêm thuốc Crixivan vào

phác đồ điều trị. Sau bốn tuần lễ, lượng virus đã giảm xuống tới mức không thể
tìm ra được. Không giống như trường hợp thứ nhất, ở trường hợp thứ hai này là
một người Mỹ có chế độ ăn uống có nhiều năng lượng. Sức khỏe của anh còn có
thể tiến triển tốt hơn nếu có một chế độ ăn uống tốt hơn.
Một trường hợp khác: Một người dùng một ly cốt dừa mỗi ngày. Lượng virus
giảm từ 30.000 còn 7.000 chỉ trong vòng 4 tuần lễ. Chỉ số CD4 và CD8 đều tăng
gấp đôi. Thời gian này anh cũng không dùng thuốc kháng virus.
16


Thí nghiệm lâm sàng đầu tiên về ứng dụng dừa cho điều trị HIV/AIDS do bác sĩ
Conrado Dayrit đề sướng năm 1999. Trong cuộc nghiên cứu này có 14 bệnh nhân
nhiễm HIV tham gia, các bệnh nhân tham gia được dùng mỗi ngày 3 muỗng canh
dầu dừa hoặc monolaurin. Có 60% số người tham gia có những dấu hiệu cải thiện
sau 6 tháng. Những kết quả này được đánh giá qua chỉ số CD4, lượng virus giảm
và sức khỏe được cải thiện hơn. Đây là cuộc nghiên cứu đầu tiên chỉ ra dầu dừa
thực sự có tác dụng chống virus HIV và có thể áp dụng cho việc điều trị các bệnh
nhân HIV/AIDS.
Liều dùng dầu dừa là quan trọng. Liều dùng càng cao thì hiệu quả càng cao để vô
hiệu hóa virus và sinh vật có hại. Những người tham gia cuộc nghiên cứu của Bác
sĩ Dayrit chỉ dùng 3 muỗng canh rưỡi mỗi ngày. Các tài liệu nghiên cứu cũng chỉ
rõ tầm quan trọng của chế độ ăn uống và lối sống lành mạnh. Nên ăn các thức ăn
lành mạnh và có lợi cho sức khỏe, không nên ăn vặt giúp tăng cường hệ miễn dịch
và tăng khả năng thành công cho phương pháp sử dụng dầu dừa.
Đối với một trường hợp cụ thể:
Nói về việc điều trị bệnh HIV/AIDS qua trường hợp lành bệnh của anh Tony V.,
38 tuổi. Kinh nghiệm của anh đang đem lại hy vọng cho hàng triệu người bị bệnh
AIDS khắp nơi trên thế giới.
Những năm cuối thập niên 90, Anh Tony đến Ả-rập Sau-di làm việc trong nhà
hàng và tiệm bán hoa. Tại đây anh nhiễm căn bệnh mà anh phải sống với nó cả

đời. Trở về nhà ở Philippine vào năm 2002, thời gian sau đó anh rất đau khổ khi
biết mình đã bị nhiễm HIV.
Theo thời gian, sức khỏe của anh càng trở nên suy yếu. Các bệnh nhiễm trùng cơ
hội đã tàn phá cơ thể anh. Tháng 7 năm 2003, anh phải vào bệnh viện cấp cứu vì
bệnh trở nên trầm trọng.

