Tải bản đầy đủ (.doc) (43 trang)

CHUYÊN đè môn học tài CHÍNH TIỀN tệ và chính sách tiền tệ thực trạng và giải pháp hoàn thiện CSTT ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (242.55 KB, 43 trang )

Chuyên đề môn học

GVHD: ThS. Nguyễn Dụng Tuấn

NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
Thanh Hóa, ngày ..... tháng ....... năm 2015
Giảng viên hương dẫn

SVTH: Trịnh Thị Hằng Vân - Lớp CDTN13TH


Chuyên đề môn học

GVHD: ThS. Nguyễn Dụng Tuấn

MỤC LỤC


NỘI DUNG................................................................................................................................3

SVTH: Trịnh Thị Hằng Vân - Lớp CDTN13TH


Chuyên đề môn học

GVHD: ThS. Nguyễn Dụng Tuấn

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam sau hơn 10 năm thực hiện chính sách đổi mới, đa dạng hoá
quan hệ ngoại giao và kinh tế, từng bước hội nhập với khu vực và thế giới,
chúng ta đã giành được những kết quả đáng khích lệ trong chương trình ổn định
hoá nền kinh tế tạo tiền đề đẩy nhanh công cuộc phát triển kinh tế đất nước. Kết
quả đó một phần nhờ nhà nước đã sử dụng một cách có hiệu quả các công cụ
điều tiết vĩ mô, trong đó chính sách tiền tệ là một công cụ đặc biệt quan trọng.
Bởi lẽ trong nền kinh tế thị trường, chính sách tiền tệ (CSTT) có ảnh hưởng lớn
đến các biến số vĩ mô của nền kinh tế như: công ăn việc làm, tốc độ tăng trưởng,
giá cả, lạm phát... Chúng ta phải thừa nhận rằng chính sách mở cửa và từng
bước hội nhập đã tạo ra nhiều cơ hội để chính sách tiền tệ đổi mới, thích hợp với
nền kinh tế đang chuyển dần sang kinh tế thị trường. Tuy nhiên, cùng với tiến
trình hội nhập ngày một sâu rộng và trong bối cảnh toàn cầu hoá ngày một sâu
sắc, CSTT của VN đang phải đối mặt với nhiều thách thức. Nói như vậy có
nghĩa là ở VN, hệ thống NH nói chung và chính sách tiền tệ nói riêng vẫn là một
lĩnh vực cần được quan tâm nghiên cứu một cách đầy đủ và có hệ thống. Vì vậy
nghiên cứu CSTT và các công cụ điều hành CSTT ởVN là vấn đề mang ý nghĩa
lý luận và thực tiễn cao, đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay ở nước ta,khi nền
KTTT đang được xác lập và phát triển.
Trên cơ sở đó em đã quyết định chọn đề tài: “Chính sách tiền tệ- thực

trạng và giải pháp hoàn thiện CSTT ở Việt Nam”.
2. Mục đích và phương pháp viết chuyên đề:
2.1 Mục đích:
- Nắm được hệ thống kiến thức cơ bản về tài chính, tiền tệ và ngân hàng
cũng như khái quát được hệ thống kiến thức của môn học và chương trình, tài
liệu phục vụ môn học.
- Tạo được kiến thức nền tảng về tài chính, tiền tệ và ngân hàng giúp sinh
viên lĩnh hội được kiến thức của các môn học khác hiệu qủa hơn.

SVTH: Trịnh Thị Hằng Vân - Lớp CDTN13TH

1


Chuyên đề môn học

GVHD: ThS. Nguyễn Dụng Tuấn

- Có được kỹ năng nhận diện, nắm bắt và giải quyết được các vấn đề về
tài chính, tiền tệ và ngân hàng trong quá trình học tập cũng như quá trình làm
việc và cuộc sống sau này.
2.2 Phương pháp:
- Giảng viên hướng dẫn sinh viên nghiên cứu các vấn đề lý luận cơ bản
về tài chính, tiền tệ và ngân hàng, hướng dẫn nghiên cứu các văn bản pháp luật
có liên quan.
- Sinh viên tìm tài liệu liên quan đến môn tài chính tiền tệ và các tài liệu
liên quan đến đề tài, sau đó tổng hợp thành một bài hoàn chỉnh.
3. Nội dung chuyên đề:
Nêu lên thực trạng và đưa ra các giải pháp hoàn thiện chính sách tiền tệ ở
Việt Nam hiện nay.


SVTH: Trịnh Thị Hằng Vân - Lớp CDTN13TH

2


Chuyên đề môn học

GVHD: ThS. Nguyễn Dụng Tuấn

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
1.1: Giới thiệu về môn tài chính tiền tệ
Tài chính tiền tệ là một lĩnh vực nghiên cứu chuyên sâu và phức tạp, liên
quan đến toàn bộ hoạt động của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội. Sự lành mạnh
của hoạt động tài chính tiền tệ là điều kiện cần thiết cho sự ổn định và phát triển
bền vững của nền kinh tế, đặc biệt để hội nhập thành công vào các hoạt động
kinh tế quốc tế. Cùng với kiến thức về kinh tế học hiện đại, kiến thức và trình độ
lí luận về tài chính - tiền tệ là hành trang cần thiết cho các hoạt động nghiên cứu,
điều hành kinh doanh và điều hành kinh tế, giúp nhận thức sâu sắc các hiện
tượng đã và đang xảy ra trong các lĩnh vực lưu thông tài chính, tiền tệ, tín dụng,
ngân hàng trong nước và quốc tế.
Giáo trình Tài chính - Tiền tệ đề cập đến cơ sở lí luận và những kiến thức
cơ bản về tài chính, tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, cung cấp một tầm nhìn tổng
quát, toàn diện, có tính hệ thống về môi trường, bản chất, nội dung, quy luật vận
động và phát triển của tất cả các sự kiện kinh tế xã hội liên quan đến hoạt động
tài chính, tiền tệ, giúp người học hiểu rõ khái niệm, bản chất, chức năng, vai trò
và nội dung của các phạm trù liên quan, nắm vững được các quy luật, nguồn gốc
hình thành, các hình tái tồn tại và các đặc trưng nhận dạng các phạm trù tài
chính - tiền tệ ... Đây cũng là cơ hội để củng cố thêm kiến thức và lí luận cơ bản,

mở rộng và định hướng cho việc đi sâu vào nghiên cứu các khoa học chuyên
ngành và tham gia tìm hiểu các lĩnh vực khoa học khác.
Trên cơ sở những kinh nghiệm tích luỹ được trong quá trình nghiên cứu,
giảng dạy và công tác quản lí thực tế, đồng thời tiếp thu có chọn lọc các tài liệu
liên quan, giào trình Tài chính - Tiền tệ được biên soạn theo các quan điểm tài
chính - tiền tệ hiện đại, phù hợp với các chương trình đào tạo tiên tiến. Các nội
dung trong giáo trình đều là những kiến thức và lí luận cơ bản gắn liền với
những biến động trong đời sống kinh tế, chính trị xã hội hàng ngày. Giáo trình

