Tải bản đầy đủ (.docx) (104 trang)

Đánh giá công tác bồi thường giải phóng mặt bằng đến đời sống và việc làm của người dân khi bị nhà nước thu hồi đất tại một số dự án trên địa bàn huyện hoàng su phì, tỉnh hà giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (675.88 KB, 104 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

NGUYỄN VĂN PHONG

ĐÁNH GIÁ CÔNG TÁC BỒI THƯỜNG
GIẢI PHÓNG MẶT BẰNG ĐẾN ĐỜI SỐNG VÀ VIỆC
LÀM CỦA NGƯỜI DÂN BỊ NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT
TẠI
MỘT SỐ DỰ ÁN TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN HOÀNG SU
PHÌ, TỈNH HÀ GIANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI

Thái Nguyên, năm 2015


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

NGUYỄN VĂN PHONG

ĐÁNH GIÁ CÔNG TÁC BỒI THƯỜNG
GIẢI PHÓNG MẶT BẰNG ĐẾN ĐỜI SỐNG VÀ VIỆC
LÀM CỦA NGƯỜI DÂN BỊ NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT
TẠI
MỘT SỐ DỰ ÁN TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN HOÀNG SU
PHÌ, TỈNH HÀ GIANG
Chuyên ngành: Quản lý Đất đai
Mã số: 60.85.01.03


LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Đức Nhuận

Thái Nguyên, năm 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là
trung thực và hoàn toàn chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ để thực hiện luận văn này đã được cảm
ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều được chỉ rõ nguồn gốc.
Tác giả luận văn

Nguyễn Văn Phong


LỜI CẢM ƠN
Trước hết với tình cảm chân thành và lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin gửi lời
cảm ơn đến Thầy giáo TS. Nguyễn Đức Nhuận - Người trực tiếp hướng dẫn và
giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trong Khoa Quản lý Tài
Nguyên và Khoa Môi trường, các Thầy Cô thuộc phòng Đào tạo - Đào tạo sau đại
học trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên đã trực tiếp giảng dạy và giúp đỡ tôi
trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin cảm ơn HU - HĐND - UBND huyện Hoàng Su Phì; Phòng Tài nguyên Môi
Trường huyện Hoàng Su Phì; Ban quản lý 2 dự án: Dự án Mở mới đường liên xã
Bản Luốc - Hồ Thầu và Dự án Nâng cấp, cải tạo đường Vinh Quang - Bản Máy;
UBND các xã, thị trấn: Bản Máy, Hồ Thầu, Tụ Nhân, Vinh Quang, huyện Hoàng Su
Phì, tỉnh Hà Giang và các hộ gia đình ở 4 xã trên đã cung cấp số liệu thực tế và

thông tin cần thiết để tôi hoàn thành luận văn này.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn đồng nghiệp, bạn bè, cùng toàn thể gia
đình, người thân đã động viên tôi trong thời gian học tập và nghiên cứu đề tài.
Thái Nguyên, ngày 30 tháng 08 năm 2015
Tác giả luận văn

Nguyễn Văn Phong


MỤC LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT VÀ KÍ HIỆU
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13

Các chữ viết tắt
Giải phóng mặt bằng

Cơ sở hạ tầng và đô thị hóa
Tái định cư
Hồ sơ địa chính
Giấy chứng nhận
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Ngân hàng thế giới
Ngân hàng phát triển Châu Á
Bị ảnh hưởng
Uỷ ban nhân dân
Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn
Dự án
Thu hồi đất

Ký hiệu
GPMB
CSHT - ĐTH
TĐC
HSĐC
GCN
GCNQSDĐ
WB
ADB
BAH
UBND
BNN PTNT
DA
THĐ


DANH MỤC CÁC BẢNG




MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Qua hơn 20 năm thực hiện chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước ta, nền
kinh tế nước ta đạt tốc độ tăng trưởng cao. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được
của việc đổi mới, hoàn thiện chính sách, pháp luật về đất đai còn những bất cập
chưa được giải quyết kịp thời. Trong khi đó, nhu cầu sử dụng đất để xây dựng kết
cấu hạ tầng dịch vụ, phát triển đô thị và khu dân cư nông thôn trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ngày càng tăng.
Quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa ngày càng diễn ra mạnh mẽ ở các
tỉnh, thành phố đã làm ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống kinh tế và văn hóa của
người dân, làm biến đổi sâu rộng xã hội nông thôn truyền thống. Sự biến đổi đời
sống của người nông dân có đất bị thu hồi là một vấn đề mang tính thời sự cấp
bách. Vấn đề thiếu việc làm và tỷ lệ thất nghiệp ở nhiều địa phương, đặc biệt tìm
kiếm việc làm tại các nước làng giềng và sự di chuyển tự do của lao động nông
thôn lên ra các đô thị. Hậu quả là việc phát sinh các vấn đề xã hội: quản lý người
lao động vượt biên giới trái phép, quản lý hộ tịch, hộ khẩu, an ninh trật tự, bố trí
chỗ ở, vệ sinh môi trường.
Thực tế hiện nay cho thấy, công tác thu hồi đất của công dân để phục vụ phát
triển các dự án đầu tư trong nước, nước ngoài và việc bồi thường cho những người
bị thu hồi đất là vấn đề hết sức nhạy cảm, giải quyết không tốt, không thoả đáng
quyền lợi của người dân có đất bị thu hồi và những người bị ảnh hưởng khi thu hồi
đất để dẫn đến bùng phát khiếu kiện, đặc biệt là những khiếu kiện tập thể đông
người, sẽ trở thành vấn đề xã hội phức tạp, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình
an ninh trật tự, mất ổn định xã hội và phần nào ảnh hưởng đến lòng tin của người
dân đối với các chính sách của Nhà nước. Nếu việc thu hồi đất bị lạm dụng, quỹ đất
nông nghiệp bị giảm dần, về lâu dài có thể ảnh hưởng tới an ninh lương thực quốc
gia. ảnh hưởng tới môi trường, phong tục tập quan của người bị thu hồi

