Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

Xây dựng hệ thống chỉ tiêu phản ánh tình hình Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn .

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (356.89 KB, 64 trang )

Lời mở đầu

Sau 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới(1986-1996) với đại hội
VIII của Đảng, nớc ta chính thức bớc vào thời kỳ CNH-HĐH đất nớc.
Ngành Thống kê có nhiệm vụ thu thập, xử lý, phân tích và cung cấp
thông tin thống kê phản ánh thức trạng nền kinh tế xã hội. Với xu hớng
phát triển để dự báo ngắn hạn, dài hạn, giúp cho các cấp lãnh đạo
Đảng, Nhà nớc có căn cứ đánh giá đúng đắn và kịp thời diễn biến về
quá trình CNH-HĐH, để có giải pháp điều chỉnh, bổ sung, thúc đẩy có
hiệu quả quá trình CNH-HĐH đất nớc.
Từ những năm thực hiện đổi mới đến nay, hẹ thống chỉ tiêu kinh
tế xã hội đang đợc hoàn chỉnh dần cho phù hợp với nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần. Các chỉ tiêu thống kê phản ánh trình độ CNHHĐH là một bộ phận của hệ thống chỉ tiêu nói chung, có nhiệm vụ
phản ánh những yêu cầu và nội dung CNH-HĐH trong từng thời kỳ. Đó
là sự tác động của CNH và khoa học công nghệ tiên tiến vào hoạt động
của các ngành nhằm nâng cao năng suất, chất lợng, hiệu quả trong sản
xuất kinh doanh.
Nông nghiệp là một ngành quan trọng trong nền kinh tế quốc
dân, nhất là đối với nớc ta.,hiện nay còn là một nớc dựa trên sản xuất
nông nghiệp là chủ yếu, dân số sống ở nông thôn là chủ yếu. Do đó, để
thực hiện CNH-HĐH đất nớc thì CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn
chiếm một vị trí rất quan trọng. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã
đặc biệt coi trọng CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn , coi đó là nhiệm
vụ, mục tiêu chủ yếu trong quá trình CNH-HĐH đất nớc. Chính vì vậy,
Nghị quyết TW 2 (khoá VIII) đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò khoa học
công nghệ, đẩy nhanh một bớc sự nghiệp CNH-HĐH đất nớc.
Trong thời gian qua, ngành Thống kê đã xây dựng nhiều chỉ tiêu
chi tiết, cụ thể trong từng ngành, từng lĩnh vực nông nghiệp để phản
ánh một cách đúng đắn và chính xác tình hình CNH-HĐH nông
nghiệp, nông thôn. Mặc dù có rất nhiều cố gắng nhng hệ thống chỉ tiêu
thống kê vẫn còn nhiều khó khăn cần khắc phục, đây cũng là lý do


khiến em chọn hớng nghiên cứu về hệ thống chỉ tiêu thống kê phản ánh


trình độ CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn . Chuyên đề của em gồm 3
chơng:
Chơng I : Cơ sở lý luận và thực tiễn về CNH-HĐH.
Chơng II : Một số vấn đề lý luận chung về hệ thống chỉ tiêu
thống kê.
Chơng III: Xây dựng hệ thống chỉ tiêu phản ánh tình hình
CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn .
Để hoàn thành chuyên đề, em trân thành cám ơn sự giúp đỡ nhiệt
tình của các bác ở Viện Khoa học Thống kê và các thầy cô giáo ở trờng. Đặc biệt, em xin cám ơn TS. Nguyễn Xuân Tờng và cô Trần Thị
Bích là hai ngời trực tiếp hớng dẫn, giúp đỡ em rất nhiều trong suốt
thời gian thực tập và trong cả quá trình nghiên cứu để hoàn thành
chuyên đề.

ChơngI
cơ sở lý luận và thực tiễn về
công nghiệp hoá - hiện đại hoá


I . Tầm quan trọng của CNH-HĐH.
1. Tính tất yếu của CNH-HĐH.
Lịch sử phát triển của sản xuất xã hội đã chứng minh
rằng, mỗi phơng thức sản xuất của xã hội chỉ có thể đ ợc xác
lập một cách vững chắc trên một cơ sở vật chất kỹ thuật
thích ứng nhất định. Chính cơ sở vật chất- kỹ thuật này là
một trong những nhân tố quan trọng nhất để xác định ph ơng
thức sản xuất đó thuộc loại hình xã hội nào và thuộc thời đại
kinh tế nào. Cơ sở vật chất kỹ thuật của mỗi ph ơng thức sản

xuất của xã hội là tổng thể hữu cơ các yếu tố vật chất của lực
lợng sản xuất đạt đ ợc trong những điều kiện lịch sử nhất
định của tiến bộ khoa học và công nghệ. Dựa trên đó, lực l ợng lao động của xã hội ấy sản xuất ra của cải vật chất để
thoả mãn nhu cầu của xã hội. Cơ sở vật chất kỹ thuật của
CNXH, một mặt phải kế thừa những thành quả đã đạt đ ợc
trong xã hội trớc đó ; mặt khác, nó đ ợc phát triển và hoàn
thiện trên cơ sở các thành tựu của cách mạng khoa học- công
nghệ hiện đại để đáp ứng đ ợc nhu cầu của chế độ xã hội mới.
Đó chính là nền công nghiệp và công nghệ tiên tiến, trong đó
ngành chế tạo cơ khí giữ vị trí then chốt, có đủ khả năng
trang bị kỹ thuật hiện đại cho các ngành kinh tế quốc dân,
nhằm không ngừng phát triển sản xuất và nâng cao đời sống
về mọi mặt cho nhân dân. Trong điều kiện xu thế quốc tế
hoá, sản xuất phát triển ngày càng sâu rộng thì cơ cấu của
nền công nghiệp hiện đại có sự kết hợp chặt chẽ phân công
và chuyên môn hoá trong n ớc và quốc tế, nhằm kết hợp tối u
sức mạnh của quốc gia và quốc tế, của nhân dân và thời đại.
Xây dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật cho nền sản xuất lớn, hiện đại
là một quy luật chung, phổ biến đối với tất cả các nớc. Tuy nhiên, tuỳ
từng nớc khác nhau, do điểm xuất phát tiến lên không giống nhau nên
cách thức tiến hành xây dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật cho nền sản xuất
lớn hiện đại sễ không giống nhau. Công nghiệp hoá chính là con đờng
và bớc đi tất yếu để tạo ra cơ sở vật chất-kỹ thuật cho nền sản xuất lớn
và hiện đại. Đó là nấc thang lịch sử tất yếu mà một nớc nào đó muốn
đạt đợc trình độ phát triển đều phải trải qua.


Nớc ta là một nớc có nền kinh tế mang nặng tính chất nông
nghệp lạc hậu, sản xuất công nghiệp và dịch vụ còn quá nhỏ bé, cha
thực sự đợc phát huy đúng mức, kết cấu hạ tầng kém phát triển, khả

năng tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế và đầu t phát triển còn thấp, cha đợc
quan tâm thích đáng. Nền kinh tế tuy có mức tăng trởng khá nhng năng
suất, chất lợng, hiệu quả còn rất thấp, khả năng kiềm chế lạm phát cha
vững chắc. ở nớc ta hiện nay, muốn xây dựng thành công CNXH phải
có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lợng sản xuất hiện đại.
Do đó, nếu không quan tâm trớc hết đến phát triển lực lợng sản xuất,
giải phóng mọi năng lực sản xuất thì không thể nói đến việc quá độ nên
XHCN. Nhận thức rõ vai trò của lực lợng sản xuất về sự thiếu hụt một
lực lợng sản xuất phát triển hiện đại của nớc ta nên ngay từ đầu, Đảng
ta luôn xác định công nghiệp hoá là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời
kỳ quá độ lên CNXH.
Nớc ta là một nớc đông dân mà phần lớn dân c lại sống ở nông
thôn, không có việc làm nên tình trạng thất nghiệp vẫn luôn là vấn đề
bức xúc và đó cũng là một trong những nguyên nhân cơ bản nảy sinh
tiêu cực của xã hội. Thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá không
những bắt nguồn từ yêu cầu phát triển kinh tế mà còn bắt nguồn từ yêu
cầu của sự phát triển các mặc khác của đời sống xã hội nh y tế, văn
hoá, giáo dục,.. và của toàn bộ sự nghiệp xây dựng CNXH.
Trong điều kiện mới của sự phát triển kinh tế, mối quan hệ giữa
các ngành, các vùng trong phạm vi một nớc và giữa các nớc với nhau
ngày càng phức tạp và đa dạng, đòi hỏi phải nâng cao vai trò kinh tế
của Nhà nớc, nâng cao khả năng tích luỹ mở rộng sản xuất, phát triển
làm xuất hiện thêm nhiều ngành mới để từng bớc giải quyết các nhu
cầu việc làm cho ngời lao động. Ngày nay, nhân tố con ngời đang trở
thành vấn đề trung tâm. Do vậy, vai trò của nhân tố con ngời trong nền
sản xuất, đặc biệt là trong nền sản xuất lớn hiện đại, kỹ thuật cao đợc
quan tâm thích đáng. Để phát huy đầy đủ vai trò của mình, con ngời tất
yếu phải là những con ngời hiện đại, có trình độ khoa học kỹ thuật cao,
nắm bắt kịp thời những kỹ thuật, công nghệ tiên tiến trên thế giới. Thực
tế cho thấy rằng, chỉ trên cơ sở thực hiện tốt công nghiệp hoá mới có

khả năng để quan tâm đầy đủ đến sự phát triển tự do và toàn diện của
nhân tố con ngời.