SVTH: Trịnh Thị Hằng Vân - Lớp CDTN13TH

3


Chuyên đề môn học

GVHD: ThS. Nguyễn Dụng Tuấn

đáp ứng được cơ bản những yêu cầu cả về mặt lí thuyết và thực tiễn có liên quan
đến tài chính - tiền tệ nói chung và tín dụng - ngân hàng nói riêng.
1.2 Những nội dung chính trong môn Tài chính Tiền tệ
Môn học tài chính tiền tệ hình thành trên cơ sở tổng hợp có chọn lọc
những nội dung chủ yếu của 2 môn học “Tài chính học ” và “Lưu thông tiền tệ Tín dụng” của chuyên ngành Tài chính và Ngân hàng. Những kiến thức của môn
học này mang tính tổng hợp, có liên quan trực tiếp đến điều kiện kinh tế vĩ mô
trong nền kinh tế thị trường có điều tiết. Do vậy nó trở thành môn học cơ sở cho
tất cả sinh viên dại học thuộc các ngành kinh tế.
Môn học này cung cấp cho sinh viên những kiến thức, những khái niệm
và những nội dung chủ yếu về tài chính, Tiền tệ, Tín dụng và ngân hàng. Nó có
tác dụng làm cơ sở bổ trợ cho việc nghiên cứu các môn kinh tế ngành.
Giáo trình Tài chính tiền tệ gồm có 7 chương, nội dung của các chương

như sau:
Chương 1: Những vấn đề chung về tiền tệ
Khái quát chung về bản chất, chức năng, vai trò của tiền tệ. Đồng thời nêu
lên sự phát triển các hình thái tiền tệ.
Chương 2: Các chế độ tiền tệ
Nội dung chương này bao gồm các chế độ tiền tệ, chế độ lưu thông tiền tệ
ở Việt Nam, Chế độ tiền tệ Việt Nam.
Chương 3: Cung cầu tiền tệ
Ở chương này, nội dung quan tâm đến các vấn đề về cung cầu tiền tệ, các
quan điểm về nhu cầu tiền tệ, các khối tiền tệ và sự cân đối cung cầu tiền tệ; tình
hình cân đối cung cầu tiền tệ ở Việt Nam.
Chương 4: Lạm phát
Khái niệm, hậu quả và những biện pháp khắc phục lạm phát. Tình hình
lạm phát ở Việt Nam trong các giai đoạn.
Chương 5: Những vấn đề cơ bản về tài chính và hệ thống tài chính
Sự ra đời và phát triển của của tài chính; bản chất, chức năng, vai trò của
tài chính. Chức năng, nhiệm vụ của các khâu trong hệ thống tài chính.
SVTH: Trịnh Thị Hằng Vân - Lớp CDTN13TH

4


Chuyên đề môn học

GVHD: ThS. Nguyễn Dụng Tuấn

Chương 6: Thị trường tài chính
- Những vấn đề chung về thị trường tài chính; Chức năng, phân loại và vai
trò của thị trường tài chính.
- Khái niệm, phân loại thị trường vốn; các công cụ trên thị trường vốn ở

Mỹ và Việt Nam.
- Sự phát triển của thị trường tài chính Việt Nam giai đoạn 2000 – 2007.
Chương 7: Tín dụng – Ngân hàng và chính sách tài chính quốc gia.
- Khái niệm, chức năng và vai trò của tín dụng; các hình thức tín dụng;
ngân hàng thương mại; các tổ chức tài chính phi ngân hàng.
- Sự ra đời, phát triển, vai trò và chức năng của Ngân hàng Trung ương.
- Mục tiêu và quan điểm chính sách tài chính quốc gia ở Việt Nam giai
đoạn 2006 – 2010; nội dung của chính sách tài chính quốc gia.
1.3. Cơ sở lý luận về chính sách tiền tệ
1.3.1 Khái niệm về chính sách tiền tệ
Theo nghĩa rộng thì chính sách tiền tệ là chính sách điều hành toàn bộ
khối lượng tiền trong nền kinh tế quốc dân nhằm tác động đến 4 mục tiêu lớn
của kinh tế vĩ mô, trên cơ sở đó đạt được mục tiêu cơ bản là ổn định tiền tệ, giữ
vững sức mua của đồng tiền, ổn định giá cả hàng hoá. Theo nghĩa thông thường
là chính sách quan tâm đến khối lượng tiền cung ứng tăng thêm trong thời kỳ tới
(thường là một năm) phù hợp với mức tăng trưởng kinh tế dự kiến và chỉ số lạm
phát nếu có, tất nhiên cũng nhằm ổn định tiền tệ và ổn định giá cả hàng hoá .
1.3.1.1 Vai trò của chính sách tiền tệ
Chính sách ti n t có m t vai trò nh t n h trong vi c i u hành n n kinht
c am i m t qu c gia. S lùa ch n tính úng n trong quá trìnhth c thi chí
nh sách ti n t em l i k t qu kh quan cho nh ng m c tiêu c t ra.
Do v y, i b t c m t qu c gia nào, t n c nào c ng c n xem xét, nghi
ênc u tình hình nền kinh tế của quốc gia mình để nhằm xây dựng một chính sác
h tiền tệ phù hợp đảm bảo được tính hợp lý và thực hiện chúng
một cách hiệu quả nhất.
1.3.2 Mục tiêu của chính sách tiền tệ
SVTH: Trịnh Thị Hằng Vân - Lớp CDTN13TH

5



Chuyên đề môn học

GVHD: ThS. Nguyễn Dụng Tuấn

CSTT là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô của nhà nước, hướng tới các mục
tiêu vĩ mô sau :
Thứ nhất: ổn định giá cả
Ổn định giá cả là mục tiêu hàng đầu và dài hạn của CSTT. Trong quá
trình thực nghiệm cho thấy để ổn định giá cả phải ổn định giá trị đồng tiền, ổn
định giá trị đồng tiền là ổn định sức mua của tiền tệ. Để đạt được điều đó
NHTW đã đề ra mục tiêu trong chính sách tiền tệ là ổn định chỉ số giá cả. Để
thực hiện mục tiêu ổn định giá cả NHTW có nhiệm vụ ổn định giá trị đồng tiền
bằng cách áp dụng nhiều biện pháp để điều chỉnh sự biến động giá cả trong
phạm vi mong muốn cả về ngắn và dài hạn.
Ổn định giá cả có ý nghĩa quan trọng trong kinh tế vĩ mô cũng như vi
mô. Nó giúp cho nhà nước hoạch định được phương hướng phát triển kinh tế
một cách có hiệu quả hơn vì loại trừ được sự biến động của giá cả. Mặt khác nó
còn giúp cho môi trường đầu tư ổn định góp phần thu hút vốn đầu tư, khai thác
mọi nguồn lực xã hội, thúc đẩy các DN cũng như các cá nhân phát triển sản xuất
đem lại nguồn lợi cho mình cũng như cho xã hội
Thứ 2: Tăng trưởng kinh tế cao:
Nền kinh tế với tốc độ tăng trưởng ổn định là yêu cầu phát triển kinh tế
của mỗi quốc gia và là một trong những yếu tố quan trọng để đảm bảo cho sự ổn
định của tiền tệ. Ngược lại tiền tệ ổn định thì tăng trưởng kinh tế mới bền vững.
Có thể nói, đây là một mục tiêu có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với các nước,
đặc biệt là các nước đang phát triển. Bởi lẽ muốn phát triển kinh tế, giải quyết
việc làm, tăng thu nhập để từ đó cải thiện đời sống con người thì trước hết nền
kinh tế phải có tăng trưởng cao. Chính sách tiền tệ trong một khoảng thời gian
nào đó của một quốc gia có thể được xác định theo một trong hai hướng: Chính

sách tiền tệ mở rộng và CSTT thắt chặt .
Khi NHTW thi hành CSTT mở rộng trong điều kiện nền kinh tế có dư
thừa nguồn lực, thì nó sẽ tác động đến tăng trưởng kinh tế theo 2 chiều hướng:
- Khi khối tiền tệ gia tăng, tức là tiền tệ trỏ nên dồi dào hơn trước thì
nhìn chung lãi suất hạ, cầu đầu tư sẽ tăng lên nhanh chóng.
SVTH: Trịnh Thị Hằng Vân - Lớp CDTN13TH