đất.Ngoài ra nếu không có những chính sách hướng dẫn về việc đào tạo, chuyển đổi
nghề nghiệp cho người dân bị mất đất; về bồi thường, tái định cư phù hợp thì việc


giải quyết mâu thuẫn giữa lợi ích của người bị thu hồi đất và Nhà nước trong việc
phát triển kinh tế - xã hội sẽ gặp nhiều khó khăn.
Nhằm kịp thời có những giải pháp tích cực trong công tác bồi thường giải
phóng mặt bằng (GPMB) khi Nhà nước thu hồi đất, góp phần hoàn thiện chính sách
quản lý đất đai theo hướng ổn định và phát triển bền vững. Xuất phát từ vấn đề
trên, tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Đánh giá công tác bồi thường giải phóng
mặt bằng đến đời sống và việc làm của người dân khi bị Nhà nước thu hồi đất tại
một số dự án trên địa bàn huyện Hoàng Su Phì, tỉnh Hà Giang”.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
2.1. Mục tiêu tổng quát
Nghiên cứu công tác bồi thường giải phóng mặt bằng đến đời sống và việc
làm của người dân khi bị Nhà nước thu hồi đất từ đó đề xuất các giải pháp nhằm ổn
định và nâng cao đời sống của người dân bị thu hồi đất hiện tại và tương lai.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Đánh giá thực trạng công tác bồi thường GPMB tại địa bàn địa bàn huyện
Hoàng Su Phì, tỉnh Hà Giang.
- Đánh giá thực trạng đời sống, việc làm, thu nhập và các tiêu chí khác của đời
sống xã hội cộng đồng dân cư sau khi Nhà nước thu hồi đất.
- Đề xuất các giải pháp nhằm ổn định và nâng cao đời sống cho những hộ dân
bị thu hồi đất trên địa bàn huyện Hoàng Su Phì, tỉnh Hà Giang trong thời gian tới.


Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Khái quát về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư

1.1.1.1. Bồi thường
Theo điều 307 Luật dân sự 2005. Bồi thường thiệt hại bao gồm trách nhiệm bồi
thường thiệt hại về vật chất, trách nhiệm bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần [27]
Với khái niệm này cần được hiểu:
+ Không phải mọi khoản bồi thường đều chi trả được bằng tiền.
+ Sự mất mát của người bị thu hồi đất không chỉ là về mặt vật chất mà nhiều
trường hợp còn mất mát cả về tinh thần.
+ Sự ảnh hưởng tới các phong tục tập quán sinh sống của người dân bị thu
hồi đất.
+ Về mặt hành chính thì đây là một quá trình không tự nguyện, có tính cưỡng chế
và vẫn là đòi hỏi sự "hi sinh", không thể là một sự bồi thường ngang giá tuyệt đối.
Việc bồi thường có thể vô hình hoặc hữu hình, có thể do các quy định của
pháp luật điều tiết, hoặc do thỏa thuận giữa các chủ thể.
1.1.1.2. Hỗ trợ
Hỗ trợ là giúp đỡ nhau, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước giúp
cho người có đất thu hồi để ổn định đời sống, sản xuất và phát triển, thông qua các
hình thức đào tạo nghề mới, bố trí việc làm mới,cấp kinh phí để di dời đến địa điểm
mới...[17]
Theo Nghị định số: 197/2004/NĐ - CP; Nghị định số 69/2009/NĐ [11] CP quy
định ngoài phần bồi thường về đất, tài sản gắn liền với đất còn được hỗ trợ các
khoản sau:
1. Hỗ trợ di chuyển, hỗ trợ ổn định đời sống, hỗ trợ đào tạo chuyển đổi nghề
và hỗ trợ khác cho người bị thu hồi đất,hỗ trợ để ổn định sản xuất và đời sống tại
khu tái định cư.


1.1.1.3. Tái định cư
Tái định cư là việc di chuyển đến một nơi khác để sinh sống và làm ăn. Tái
định cư bắt buộc đó là sự di chuyển không thể tránh khỏi khi Nhà nước thu hồi hoặc
trưng thu đất đai để thực hiện các dự án đầu tư phát triển.Tái định cư là hoạt động

nhằm giảm nhẹ các tác động xấu về kinh tế - xã hội đối với một bộ phận dân cư đã
gánh chịu vì sự phát triển chung [17]
Hiện nay ở nước ta, khi Nhà nước thu hồi đất mà phải di chuyển chỗ ở thì
người sử dụng đất được bố trí tái định cư bằng một trong các hình thức sau: Bồi
thường bằng nhà ở; bằng giao đất ở mới; bằng tiền để người dân tự lo chỗ ở.Tái
định cư là một bộ phận không thể tách rời và giữ vị trí rất quan trọng trong
chính sách GPMB.
1.1.2. Đặc điểm của quá trình bồi thường giải phóng mặt bằng
Bồi thường giải phóng mặt bằng là công việc đa dạng, phức tạp vừa mang
tính kỹ thuật, pháp luật và mang tính xã hội cao. Nó liên quan trực tiếp đến lợi ích
của các bên tham gia và lợi ích của toàn xã hội [30]
- Tính đa dạng thể hiện: Mỗi dự án được thực hiện trên mỗi vùng đất khác
nhau có điều kiện tự nhiên kinh tế, xã hội và trình độ dân trí khác nhau. Các khu
vực nội thị, khu vực ven đô, khu vực nông thôn... mật độ dân cư khác nhau, ngành
nghề đa dạng và hoạt động sản xuất theo một đặc trưng riêng của vùng đó. Do đó,
GPMB đối với từng vùng cũng có những điểm riêng biệt.
- Tính phức tạp thể hiện: Công tác GPMB có tác động lớn đến mọi mặt đời
sống kinh tế xã hội của người dân có đất bị thu hồi thực hiện dự án.
1.1.3. Một số vấn đề ảnh hưởng đến công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng,
hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
1.1.3.1. Công tác đăng ký quyền sử dụng đất, lập và quản lý hồ sơ địa chính,cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Các nước trên thế giới đều coi đất đai là một loại tài sản đặc biệt phải đăng ký
quyền sở hữu, quyền sử dụng. Luật đất đai quy định người sử dụng đất phải đăng ký
quyền sử dụng đất tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để được xét duyệt
lập hồ sơ địa chính (HSĐC), cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSD


đất). Hệ thống HSĐC và GCNQSD đất có liên quan mật thiết với công tác Bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư là một trong những căn cứ khi xác định nguồn gốc sử

dụng đất, đối tượng và mức Bồi thường, hỗ trợ [29]
Lập và quản lý chặt chẽ HSĐC có vai trò quan trọng để “quản lý chặt chẽ đất
đai trong thị trường bất động sản”, là cơ sở xác định tính pháp lý của đất đai.
Trong công tác Bồi thường, GPMB, GCNQSD đất là căn cứ để xác
định đối tượng, loại đất và diện tích đất được bồi thường. Hiện nay, công tác đăng
ký đất đai ở nước ta chưa hoàn thành, đặc biệt công tác đăng ký biến động về sử
dụng đất; việc cập nhật chỉnh lý GCNQSD đất, hồ sơ địa chính thưa thường xuyên
vì vậy, khó khăn trong việc xác định loại đất và diện tích đất được bồi thường. Làm
tốt công tác đăng ký đất đai, cấp GCNQSD đất thì công tác bồi thường, GPMB sẽ
thuận lợi hơn.
1.1.3.2. Công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
- Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất là biện pháp quản lý của nhà nước trong
công tác quản lý đất đai là căn cứ để thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất. Do
vậy công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng có tác động đến công tác bồi thường,
GPMB thực hiện các dự án đầu tư.
- Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất là một trong những nhân tố ảnh
hưởng tới giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất; từ đó tác động tới giá đất tính bồi
thường. Công tác bồi thường, GPMB liên quan mật thiết với công tác quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất thông qua Quyết định thu hồi đất vì:
- Trên cơ sở Quyết định thu hồi đất để lập, trình duyệt và thực hiện
phương án bồi thường, GPMB.
Tuy nhiên, chất lượng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất ở nước ta nói chung
có nhiều tiến bộ nhưng chưa đạt yêu cầu đề ra. Tiến độ lập quy hoạch còn thấp, nội
dung quy hoạch còn bất cập…[19]
1.1.3.3. Công tác giao đất, cho thuê đất
Công tác giao đất, cho thuê đất có tác động rất lớn đến công tác bồi
thường, GPMB và tái định cư. Nguyên tắc giao đất, cho thuê đất, phải căn cứ vào
quy hoạch, kế hoạch, nhưng nhiều địa phương chưa thực hiện tốt nguyên tắc này;



xuất đầu tư làm căn cứ giao đất, cho thuê đất và nghĩa vụ đóng thuế đất quy định
không rõ ràng, tình trạng quản lý đất đai thiếu chặt chẽ dẫn đến khó khăn cho công
tác đền bù.
1.1.3.4 . Việc ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật đất đai
Đất đai là đối tượng quản lý phức tạp, luôn biến động theo sự phát triển của
nền kinh tế - xã hội. Để thực hiện tốt chức năng quản lý Nhà nước về đất đai đòi hỏi
các văn bản pháp luật liên quan đến lĩnh vực này phải mang tính ổn định cao và phù
hợp với tình hình thực tế.
Bên cạnh việc ban hành các văn bản quy phạm về quản lý, sử dụng đất đai,
việc tổ chức thực hiện các văn bản đó cũng có vai trò rất quan trọng. Kết quả kiểm
tra thi hành Luật Đất đai của Bộ TN&MT năm 2007 cho thấy UBND các cấp đều có
ý thức quán triệt việc thực thi pháp luật về đất đai nhưng nhận thức về các quy định
của pháp luật nói chung còn yếu, ở cấp cơ sở còn rất yếu.
Từ đó dẫn tới tình trạng có nhầm lẫn việc áp dụng pháp luật trong giải quyết
giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất, cấp GCNQSD đất,
thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo.
Trong khi đó việc tuyên truyền, phổ biến của các cơ quan có trách nhiệm
hiệu quả chưa cao. Tại nhiều địa phương, còn tồn tại tình trạng nể nang trong giải
quyết các mối quan hệ về đất đai. Cán bộ địa chính, UBND xã nói chung chưa làm
tốt nhiệm vụ phát hiện, ngăn chặn, xử lý kịp thời những hành vi vi phạm pháp luật
về đất đai trên địa bàn. Đó là nguyên nhân làm giảm hiệu lực thi hành pháp luật,
gây mất lòng tin trong nhân dân cũng như các nhà đầu tư và đã ảnh hưởng trực tiếp
đến tiến độ GPMB [3].
1.1.3.5. Yếu tố giá đất và định giá đất
- Trước khi có Luật Đất đai năm 2003:
Việc xác định giá đất, bồi thường, GPMB, tái định cư đều được quy định
tại các văn bản dưới luật như Nghị định số 87/CP ngày 17/8/1994 của Chính phủ
quy định khung giá các loại đất; Nghị định số 90/CP ngày 17/9/1994 của
Chính phủ quy định về việc bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất để sử
dụng vào mục đích an ninh, quốc phòng, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và