Công nghiệp hoá tạo điều kiện vật chất cho việc củng cố và tăng
cờng tiềm lực quốc phòng, cho sự thống nhất giữa sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ tổ quốc XHCN. Trong đó, việc cung cấp và đảm bảo cho
quốc phòng các yếu tố vật chất kỹ thuật có ý nghĩa đặc biệt quan trọng,
tạo ra tiềm lực to lớn cho quốc phòng.
Công nghiệp hoá còn là yếu tố khách quan của sự mở rộng quan
hệ kinh tế đối ngoại, tăng cờng tham gia vào phân công và hợp tác kinh
tế quốc tế với các nớc trên thế giới.
Công nghiệp hoá là một quá trình phát triển kinh tế. Hiện nay, dới tác động mạnh mẽ của khoa học- kỹ thuật và xu thế quốc tế hoá...
Công nghiệp hoá càng là con đờng tất yếu mà các nớc đang phát triển
nói chung, nớc ta nói riêng phải trải qua để có thể sánh vai với các nớc
trong khu vực và trên thế giới, giữ ổn định xã hội, chính trị, bảo vệ đợc
độc lập chủ quyền và định hớng phát triển CNXH.
ở nớc ta, công nghiệp hoá phải gắn liền với hiện đại hoá để tạo
lập cơ sở vật chất- kỹ thuật và cơ cấu kinh tế cho CNXH, nhằm thúc
đẩy Nhà nớc và toàn bộ nền kinh tế quốc dân phát triển triển theo định
hớng XHCN. CNH-HĐH là con đờng tất yếu để chuyển nền kinh tế,
chủ yếu là nông nghiệp lạc hậu sang nền kinh tế hiện đaị với cơ cấu
kinh tế công-nông nghiệp-dịch vụ hợp lý, trong đó công nghiệp và dịch
vụ ngày một chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu tổng sản phẩm quốc dân.
Nhng do nớc ta tiến hành CNH-HĐH trong điều kiện quốc tế hoá, cho
nên phải gắn với việc mở rộng thị trờng trong và ngoài nớc, đa nền kinh
tế nớc ta hội nhập với nền kinh tế khu vực thế giới.
CNH-HĐH là một quá trình phấn đấu lâu dài gian khổ, Đảng và
Nhà nớc ta đã coi CNH-HĐH là giải pháp nhất định, đa đất nớc ta sớm
thoát ra khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, khắc phục nguy cơ tụt hậu

xa hơn về mọi mặt mà đặc biệt là kinh tế. Việc xác định đẩy mạnh quá
trình CNH-HĐH, nhằm đa đất nớc đi lên là hoàn toàn đúng đắn và
khoa học, hợp quy luật của lịch sử, Nó có vai trò lớn ảnh hởng đến chất
lợng của sản phẩm, chất lợng quản lý, quyết định sức mạnh cạnh tranh
và tốc độ phát triển của mỗi quốc gia. Đảng ta đã khẳng định mục tiêu
lâu dài của CNH-HĐH là cải tiến nớc ta thành một nớc công nghiệp có
cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản


xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lợng sản xuất, mức
sống vật chất và tinh thần cao.
2. Vai trò của CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn.
CNH-HĐH là quy luật phổ biến của tất cả các nớc tiến lên một
nền kinh tế xã hội hiện đại và phát triển. Đó là con đờng tất yếu mà
mọi quốc gia không thể bỏ qua để đạt đợc thành quả phát triển về kinh
tế xã hội và thoát khỏi nguy cơ bị tụt hậu. Do xuất phát điểm từ một nớc nông nghiệp với 76,5% dân số sống ở nông thôn, sản xuất nông
nghiệp chiếm 25,4% tổng sản phẩm trong nớc, Việt nam coi CNHHĐH nông nghiệp, nông thôn là vấn đề đầu tiên và trọng tâm. Đây vừa
là mục tiêu vừa là động lực cho sự phát triển nền kinh tế xã hội của đất
nớc. Nghị quyết đại hội lần thứ VIII đã chỉ rõ đặc biệt coi trọng
CNH-HĐH nông thôn, nông nghiệp ; phát triển toàn diện nông,
lâm, ng nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản ;
phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
Đó là quan điểm của Đảng cần đợc cụ thể hoá trong thực tiễn của mỗi
ngành, mỗi cấp từ TW đến địa phơng. Song dù ngành nào, cấp nào
cũng cần thiết quán triệt các nội dung và yêu cầu của CNH-HĐH nông
thôn, nông nghiệp thời kỳ đổi mới và mở cửa hiện nay.
Nông nghiệp-nông thôn đóng vai trò quan trọng trong quá trình
tích luỹ vốn cho công nghiệp hoá. Nông nghiệp tạo ra gần 30% GDP và
nguyên liệu cho công nghiệp chế biến phát triển nông nghiệp, nông
thôn là khu vực kinh tế xã hội có vị trí chiến lợc cực kỳ quan trọng, liên

quan đến việc giải quyết những vấn đề cơ bản của đời sống đại đa số
dân c. Nó giải quyết việc làm cho lao động d thừa ở nông thôn, tăng thu
nhập cho nông dân, tăng sức mua trên thị trờng nông thôn, tăng tỷ
trọng GDP và tăng đóng góp vào ngân sách Nhà nớc. Ngoài ra, nó còn
làm tăng tích luỹ vốn, mở rộng thị trờng trong nớc và quốc tế, giảm bớt
sự phân hoá giàu nghèo trong xã hội và những áp lực làm chậm quá
trình phát triển của đất nớc :
Kinh tế nông nghiệp, nông thôn đang ở tình trạng yếu kém,
chậm phát triển ; năng suất lao động thấp (một lao động nông nghiệp nớc ta chỉ nuôi đợc 2 ngời) ; hệ thống kết cấu hạ tầng chậm phát triển ;
trình độ khoa học-công nghệ yếu kém làm cho hiệu quả sản xuất- kinh
doanh nông nghiệp thấp, sức cạnh tranh của nông sản hàng hoá sản


xuất từ nông thôn trên thị trờng kém ; cơ cấu kinh tế còn nặng thuần
nông ; đời sống nông dân tuy đợc cải thiện nhng vẫn còn thấp (khoảng
1.300 xã đặc biệt khó khăn, 90% dân c nghèo là ở nông thôn),(Tạp chí
Cộng sản số7-4/99). Chính vì vậy mà nông nghiệp, nông thôn trở thành
đối tợng chủ yếu của CNH-HĐH.
CNH-HĐH nông nghiệp là xu hớng tất yếu trong phát triển nông
nghiệp, nông thôn của tất cả các nớc trên thế giới và cũng là đòi hỏi cấp
bách đối với kinh tế nông nghiệp nóc ta bởi những yêu cầu khách quan,
những thách đố và khó khăn trong khu vực.
CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn phải đảm bảo đợc những yêu
cầu cơ bản sau : theo định hớng XHCN, gắn phát triển lực lợng sản
xuất với củng cố hoàn thiện quan hệ sản xuất mới ở nông thôn mới đặt
trong chiến lợc CNH-HĐH nền kinh tế nói chung, đảm bảo lợi ích toàn
diện của đất nớc cả về kinh tế- xã hội- an ninh quốc phòng, môi trờng
sinh thái ; đặt trong xu thế chung là quốc tế hoá và khu vực hoá nền
kinh tế, nhằm khai thác triệt để lợi thế so sánh của đất nớc ; kết hợp hài
hoà kinh nghiệm truyền thống với công nghệ, kỹ thuật hiện đại, tiên