6


Chuyên đề môn học

GVHD: ThS. Nguyễn Dụng Tuấn

- Do chi phí để có tiền giảm đồng thời việc giảm lãi suất làm cho chi
phí cơ hội của việc giữ tiền giảm xuống đã khuyến khích dân chúng tiêu dùng
nhiều hơn làm cho tổng cầu tăng lên. Khi đó hoạt động thương mại trên thị
trường trở nên nhộn nhịp, hàng tồn đọng của các DN được giải quyết và các nhà
DN quyết định mở rộng đầu tưư để tăng sản lượng. Như vậy việc tăng khối tiền
tệ của NHTW không những làm tăng cầu tiêu dùng mà còn làm tăng cầu tiêu
đầu tư, nhờ đó khuyến khích tăng sản lượng quốc gia hay là tăng trưởng kinh tế.
Vì vậy tăng trưởng kinh tế cao chính là một mục tiêu quan trọng của CSTT.
Bên cạnh đó, trong quá trình phát triển kinh tế thường không tránh
khỏi hiện tượng lạm phát. Khi nền kinh tế phát triển quá nóng, sản lượng thực tế
vượt quá sản lượng tiềm năng, tỷ lệ lạm phát thường cao. Để chống lạm phát
NHTW phải “thắt chặt”CSTT. Cũng vẫn bằng các công cụ điều tiết trong tay,
NHTW đã làm cho lượng tiền cung ứng giảm xuống, lãi suất tăng, giá cả hàng
hoá và dịch vụ giảm, lạm phát bị đẩy lùi. Như vậy về ngắn hạn giữa lạm phát và
tăng trưởng, việc làm có quan hệ đánh đổi cho nhau. Cho nên việc tăng, giảm
cung ứng tiền tệ ở mức độ nào có thể kiềm chế lạm phát, ổn định giá cả nhưng

vẫn đảm bảo có tăng trưởng và công ăn việc làm cao là bài toán khó trong việc
hoạch định và điều hành CSTT của các quốc gia.
Thứ 3 :Tạo công ăn việc làm
Việc làm cao cho người lao động là một mục tiêu kinh tế - xã hội của mọi
quốc gia hiện nay. Nếu xã hội có ít công ăn việc làm, tỷ lệ thất nghiệp cao sẽ
dẫn đến hậu quả là sự lãng phí về các nguồn lực làm giảm sản lượng quốc gia,
hơn nữa còn làm giảm thu nhập trong dân chúng gây khó khăn cho đời sống của
họ.Vì vậy việc làm cao là một trong những yêu cầu bức thiết của mọi quốc gia
có nền kinh tế phát triển cũng như đang phát triển CSTT có vai trò to lớn trong
việc tạo ra công ăn việc làm cho người lao động. Chẳng hạn khi nền kinh tế của
một quốc gia đang ở trong tình trạng suy thoái. Tình hình lúc đó là sản xuất ở
dưới mức tiềm năng, đầu tư giảm, kéo theo tình trạng thất nghiệp gia tăng. Để
thoát khỏi tình trạng đó, NHTW quyết định thi hành CSTT “mở rộng” .

SVTH: Trịnh Thị Hằng Vân - Lớp CDTN13TH

7


Chuyên đề môn học

GVHD: ThS. Nguyễn Dụng Tuấn

Với các công cụ điều tiết trong tay trong tay, NHTW sẽ làm cho cung
tiền tăng lên lãi xuất giảm xuống nhờ đó mà khuyến khích đầu tư. Hơn nữa sau
thời kỳ suy thoái tiền công thường giảm thấp dẫn đến thúc đẩy các doanh nghiệp
mở rộng sản xuất tạo ra nhiều công ăn việc làm cho xã hội. Kết quả là tỷ lệ thất
nghiệp giảm xuống. Như vậy khi ngân hàng trung ương thực hiện CSTT mở
rộng sẽ khuyến khích đầu tưư tạo nhiều công ăn việc làm với cái giá phải trả là
lạm phát tăng. Ngược lại, khi NHTW thi hành CSTT thắt chặt thì đầu tưư giảm

sút và thất nghiệp gia tăng.
Rõ ràng trong quá trình điều tiết vĩ mô, khi NHTW quyết định thay đổi
CSTT từ thắt chặt sang mở rộng thì một trong những mục tiêu phải đạt được của
CSTT là tạo ra công ăn việc làm cao trong xã hội .
Thứ 4: Ổn định thị trường tài chính
Theo Fried Man - Nhà kinh tế học người Mĩ thì tạo ra một nền tài chính
ổn định để hệ thống NHTM và các TCTD khác có thể hoạt động một cách có
hiệu quả là mục tiêu chủ đạo của CSTT ngoài các mục tiêu trên NHTW với các
công cụ của CSTT có thể góp phần ổn định thị trường tài chính và làm lành
mạnh hoá các quan hệ tiền tệ tín dụng trong nền kinh tế. Bởi lẽ hoạt động kinh
doanh tiền tệ của các TCTD nói chung và ngân hàng thương mại nói riêng
không phải lúc nào cũng thuận lợi. Đặc biệt có những lúc ngân hàng lâm vào
cuộc khủng hoảng nào đó, dân chúng sẽ đổ xô tới các ngân hàng để rút tiền về.
Sự rút tiền ồ ạt đó có thể dẫn đến các ngân hàng thiếu khả năng chi trả. Chính
vào thời điểm khó khăn đó, NHTW sẽ thông qua việc cho vay chiết khấu để
cung cấp các khoản tiền dự trữ cho các NHTM. Nhờ vậy mà các NHTM có đủ
khả năng đối phó với các dòng tiền rút ra và tránh được nguy cơ phá sản. không
những thế,khi cần thiết NHTW còn có thể ngăn chặn được khả năng phá sản của
các tổ chức tài chính.
Như vậy, thông qua việc cho vay chiết khấu, NHTW thực hiện được
vai trò “người cho vay cuối cùng” nhằm ngăn chặn những vụ hoảng loạn về
ngân hàng hoặc tài chính, tránh được những tổn hại nghiêm trọng cho nền kinh
tế, nhờ đó mà thị trường tài chính được ổn định Với những mục tiêu kinh tế vĩ
SVTH: Trịnh Thị Hằng Vân - Lớp CDTN13TH

8


Chuyên đề môn học


GVHD: ThS. Nguyễn Dụng Tuấn

mô kể trên, CSTT thực sự được coi là một công cụ đầy quyền uy của NHTW
trong việc điều tiết kinh tế nhằm tạo ra môi trường kinh tế vĩ mô ổn định và lành
mạnh.
Mục tiêu trung gian:
Thông qua mục tiêu trung gian NHTW ảnh hưởng đến tổng cầu, từ đó
tác động vào mục tiêu cuối cùng. Để được chọn là mục tiêu trung gian thì phải
thoả mãn một số yêu cầu: Mục tiêu đó phải đảm bảo tiêu chuẩn định lượng, có
thể đưa ra dấu hiệu giúp ngân hàng trung ương biết được tác động của mình là
đúng hay sai, NHTW phải kiểm soát và chi phối được mục tiêu này để đạt được
mục tiêu cuối cùng. Và điều quan trọng là nó phải có khả năng ảnh hưởng trực
tiếp đến mục tiêu cuối cùng của CSTT .
Các mục tiêu trung gian của CSTT bao gồm: Mức cung tiền tệ, lãi suất
thị trường trung và dài hạn, tỷ giá, khối lượng tín dụng.
Hiện nay các nước thường sử dụng mức cung tiền tệ hoặc lãi suất tiền
tệ làm mục tiêu trung gian của CSTT. Với các mục tiêu trung gian NHTW
không thể chủ động một cách hoàn toàn vì vậy NHTƯ phải lựa chọn các mục
tiêu hoạt động để chỉ đạo thường xuyên và trực tiếp .
1.3.3 Vai trò của NHTW trong xây dựng và thực hiện CSTT:
Trong 15 năm qua, thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng lãnh đạo
NHNN từng bước đổi mới vững chắc, góp phần xứng đáng trong những thành
tựu của nền kinh tế đạt được: Mức tăng trưởng kinh tế cao và liên tục, ổn định
và kiểm soát lạm phát, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân.
Ngày nay CSTT ngày càng trở nên quan trọng, đối với hoạt động của các
NHTW, không ít các quốc gia đã xác định mục tiêu hoạt động của NHTW cũng
là mục tiêu của CSTT. Vì vậy, việc nâng cao vai trò của NHNN trong xây dựng
và thực thi CSTT có ý nghĩa quan trọng để góp phần đổi mới, hoàn thiện
NHNN trong thời gian tới
Vai trò của NHNN:


SVTH: Trịnh Thị Hằng Vân - Lớp CDTN13TH

9


Chuyên đề môn học

GVHD: ThS. Nguyễn Dụng Tuấn

- Thực hiện mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền quốc gia. Theo quy định tại
Điều 1 của Luật NHNN 12/1997.
“ Hoạt động NHNN nhằm ổn định giá trị đồng tiền, gốp phần bảo đảm an
toàn hoạt động ngân hàng, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội theo định hướng xã
hội chủ nghĩa”. Như vậy mục tiêu đầu tưiên đặt ra đối với hoạt động của NHNN
chính là ổn định giá trị đồng tiền quốc gia.
Trong những năm qua, với những nỗ lực mới, NHNN tiếp tục góp phần
xứng đáng trong thành công ổn định giá trị đồng tiền quốc gia. Đặc biệt, trong
điều kiện nền kinh tế bị tác động của nhiều khó khăn như ảnh hưởng của thiên
tai, khủng hoảng tiền tệ Châu Á...
- Xây dựng dự án CSTT quốc gia để chính phủ xem xét trình Quốc hội
quyết định và tổ chức thực hiện chính sách này .
- NHNN là cơ quan của chính phủ và là NHTW của nước cộng hoà
XHCN Việt Nam. Trên thực tế, NHNN được coi như một bộ đặc thù trong chính
phủ. Trong hoàn cảnh cụ thể của Việt nam, mô hình này có ưu điểm:
+ Trong cơ chế Đảng lãnh đạo và chính phủ quản lý thống nhất toàn diện
các mặt đời sống, kinh tế xã hội thì việc Thống đốc NHNN là thành viên của
chính phủ và có sự quan tâm, hỗ trợ của chính phủ đối với các hoạt động của
ngân hàng
+ Trong khi nền kinh tế Việt nam vẫn còn trong giai đoạn chuyển đổi,

chưa thể vận hành hoàn toàn và đầy đủ theo cơ chế kinh tế thị trường thì với vị
trí là một Bộ trong chính phủ, NHNN có thể giúp việc đắc lực hơn cho chính
phủ. Điều này có nghĩa là góp phần được nhiều hơn vào công cuộc đổi mới,
phát triển kinh tế đất nước.
+ Trong bất cứ sự phát triển nào đều phải trải qua các giai đoạn, nếu
chuyển ngay sang một mô hình tổ chức hoàn toàn khác thì chẳng những các cơ
quan, đơn vị có liên quan chưa chấp nhận, gây ách tắc trong việc phối hợp lẫn
nhau, mà bản thân NHNN cũng chưa chuẩn bị đầy đủ các điều kiện cần thiết để
theo cơ chế hoạt động hoàn toàn mới.
Ý kiến đề xuất:
SVTH: Trịnh Thị Hằng Vân - Lớp CDTN13TH

10


Chuyên đề môn học

GVHD: ThS. Nguyễn Dụng Tuấn

- Cho phép NHNN chủ động trong việc điều tiết lượng tiền cung ứng
cho lưu thông tiền tệ. Hàng năm, chính phủ duyệt lượng tiền bổ xung cho lưu
thông, nhưng không phải chỉ xuất phát từ nhu cầu cho chi tiêu ngân sách NN
mà phải xuất phát từ nhu cầu phát triển của nền kinh tế, của điều hành CSTT để
NHNN cố thể chủ động trong công tác phát hành tiền phục vụ thực hiện tốt
CSTT.
- Góp phần tăng cường khả năng điều hành các công cụ thực hiện CSTT
của NHNN. Tập trung mọi nguồn vốn tín dụng, đặc biệt là các nguồn vốn tài trợ
từ các tổ chức, cá nhân nước ngoài vào hệ thống ngân hàng không để tình trạng
phân tán các nguồn vốn tín dụng lamf cho NHNN không kiểm soát được nguồn
vốn này và vì thế không thể điều tiết lượng tiền cung ứng tring lưu thông.

- Hạn chế sự can thiệp quá sâu đói với NHNN của các cơ quan, tổ chức
trong hoạt động và thực hiện CSTT. NHNN cần được chủ động và chịu trách
nhiệm trước Quốc hội, Chính phủ về thực hiện CSTT. Các cơ quan, tổ chức
không can thiệp quá sâu vào hoạt động của NHNN.
- Hạn chế nhiệm vụ của NHNN với vai trò một bộ trong chính phủ và bộ
chủ quản để NHNN tập trung thực hiện vai trò NHTW của đất nước nên giảm
dần một số nhiệm vụ thuộc chức năng một bộ quản lý nhà nước thuần tuý, cũng
như bộ chủ quản đói với các TCTD Nhà nước.
1.3.4 Các công cụ thực hiện chính sách tiền tệ
Đối với các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng,
phát triển và tăng trưởng kinh tế luôn là mục tiêu của quốc gia. Trong khi nền
kinh tế phát triển thấp, tích luỹ từ nội bộ không, các nguồn lực của nền kinh tế
chưa có điều kiện khai thác thì việc hỗ trợ của dòng vốn từ bên ngoài là rất cần
thiết và đóng vai trò quan trọng đối việc tăng trưởng kinh tế.
Tuy nhiên để có thể thu hút dòng vốn từ bên ngoài đòi hỏi chúng ta
phải thực thi hàng loạt các chính sách kinh tế có liên quan nhằm tạo môi trường
cho dòng vốn được lưu chuyển dưới dạng tác động của cung cầu tiền tệ trên thị
trường. Ta biết rằng tiền tệ là vấn đề rất nhạy cảm,việc thực thi chính sách tiền
tệ không những tác động đến tình trạng của nền kinh tế quốc gia mà còn ảnh
SVTH: Trịnh Thị Hằng Vân - Lớp CDTN13TH

11


Chuyên đề môn học

GVHD: ThS. Nguyễn Dụng Tuấn

hưởng đến các nước khác do xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá nền kinh tế thế
giới. Mặt khác, việc thực thi chính sách tiền tệ rất đa dạng, phần kớn tuỳ vào

quan điểm nhận định của các nhà lãnh đạo, tuy nhiên, cho dù thế nào đi nữa thì
những gì đúc kết từ thực tiễn điều hành chính sách vẫn là cơ sở quan trọng cho
việc định hướng, hoàn thiện về sau. Trên tinh thần đó, việc nghiên cứu,tổng kết
việc thực thi chính sách tiền tệ trong thời gian qua là điều đáng quan tâm.
Theo điều 2 của Luật NHNN Việt nam thì: “chính sách tiền tệ là một
bộ phận của chính sách kinh tế-tài chính của nhà nước nhằm ổn định giá trị đồng
tiền, kiềm chế lạm phát, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm
quốc phòng an ninh và nâng cao đời sống nhân dân”. Với chính sách này, Nhà
nước thống nhất quản lý mọi hoạt động của ngân hàng, động viên các nguồn lực
trong nước, đồng thời tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài, tạo nguồn vốn để
phát triển kinh tế. Trên cơ sở đó, giữ vững định hướng XHCN, giữ vững chủ
quyền quốc gia mở rộng hợp tác và hội nhập quốc tế, đáp ứng yêu cầu phát triển
kinh tế xã hội,góp phần thực hiện công nghiệp hoá và hiện đại hoá.
Mục đích của chính sách tiền tệ là nhằm điều tiết lượng tiền trong lưu
thông, sự điều tiết này thể hiện qua 2 hướng: mở rộng tiền tệ và thắt chặt tiền tệ.
Việc điều tiết lượng cung tiền như thế nào để cho nền kinh tế phát triển một
cách nhịp nhàng luôn là vấn đề nan giải của các quốc gia,thiếu hay thừa tiền
luôn tác động tiêu cực đến nó. Tuy nhiên, trong thực tế điều hành chính sách
tiền tệ, tuỳ vào từng thời kỳ phát triển kinh tế và hoàn cảnh cụ thể của kinh tế
xã hội mà sử dụng chính sách thắt chặt hay mở rộng tiền tệ. Đây cũng là vấn đề
mang tính nhạy cảm của các nhà điều hành CSTT.
Để làm được điều này NHTW phải sử dụng hàng loạt các công cụ
.Công cụ của CSTT là hệ thống các biện pháp mà NHTW có thể sử dụng để tác
động vào mục tiêu của CSTT.
Mỗi loại công cụ đều có cơ chế tác động riêng và đem lại những kết
quả trên những khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên các công cụ này đều nhằm ảnh
hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến lượng tiền cung ứng và lãi suất để từ đó đạt
được các mục tiêu của CSTT .
SVTH: Trịnh Thị Hằng Vân - Lớp CDTN13TH