Nghị định số 22/1998/NĐ-CP ngày 24/4/1998 của Chính phủ ban hành quy định


về đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng,
an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng... Giá đất để tính bồi thường thiệt hại khi
Nhà nước thu hồi đất do UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết
định trên cơ sở khung giá đất do Chính phủ ban hành kèm theo Nghị định số
87/CP. Khung giá đất để tính bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất quy định
tại Nghị định số 87/CP được áp dụng trong một thời gian dài trên mười năm,
mặc dù trong đã áp dụng hệ số K để điều chỉnh khung giá đất tính bồi thường
nhưng mức tăng cao nhất cũng chỉ là 1, 2 lần đối với đất trồng lúa. Do vậy giá đất
để tính bồi thường vẫn thấp hơn nhiều so với giá thực tế, dẫn đến phát sinh hàng
loạt các khiếu kiện về bồi thường, GPMB tại các địa phương [20]
- Từ khi có Luật Đất đai năm 2003:
Giá đất được xác định theo nguyên tắc “sát với giá chuyển nhượng
quyền sử dụng đất trên thị trường trong điều kiện bình thường” (khoản 1 Điều 56).
Được Chính phủ quy định cụ thể tại Nghị định 188/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004
về phương pháp xác định giá đất và khung giá các loại đất và Nghị định số
123//2007/NĐ-CP ngày 27/7/2007 V/v sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định
số 188/2004/NĐ-CP. Khi định giá đất phải căn cứ vào nguyên tắc và phương pháp
định giá đất; phải cân nhắc đầy đủ ảnh hưởng của chính sách đất đai của Chính phủ
trên cơ sở nắm chắc tư liệu thị trường đất đai, căn cứ vào những thuộc tính kinh tế
và tự nhiên của đất đai theo chất lượng và khả năng sinh lợi của đất đai. [23]
- Luật Đất đai năm 2013:
Giá cả đất dựa trên giá trị chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Nếu như trước
đây Nhà nước chỉ quy định một loại giá đất áp dụng cho mọi quan hệ đất đai khác
nhau thì Luật Đất đai năm 2013 đề cập nhiều loại giá đất để xử lý từng nhóm quan
hệ đất đai khác nhau.
Ngoài việc tiếp tục quy định khung giá các loại đất, bảng giá đất, Luật đất đại
2013 quy định xác định giá đất cụ thể. Chính Phủ ban hành khung giá các loại đất

định kỳ 05 năm một lần đối với tường loại đất, theo từng vùng. Về bảng giá đất
Bảng gía đất được xấy dựng theo định kỳ 05 năm một lần và công bố công khai vào
ngày 01/01/của năm đầu kỳ [24]


Về giá đất cụ thể. Trong quá trình thực hiện, cơ quan quản lý đất đai cấp tỉnh
được thuê tổ chức có chức năng tư vấn giá đất xác định cụ thể. Như vậy trong quá
trình thực hiện mỗi dự án sẽ tiến hành xác định giá đất cụ thể để tính bồi
thường.Việc xác định giá đất cụ thể sẽ rất khó khăn trong một dự án rất nhiều loại
giá đất khác nhau làm ảnh hưởng tiến độ dự án.
1.1.4. Ảnh hưởng của công tác bồi thường giải phóng mặt bằng đến đời sống và
việc làm của người dân khi bị Nhà nước thu hồi đất
1.1.4.1. Lao động và các vấn đề về lao động
- Lao động: Là hoạt động có mục đích của con người nhằm tạo ra của cải vật
chất và giá trị tinh thần cho xã hội. Lao động có năng suất, chất lượng và hiệu quả
cao là nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước [28].
- Lực lượng lao động: Bao gồm tất cả những người từ 15 tuổi trở lên có việc
làm và những người thất nghiệp trong thời gian quan sát. Hay lực lượng lao động là
một bộ phận dân số trong độ tuổi quy định thực tế có tham gia lao động (đang có việc
làm) và những người không có việc làm nhưng đang tích cực tìm việc làm [28].
- Độ tuổi lao động: Theo quy định của Bộ luật lao động thì độ tuổi lao động
được tính như sau: Đối với nam giới: Từ 15 đến 60 tuổi
Đối với nữ giới: Từ 15 đến 55 tuổi
Tuy nhiên theo khái niệm trên thì những người trong độ tuổi lao động không
có nhu cầu làm việc hoặc không có khả năng làm việc thì không được tính trong lực
lượng lao động. Ví dụ học sinh, người tàn tật...
- Sức lao động: Là toàn bộ thể lực, tâm lực và trí lực tồn tại trong con người.
Thể lực, tâm lực, trí lực đó đem ra vận dụng trong quá trình lao động để tạo ra của
cải vật chất và những giá trị tinh thần của xã hội.
1.1.4.2. Việc làm và các vấn đề liên quan




Việc làm: Có nhiều quan niệm về việc làm:
+ Việc làm là cơ sở vật chất để huy động nguồn nhân lực vào hoạt động sản
xuất trong nền kinh tế quốc dân [1].
+ Việc làm là trạng thái phù hợp giữa sức lao động và tư liệu sản xuất, tức là
những điều kiện cần thiết để sử dụng sức lao động đó [1].


Theo điều 13 Bộ luật lao động nước CHXHCNVN (2006) [28] thì việc làm
được định nghĩa là: “Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp
luật cấm đều được thừa nhận là việc làm”. Mặc dù có nhiều quan niệm về việc làm,
song việc làm là dành cho con người và do con người thực hiện nó với các điều kiện
vật chất kĩ thuật tương ứng hay đó chính là nhu cầu sử dụng sức lao động của con
người. Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho sự phát triển kinh tế xã hội.
Song, con người chỉ trở thành động lực cho sự phát triển khi hoạt động tạo ra nguồn
thu nhập của họ không bị cấm và được thừa nhận là việc làm.
Giải quyết việc làm, bảo đảm cho mọi người có khả năng lao động đều có cơ
hội có việc làm là trách nhiệm của Nhà nước, của các doanh nghiệp và của toàn xã
hội [28].