tiến theo những bớc đi phù hợp.
Về kinh tế sẽ phát triển cân đối giữa nông nghiệp hàng hoá với
công nghiệp và dịch vụ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, nội bộ
nông-lâm nghiệp và thuỷ sản, giữa trồng trọt và chăn nuôi, giữa nhóm
cây lơng thực với các cây trồng khác, giữa các đàn gia súc và gia cầm,
theo hớng tích cực, u tiên xuất khẩu. Kinh tế tăng trởng cao nhng vẫn
đảm bảo ổn định xã hội nông thôn. Trớc hết tăng việc làm, giảm thất
nghiệp, giảm sự phân hoá giàu nghèo trong nội bộ nông dân, tăng phúc
lợi xã hội, tăng thu nhập và cải thiện đời sống nông thôn, rút ngắn
khoảng cách giữa nông thôn và thành thị, từ đó ngăn chặn dòng ngời từ
nông thôn dồn về thành thị kiếm sống nh hiện nay ở nớc ta.
Mục tiêu CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn là tạo dựng nền
nông nghiệp và kinh tế nông nghiệp phát triển, tạo ra động lực mới,
mạnh mẽ thúc đẩy tăng trởng kinh tế, ổn định xã hội, làm cho dân giàu,
nớc mạnh, xã hội công bằng văn minh.
Tuy nhiên, nông nghiêp-nông thôn nớc ta vẫn là khu vực chậm
phát triển, còn nhiều khó khăn. Vốn đầu t cho nông-lâm-thuỷ sản trong
những năm qua cha tơng xứng với vị trí vai trò của nó. Mô hình tổ


chức, quản lý sản xuất cha ổn định cơ cấu kinh tế còn thuần nông.
Công nghiệp, dịch vụ nông thôn phát triển chậm, nên sức ép về vấn đề
việc làm ở nông thôn vẫn gia tăng, thị trờng nông thôn yếu kém tác
động tiêu cực đến đầu t vào và đầu t ra của sản phẩm nông nghiệp.
Một số chính sách của Nhà nớc cha đủ mạnh để kích thích sản xuất
phát triển. Do đó, năng suất lao động thấp, sức cạnh tranh của hàng
nông sản kém, tất cả những điều đó đang làm nông nghiệp nông thôn
có nguy cơ tụt hậu xa hơn so với công nghiệp, dịch vụ ở thành thị.
Thực tiễn cho thấy rằng có không ít nớc đi lên CNH-HĐH bằng
xuất khẩu nông sản nh Australia, Acgentina, Canada... một số nớc khác

thì phát triển nông nghiệp là biện pháp chủ yếu để hình thành thị trờng
trong nớc cũng có nớc lấy phát triển nông nghiệp và công nghiệp nông
thôn làm biện pháp cơ bản giải quyết phần tất yếu của đời sống kinh tế
trong thời kỳ đầu CNH. Nớc ta hiện nay, nông sản đang chiếm hơn
45% giá trị hàng xuất khẩu, thông qua thơng mại quốc tế để lấy ngoại
tệ nhập máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu cho tái sản xuất mở rộng
trong nớc.
Đối với một nớc đi lên CNXH từ nông nghiệp lạc hậu thì vấn đề
mấu chốt là phát triển nền nông nghiệp hàng hoá để cấu trúc lại nền
kinh tế theo hớng sản xuất lớn XHCN. Trong đó, nông nghiệp là thị trờng rộng lớn của CNH-HĐH. Thị trờng này ở nớc ta hiện có gần 65
triệu dân, nhng sức mua hiện nay còn thấp, tiềm năng có thể khai thác
là rất lớn. Vì vậy, CNH-HĐH nền kinh tế muốn phát triển bền vững,
phải dựa vào thị trờng trong nớc, trớc hết là thị trờng nông nghiệp, nông
thôn. Nông nghiệp, nông thôn cũng là nguồn cung cấp nhân lực quan
trọng để thực hiện CNH-HĐH. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp theo hớng phát triển công nghiệp, dịch vụ cũng là quan
trọng chuyển lao động từ ngành nông nghiệp sang ngành công nghiệp
và dịch vụ theo xu hớng lao động công nghiệp và dịch vụ tăng tuyệt đối
và tơng đối còn lao động nông nghiệp giảm tuyệt đối và tơng đối.
Tóm lại, CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn vừa là đòi hỏi cấp
bách then chốt, có ý nghĩa chiến lợc của thực tiễn, vừa là con đờng
nhanh chóng nhất để đa nông nghiệp, nông thôn thoát ra khỏi khó khăn
để sản xuất hàng hoá, tăng năng suất lao động. CNH-HĐH nông
nghiệp, nông thôn không những là quan trọng mà còn có ý nghĩa quyết
định đối với quy mô và tốc độ CNH-HĐH.


Sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông nghiệp có tầm quan trọng
chiến lợc trong sự nghiệp xây dựng và phát triển nền kinh tế quốc dân
theo định hớng XHCN. Do đó, CNH-HĐH nền kinh tế quốc dân ở nớc

ta phải hớng tới CNH-HĐH nông nghiệp và nông thôn, tập trung các
nguồn lực từ bên trong và bên ngoài vào việc đẩy mạnh CNH-HĐH
nông nghiệp và nông thôn. Đây cũng chính là nội dung chính của
CNH-HĐH trong chặng đờng đầu.
CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn là một bộ phận của sự
nghiệp CNH-HĐH đất nớc nói chung và đây cũng là chiến lợc lâu dài
của Đảng và Nhà nớc nhằm đạt tới mục tiêu dân giàu nớc mạnh, xã hội
công băng và văn minh. CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn phải đảm
bảo tính khả thi, điều đó có nghĩa là phải biết kết hợp hài hoà kinh
nghiệm truyền thống với tiếp thu văn minh công nghiệp từ bên ngoài,
đảm bảo cho tiến trình CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn phù hợp với
điều kiện thực tiễn của đất nớc. Cho nên CNH-HĐH nông nghiệp, nông
thôn không thể nóng vội, chủ quan duy ý chí xoá bỏ toàn bộ cái cũ để
xác lập cái mới cả về kỹ thuật và quản lý kinh tế và xã hội, mà là sự
đan xen, kết hợp có chọn lọc trên cơ sở áp dụng các phơng pháp khoa
học thích hợp, tiến hành từng bớc từ thấp lên cao, từ đơn giản đến phức
tạp theo phơng châm vừa làm vừa rút kinh nghiệm để hoàn thiện dần cả
về nội dung, hình thức, bớc đi.
II.

Một số khái niệm về CNH-HĐH.

1. Khái niệm CNH-HĐH.
CNH-HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt
động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế- xã hội từ sử
dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức
lao động cùng với công nghệ, phơng tiện và phơng pháp tiên tiến, hiện
đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công
nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao (Văn kiện hội nghị lần thứ
7-khoá VII).

Để đa ra đợc một định nghĩa hoàn chỉnh, bao quát hết nội dung
phức tạp của quá trình CNH-HĐH, phù hợp với thời đại ngày nay là
một việc rất khó. Định nghĩa trên đợc Bộ chính trị tán thành đa vào báo
cáo, vì về cơ bản nó phản ánh đợc phạm vi rộng lớn của quá trình


CNH-HĐH, gắn đợc phạm trù công nghiệp hoá với phạm trù hiện đại
hoá ; xác định đợc vai trò của công nghiệp và khoa học- công nghệ
trong quá trình này ; chỉ ra cái cốt lõi là cải biến lao động thủ công, lạc
hậu thành lao động sử dụng kỹ thuật tiên tiến, hiện đại để đạt tới năng
suất lao động xã hội cao. Nớc ta làm CNH-HĐH không phải để xây
dựng CNTB mà là để xây dựng CNXH. Song con đờng đi tới CNXH
còn lâu dài, phải trải qua nhiều nấc thang quá độ, trung gian, mỗi bớc
tiến lên thì nhân tố XHCN lại tăng thêm, bớc đi, giải pháp thích hợp với
trạng thái kinh tế xã hội hiện nay của Đất nớc, Đảng ta gọi đó là Công
cuộc CNH-HĐH theo định hớng XHCN".
Nhằm đảm bảo giữ vững định h ớng XHCN trong quá
trình CNH-HĐH, cần xác định và nhận thức rõ các nhân tố
sau :
+ Xác định mục tiêu trớc mắt cũng nh lâu dài của CNH-HĐH là
vì lợi ích vật chất và tinh thần của nhân dân. Gắn tăng trởng kinh tế với
tiến bộ và công bằng xã hội.
+ Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật ngày càng hiện đại cho một
chế độ xã hội trong đó nhân dân làm chủ.
+ Phát triển một nền kinh tế nhiều thành phần.
+ Công cuộc CNH-HĐH đợc tiến hành dới sự lãnh đạo và quản
lý của Đảng và Nhà nớc.
2. Khái niệm CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn trong điều kiện
hiện nay:
Công nghiệp hoá nông thôn là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh

tế gắn liền với việc đổi mới căn bản về công nghệ và kỹ thuật ở nông
thôn, tạo nền tảng cho việc phát triển nhanh và bền vững theo hớng
nâng cao hiệu quả kinh tế ở nông thôn, góp phần phát triển bền vững
nông thôn.
Hiện đại hoá nông thôn không chỉ bao gồm nâng cao trình độ kỹ
thuật công nghiệp và tổ chức trong các lĩnh vực của sản xuất dịch vụ,
phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng nông thôn mà còn bao gồm cả việc
không ngừng nâng cao đời sống văn hoá, tinh thần, hệ thống giáo dục,
y tế và các dịch vụ đời sống khác ở nông thôn. Về bản chất, hiện đại
hoá là quá trình phát triển toàn diện có tính kế thừa ở nông thôn. Hiện