12


Chuyên đề môn học

GVHD: ThS. Nguyễn Dụng Tuấn

1.3.4.1 Công cụ trực tiếp:
Công cụ trực tiếp là công cụ có tác động về lượng và NHTW kiểm soát
công cụ bằng biện pháp hành chính. Khi NHTW sử dụng công cụ trực tiếp nó
tác động trực tiếp vào mục tiêu trung gian, từ mục tiêu trung gian đã tác động
đến tổng cầu.
Hạn mức tín dụng:
Hạn mức tín dụng là công cụ trực tiếp của CSTT, đó chính là mức dư nợ
tối đa mà NHTW buộc các TCTD phải tôn trọng khi cấp tín dụng cho nền kinh
tế. Khi sử dụng hạn mức tín dụng là khống chế dư nợ tín dụng của các NHTM,
từ đó nó quyết định đến lượng tiền cung ứng trong nền kinh tế, vì mỗi khoản cho
vay cấu thành dư nợ tín dụng của các NHTM thì tương đương với nó là một
nguồn vốn tiền gửi huy động, từ đó ảnh hưởng đến tỷ trọng vốn tín dụng so với
lượng tiền cung ứng. Để cho hạn mức tín dụng có hiêu quả thì khi đưa ra hạn
mức tín dụng bao giờ cũng phải nhỏ hơn nhu cầu vay của nền kinh tế dẫn đến
khan hiếm tiền. Khi đó viêc thay đổi HMTD mới có ý nghĩa tác động vào hạn
mức đồng thời tác động đến vốn trong nền kinh tế. Tuy nhiên, hạn mức tín dụng
nhỏ hơn nhu cầu vay của nền kinh tế là bao nhiêu còn là vấn đề cần xem xét.
NHTƯ căn cứ vào mục tiêu của CSTT, vào lượng tiền cung ứng để xác định
HMTD. Nếu HMTD quá nhỏ thì dẫn đến các NHTM sẽ độc quyền tín dụng và
ảnh hưởng đến lãi suất cho vay. Nếu HMTD lớn hơn so với nhu cầu vay thì các
NHTM sử dụng không hết hạn mức nên việc thay đổi hạn mức cũng không có
hiệu quả.
*Ưu điểm: Hạn mức tín dụng là công cụ hành nên NHTW chủ động thay

đổi quy định hạn mức theo mong muốn để đạt được các mục tiêu của CSTT. Khi
các công cụ khác không có điều kiện áp dụng thì công cụ này có thể phát huy
hiệu quả trong trường hợp lạm phát cao.
*Nhược điểm: Do đây là công cụ mang tính hành chính và do con người
xác định nên không thể chính xác và sẽ không có hiệu quả khi HMTD quy định
không phù hợp với nhu cầu tín dụng của nền kinh tế. Đây là công cụ kém linh
hoạt, không thể thay đổi thường xuyên. Một khi HMTD xác định không chính
SVTH: Trịnh Thị Hằng Vân - Lớp CDTN13TH

13


Chuyên đề môn học

GVHD: ThS. Nguyễn Dụng Tuấn

xác thì NHTƯ không thể chủ động sử dụng hạn mức để điều tiết tiền cung ứng.
Ở Việt nam, NHNN bắt đầu sử dụng HMTD như một công cụ của CSTT từ
tháng 6/1994. Thời kỳ đầu chỉ áp dụng cho 4NHTM quốc doanh là: NH ngoại
thương, NH công thương, NH đầu tư và phát triển. Nhưng sau vài năm đổi mới,
quy mô mở rộng tín dụng của các NHTM quá nhanh, nên NHNN quyết định áp
dụng HMTD cho hầu hết các NHTM .
Tính đến cuối năm 1997 có 26 NHTM trong nước phải áp dụng
HMTD. Tuy nhiên ngay từ năm 1995, 1996 công cụ HMTD đã bộc lộ những
hạn chế là mức tăng dư nợ tín dụng thực tế đã vượt quá HMTD cho phép và đến
năm 1998 công cụ HMTD đã mất dần vai trò của nó trong việc hạn chế sự gia
tăng của tổng phương tiện thanh toán. Hơn nữa việc mở rộng tín dụng trong giai
đoạn này là cần thiết để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nếu tiếp tục thực hiện
HMTD sẽ tạo thêm những nhân tố khó khăn cho các NHTM trong việc mở rộng
tín dụng. Vì vậy từ quý II năm 1998, NHNN đã không áp dụng công cụ này như

một công cụ thường xuyên để điều hành CSTT.
Theo chiều hướng phát triển của nền kinh tế, những năm tiếp theo khi
thị trường tiền tệ đã ổn định và thị trường vốn đã đi vào hoạt động thì công cụ
HMTD sẽ được xoá bỏ.
Công cụ lãi suất:
Bên cạnh HMTD, NHTW còn sử dụng công cụ lãi suất ấn định dưới
các hình thức như: ấn định khung lãi suất, ấn định trần lãi suất cho vay, sàn lãi
suất tiền gửi. NHTƯ ấn định trực tiếp trần lãi suất cho vay để khống chế mức lãi
suất mà các NHTM áp dụng cho vay với nền kinh tế Khi NHTW tăng, giảm trần
lãi suất cho vay, NHTM cũng phải tăng, giảm lãi suất cho vay đối với nền kinh
tế từ đó ảnh hưởng tới nhu cầu về vốn của các tổ chức kinh tế. Công cụ này
không phù hợp với cơ chế thị trường, hạn chế sự cạnh tranh của các NHTM.
Đặc biệt trong trường hợp NHTW ấn định mức lãi suất không phù hợp như mức
lãi suất quá thấp sẽ làm cho cầu tiền tăng nhanh hơn dự đoán, các ngân hàng gặp
khó khăn về nguồn vốn để đáp ứng nhu cầu này, mặt khác nếu mức lãi suất quá
cao sẽ làm cầu tiền giảm dẫn đến đầu tưư giảm, hệ thống NHTM sẽ không kịp
SVTH: Trịnh Thị Hằng Vân - Lớp CDTN13TH

14


Chuyên đề môn học

GVHD: ThS. Nguyễn Dụng Tuấn

điều chỉnh theo, bỏ lỡ cơ hội đầu tư. Khi NHTW ấn định lãi suất buộc các
NHTM phải chấp hành làm hạn chế tính linh hoạt của thị trường tiền tệ.
1.3.4.2 Công cụ gián tiếp:
Công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ là công cụ tác động vào mục
tiêu trung gian qua việc điều chỉnh các mục tiêu hoạt động .