Phân loại việc làm: Việc làm được phân loại theo các mức độ sau.
+ Phân loại việc làm dựa theo mức độ đầu tư thời gian cho việc làm.
- Việc làm chính: Là công việc mà người thực hiện dành nhiều thời gian nhất
hoặc có thu nhập cao hơn so với công việc khác.
- Việc làm phụ: Là những việc làm mà người lao động dành nhiều thời gian
nhất sau việc làm chính.

+ Phân loại việc làm dựa theo mức độ sử dụng thời gian lao động, năng suất
và thu nhập.
- Việc làm đầy đủ: Là sự thoả mãn nhu cầu về việc làm cho bất kỳ ai có khả
năng lao động trong nền kinh tế quốc dân. Một việc làm đầy đủ đòi hỏi người lao
động làm việc theo chế độ do Bộ luật lao động Việt Nam quy định (8h/ngày)
- Việc làm có hiệu quả: Là việc làm với năng suất, chất lượng cao, tiết kiệm
được chi phí lao động, tăng năng suất lao động đảm bảo được chất lượng của các
sản phẩm làm ra
+ Phân loại theo thời gian làm việc thường xuyên hay không thường xuyên:
- Việc làm ổn định: đối với người trong 12 tháng làm việc từ 6 tháng trở lên và
nếu làm dưới 6 tháng nhưng tương lai vẫn tiếp tục làm việc đó ổn định.
- Việc làm tạm thời: những người làm việc dưới 6 tháng trong một năm dưới
thời điểm điều tra và tại thời điểm điều tra đang làm công việc tạm thời hoặc không
có việc làm 1 tháng.


 Thiếu việc làm
Khi nguồn lao động được huy động, sử dụng không hiệu quả thì tình trạng
thiếu việc làm sẽ xảy ra, dẫn đến thu nhập của người lao dộng thấp, giảm mức sống
con người. Đồng thời đó cũng là nguyên nhân dẫn đến những tệ nạn xã hội, thậm
chí tạo ra các xung đột rối loạn về mặt an ninh chính trị...
Thiếu việc làm là trạng thái trung gian giữa việc làm đầy đủ và thất nghiệp.
Đó là tình trạng có việc làm nhưng do nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn
của người lao động, họ phải làm việc nhưng không hết sử dụng hết thời gian theo
quy định hoặc làm những công việc có thu nhập thấp không đủ sống khiến họ
muốn kiếm thêm việc làm bổ sung.
- Thiếu việc làm được thể hiện dưới 2 dạng: Thiếu việc làm vô hình và thiếu
việc làm hữu hình.
+ Thiếu việc làm vô hình: Là trạng thái những người có đủ việc làm, làm đủ
thời gian, thậm chí nhiều thời gian hơn mức bình thường nhưng thu nhập thấp. Trên

thực tế họ vẫn làm việc nhưng sử dụng ít thời gian trong sản xuất do vậy thời gian
nhàn rỗi nhiều.
+ Thiếu việc làm hữu hình: Là hiện tượng lao động làm việc thời gian ít hơn
thường lệ, họ không đủ vệc làm đang kiếm thêm việc làm và sẵn sàng làm việc.



Thất nghiệp: Trong bất kỳ nền kinh tế nào dù có sử dụng lao động đến mức tốt
nhất thì xã hội vẫn tồn tại thất nghiệp.
Thất nghiệp được hiểu là hiện tượng mà người lao động trong độ tuổi lao
động có khả năng lao động, muốn làm việc nhưng lại chưa có việc làm và đang tích
cực tìm việc làm [1].
Thất nghiệp có thể được chia thành các loại như sau:
- Xét về nguồn gốc thất nghiệp có thể chia thành:
+ Thất nghiệp tạm thời: Xảy ra khi có một số người đang trong thời gian tìm
kiếm công việc hơặc nơi làm tốt hơn, phù hợp với ý muốn riêng, hoặc những người
mới bước vào thị trường lao động đang tìm kiếm việc hoặc chờ đợi đi làm.
+ Thất nghiệp cơ cấu: Xảy ra khi có sự mất cân đối cung - cầu giữa các loại
lao động (không đồng bộ giữa tay nghề và cơ hội có việc làm khi động thái của nhu
cầu và sản xuất thay đổi).


+ Thất nghiệp do thời vụ: Xuất hiện như là kết quả của những biến động thời
vụ trong các cơ hội lao động.
+ Thất nghiệp chu kỳ: Là loại thất nghiệp xảy ra do giảm sút giá trị tổng sản
lượng của nền kinh tế. Trong giai đoạn suy thoái của chu kỳ kinh doanh, tổng giá trị
sản xuất giảm dần dẫn tới hầu hết các nhà sản xuất giảm lượng cầu đối với các yếu tố
đầu vào trong đó có lao động [1]
- Xét về tính chủ động của người lao động, thất nghiệp bao gồm:
+ Thất nghiệp tự nguyện: Là loại thất nghiệp xảy ra khi người lao động bỏ

việc để tìm công việc khác tốt hơn hoặc chưa tìm được việc làm phù hợp với
nguyện vọng.
+ Thất nghiệp không tự nguyện: Là thất nghiệp xảy ra khi người lao động
chấp nhận làm việc ở mức tiền lương, tiền công phổ biến nhưng vẫn không tìm
được việc làm.

- Ngoài ra ở các nước đang phát triển, người ta còn chia thất nghiệp thành thất
nghiệp hữu hình và thất nghiệp vô hình
+ Thất nghiệp hữu hình: Xảy ra khi người có sức lao động muốn tìm kiếm việc
làm nhưng không tìm được trên thị trường.
+ Thất nghiệp vô hình: Là biểu hiện của tình trạng chưa sử dụng hết lao động
ở các nước đang phát triển, họ là những người có việc làm ở khu vực nông thôn
hoặc thành thị không chính thức, việc làm này cho năng suất thấp và không ổn định.