đại hoá không có nghĩa là phủ định toàn bộ những gì đã tạo dựng đợc
trong quá khứ, càng không phải là đa toàn bộ công nghệ hiện đại vào
nông thôn mà áp dụng những công nghệ thích hợp vào nông thôn cho
phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội ở nông thôn.
Công nghiệp hoá, nông nghiệp là bộ phận của CNH nông thôn.
Hai quá trình CNH và HĐH có liên quan mật thiết với nhau, có những
nội dung đan xen nhau. HĐH là một bộ phạm trù có tính chất tơng đối,
một loại công nghệ nào đó là hiện đại so với Việt nam nhng cha là
hiện đại so với thế giới. CNH sẽ gắn liền với HĐH, và HĐH chỉ thực
hiện đợc khi tiến hành CNH.
Một trong những nội dung chủ yếu của CNH-HĐH nông nghiệp,
nông thôn là thực hiện hoàn thiện cơ cấu kinh tế nông thôn theo hớng
đa dạng hoá, sản xuất hàng hoá năng suất cao. Xây dựng cơ cấu côngnông nghiệp và dịch vụ hiện đại tơng xứng với cơ sở vật chất kỹ thuật
hiện đại của CNXH là một quá trình cần đợc hoạch định theo chiến lợc
kinh tế xã hội và triển khai thực hiện một cách có kế hoạch với những
bớc đi cụ thể trên cơ sở điều tra về tài nguyên, khí hậu, thời tiết, thuỷ
văn của cả nớc cũng nh của từng vùng, tính toán đầy đủ các mối quan
hệ giữa kinh tế trong nớc và kinh tế đối ngoại, giữa kinh tế với quốc

phòng ; giữa tích luỹ và tiêu dùng ; giữa yêu cầu và điều kiện thực hiện,
Chiến lợc đó sẽ đợc bổ sung hoàn thiện dựa trên những phát triển
mới và những biến đổi mới về các nguồn lực bên trong cũng nh bên
ngoài.
III.

Thực trạng của CNH-HĐH nông nghiệp, nông
thôn:

CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn là chủ trơng lớn của Đảng và
Chính phủ để đa nền kinh tế nớc ta nói chung và nông nghiệp, nông
thôn nói riêng phát triển. Nông nghiệp, nông thôn luôn chiếm vị trí
trung tâm trong lịch sử phát triển của đất nớc cả trong thời chiến lẫn
trong thời bình.
Thực tiễn CNH-HĐH nông nghiệp , nông thôn ở nớc ta từ sau
khi hoà bình lập lại, nhất là từ sau hơn 10 năm đổi mới đã chứng tỏ nền
kinh tế xã hội nông thôn đã có những bớc tiến đáng kể về kinh tế xã hội
và chính trị. Đối với nớc ta, nông nghiệp có vai trò quyết định đến việc
ổn định tình hình kinh tế xã hội, tạo cơ sở cho CNH phát triển. Với vai


trò quan trọng đó, nông nghiệp phải phát triển toàn diện và hiện đại.Ta
có thể đánh giá thực trạng của CNH-HĐH qua một số nội dung căn bản
sau đây:
1. Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, nông thôn :
Trong thời gian qua, công nghiệp nông thôn đã thay đổi theo hớng thích ứng với cơ chế kinh tế mới và những điều kiện kinh tế cụ thể.
Rõ nhất là sự thay đổi trong cơ cấu thành phần kinh tế. Kinh tế hộ và
các doanh nghiệp t nhân, công ty TNHH tăng lên một cách nhanh
chóng, trong khi các HTX và kinh tế nông nghiệp giảm đi rõ rệt. Về
ngành nghề, những sản phẩm và ngành phát triển nhanh là sản xuất

phục vụ trực tiếp đời sống tại chỗ, khai thác nguồn lực tại chỗ (kể cả
truyền thống sản xuất, tay nghề và kỹ năng kinh doanh của ngời lao
động) hoặc có đợc quan hệ liên kết chặt chẽ với các doanh nghiệp lớn,
có thị trờng tơng đối ổn định, nh chế biến lơng thực, thực phẩm, sản
xuất vật liệu xây dựng thông thờng, chế biến gỗ và lâm sản, dệt may.
Đáng chú ý là tính linh hoạt và linh động của công nghiệp nông thôn đã
và đang thay thế dần tính máy móc và sơ cứng trớc đây.
Xu hớng phát triển căn bản của kinh tế nông thôn là tăng tỷ
trọng GDP của công nghiệp nông thôn và dịch vụ kinh tế xã hội ở nông
thôn, giảm tỷ trọng nông nghiệp trong những năm đổi mới, nhất là
trong kế hoạch 91-95, cùng với sự phát triển và tăng trởng của kinh tế
chung, cơ cấu kinh tế nông thôn bớc đầu có chuyển dịch tích cực so với
kinh tế chung của cả nớc. Theo tài liệu điều tra đa mục tiêu của Tổng
cục thống kê công bố năm 1997 thì cơ cấu kinh tế nông thôn phân
thành ba nhóm ngành chính tính theo giá trị sản xuất nh : nông nghiệp
71,45%, công nghiệp 13.82% và dịch vụ 14,7%. Nếu tính theo giá trị
gia tăng thì ba tỷ lệ tơng ứng là 79,53% ; 9,73% và 15,74%.(Theo niên
giám Thống kê tóm tắt năm 1999).
Cơ cấu kinh tế nông thôn tính theo giá trị sản xuất
Dịch vụ
14,7%
Công nghiệp
13,82%
Nông nghiệp
71,45%


Cơ cấu kinh tế nông thôn tính theo giá trị gia tăng

Dịch vụ

15,74%

Công nghiệp
9,73%

Nông nghiệp
79,53%

Tuy nhiên, trình độ công nghiệp nông thôn của Việt nam còn ở
tình trạng manh nha, yếu ớt, tỷ trọng bé. Nền kinh tế nông thôn Việt
nam còn nặng thuần nông. Kết quả khảo sát ở một số địa phơng cho
thấy cơ cấu lao động trong công nghiệp hầu nh không thay đổi suốt
những năm 80. Lao động nông nghiệp không chỉ tăng tuyệt đối mà còn
tăng cả tơng đối. Một đặc điểm khác là trình độ sản xuất không đồng
đều, có sự khác nhau rất lớn giữa các vùng, các ngành, các địa phơng.
Có cơ sở áp dụng ngay các công nghệ hiện đại, có cơ sở còn sử dụng


công cụ thủ công, nửa cơ giới và cơ giới với máy móc thiết bị cũ, lao
động sống chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu chi phí sản xuất, nh ngành
gạch ngói, mộc rèn ở nông thôn. Nhiều vùng nông thôn rộng lớn còn
đang trong tình trạng sản xuất yếu kém, độc canh lúa, cha có sản phẩm
hàng hoá. Nguyên nhân chủ yếu là do các chính sách CNH ở Việt nam
cho đến nay hầu nh cha xử lý tổng thể và hợp lý mối quan hệgiữa nông
thôn và thành thị.
Nh vậy, cho đến nay kinh tế nông thôn về cơ bản vẫn là nông
nghiệp, công nghiệp và dịch vụ chiếm tỷ trọng nhỏ và chậm phát triển.
+ Chất lợng nông-lâm sản phẩm kém sức cạnh tranh ; tỷ lệ sản
phẩm thông qua chế biến công nghiệp còn thấp ; thất thoát ở khâu bảo
quản, vận chuyển nguyên liệu và chế biến còn lớn ; tỷ trọng và giá trị