17


Bác sĩ đã kê đơn cho anh uống thuốc, tuy nhiên, thuốc mà anh uống không thể
ngăn được sự phát tán của bệnh. Cơ thể anh đầy những nhiễm trùng nấm và những
vùng da lở loét. Anh bị sụt cân, hay ói mửa và tiêu chảy, kèm theo những cơn sốt,
thường xuyên mệt mỏi, bị nấm ở miệng và nhiều bệnh nhiễm trùng cơ hội khác
nữa kể cả viêm phổi mãn tính với những cơn ho không hết. Viêm da phủ khắp đầu,
mặt và cơ thể của anh. Bác sĩ cho biết anh đã bị AIDS ở giai đoạn cuối, không còn
chữa được nữa, và cho anh về sống những ngày cuối cùng với gia đình.
Anh rời bệnh viện cùng với toa thuốc để chữa nhiễm trùng đang tàn phá cơ thể.
Nhưng vì anh quá đau yếu không thể đi làm, anh không có tiền để mua thuốc. Anh
không còn tia hy vọng. “Tôi thấy mình như ngọn nến chập chờn sắp tắt,” anh nói.
Không có tiền mua thuốc, anh xin cơ quan Y Tế giúp đỡ. Anh được giới thiệu tới
bác sĩ Conrado Dayrit ở bệnh viện San Lazaro Philippine. Bác sĩ Dayrit là người
đầu tiên thực hiện nghiên cứu lâm sàng về hiệu quả chữa bệnh của dầu dừa trên
những bệnh nhân nhiễm HIV tại bệnh viện San Lazaro Philippine.
Bác sĩ nói với anh về dược tính của dầu dừa và bảo anh bôi dầu vào những chỗ da
bị viêm loét 3 lần/1 ngày cũng như ngày ăn 6 muỗng canh dầu dừa ( tổng cộng là
90ml ). Lúc đầu, anh không tin là dầu dừa có thể chữa lành bệnh của anh được.
Anh có một vết thương nhỏ ở chân đã lâu ngày nhưng không khỏi,. anh bôi dầu
dừa lên đó mỗi ngày. Sau 3 ngày vết thương lành hoàn toàn. Phấn khởi, anh bắt
đầu nghiêm túc làm theo lời khuyên của bác sĩ. Chỉ trong một thời gian ngắn sử
dụng, thấy có biến chuyển tốt, anh đã bắt đầu “tắm” bằng dầu dừa. Anh xoa dầu

dừa từ đầu đến chân ngày 3 lần. Nhiễm trùng da dần dần mất hết.
Khi anh đến bệnh viện để thử máu theo định kỳ, các bác sĩ rất đỗi kinh ngạc. Anh
nói: “Tất cả các bác sĩ đều bị kích động và không hiểu sự gì đang xảy ra. Họ hỏi
tôi đã uống thuốc gì. Tôi nói với họ là tôi chỉ dùng dầu dừa mà thôi.” Các bác sĩ
không thể tin rằng loại dầu dừa đơn giản như vậy lại có thể diệt vi rút và nhiễm
trùng cơ hội tốt hơn cả thuốc của họ.
18


Vi rút HIV tấn công tế bào bạch huyết cầu ( tế bào T4) . Tính hoạt động của vi rút
có thể được căn cứ trên số tế bào T4 trong cơ thể, ta gọi là số CD4. Trung bình,
một người khỏe mạnh có số CD4 từ 535 đến 1145. Tuy nhiên ở người bị nhiễm
HIV thì số CD4 khoảng dưới 535 và số lượng này tiếp tục giảm xuống một cách
nhanh chóng khi bệnh ngày một nghiêm trọng.
Trước lúc dùng dầu dừa, chỉ số CD4 của anh là 226, sau khi dùng dầu dừa trong
vài tháng, số này tăng lên 274, tuy vẫn còn thấp nhưng cứ đều đặn tăng dần - một
dấu hiệu rõ ràng bệnh đã tiến triển tốt.
Sức khỏe Tony được bình phục một cách không ngờ. Da của anh lành hẳn. Những
cơn sốt nhẹ và triệu chứng của viêm phổi đã hết, anh cảm thấy không còn mệt
mỏi, các loại nấm biến mất, tiêu chảy và ói mửa cũng không còn. Nhìn Tony, bạn
sẽ không thể nghĩ là anh bị bệnh AIDS cách đó vài tháng. Mặc dù anh Tony có thể
nghĩ sẽ không bao giờ thoát khỏi vi rút HIV gây bệnh trong người mình, nhưng
anh vẫn có thể lạc quan sống một đời sống hơn bình thường và tận hưởng niềm
vui trong những sinh hoạt hàng ngày.
Những nhân viên công tác xã hội và tập thể bệnh viện được bị ảnh hưởng bởi sự
phục hồi sức khỏe nhanh chóng của Tony, hiện đang họ đang dùng dầu dừa để duy
trì và gia tăng sức khỏe cho chính mình.
Chưa đầy 9 tháng sau khi tiến hành việc chữa bệnh bằng dầu dừa, Tony đứng
trước khán giả, và lần đầu tiên kể về câu chuyện của mình . Anh nói:
“ Vi rút HIV cho đến nay vẫn chưa có thuốc nào chữa trị được. Thuốc trụ sinh

không chế ngự được chúng, vì vậy bạn bè tôi nhiều người đã chết. Các bác sĩ hiện
giờ không thể dự đoán tôi sẽ sống thêm được bao lâu nữa. Chín tháng trước đây
khi chẩn bệnh cho tôi, bác sĩ đã nói tôi chỉ sống thêm được 3 tháng nữa. Nhưng
hôm nay, ở đây, tôi đang đứng trước mặt quý vị, tôi hoàn toàn khỏe mạnh. Tôi có
một sứ mạng là chia sẻ kinh nghiệm này của tôi với tất cả mọi người mà tôi gặp