 Tạo việc làm
Tạo việc làm cho người lao động là đưa người lao động vào làm việc để tạo ra
trạng thái phù hợp giữa sức lao động và tư liệu sản xuất, tạo ra hàng hoá và dịch vụ
đáp ứng nhu cầu thị trường.
Quá trình kết hợp sức lao động và điều kiện sản xuất là quá trình người lao
động làm việc. Người lao động làm việc không chỉ tạo ra thu nhập cho riêng họ mà
còn tạo ra của cải vật chất, tinh thần cho xã hội. Vì vậy tao việc làm không chỉ là
nhu cầu chủ quan của người lao động mà còn là yếu tố khách quan của xã hội.
Việc hình thành việc làm thường là sự tác động giữa 3 yếu tố:
- Nhu cầu thị trường


- Điều kiện cần thiết để sản xuất ra sản phẩm, dịch vụ (người lao động, công
cụ sản xuất, đối tượng lao động)
- Môi trường xã hội: xét cả góc độ kinh tế, chính trị, pháp luật, xã hội.


 Việc làm mới
Là phạm trù nói lên sự tăng lượng cầu về lao động, nó được thể hiện dưới hai dạng:
- Những việc làm đòi hỏi kỹ năng lao động mới
- Những chỗ làm việc mới đựoc tạo thêm song không đòi hỏi sự thay đổi về kỹ
năng của người lao động
Việc làm mới cũng là những việc làm được pháp luật cho phép, đem lại thu
nhập cho người lao động, nó được tạo ra theo nhu cầu thị trường để sản xuất một
loại hàng hoá dịch vụ nào đó cho xã hội.
1.1.4.3. Thu nhập và các vấn đề liên quan.
Thu nhập là giá trị thu được (quy ra thóc hoặc tiền) sau khi đã trừ đi chi phí
trung gian (IC) và khấu hao tài sản cố định.
- Thu nhập hỗn hợp (MI): Là phần thu nhập thuần tuý của người sản xuất bao
gồm cả công lao động và lợi nhuận thu được do người sản xuất trong 1 chu kỳ sản
xuất trên quy mô diện tích.
MI = GO - IC - TSX - C1
MI: Thu nhập hỗn hợp
GO: Giá trị sản xuất (của cải vật chất và dịch vụ được tạo ra trong 1 thời kỳ
nhất định của hộ, thường là 1 năm).
IC: Chi phí trung gian
TSX: Thuế sản xuất
C1: Khấu hao tài sản cố định
- Thu nhập ổn định: Là khả năng tạo thu nhập một cách ổn định, lâu dài qua
các năm, đảm bảo ổn định cuộc sống lâu dài thông qua các hoạt động sản xuất, kinh
doanh của hộ.
- Phân loại thu nhập: Theo mức độ, thì thu nhập bao gồm: Thu nhập thường
xuyên và thu nhập không thường xuyên


+ Thu nhập thường xuyên: Là các khoản thu nhập có tính chất lặp đi lặp
lại và ổn định như: tiền lương, tiền công, tiền trợ cấp, các khoản thu nhập do tổ

chức cá nhân chi trả...
+ Thu nhập không thường xuyên: Là các khoản thu nhập không ổn định, đột
xuất như: quà biếu tặng, thu nhập từ các hoạt động khoa học...
1.1.4.4. THĐ với thực trạng lao động, việc làm và thu nhập của hộ nông dân mất đất
* Vai trò của đất nông nghiệp đối với lao động trong nông nghiệp
Trong nông nghiệp nông thôn, đất đai lại càng đóng vai trò hết sức quan trọng,
bởi đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu của nông nghiệp. Với hơn 73% dân số sống ở
nông thôn và gắn bó với nông nghiệp, có thể nói vấn đề đất đai là một trong những
vấn đề được quan tâm hàng đầu khi phát triển nông nghiệp nông thôn. Người dân
nông thôn bao đời nay vẫn gắn bó với từng mảnh đất của mình, họ vun trồng trên
những mảnh ruộng ấy để tạo ra cơm ăn, áo mặc cho mình và nhiều người khác.
Chính vì vậy, khi mất đất đồng nghĩa với việc người dân nông thôn mất dần đi
nguồn sinh kế vốn có của mình, và nếu như không tìm được hướng đi mới thì thiếu
việc làm, thất nghiệp và nghèo đói sẽ là tương lai gần [6]
Trong những năm vừa quan quá trình CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn đã
kéo theo việc thu hồi một diện tích khá lớn đất nông nghiệp, và theo đó cũng có
rất nhiều hộ nông dân chịu ảnh hưởng của THĐ. Một thực trạng đáng buồn là hầu
hết các hộ nông dân sau khi mất đất đều rơi vào tình trạng thiếu việc làm, thu nhập
không ổn định và mức sống thấp hơn trước THĐ. Đứng trước tình trạng này, Đảng
và Nhà nước ta cũng đã có nhiều chính sách nhằm giải quyết vấn đề về việc làm,
thu nhập và ổn định đời sống người dân sau THĐ, tuy nhiên kết quả thu được
chưa thực sự cao. Bởi vậy vấn đề này đã và đang thu hút nhiều sự quan tâm của
các cầp ngành liên quan cũng như toàn xã hội.
* Khó khăn thường gặp trong giải quyết việc làm cho lao động sau THĐ
Việc làm cho người lao động trong bối cảnh CNH, HĐH đang diễn ra với tốc
độ cao như hiện nay ở nước ta cả trước mắt và trong những năm tới vẫn là vấn đề
nóng bỏng, tác động sâu sắc đến sự phát triển bền vững của đất nước. Theo báo cáo
của 14 tỉnh/thành phố, tình hình lao động bị mất việc làm nông nghiệp giai đoạn