xuất khẩu nông nghiệp so với nông sản trên một lao động nông nghiệp
chỉ mới đạt 80 USD/năm ; giá cả và quan hệ xuất khẩu thấp so với hàng
hoá cùng loại của nhiều nớc trên thế giới từ 15-20%.
+ Sản xuất công nghiệp và dịch vụ còn quá nhỏ bé, các ngành
nghề tiểu thủ công nghiệp và làng nghề truyền thống ngày càng mai
một, cha đủ khả năng làm thay đổi cơ cấu kinh tế nông thôn cũng nh
thu hút lao động và giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho ngời lao
động ở khu vực này.
+ Phần lớn số lao động ở nông thôn cha đợc đào tạo, cha có tác
phong và lối sống công nghiệp trình độ học vấn và khoa học kỹ thuật
cha đợc sử dụng một cách triệt để và hiệu quả trong công cuộc xây
dựng phát triển kinh tế xã hội nông thôn.
+ Cơ sở hạ tầng lĩnh vực nông thôn còn quá yếu kém, nhất là
giao thông, điện nớc, thông tin liên lạc, thông tin thị trờng, đặc biệt là
các tỉnh miền núi cao, vùng sâu, vùng xa,.. Nhiều vùng nông thôn rộng
lớn năng suất vẫn còn mang nặng tính chất thuần nông, sản xuất tự cấp,
phân tán theo quy mô hộ gia đình với lao động thủ công là chủ yếu.
+ Sự chuyển dịch cơ cấu ngành nghề và lao động nông thôn diễn
ra không đều và nói chung rất chậm chạp. chênh lệch thu nhập giữa
nông thôn và thành thị vẫn ở mức cao và một số vùng cũng có xu hớng
giãn ra, tỷ lệ hộ nghèo còn trên 20%, tỷ lệ hộ giàu còn ít và phát triển
chậm so với khu vực thành thị.


Nếu xét liên tục trong những năm 90 đến nay thì xu h ớng chuyển dịch diễn ra chậm chạp là phổ biến.
Bảng1. Cơ cấu GDP nông thôn Việt nam thời kỳ 90-96
Đơn vị tính : (%)
Chỉ tiêu
1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996
(A)

(1)
(2)
(3)
(4)
(5)
(6)
(7)
Tổng GDP NN
100 100 100 100
100
100
100
- Nông-lâm-thuỷ sản
79,7 81,5 77,8 73,3 71,1 71,9
71,5
- CN, XâY DNG
9,9
9,0 10,7 14,1 15,3 14,5
14,7
- Dịch vụ
10,4
9,5 11,5 12,6 13,6 13,6
13,8
(Niên giám thống kê 1997)
Đó là thách thức lớn đối với nông nghiệp nông thôn vì với tốc độ
chuyển dịch quá chậm chạp nh những năm qua thì khả năng đẩy nhanh
nhịp độ CNH-HĐH và chuyển đổi cơ cấu lao động nông thôn còn nhiều
khó khăn.Và đây cũng là một nguyên nhân làm chậm quá trình cơ giới
hoá và điện khí hoá trong nông nghiệp .
2 Cơ giới hoá trong nông nghiệp, nông thôn:

Trớc đây, khi đất nớc vừa ra khỏi chiến tranh tàn khốc, tiềm lực
kinh tế vẫn còn rất hạn chế, không thể đáp ứng đợc yêu cầu của cơ giới
hoá lớn trong nông nghiệp. Mặt khác, sau chiến tranh lao động nông
nghiệp trong nông thôn d thừa rất nhiều, đời sống nông dân lại rất thấp
nên cơ giới hoá đã làm tăng đội quân thất nghiệp ở nông thôn, làm
giảm thu nhập và đời sống của nông dân. Do vậy, cơ giới hoá lúc bấy
giờ không những không làm tăng hiệu quả kinh tế, mà ngợc lại nó còn
tạo ra những mâu thuẫn lớn giữa phát triển kinh tế và giải quyết các vấn
đề xã hội trong nông thôn, làm căng thẳng thêm mối quan hệ giữa
ruộng đất và lao động nông nghiệp.
Trong những năm đổi mới, nhờ kinh tế phát triển, thu nhập của
nông dân tăng lên nên nông thôn bớc đầu có tích luỹ để đầu t mở rộng
sản xuất. Sản xuất hàng hoá bằng khai hoang tăng vụ, chuyển vụ và
thâm canh cũng đặt ra yêu cầu mới về sử dụng máy móc và công nghệ
tiên tiến trong trồng trọt và chăn nuôi. Số lợng máy kéo, máy nông
nghiệp các loại do đó đợc trang bị thêm ở tất cả các vùng, các địa phơng, chủ yếu của các hộ nông dân. Trong lâm nông thuỷ sản, mức độ
và tốc độ trang bị máy móc và phơng tiện cơ giới dùng trong sản xuất,
vật chất cũng tăng nhanh. Nhờ số lợng máy móc tăng nhanh nên nhiều


công việc nặng nhọc trong nông nghiệp lâm nghiệp thuỷ sản đã đợc cơ
giới hoá. Các khâu công việc khác nh vận chuyển, ra hạt, bơm tát nớc
cũng đợc cơ giới hoá ở mức độ cao hơn trớc do các hộ tự mua sắm máy
móc điều hành công việc. Tỷ lệ cơ giới hoá khâu bơm nớc hiện nay là
50% diện tích gieo trồng cây hàng năm trong đó 30% tới tiêu chủ động
bằng động lực. Vùng đồng bằng sông Cửu Long và Tây Nguyên là
những vùng sản xuất nông sản hàng hoá nói riêng nhanh chóng góp
phần quan trọng vào khai hoang, tăng vụ, thâm canh năng suất cây
trồng, tăng tỷ suất hàng hoá và chất lợng sản phẩm xuất khẩu.
Cơ giới hoá khâu ra hạt, vận chuyển vật t, phân bón và sản phẩm

có nhiều tiến bộ ở tất cả các vùng. Nếu trớc đây phơng thức ra hạt lúa
là đập, trục, suốt lúa bằng máy đạp chân thì ngày nay phần lớn công
việc đó đã đợc thay bằng sức máy có động cơ.
Công việc cơ giới hoá vận chuyển trong nông nghiệp có nhiều
khởi sắc. Trong nông thôn, số lợng các loại xe ô tô tăng gấp hai lần so
với trớc đây. ở Đồng bằng sông Cửu Long có lợi thế về vận chuyển tàu
thuỷ nên tàu thuyền cơ giới phát triển mạnh, đảm đơng phần lớn khối lợng vận chuyển hàng hoá và khách của vùng nông thôn và trong nông
nghiệp.
Các khâu công việc khác trong nông thôn nh xay xát lúa gạo, chế
biến thức ăn gia súc, ca xẻ gỗ, cũng đợc từng bớc cơ giới hoá cùng với
sự phát triển của nguồn điện lực quốc gia. Nhờ có điện, nên sức máy đã
dần thay cho sức ngời và sức kéo của súc vật trong nhiều khâu công
việc của trồng trọt và chăn nuôi. Khó khăn của cơ giới hoá nông nghiệp
Việt nam hiện nay là quy mô ruộng đất quá bé lại phân tán theo quá
nhiều chủ ruộng, nhiều cánh đồng khác nhau nên máy kéo, xe vận tải
và máy nông nghiệp káo phát huy tác dụng, chi phí cao, hiệu quả thấp.
Trong khi đó lao động nông thôn d thừa nhiều, sức kéo trâu bò cũng tơng tự nên nhu cầu sử dụng máy không lớn. Sự cạnh tranh giữa ngời,
súc vật cày kéo với máy móc diễn ra dới các hình thức và mức độ khác
nhau, làm chậm quá trình cơ giới hoá. Do vậy, vấn đề cơ giới hoá nông
nghiệp Việt nam hiện nay vẫn phát triển trong mâu thuẫn do cung lớn
hơn cầu mà nguyên nhân sâu xa là d thừa lao động nông nghiệp.
3. Điện khí hoá nông nghiệp, nông thôn :
Nhờ có điện nên trong nông thôn Việt nam hiện nay đã có thêm
các loại máy nông nghiệp mới sử dụng năng lợng điện nh máy suốt lúa,