19


gỡ. Những người bị HIV/AIDS đang sợ hãi. Các bạn không còn phải sợ nữa. Đối
với HIV, biết đâu chừng dầu dừa lại là giải pháp mà thế giới đang trông đợi.”
III/ KẾT QUẢ PHÂN TÍCH THỬ NGHIỆM LÂM SÀNG HIV VỚI
MONOGLYCERIDES: HỖ TRỢ THUỐC HỖ TRỢ DINH DƯỠNG CO
LỢI
Ngày 05 tháng 3 năm 2001, lauric.org - Các thử nghiệm lâm sàng đầu tiên
chomonolaurin trong viên nang ở hai cấp độ (7,2 g (HML) và 2,4 g (LML))
hoặc toàn bộ dầu dừa (50 ml (CNO)) như là một nguồn axit lauric (tiền thân
của monolaurin ) đến 15 bệnh nhân nhiễm HIV đã diễn ra tại các bệnh viện San
Lazaro, Manila, Philippines dưới sự phụ trách của Tiến sĩ Eric Tayag, MD . Kết
quả của cuộc thử nghiệm đã được báo cáo của Tiến sĩ Conrado S. Dayrit, MD,
FACC, FPCC, FPCP vào ngày 25 tháng 7 năm 2000 tại Chennai,Ấn Độ lần thứ 37
Hội nghị Cocotech. Các bệnh nhân, 10 nữ và 5 nam giới, những người thường
xuyên được theo dõi trong tình trạng HIV tại Bệnh viện San Lazaro và chưa bao
giờ nhận được bất kỳ điều trị kháng HIV được chia thành 3 nhóm điều trị (HML,
LML, CNO) trong 5 bệnh nhân. Các bệnh nhân đã được nhìn thấy hàng ngày với
các giá trị trong phòng thí nghiệm xác định tại đầu và cuối của 3 tháng và 6
tháng. Khởi đầu của phiên tòa, tải lượng virus của bệnh nhân được đo bằng
phương pháp PCR, dao động từ 1.96x103 1,190.0 x10 3 bản sao. CD4 và CD8 số
lượng được đo bằng dòng cytometry và ở mức cơ bản dao động từ mức thấp đến
cao, tương ứng, 248-1065 và 570 1671 . Một nam giới có một số virus, quá thấp

để đo lường (<0.4x10000), không thay đổi, và ông đã không bao gồm trong các số
liệu thống kê cuối cùng . Các số liệu thống kê cuối cùng bao gồm kết quả trong 4
nam và 10 nữ và cho thấy rằng 7 (2M, 5F) của 14 bệnh nhân đã có một tải giảm
ở 3 tháng và 8 (3M, 5F) của 14 bệnh nhân đã có một tải giảm 6 tháng. Tải lượng
virus giảm đáng kể chỉ trong 3 (2M, 1F) bệnh nhân sử dụng đường cơ sở đăng
nhập trừ đi đăng nhập 6 tháng 0,5 tiêu chuẩn, 2 trong 3 người trong nhóm CNO và
một trong nhóm LML . CD4 và CD8 mức tăng trong 5 bệnh nhân nhưng không
20