2001 - 2005 do bị thu hồi đất là 265.709 người. Bình quân, mỗi ha đất nông nghiệp
bị thu hồi có khoảng 13 lao động mất việc làm cần phải chuyển đổi nghề mới. Việc
thu hồi đất tập trung phần lớn vào đất canh tác nông nghiệp và vùng đông dân cư,
tập trung vào một số xã, nhất là ở ven đô thị lớn (khoảng 70% - 80%). Tính chung,
đất nông nghiệp bị thu hồi chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng diện tích đất nông nghiệp
(khoảng 1% - 2%), nhưng tình trạng khó khăn về việc làm của người lao động cũng
phát sinh tập trung ở một số địa bàn nhất định. Có thể thấy, hiện nay việc tạo việc
làm, tăng thu nhập cho người lao động sau THĐ là một vấn đề bức thiết và được
nhiều người quan tâm. Chính vì vậy Đảng và Nhà nước cũng như các cấp địa
phương đã có nhiều biện pháp nhằm hỗ trợ tạo việc làm, tuy nhiên hiệu quả thực
hiện của các biện pháp này còn cách xa nhu cầu thực tế. Khi tiến hành điều tra
nguyên nhân, có thể thấy được những khó khăn thường gặp nhất trong việc giải
quyết việc làm cho lao động sau THĐ như sau:
- Người dân chưa kịp chuẩn bị để kiếm một nghề mới khi đột ngột mất đất,
mất việc làm. Bản thân họ ít có khả năng tìm ngay việc làm mới để bảo đảm thu
nhập. Tình trạng thất nghiệp toàn phần và thất nghiệp một phần rất gay gắt. Đa số
thanh niên các vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp có trình độ văn
hóa thấp, trong khi để có một nghề chắc chắn đáp ứng chỗ làm việc trong các doanh
nghiệp, phần lớn yêu cầu phải có trình độ từ phổ thông trung học [6]
- Chính phủ đã có những quy định cụ thể hỗ trợ cho những người mất đất
được đào tạo nghề mới hoặc chuyển đổi nghề nghiệp. Tuy nhiên, số tiền hỗ trợ
chuyển đổi ngành nghề từ 300 - 700 nghìn đồng/người chỉ có thể tham gia một khóa
đào tạo ngắn hạn với các nghề đơn giản. Đa số các cơ sở dạy nghề tại các vùng
chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp không đủ năng lực tiếp nhận số
lượng nhiều và đào tạo nghề có chất lượng, nên đối tượng này khó cạnh tranh khi đi
tìm việc làm trong các KCN, KCX...
- Cơ cấu nguồn thu của các hộ dân bước đầu đã có sự chuyển dịch theo hướng
tiến bộ. Nguồn thu từ sản xuất nông nghiệp giảm, thu từ sản xuất công nghiệp, tiểu
thủ công nghiệp, từ tiền lương tiền công và từ thương mại dịch vụ tăng hơn. Tuy
vậy, số hộ bị giảm thu nhập còn rất lớn. Trên phương diện này, có thể đánh giá tính



kém hiệu quả của các phương thức đền bù mà các địa phương đã triển khai. Việc
một bộ phận hộ dân bị thu hồi đất nông nghiệp tăng tài sản do có tiền đền bù, nhưng
là sự biến động tăng không bền vững. Sử dụng tiền đền bù không đúng mục đích
đang ẩn chứa những yếu tố bất ổn trong thu nhập của họ.
- Hiện nay, nhiều địa phương đã có chính sách quy định các doanh nghiệp sử
dụng đất phải có trách nhiệm sử dụng lao động tại chỗ mất việc làm do bị thu hồi
đất nông nghiệp. Nhưng các doanh nghiệp lại chưa quan tâm nhiều đến vấn đề này.
Tình trạng quy hoạch treo, hoặc chủ đầu tư nhận đất nhưng không triển khai dự án
dẫn đến dân mất đất mà không có việc làm, còn doanh nghiệp không thu hút được
lao động vào làm việc khá phổ biến [6]
* Sự cần thiết phải tạo việc làm, nâng cao thu nhập và ổn định cuộc sống cho
người lao động sau khi THĐ
Theo kết quả nghiên cứu của Viện chính sách Bộ NN&PTNT tại 3 tỉnh có
diện tích đất thu hồi lớn nhất cả nước là Hà Tây (cũ), Hải Dương và Hưng Yên thì
điểm nổi bật nhất trong định hướng giá trị việc làm của người nông dân bị thu hồi
đất là rất nhiều người mong muốn có việc làm đem lại thu nhập ổn định, dù thu
nhập đó có thấp hơn chút ít so với trước kia. Nhiều người không muốn đi làm xa, vì
họ ý thức rằng khi có việc làm sẽ có được vị thế xã hội nhất định và đời sống tâm lý
thoải mái hơn. Việc nhàn, ít bận rộn, không chịu nhiều áp lực cũng là một giá trị
được nhiều nông dân coi trọng, đặc biệt là nữ nông dân. Tuy nhiên có thể thấy, giải
quyết được nhu cầu này không phải dễ dàng, mặc dù đây là mong muốn chính đáng
của người lao động [6]
Rất nhiều nông dân sau khi không tìm được việc làm mới tại các KCN, phải
tìm về với nghề cũ (trồng trọt, chăn nuôi) nhưng khốn nỗi lại chẳng còn đất. Theo
thống kê của Bộ NN&PTNT, có tới 67% lao động sau khi THĐ vẫn quay lại với
nghề cũ, 20% không có việc làm và chỉ có 13% có nghề mới. Sở dĩ xảy ra tình trạng
này là vì, số nông dân tại các địa phương này được tuyển dụng vào làm việc tại các
KCN chiếm tỷ lệ rất ít do trình độ lao động, tay nghề không đáp ứng được nhu cầu.