máy bơm nớc, máy xay xát gạo, ngô và thức ăn gia súc. Tỷ lệ điện khí
hoá các công việc nặng nhọc trong nông nghiệp ngày càng cao và đã
giải phóng một phần lao động nông nghiệp. Điện cũng góp phần tích
cực khôi phục và mở rộng các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và dịch

vụ nông thôn. Hàng loạt xởng cơ khí sửa chữa, xởng chế biến nông,
lâm, thuỷ sản, thủ công mỹ nghệ ở nông thôn cũng đợc điện khí hoá
một phần hoặc toàn bộ, vừa giảm nhẹ cờng độ lao động sống vừa tăng
năng suất và nâng cao chất lợng sản phẩm hàng hoá và dịch vụ. Hoạt
động dịch vụ khác nh cung ứng vật t, bảo quản, vận chuyển nông sản,
thực phẩm, trao đổi hàng hoá trở lên nhộn nhịp hơn. Nhiều tụ điểm thơng mại, dịch vụ mọc lên khắp các thôn xóm giúp bà con nông dân
mua, bán hàng hoá, nông sản thuận lợi hơn, kích thích sức mua ở nông
thôn.
Điện về nông thôn đem theo ánh sáng của văn minh công
nghiệp, góp phần nâng cao dân trí và bảo vệ sức khoẻ của nhân dân.
Các trờng học, các trạm y tế xã đã có điện thay đèn dầu, vừa nâng cao
chất lợng dạy và học, khám chữa bệnh, vừa có ý nghĩa giảm bớt khó
khăn cho đội ngũ trí thức ở nông thôn để họ yên tâm làm việc lâu dài
nơi thôn xã, có điện ánh sánh văn hoá đến với vùng nông thôn rộng lớn,
tỷ lệ số hộ có máy thu thanh, thu hình ở nông thôn tăng rất nhanh, bộ
mặt nông thôn đổi mới. Tuy nhiên, trong điện khí hoá nông thôn hiện
nay còn nổi lên mấy vấn đề suy nghĩ :
+ Điện khí hoá phát triển không đều, những vùng và đại phơng
đồng bằng, gần các trung tâm công nghiệp lớn, kinh tế phát triển thì tỷ
lệ điện khí hoá cao. Ngợc lại, ở những vùng nông thôn miền núi, xa
trung tâm, đô thị, xa đờng giao thông thì kém phát triển dù tiềm năng
đất đai rất phong phú thì tỷ lề điện khí hoá nông thôn lại thấp, kéo theo
sự tụt hậu về công nghiệp nông thôn còn thiếu điện thì không thể CNHHĐH.
+ Giá điện nông thôn cao hơn thành phố vào thời điểm 1994Dân nông thôn thu nhập chỉ bằng một phần hai mức trung bình của
thành thị, trong khi đó giá điện lại cao hơn giá bán điện ở thành thị là
điều bất hợp lý. Vì vậy, nhiều hộ không dám sử dụng điện dù rằng đã
có nguồn điện lới quốc gia về tận nơi họ sinh sống. Đó là những nông
dân nghèo, thu nhập thấp, đời sống khó khăn. Đó cũng chính là hạn chế
của CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn ở nớc ta.



+ Phần đóng góp của nông dân vào các công trình điện khí hoá
nông thôn còn lớn trong khi thu nhập của họ còn thấp. Đó cũng là một
trong những nguyên nhân làm cho các vùng nghèo, vùng xa, vùng sâu
tụt hậu về điện khí hoá nông thôn so với các vùng khác thuận lợi hơn.
+ Công tác tổ chức và quản lý điện nông thôn còn tuỳ tiện, tự
phát, không thống nhất và cha hợp lý. Hiện nay ở nông thôn, điện là
dịch vụ đợc giao khoán cho các HTX hoặc t nhân của chính quyền cấp
xã. Tỷ lệ thất thoát điện năng ở nông thôn không chỉ do hệ thống đờng
dây và phụ tải mà còn do sự yếu kém trong công tác quản lý tổ chức.
4. Thuỷ lợi hoá nông nghiệp, nông thôn
Nhận thức đúng tầm quan trọng của công tác thuỷ lợi đối với sự
nghiệp phát triển nông nghiệp nông thôn. trong những năm qua, Nhà nớc và nhân dân ta đã đầu t khá lớn cho việc xây dựng mới, hiện đại, và
nâng cấp hệ thống công trình thuỷ lợi. Tính đến năm 98, cả nớc có
20.501 công trình thuỷ lợi lớn và nhỏ, các công trình này đã đảm bảo tới cho 6.146,973 triệu ha diện tích đất canh tác. cả số lợng công trình
và năng lực tới tiêu đã tăng lên đáng kể so với các năm trớc.
Thuỷ lợi hoá kết hợp với cơ giới hoá và giao thông nông thôn đã
tạo ra những tiền đề vật chất thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển
và thay đổi bộ mặt nông thôn. Tuy nhiên, so với yêu cầu thâm canh,
tăng vụ và đa dạng hoá cây trồng, vật nuôi thì thực trạng thuỷ lợi hoá
hiện nay còn nhiều bất cập. Chất lợng các công trình thuỷ lợi còn thấp,
khả năng tới tiêu của thuỷ lợi mới đáp ứng đợc khoảng 50% yêu cầu về
nớc cho sản xuất nông nghiệp. Một số công trình đã xuống cấp nghiêm
trọng nhng thiếu vốn để duy trì, bảo dỡng nên công suất thực tế tới tiêu
chỉ đạt 30% công suất thiết kế. Trong từng công trình thì tính đồng bộ
giữa các công trình, đầu mối và hệ thống kênh mơng không đồng nhất
nên nớc bị lãng phí, hiệu quả sử dụng thấp.
Khó khăn hiện nay là giá điện và giá thuỷ lợi phí cha biến động
cùng chiều với nhau. Trong những năm qua, giá thuỷ lợi phí không đổi,
nhng giá điện tăng, dẫn đến tình trạng nợ rất phổ biến ở các công ty

thuỷ nông. Theo điều tra trên địa bàn 38 tỉnh năm 1996, tỷ lệ nợ tiền
điện là 34,78%. Do giá thuỷ lợi phí thấp, và tình trạng nợ đọng thuỷ lợi
phí, tiền điện còn lớn nên các công ty thuỷ nông thiếu vốn để duy trì,
bảo dỡng công trình theo chu kỳ, cha nói đến nâng cấp. Một vấn đề khó


khăn khác là vốn đầu t cho thuỷ lợi cha đáp ứng đợc yêu cầu sự chuyển
hớng trong chính sách đầu t phát triển thuỷ lợi ở cả nớc trong những
năm gần đây là giảm đầu t xây dựng các công trình có quy mô lớn, thay
vào đó, Chính phủ quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển các
dự án có quy mô nhỏ, nhằm phát huy các nguồn nớc tại chỗ và giải
quyết hợp thời các nhu cầu về nớc của nông dân.
5. Hoá học hoá nông nghiệp, nông thôn
Cùng với cơ giới hoá, thuỷ lợi hoá, trong những năm qua ở nớc ta
quá trình hiện đại hoá sản xuất nông nghiệp cũng có nhiều khởi sắc. Lợng phân bón và thuốc trừ sâu, diệt cỏ tăng lên, chủng loại đa dạng,
phong phú, cơ cấu đợc điều chỉnh phù hợp hơn với nhu cầu sản xuất.
Tuy lợng phân hoá học bình quân trên một ha còn ở mức thấp nhng cơ
cấu các loại NPK đã đợc chỉnh theo hớng giảm tỷ lệ đạm, tăng tỷ lệ
phân lân và kali để đáp ứng tốt hơn nhu cầu sinh trởng và phát triển của
cây trồng. Ngoài phân bón, một số hoá chất khác nh thuốc diệt cỏ,
thuốc trừ sâu, thuốc kích thích cây trồng và vật nuôi cũng khá đa dạng
về chủng loại.
Tuy nhiên, khó khăn trong hoá học hoá hiện nay là sản phẩm
phân bón, hoá chất sản xuất trong nớc chiếm tỷ trọng quá bé, giá thành
còn cao nên cha đợc nông dân a chuộng. Công nghiệp sản xuất phân
bón Việt nam cha phát triển tơng xứng với nhu cầu và tiềm năng.Phân
bón, thuốc trừ sâu, diệt cỏ và các hoá chất khác nhập khẩu phụ thuộc
vào thị trờng và giá cả quốc tế nên không ổn định. Tổ chức nhập khẩu
phân bón, thuốc trừ sâu trong nông nghiệp còn phân tán, nên tạo ra tình
trạng tranh mua tranh bán, cạnh tranh không lành mạnh trên thị trờng.