tương quan chính xác với giảm tải lượng virus. Là kết quả của những phản ứng
đáng khích lệ trong thử nghiệm nhỏ bằng chứng của khái niệm sơ bộ, bổ sung
các bệnh nhân nhiễm HIV đang được ghi danh cho một thử nghiệm thứ hai lớn
hơn và dài hơn.
IV/ SẢN XUẤT DẦU DỪA TINH KHIẾT
Năm 1999, Ts. Conrado Dayrit, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Khoa học
Philippines đã phát hiện rằng dạng dầu dừa tinh khiết có thể phá vỡ màng bảo vệ
của các loại virus, làm cho chúng dễ bị hệ miễn dịch của cơ thể tiêu diệt. Kết quả
nghiên cứu sơ bộ của Dayrit trên 15 bệnh nhân AIDS trong vòng sáu tháng cho
thấy lượng virus trong cơ thể của họ giảm và hệ miễn dịch được cải thiện trong
thời gian sử dụng dầu dừa tinh khiết. Các kết quả nghiên cứu ở Mỹ và Iceland
cũng chỉ ra rằng dầu dừa dạng tinh khiết không chỉ có đặc tính chống virus mà còn
kháng vi khuẩn và vi nấm. Ngoài ra, nó còn tăng cường hệ tiêu hóa, hoạt động
miễn dịch và trao đổi chất. Dầu dừa có tỉ lệ cao acid lauric. Trong cơ thể acid
lauric biến thành monolaurin có tác dụng chống các loại virus có lớp vỏ lipid, kể
cả virus SARS và HIV.
Dầu VCO là dầu được sản xuất từ cơm dừa tươi, không qua quá trình tinh luyện
(trung hòa acid béo tự do, tẩy màu, tẩy mùi), công nghệ sản xuất không dùng hóa
chất và nhiệt độ cao, không chứa aflatoxin, giữ lại các đặc điểm tự nhiên, giàu acid
lauric là một acid béo hiện diện tự nhiên trong sữa mẹ, giúp phát triển và làm tăng

cường hệ thống miễn dịch của trẻ sơ sinh, chứa MCT (Medium Chain
Triglyceride) là chất dễ tiêu hóa và chuyển hóa thành năng lượng trong cơ thể con
người.
CÔNG NGHỆ SẢN XUẤT DẦU VCO:
Viện Nghiên cứu Dầu thực vật đã nghiên cứu thành công bí quyết kỹ thuật sản
xuất

dầu

VCO.

Đặc

điểm

chất

lượng

của

sản

phẩm

như

sau:

- Độ ẩm < 0,1%

21


- FFA < 0,1%
- Trong suốt, không màu, kết quả so màu Lovibond R = 0, Y = 0
- Thành phần acid lauric 49%
- Thời gian bảo quản > 3 năm
- Không dùng chất bảo quản
- Aflatoxin B1 = 0
V/KẾT LUẬN :
Vi sinh vật trở nên yếu đuối nhất đối với ABctb và những monoglycerides của nó
là những vi sinh có lớp bọc ngoài bằng chất béo. Lớp bọc bằng chất béo này bảo
vệ cấu trúc của vi sinh. ABctb và monoglycerides thẩm thấu vào trong màng bao
bọc vi sinh, phá vỡ và phân hủy nó, nên giết chết vi sinh vật. Tiến trình này hữu
hiệu đến nỗi nó có thể giết ngay cả những siêu vi khuẩn đã trở nên đề kháng lại
được với cả trụ sinh. Vi khuẩn không thể thích ứng để trở thành miễn nhiễm với
loại hoạt động này. Vì vậy ABctb có thể dùng đều đặn mà không sợ vi sinh vật
miễn nhiễm với trụ sinh trở thành hung thần vô địch.
Dầu dừa có thể là phương thuốc thiên nhiên đầy hứa hẹn cho một số lượng lớn
bệnh lây nhiễm, ngay cả bệnh trầm trọng như AIDS và SARS. Từ thập niên 1980
các nhà nghiên cứu đã khám phá rằng ABctb trong dầu dừa có thể diệt HIV – virus
của bệnh AIDS. Khi những tường thuật của dầu dừa lan rộng, nhiều cá nhân mắc
bệnh AIDS đã tự thêm dầu dừa vào việc điều trị của họ. Điều này đã dẫn tới nhiều
câu chuyện của bệnh nhân AIDS kinh nghiệm sự hồi phục từng phần hay toàn
phần của họ.

22


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.Coconut Oil Miracle - Bruce Fife, C.N, N.D
2.Coconut Cures, Preventing and Treating Common Health Prolems with
Coconut-Dr.Bruce Fife
3.Virgin Coconut Oil, Nature’s Miracle Medicine - Bruce Fife, C.N, N.D
4.Dr. Fife’s Healthy Ways Newsletter
5.Virgin Coconut Oil - Marianita Jader Shilhavy, CND và Brian W. Shilhavy,
BA, MA

23



×