Đất bị thu hồi chủ yếu là đất canh tác màu mỡ, là “bờ xôi ruộng mật” nên khi mất
đất hiệu quả sản xuất trên diện tích đất còn lại rất thấp. Điều kiện sống của người


nông dân vì thế cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng khi chỉ có 29% số hộ có điều kiện
sống tốt hơn; số đông còn lại (34,5%) có mức sống thấp hơn so với trước khi bị thu
hồi đất [6]
1.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài
1.2.1. Chính sách bồi thường, giải phóng mặt bằng của một số nước trên thế giới
và các tổ chức ngân hàng quốc tế.
1.2.1.1. Trung Quốc
Ở Trung Quốc có hai hình thức sở hữu về đất đai gồm: sở hữu nhà nước (đất
đô thị và đất xây dựng) và sở hữu tập thể (đất ở thuộc vùng nông thôn và đất nông
nghiệp). Theo quy định của Luật đất đai Trung Quốc năm 1998, đất đai thuộc sở
hữu nhà nước được giao cho các tổ chức, cá nhân sử dụng theo các hình thức giao
đất không thu tiền sử dụng đất (cấp đất), giao đất có thu tiền sử dụng đất và cho
thuê đất.
Trong trường hợp Nhà nước thu hồi đất của người đang sử dụng để sử dụng
vào mục đích công cộng, lợi ích quốc gia... thì Nhà nước có chính sách bồi thường
và tổ chức tái định cư cho người bị thu hồi đất. Vấn đề bồi thường cho người có đất
bị thu hồi được pháp luật đất đai Trung Quốc quy định như sau:
Về thẩm quyền thu hồi đất: Chỉ có Chính phủ (Quốc vụ viện) và chính quyền
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương mới có quyền thu hồi đất. Quốc vụ viện có
thẩm quyền thu hồi đất nông nghiệp từ 35 ha trở lên và 70 ha trở lên đối với các
loại đất khác. Dưới hạn mức này thì do chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương ra quyết định thu hồi đất. Đất nông nghiệp sau khi thu hồi sẽ chuyển từ
sở hữu tập thể thành đất hữu nhà nước.
Về trách nhiệm bồi thường: Pháp luật đất đai Trung Quốc quy định,
người nào sử dụng đất thì người đó có trách nhiệm bồi thường, phần lớn tiền bồi
thường do người sử dụng đất trả. Tiền bồi thường bao gồm các khoản như lệ phí sử

dụng đất phải nộp cho Nhà nước và các khoản tiền trả cho người có đất bị thu hồi.
Ngoài ra, pháp luật đất đai Trung Quốc còn quy định mức nộp lệ phí trợ cấp đời
sống cho người bị thu hồi đất là nông dân cao tuổi không thể chuyển đổi sang ngành


nghề mới khi bị mất đất nông nghiệp, khoảng từ 442.000 - 2.175.000 nhân dân tệ/ha
Người bị thu hồi đất được trả các khoản: tiền bồi thường đất đai, tiền trợ cấp tái
định cư, tiền bồi thường hoa màu và tài sản trên đất... Cách tính tiền bồi thường đất
đai và tiền trợ cấp tái định cư căn cứ theo giá trị tổng sản lượng của đất đai những
năm trước đây rồi nhân với một hệ số do Nhà nước quy định. Còn đối với tiền bồi
thường hoa màu và tài sản trên đất thì xác định theo giá thị trường tại thời điểm thu
hồi đất.
Về nguyên tắc bồi thường: Các khoản tiền bồi thường phải đảm bảo cho người
dân bị thu hồi đất có chỗ ở bằng hoặc cao hơn so với nơi ở cũ. Ở Bắc Kinh, phần
lớn các gia đình dùng số tiền bồi thường đó cộng với khoản tiền tiết kiệm của họ có
thể mua được căn hộ mới. Còn đối với người dân ở khu vực nông thôn có thể dùng
khoản tiền bồi thường mua được hai căn hộ ở cùng một nơi [7]. Tuy nhiên, ở thành
thị, cá biệt cũng có một số gia đình sau khi được bồi thường cũng không mua nổi
một căn hộ để ở. Những đối tượng trong diện giải toả mặt bằng thường được
hưởng chính sách mua nhà ưu đãi của Nhà nước, song trên thực tế họ thường
mua nhà bên ngoài thị trường.
Về tổ chức thực hiện và quản lý giải toả mặt bằng : Cục quản lý tài
nguyên đất đai ở các địa phương thực hiện việc quản lý giải toả mặt bằng. Người
nhận khu đất thu hồi sẽ thuê một đơn vị xây dựng giải toả mặt bằng khu đất đó,
thường là các đơn vị chịu trách nhiệm thi công công trình trên khu đất giải toả.
Nhìn chung hệ thống pháp luật về bồi thường và của Trung Quốc đều nhằm
bảo vệ những người bị thu hồi đất để thực hiện các dự án. Theo một nghiên cứu gần
đây của WB thì các luật về tái định cư của Trung Quốc đối với các dự án phát triển
đô thị, công nghiệp và giao thông "đã đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của WB trong tài
liệu hướng dẫn thực hiện tái định cư" [7].

1.2.1.2 . Australia
Luật đất đai của Australia quy định đất đai của quốc gia thuộc sở hữu Nhà nước
và sở hữu tư nhân. Luật đất đai bảo hộ tuyệt đối quyền lợi và nghĩa vụ của chủ sở hữu
đất đai. Chủ sở hữu có quyền cho thuê, chuyển nhượng, thế chấp, thừa kế theo di chúc
mà không có sự cản trở nào, kể cả việc tích luỹ đất đai.


×