Thực tế, biến động thị trờng phân bón Việt nam trong những năm gần
đây cho thấy nguyên nhân không phải bắt nguồn từ giá cả và nguồn
hàng nhập khẩu mà chính là do nhập khẩu cha hợp lý, trong đó có
nhiều đầu mối là rõ nét nhất. Trong năm 1996, Chính phủ đã tổ chức lại
các đầu mối nhập khẩu phân bón và xuất khẩu gạo nên tình trạng lộn
xộn trong nhập khẩu phân bón đã bắt đầu đợc hạn chế, giá cả phân mua
đã trở lại bình thờng từ vụ hè thu năm 1997.
Mỗi nớc có điều kiện riêng về kinh tế, ngân sách nên cách thức
và mức độ trợ giá phân bón, thuốc trừ sâu giữa các nớc không giống
nhau. Nhng điểm tơng đồng là quan điểm trợ giá đầu vào nói chung,
phân bón, thuốc trừ sâu nói riêng cho nông nghiệp, nông dân là cần


thiết, coi đó là một phần vốn đầu t của nông nghiệp cho nông thôn, góp
phần rút ngắn khoảng cách giữa nông thôn và thành thị.
IV.Nội dung của CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn.
1. Nội dung CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn.
CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn là một quá trình
phát triển kinh tế xã hội mà nội dung chủ yếu của nó là sự
dịch chuyển cơ cấu kinh tế xã hội ở nông thôn gắn liền với
đổi mới công nghệ theo h ớng công nghiệp và dịch vụ là
ngành kinh tế ngày càng chiếm vị trí quan trọng và tỷ trọng
lớn trong kinh tế nông thôn. Nói một cách khác, CNH-HĐH
nông nghiệp ,nông thôn là quá trình áp dụng ph ơng tiện vật
chất kỹ thuật và phơng pháp sản xuất công nghiệp vào sản
xuất nông nghiệp .
Trong điều kiện ở nớc ta, CNH-HĐH nông nghiệp , nông thôn
biểu hiện ở các mặt sau:
a. Phát triển đồng bộ cơ sở hạ tầng nông thôn, tạo tiền đề vật chất
cho việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp , nông thôn , đa dạng

hoá cây trồng vật nuôi và ngành nghề nông thôn , áp dụng rộng rãi
những tiến bộ khoa học, công nghệ và sinh học vào nông nghiệp ,nông
thôn .
Cơ sở hạ tầng nông thôn hay đợc tóm tắt trong câu Điện, đờng,
trờng, trạm. Nếu nói vậy là cha đủ vì nền kinh tế xã hội nông thôn có
rất nhiều nội dung và do đó cơ sở hạ tầng nông thôn còn bao gồm nhiều
nội dung hơn. Cho nên, cần phải bổ sung thêm ngoài hệ thống điện, đờng giao thông, trờng học, trạm xá cần phải có hệ thống thông tin thuỷ
lợi, hệ thống cung cấp nớc sạch nông thôn và các cơ sở công nghệ và
dịch vụ kinh tế xã hội khác cho nông thôn .Các bộ phận này của hệ
thống cơ sở hạ tầng nông thôn có quan hệ khăng khít và hỗ trợ lẫn
nhau. Nếu đờng mà tốt thì không nhất thiết xã nào cũng cần phải có
trạm xá. ở nhiều nơi, chỉ tính là có trạm xá nhng trang thiết bị bên
trong còn rất sơ sài, không đảm bảo tiêu chuẩn chăm sóc sức khoẻ cho
nhân dân trong điều kiện kinh tế thị trờng, thông tin đóng vai trò quan
trọng cho cả ngời bán lẫn ngời mua, cả ngời sản xuất và ngời tiêu dùng.
Vấn đề thông tin ở các vùng nông thôn hiện nay cha đợc chú trọng và


cũng là nguyên nhân làm cho thị trờng ở nơi ấy không phát triển. Do
không có thông tin hay thông tin không kịp thời mà ngời mua phải mua
với giá đắt và ngời bán phải bán với giá rẻ. Điều này cũng là một trong
những nguyên nhân làm cho giá nông sản thấp và giá các hàng công
nghiệp ở nông thôn cao, bất lợi cho nông dân. Chính vì vậy, cần phải
xây dựng đợc kết cấu hạ tầng về giao thông vận tải, thông tin liên lạc,
nối liền thành thị với nông thôn ,hình thành những tụ điểm dân c, các
trung tâm dịch vụ kinh tế kỹ thuật thơng mại, tạo điều kiện thiết yếu
cho sự phát triển trên địa bàn nông thôn một nền nông nghiệp sinh thái
và bộ mặt nông thôn mới theo hớng CNH-HĐH.
b. Phải coi công nghệ sinh học và công nghiệp chế biến nông sản là
nội dung cốt lõi của CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn. Do đó, đổi

mới công nghệ trong phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hớng
CNH-HĐH phải đáp ứng các yêu cầu và thúc đẩy việc ứng dụng phổ
biến công nghệ sinh học và đẩy mạnh công nghiệp chế biến để tăng
năng suất cây trồng, vật nuôi bảo vệ thực vật, bảo quản và chế biến
nông phẩm theo hớng hiện đại và sạch, nâng cao giá trị nông phẩm
trong tiêu dùng và xuất khẩu. Đổi mới quan hệ sở hữu, phơng thức
quản lý, mô hình tổ chức kinh tế trong sản xuất, kinh doanh nông
nghiệp. phát triển nông thôn theo hớng CNH-HĐH phải tạo nên đợc
những điều kiện thuận lợi và thúc đẩy đa công nghệ sinh học vào sản
xuất nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn, đẩy mạnh phát triển
công nghiệp chế biến, nâng cao hiệu quả kinh tế, tăng việc làm và thu
nhập cho nông dân.
c. Từng bớc thực hiện cơ khí hoá, hoá học hoá, hiện đại hoá ở các
khâu thích hợp của quá trình sản xuất trong nông thôn.
Thực hiện áp dụng có hiệu quả các thành tựu để cơ khí hoá nông
nghiệp và nông thôn, tạo thêm đợc việc làm cho dân c nông thôn.
Thông thờng, cơ khí hoá đợc hiểu là đa tiến bộ về cơ khí vào nông
nghiệp và nông thôn để giải phóng lao động. Thế nhng ở đất nớc đất
chật ngời đông nh nớc ta, đặc biệt là ở Đồng bằng sông Cửu Long và
Đồng bằng sông Hồng, miền Trung du thì cơ khí hoá theo quan điểm
trên thì không phù hợp vì sẽ tạo nên tình trạng thất nghiệp cho lao động
nông thôn. Vì vậy, tuy chiến lợc cơ khí hoá có sự khác nhau giữa các
vùng nhng quan điểm này cần quán triệt đặc biệt ở các vùng đông dân
c, nhất là Đồng bằng sông Cửu Long, khu Bốn cũ, Duyên hải miền


Trung. Việc cơ khí hoá vừa tập trung vào các khâu làm đất, chăm sóc
thu hoạch, vừa góp phần tạo ra nhiều ngành nghề mới. Hoá học hoá cần
tập trung tạo ra năng suất và chất lợng nông, lâm, thuỷ sản, góp phần
bảo vệ và bồi dỡng tài nguyên đất, tào nguyên rừng, tài nguyên nớc và