Dự trữ bắt buộc:
Dự trữ bắt buộc là số tiền mà các TCTD phải gửi tại NHTW để thực hiện
CSTT quốc gia. Nó được xác định bằng một tỷ lệ % nhất định trên tổng số dư
tiền gửi tuỳ theo tính chất và thời hạn mà các TCTD huy động được. Tỷ lệ này
gọi là tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
Từ năm 1991, DTBB được áp dụng như là một công cụ chủ yếu để
điều hành CSTT ở Việt nam. Theo pháp lệnh ngân hàng, tỉ lệ DTBB có thể ở
mức từ 10% đến 30% tổng nguồn vốn huy động của các NHTM. Song xét hoàn
cảnh thực tế lúc bấy giờ: Tiềm lực của các NHTM Việt nam còn nhỏ bé và lạm
phát đã được kiềm chế ở mức đáng kể nên NHNN đã quy định tỉ lệ DTBB đối
với các NHTM ở nước ta là mức 10%. Lúc đầu, kỷ luật chấp hành tỉ lệ DTBB
của các NHTM chưa nghiêm, rất ít NHTM dự trữ đủ 10%, nhất là cácNHTM cổ
phần.
Để nâng cao tính hiệu lực của các công cụ này, tạo cơ sở cho việc quản
lý cung tiền một cách gián tiếp, trong năm 1994, NHNN đã hai lần điều chỉnh tỉ
lệ DTBB quy định mức DTBB thống nhất đối với tất cả các NHTM, đồng thời
đẩy mạnh việc áp dụng qui chế phạt đối với những trường hợp không tuân thủ
đúng quy định về DTBB.
Vào tháng 10/1995, NHNN đã ban hành quy chế DTBB mới nhằm
tăng thêm hiệu lực của công cụ này. Theo qui chế mới thì DTBB chỉ được tính
đối với các loại tiền gửi có kỳ hạn từ 12 tháng trở xuống, tỉ lệ DTBB thống nhất
ở mức 10% và được áp dụng cho tất cả các NHTM. Đến 1/12/1997 Thống đốc
NHNN tiếp tục ban hành quyết định về quy chế DTBB. Qui chế DTBB lần này
đã được quy định cụ thể hơn, linh hoạt hơn thể hiện ở việc quy định tiền gửi
DTBB tại NHNN được tính bình quân trong cả kỳ duy trì. Tỉ lệ DTBB được áp
SVTH: Trịnh Thị Hằng Vân - Lớp CDTN13TH

15



Chuyên đề môn học

GVHD: ThS. Nguyễn Dụng Tuấn

dụng chung cho các NHTM và các loại tiền gửi huy động có kỳ hạn dưới 12
tháng là 10%, NHNN không phải trả lãi cho tiền gửi DTBB. Những quy định
mới đã khuyến khích các NHTM chủ động hơn trong điều hành nguồn vốn kinh
doanh và thực hiện DTBB đúng như quy định phù hợp với mục tiêu điều hành
CSTT trong giai đoạn này.
Vào cuối năm 1998 đầu năm 1999, NHNN tiếp tục hạ thấp tỉ lệ DTBB
đối với các NHTM nhằm mở rộng tín dụng và kích thích đầu tư. Tuy nhiên, qua
vài tháng sau nền kinh tế vẫn tiếp tục có những biểu hiện khác thường. Trước
tình hình đó, NHNN ra quyết định giảm tỉ lệ DTBB đối với tiền gửi không kỳ
hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng của các NHTM do lãi suất giảm tạo điều kiện để
các NHTM giảm lãi suất cho vay, từ đó tăng khả năng cung ứng vốn cho nền
kinh tế góp phần đưa nền kinh tế tăng trưởng trở lại .
Công cụ này có ưu, nhược điểm sau:
*Ưu điểm:

DTBB là công cụ chủ động của NHTW, NHTW có quyền

quy định mà các NHTM không có quyền phản đối, sự thay đổi tỉ lệ DTBB là tuỳ
thuộc vào ý muốn của NHTW. Thay đổi một tỉ lệ DTBB sẽ gây tác động mạnh
tới thay đổi lượng tiền cung ứng vì NHTW chỉ cần thay đổi một tỉ lệ % nhỏ tỉ lệ
DTBB thì sẽ dẫn đến thay đổi bội số của lượng tiền cung ứng vì nó tác động đến
tát cả các TCTD.
*Nhược điểm: Tuy nhiên tăng, giảm DTBB không thể thay đổi thường
xuyên vì nếu thay đổi thường xuyên sẽ gây xáo trộn hoạt động của các TCTD
dẫn đến việc quản lý vốn khả dụng của các NHTM trở nên khó khăn. Tiền gửi
DTBB không tính lãi nên sẽ ảnh hưởng đến chi phí của các TCTD, nếu DTBB

cao dẫn đến chi phí lớn coi như một khoản thuế đánh vào các TCTD.
Vì vậy, sử dụng công cụ DTBB là giải pháp tình thế khi cần thiết phải
thắt chặt tiền tệ. Hiện nay một số nước không còn chú ý đến công cụ này nữa và
có thể quy định mức DTBB bằng 0 hoặc kết hợp với các công cụ khác để thực
thi CSTT.
Công cụ cho vay chiết khấu:

SVTH: Trịnh Thị Hằng Vân - Lớp CDTN13TH

16


Chuyên đề môn học

GVHD: ThS. Nguyễn Dụng Tuấn

Cho vay chiết khấu được coi là một công cụ gián tiếp để giúp NHTW các
nước thực hiện CSTT của mình. Tuy nhiên, việc áp dụng công cụ này ở Việt
nam những năm vừa qua còn đang ở trạng thái giản đơn do các phương tiện
làm căn cứ để NHNN thực hiện cho vay chiết khấu còn chơa phát triển đầy đủ.
Tuy vậy ngay từ năm đầu của quá trình đổi mới để thực hiện CSTT, NHNN đã
áp dụng hìmh thức cho vay chiết khấu đối với cácNHTM. Cơ sở để thực hiện
chiết khấu là các khế ước tín dụng tức là các văn bản pháp lý ghi nhận một
khoản vay với một mức lãi suất vàmột thời hạn nợ nhất định của một DN đối
với một NHTM Thông qua việc thế chấp các khế ước tín dụng này, NHNN đã
cho vay ngắn hạn đối với các NHTM, nhờ vậy mà các NHTM đã khắc phục
được những khó khăn tạm thời trong thanh toán, lại có thể đáp ứng được nhu
cầu tín dụng cho nền kinh tế.
Bên cạnh đó, NHTW đã áp dụng lãi suất tái chiết khấu. Đây là loại lãi
suất được NHTW áp dụng để chiết khấu lại các chứng từ có giá của các NHTM.

Lãi suất tái chiết khấu tác động vào giá tín dụng nên khi lãi suất tái chiết khấu
tăng sẽ tác đôngj vào mặt bằng giá vốn đầu vào của NHTM, gây áp lực và lãi
suất nền kinh tế sẽ tăng theo dẫn đến thu hẹp khả năng cho vay của NHTM, làm
cho hệ số tạo tiền giảm và ngược lại. Đi kèm với lãi suất tái chiết khấu, NHTW
còn quy định hạn mức tái chiết khấu tức là quy định mức cho vay tối đa trên cơ
sở lãi suất đã quy định để gây ảnh hưởng về lượng vốn mà các TCTD vay của
NHTW .
Ưu, nhược điểm của công cụ này:
*Ưu điểm: Chính sách tái chiết khấu là công cụ có khả năng tác động vào
các mục tiêu trung gian của CSTT. NHTW chủ động sử dụng công cụ này thể
hiện qua việc chủ động quy định lãi suất tái chiết khấu, hạn mức tái chiết khấu
và các điều kiện chiết khấu cho từng đối tượng cụ thể. Chính sách tái chiết khấu
là công cụ linh hoạt, sự nhạy cảm của CSTT với lãi suất sẽ ảnh hưởng đến toàn
bộ cơ cấu cho vay của các TCTD với hiệu ứng thông báo mạnh có tác động đến
nền kinh tế. NHTW có thể dùnh chính sách này để thực hiện vai trò người cho
vay cuối cùng cung cấp dự trữ cho hệ thống NHTM khi nó thiếu vốn khả dụng,
SVTH: Trịnh Thị Hằng Vân - Lớp CDTN13TH