các tài nguyên sinh học quý hiếm khác.
d. Xây dựng và hoàn thiện cơ cấu kinh tế nông thôn, chuyển biến từ
nền kinh tế lạc hậu, độc canh lúa, năng suất thấp sang nền kinh tế đa
dạng hoá sản xuất hàng hoá, năng suất cao. Nền kinh tế đa dạng hoá ở
nông thôn bao gồm cả nông nghiệp, công nghiệp nông thôn và dịch vụ.
Nông nghiệp phải phát triển bền vững, đảm bảo an ninh quốc gia, vùng
và từng hộ về lơng thực, thực phẩm, nâng cao tỷ suất hàng hoá, tăng thu
nhập ngoại tệ từ nông nghiệp, phát triển chăn nuôi, trồng và bảo vệ
rừng, tài nguyên biển. Công nghiệp nông thôn phải tập trung vào khâu
chế biến nông sản, tận dụng nguyên liệu trong nớc, tạo việc làm và tăng
giá trị tăng thêm trong lĩnh vực nông thôn. Xây dựng các trọng điểm
kinh tế ở từng vùng bằng cách đầu t xây dựng các cơ sở công nghiệp ở
các vùng nông thôn nh : nhà máy đờng, nhà máy xi măng, nhà máy sản
xuất xe ô tô, xe gắn máy, các trung tâm công nghiệp này sẽ đóng vai
trò là vệ tinh cho sự phát triển của các vùng nông thôn, thu hút lao
động và thực hiện CNH-HĐH các vùng nông thôn.
e. Hình thành và phát triển nguồn nhân lực, bao gồm các cán bộ
khoa học quản lý kỹ thuật có trình độ cao, công nhan lành nghề, lao
động phổ thông phù hợp với yêu cầu sản xuất hàng hoá nông nghiệp và
chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn theo hớng tiến bộ ; chuyển đổi cơ
cấu lao động nông nghiệp nông thôn từ lao động thủ công sang cơ giới,
giải phóng mạnh mẽ lao động nông nghiệp, chuyển đổi lao động phi
nông nghiệp lao động ở nông thôn, trọng tâm là nâng cao dân trí ở
nông thôn, đào tạo lại cán bộ quản lý nông nghiệp.
Các nội dung của CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn.
+ Đa cách mạng kỹ thuật tác động vào nông, lâm, ng nghiệp theo
hớng thuỷ lợi hoá, điện khí hoá, cơ giới hoá, hoá học hoá, công nghệ
sinh học, thực hiện thâm canh tăng vụ, luân canh gối vụ, chuyển vụ vừa
tăng năng suất và chất lợng cây trồng, vật nuôi, vừa tạo điều kiện
chuyển dịch cơ cấu sản xuất đem lại hiệu quả cao, cải thiện điều kiện

lao động.


- Về thuỷ lợi hoá, mở rộng diện tích tới tiêu chủ động trớc hết
cho những vùng trọng điểm lơng thực và cây công nghiệp tập trung.
Trong phát triển cơ sở hạ tầng thì thuỷ lợi là nội dung u tiên hàng
đầu. Trong những năm qua, sự đầu t vào nông nghiệp chủ yếu là tập
trung cho sự phát triển nông nghiệp. Chính phủ đầu t phần lớn số vốn
để HĐH nền nông nghiệp là tập trung cho thuỷ lợi và một phần xây
dựng hệ thống điện trong nông thôn, hoàn thiện và nâng cấp hệ thống
các công trình thuỷ lợi.
- Về điện khí hoá, đ a điện vào nông nghiệp, nông
thôn ở nơi có điều kiện, u tiên phục vụ thuỷ lợi hoá và chế
biến nông sản (nông, lâm, ng nghiệp) tận dụng sức n ớc phát
triển thuỷ điện nhỏ ở miền núi, sức gió ở miền biển để phát
điện.
- Về cơ giới hoá, dùng máy kéo nhỏ ở nơi ruộng ít đất, máy
kéo lớn ở những nơi ruộng nhiều đất trong khâu làm đất, đẩy mạnh cơ
giới hoá các khâu gieo trồng chăm sóc thu hoạch. Cơ giới hoá khâu vận
tải, thuỷ, bộ để vận tải hàng hoá, khách hàng ở nông thôn. Ngành cơ
khí đẩy mạnh sản xuất các loại thiết bị, phụ tùng đi theo máy kéo, đặc
biệt chú trọng sản xuất phụ tùng, tổ chức tốt mạng lới sửa chữa.
- Về hoá học hoá, tận dụng phân hữu cơ, sử dụng phân bón hoá
học (đạm, lân, kali, phân bón tổng hợp), sử dụng thuốc phòng, trừ sâu
bệnh với quy trình kỹ thuật phù hợp với từng loại cây trồng với số lợng
thực sự cần thiết ở thời điểm thích hợp, đem lại hiệu quả cao nhất.
- áp dụng rộng rãi công nghệ và các biện pháp sinh học trong
các khâu chính của quá trình sản xuất nông, lâm, ng nghiệp nh lai tạo
và sử dụng các giống mới, các chất kích thích vật nuôi để tăng trởng
nhanh, cho năng suất cao, chất lợng tốt, sử dụng phân vi sinh để vừa

tăng năng suất cây trồng, vừa hạn chế ô nhiễm môi trờng sinh thái và
thoái hoá đất.
+ Phát triển rộng khắp công nghiệp bảo quản lâu dài, chế biến
nông, lâm, thuỷ sản, kết hợp nhiều hình thức, trình độ công nghệ, hợp
tác liên doanh với nớc ngoài để HĐH công nghệ, nâng cao chất lợng và
giá trị của sản phẩm, giảm dần và tiến tới chấm dứt việc xuất khẩu dới
dạng nguyên liệu.


+ Phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ ở nông
thôn, khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống. Chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nông thôn, phân công lao động mới, đô thị hoá nông
thôn, xây dựng nông thôn mới. Đẩy mạnh sản xuất vật liệu xây dựng và
công nghiệp xây dựng. Từng bớc xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn :
mạng lới thuỷ điện, cầu, cống, đê kè, mạng lới điện, giao thông vận tải
nông thôn, hệ thống thông tin liên lạc phục vụ sản xuất và đời sống,
trang bị điện thoại đến các xã, giải quyết nhà ở, nớc sạch cho nông
thôn. Hình thành các thị trấn, thị tứ, tụ điểm công thơng nghiệp cho
nông thôn để giao lu hàng hoá ở nông thôn theo hớng đô thị hoá.
Các nội dung trên có quan hệ chặt chẽ với nhau và làm nền tảng
cho nhau, thúc đẩy quá trình CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn phát
triển. Vì thế, xem xét tác động của quá trình CNH-HĐH cần phải tính
đến tác động của nội dung trên với tất cả các mặt của đời sống kinh tế
xã hội.
2. Nội dung CNH-HĐH của mỗi ngành trong nông nghiệp.
Khái niệm CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn hiện nay rộng
hơn, toàn diện hơn so với công nghiệp nông thôn thuần tuý hoặc CNH
nông nghiệp giản đơn bằng cơ giới hoá, thuỷ lợi hoá, hoá học hoá nh
cách hiểu trớc đây. CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn ngày nay còn
bao gồm cả phơng pháp tổ chức và quản lý sản xuất nông nghiệp và

phát triển chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, không chỉ đơn thuần
áp dụng phơng pháp và kỹ thuật công nghệ vào sản xuất, mà cả áp dụng
những thành tựu mới nhất của khoa học, kỹ thuật vào công tác quản lý.
Tuy nhiên, nội dung CNH-HĐH mỗi ngành đều có tính đặc thù
riêng :
Trong ngành chăn nuôi, quá trình HĐH ngành chăn nuôi gắn liền
với việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, áp dụng tiến bộ kỹ thuật điện
khí hoá, cơ giới hoá, tự động hoá, cách mạng sinh học (giống nòi) nâng
cao trình độ nghề nghiệp cho ngời lao động, tăng sản phẩm chăn nuôi
có chất lợng cao, để tăng năng suất, chất lợng và hiệu quả của ngành
này.
Trong ngành trồng trọt, CNH-HĐH ngành trồng trọt là quá trình
tạo ra những tiền đề cần thiết về vật chất, kỹ thuật, con ngời, phơng


pháp quản lý và công nghệ tiên tiến để sử dụng tốt hơn tiềm năng đất
đai, khí hậu, nguồn nớc nhằm tăng năng suất cây trồng, năng suất đất
đai, bảo vệ môi trờng sinh thái, tăng khối lợng và chất lợng nông sản
hàng hoá, nhất là hàng hoá xuất khẩu, tăng thu nhập cho ngời nông
dân. CNH-HĐH trồng trọt còn bao gồm các mô hình quản lý tiến bộ.
Trong ngành lâm nghiệp, khái niệm CNH-HĐH lâm nghiệp là sử
dụng công nghệ hiện đại, công nghệ sinh học tiên tiến để đẩy nhanh tốc
độ trồng ràng, khai thác rừng theo quy hoạch và theo phơng pháp khoa
học. Nh vậy,CNH-HĐH lâm nghiệp phải đạt đợc đồng thời hai mục
đích phát triển nhanh vốn rừng, đa máy móc và quy trình công nghệ
hiện đại vào sản xuất lâm nghiệp.
Trong ngành thuỷ sản, CNH-HĐH ngành thuỷ sản là
quá trình chuyển đổi từ lao động thủ công, công cụ thô sơ
sang lao động có kỹ thuật với ph ơng tiện và công cụ tiên
tiến, hiện đại, phơng pháp quản lý khoa học nhằm tăng năng

suất lao động, năng suất ph ơng tiện, chất lợng sản phẩm thuỷ
sản


×