17


Chuyên đề môn học

GVHD: ThS. Nguyễn Dụng Tuấn

nhất là trong điều kiện xảy ra khủng hoảng ngân hàng, lúc này cửa sổ chiết khấu
giống như cái van an toàn cho hệ thống tiền tệ của quốc gia.
*Nhược điểm: Công cụ này không phát huy hiệu quả khi các điều kiện tái
chiết khấu không đảm bảo. Nhiều khi NHTW không thể chủ động chi phối được
số tiền tái chiết khấu vì nó còn phụ thuộc vào nhu cầu vốn của TCTD. Mặt khác,

công cụ này còn có ý nghĩa tác động một chiều, khi cần tăng lượng tiền cung
ứng thì NHTW sẽ điều chỉnh lãi suất thấp để các NHTM có nhu cầu vay và sẽ
gặp khó khăn khi cần thu tiền về vì bị ràng buộc bởi thời gian. Hơn nữa, chính
sách tái chiết khếu có thể làm lẫn lộn những ý định của NHTW do việc thay đổi
lãi suất, vì thế để khắc phục phải biết kết hợp công cụ này với các công cụ khác
như công cụ dự trữ bắt buộc.
1.3.4.3 Công cụ nghiệp vụ thị trường mở:
Thị trường mở là thị trường tiền tệ mà ở đó người ta thực hiện việc
mua-bán các công cụ tài chính ngắn hạn. Nghiệp vụ thị trường mở là hoạt động
mua- bán các chứng từ có giá ngắn hạn của NHTƯ trên thị trường mở.
Ở Việt nam, sau nhiều năm tích cực chuẩn bị triển khai, tới ngày
12/7/2000, nghiệp vụ thị trường mở do NHNN chủ trì đã mở phiên giao dịch
đầu tiên đánh dấu một bước phát triển quan trọng trong điều hành CSTT của
NHTW theo phương pháp gián tiếp. Ở đây ta trình bày vài nét về mục tiêu và
nhiệm vụ của CSTT-Xuất phát điểm để NHTW đưa ra các công cụ điều hành. Ở
góc độ khái quát, CSTT là những mục tiêu và những giải pháp đồng bộ mà
NHTW sử dụng trong điều hành nhằm tác động vào khả năng sẵn có và giá của
vốn khả dụng, qua đó ảnh hưởng lên toàn bộ các hoạt động tiền tệ, tín dụng
trong nền kinh tế.

Nói cách khác, CSTT phải nhằm vào mục tiêu bảo đảm

ổn định giá trị đồng tiền và an toàn hệ thống tín dụng bằng cách kiểm soát các
kênh bơm và rút tiền NHTW trong lưu thông. Theo thuật ngữ tiền tệ, đây là
nhiệm vụ kiểm soát lượng tiền cung ứng được điều tiêt qua hai kênh bao gồm
kênh tín dụng và kênh mua bán.

SVTH: Trịnh Thị Hằng Vân - Lớp CDTN13TH

18



Chuyên đề môn học

GVHD: ThS. Nguyễn Dụng Tuấn

Các tăng hay giảm tiền cung ứng qua các kênh này đều có những ưu
nhược điểm khác nhau phụ thuộc vào điều kiện khách quan của nền kinh tế và
khả năng cho phép của NHTW.
Theo đánh giá của các chuyên gia NHTW, điều tiết lượng tiền cung
ứng qua nghiệp vụ thị trường mở có nhiều ưu thế hơn các kênh khác. Tại đây
NHTW đóng vai trò người chủ trì có điều kiện thực hiện ý đồ kiểm soát của
mình một cách chủ động. Thông qua việc mua bán các giấy tờ có giá trên thị
trường thứ cấp giữa một bên là NHTW với một bên khác là các TCTD, làm
lượng tiền biến thiên chỉ theo một chiều hoặc tăng giảm phù hợp với yêu cầu
can thiệp của NHTW.

SVTH: Trịnh Thị Hằng Vân - Lớp CDTN13TH

19


Chuyên đề môn học

GVHD: ThS. Nguyễn Dụng Tuấn

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG TỒN TẠI TỪ HOẠT
ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA VIỆT NAM
Kể từ thực hiện chính sách cải cách và mở cửa, chuyển nền kinh tế kế
hoạch hoá tập trung sang hoạt động theo cơ chế thị trường, toàn bộ hệ thống tổ

chức và hoạt động của NHNN đã được đổi mới sâu sắc và đã đạt được những
kết quả bước đầu đáng khích lệ. Nhờ đổi mới toàn diện CSTT từ hoạch định đến
chỉ đạo thực hiện, bằng việc sử dụng các giải pháp tình thế mạnh dạn lúc đầu,
đến sử dụng từng bước có hiệu quả các công cụ của chính sách tiền tệ, lạm phát
bị đẩy lùi và kiềm chế ở mức thấp, yêu cầu ổn định tiền tệ bước đầu được thực
hiện góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phục vụ phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần theo định hướng XHCN. Để có được kết quả đó, bản thân công tác
hoạch định cà điều hành CSTT cũng trải qua không ít khó khăn, không ngừng
được đổi mới để hoàn thiện.
2.1 Thực trạng thi hành chính sách tiền tệ
Trước những diễn biến phức tạp của nền kinh tế, trong thời gian qua,
CSTT được điều hành linh hoạt, thận trọng và liên tục được điều chỉnh cho phù
hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô trong từng giai đoạn. Năm 2012 và 2013, Chính
phủ đã đưa ra những giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, hỗ trợ thị trường
nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong điều kiện ổn định vĩ mô còn chưa vững
chắc là cần thiết, có ý nghĩa quan trọng để đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế đất
nước. Trong đó, những gói giải pháp tài khóa và tiền tệ được triển khai đồng bộ
luôn có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả cũng như mục tiêu đề ra.
Cụ thể, tình hình kinh tế - xã hội năm 2012 đã có những kết quả tích cực, cơ
bản hoàn thành được các mục tiêu đề ra. Các giải pháp kiềm chế lạm phát và ổn
định kinh tế vĩ mô tiếp tục phát huy hiệu quả. Lạm phát được kiểm soát ở mức
thấp, chỉ số giá tiêu dùng tăng thấp so với năm 2011. Cán cân thanh toán quốc tế
cải thiện; lãi suất giảm mạnh; thanh khoản của hệ thống ngân hàng được đảm
bảo; kim ngạch xuất khẩu ước tăng đáng kể so với chỉ tiêu kế hoạch đề ra; dự

SVTH: Trịnh Thị Hằng Vân - Lớp CDTN13TH

20



Chuyên đề môn học

GVHD: ThS. Nguyễn Dụng Tuấn

trữ ngoại hối được cải thiện; tỷ giá ổn định. Khó khăn trong sản xuất, kinh
doanh từng bước được tháo gỡ và có chuyển biến tích cực.
Nhìn lại diễn biến kinh tế vĩ mô và điều hành chính sách tiền tệ cho
thấy, năm 2012, tình hình kinh tế thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, thương
mại và tăng trưởng toàn cầu phục hồi chậm, ảnh hưởng xấu tới các hoạt động
kinh tế đối ngoại của Việt Nam. Trong nước, nền kinh tế phải đối mặt với nhiều
thách thức như cầu nội địa giảm mạnh, lượng hàng tồn kho lớn, hoạt động sản
xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn. Trong bối cảnh đó, NHNN đã triển khai
nhiều biện pháp chính sách quyết liệt và chủ động trong điều hành hoạt động
ngân hàng.
Đầu tiên phải kể đến là chính sách lãi suất. Trong năm 2012, NHNN đã
liên tiếp thực hiện giảm mặt bằng lãi suất, điều chỉnh giảm 4 lần đối với lãi suất
tái cấp vốn từ 15% xuống 10%, lãi suất chiết khấu từ 13% xuống 8%. Lãi suất
trên thị trường mở giảm 6 lần. Điều chỉnh giảm 4 lần trần lãi suất tiền gửi tối đa
bằng VNĐ, từ 14%/năm xuống 9%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn 1 tháng đến
12 tháng; từ 6%/năm xuống 2% năm đối với tiền gửi không kỳ hạn. Đồng thời,
áp dụng lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VNĐ đối với bốn lĩnh vực ưu tiên
(nông nghiệp nông thôn, xuất khẩu, doanh nghiệp vừa và nhỏ, ngành công
nghiệp hỗ trợ), lãi suất điều chỉnh giảm từ 15% xuống còn 13%. Riêng đối với
tiền gửi trên 12 tháng, NHNN cho phép các tổ chức tín dụng tự ấn định trên cơ
sở quan hệ cung cầu. Nhờ đó, đã góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ
mô. Bởi, theo phân tích của các chuyên gia kinh tế, ngoài nguyên nhân sâu xa từ
những bất cập của nền kinh tế như năng suất lao động thấp, chất lượng đầu tư
kém hiệu quả, giá cả thế giới và yếu tố kỳ vọng lạm phát... thì yếu tố tăng trưởng
tiền tệ cao, tín dụng tăng cao trong nhiều năm qua cũng là một trong những tác
nhân gây ra lạm phát. Thậm chí, tín dụng tăng cao cũng là một trong những

nhân tố gây ra sự thiếu thanh khoản của thị trường và là yếu tố tiềm ẩn phát sinh
những bất ổn của hệ thống ngân hàng.
Mặt khác, đánh giá thực trạng của hệ thống ngân hàng cho thấy, mặc dù
các sản phẩm dịch vụ khác đã phát triển tương đối đa dạng, song, doanh thu hoạt
SVTH: Trịnh Thị Hằng Vân - Lớp CDTN13TH

21


Chuyên đề môn học

GVHD: ThS. Nguyễn Dụng Tuấn

động của các ngân hàng vẫn chủ yếu dựa vào hoạt động tín dụng, do vậy, để có
lợi nhuận, không ít các ngân hàng thương mại, nhất là ngân hàng thương mại
nhỏ mới thành lập, đã đẩy mạnh việc cho vay vượt cả năng lực tài chính và khả
năng quản trị... Như vậy càng khẳng định rằng, việc thực hiện biện pháp hạn
mức tín dụng của NHNN là rất cần thiết và phù hợp.
Trong năm 2012, hạn mức tín dụng được NHNN xác định phù hợp với
năng lực, quy mô hoạt động của các tổ chức tín dụng, theo đó, hạn mức tín dụng
được chia thành bốn nhóm, tương ứng với các mức: 17%, 15%, 8% và 0%; quy
định tỷ trọng dư nợ tín dụng cho lĩnh vực không khuyến khích 16%; đồng thời
áp dụng các biện pháp giám sát chặt chẽ việc thực hiện của các tổ chức tín dụng.
Giải pháp này đã được NHNN thực hiện quyết liệt từ những tháng cuối năm
2011 và tiếp tục triển khai trong năm 2012, tạo ra những tác động tích cực đến
thị trường, lạm phát được kiềm chế ở mức thấp, thanh khoản thị trường cũng đã
được cải thiện, góp phần hạ thấp mặt bằng lãi suất.
Bên cạnh việc thực hiện hạn mức tín dụng, trong năm 2012, NHNN
cũng đã thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ để tháo gỡ khó khăn cho doanh
nghiệp, tạo điều kiện cho người dân và doanh nghiệp vay vốn ngân hàng, như:

chỉ đạo các tổ chức tín dụng tiết kiệm chi phí để giảm mặt bằng lãi suất, thúc
đẩy chuyển dịch cơ cấu tín dụng theo hướng tập trung vốn cho các lĩnh vực ưu
tiên theo chỉ đạo của Chính phủ.
Để khuyến khích chuyển dịch nguồn vốn vào lĩnh vực nông nghiệp,
nông thôn, NHNN đã áp dụng một tỷ lệ dự trữ bắt buộc thấp hơn đối với các tổ
chức tín dụng có tỷ trọng cho vay nông nghiệp nông thôn, và có chính sách tín
dụng chỉ đạo các tổ chức tín dụng trong việc cho vay đối với các hộ gia đình,
trang trại, hợp tác xã, doanh nghiệp sản xuất chăn nuôi, nuôi cá tra, chế biến cá
tra xuất khẩu (theo chỉ đạo của Chính phủ tại văn bản 1149/TTg-KTN ngày
20/8/2012), hỗ trợ giảm tổn thất sau thu hoạch đối với nông sản, thủy sản. Theo
đó, các tổ chức tín dụng được phép giãn nợ tối đa 24 tháng, hạ lãi suất đối với
các khoản vốn đã cho vay, tiếp tục cho vay mới với lãi suất thấp hơn thị trường
(11%/năm), cho vay vốn để đầu tư máy móc giảm tổn thất sau thu hoạch đối với
SVTH: Trịnh Thị Hằng Vân - Lớp CDTN13TH

22


Chuyên đề môn học

GVHD: ThS. Nguyễn Dụng Tuấn

các đối tượng trên; yêu cầu các ngân hàng thương mại chủ động rà soát, đánh
giá khả năng trả nợ của khách hàng vay vốn; thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ
đối với khách hàng vay vốn; thực hiện phân loại nợ đối với các khoản nợ cơ cấu
lại thời hạn nợ (Quyết định 780/QĐ-NHNN ngày 24/4/2012); xem xét cho vay
mới đối với các nhu cầu vay có hiệu quả, đảm bảo khả năng trả nợ; thực hiện tiết
kiệm, giảm chi phí để có thể hạ thấp lãi suất cho vay đối với doanh nghiệp, kể cả
đối với những khoản vay đã ký hợp đồng trước đó, và xem xét miễn trả lãi đối
với những khách hàng bị tổn thất về tài sản dẫn đến khó khăn về tài chính theo

quy định của NHNN .
Các biện pháp chính sách này thực tế đã đi vào cuộc sống, với chưa đầy
một tháng, hầu hết các ngân hàng thương mại đã đồng loạt hạ lãi suất. Đến cuối
tháng 10/2012, mặt bằng lãi suất huy động và cho vay trong lĩnh vực sản xuất đã
có sự giảm mạnh so với đầu năm (huy động tối đa là 9%, lãi suất cho vay lĩnh
vực ưu tiên ở mức 9% - 13%, các lĩnh vực sản xuất khác 12% - 15%).
Đối với ngoại tệ, lãi suất huy động và cho vay tương đối ổn định, lãi
suất huy động phổ biến ở mức 2%/năm đối với tiền gửi của dân cư và 0,5 1%/năm đối với tiền gửi của tổ chức kinh tế, lãi suất cho vay phổ biến ở mức từ
5,3% - 7,5%/năm. Trong khi đó, lãi suất cho vay bằng VNĐ giảm mạnh từ 4 5% so với thời điểm cuối năm 2011. Cùng đó, mức tăng trưởng tín dụng trong
ba quý cuối năm đã được cải thiện hơn so với quý I và tăng trưởng tín dụng
hàng tháng đều đạt giá trị dương.
Điểm đáng lưu ý nữa trong điều hành chính sách tiền tệ năm 2012 phải
kể tới đó chính là sự chủ động cao của NHNN trong quá trình thực hiện các mục
tiêu của chính sách tiền tệ, các công cụ chính sách tiền tệ, tỷ giá trong quá trình
điều hành có sự kết hợp với chính sách quản lý ngoại hối đã góp phần ổn định tỷ
giá, tăng lòng tin vào đồng Việt Nam, từng bước thực hiện chủ trương giảm dần
tình trạng đô la hóa. Cán cân thanh toán thặng dư sau nhiều năm thâm hụt, thanh
khoản của VNĐ và USD trong toàn hệ thống được đảm bảo và cải thiện, trật tự
kỷ cương thị trường được tăng cường; phần lớn các tổ chức tín dụng đáp ứng
được tỷ lệ đảm bảo an toàn vốn.
SVTH: Trịnh Thị Hằng Vân - Lớp CDTN13TH

23


×