Tải bản đầy đủ (.pdf) (125 trang)

Văn hóa làng quê trong thơ lục bát đương đại (qua thơ nguyễn duy, đồng đức bốn, phạm công trứ) luận văn ths văn học 60 22 32 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.63 MB, 125 trang )

đại học quốc gia hà nội
tr-ờng đại học khoa học xã hội và nhân văn
=== ===

nguyễn văn đồng

văn hoá làng quê trong thơ lục bát đ-ơng đại
(qua thơ Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn, Phạm Công Trứ)

Luận văn thạc sĩ văn học

Hà Nội - 2011


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: VĂN HÓA LÀNG QUÊ VÀ SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN DUYĐỒNG ĐỨC BỐN - PHẠM CÔNG TRỨ ................................................................. 9
1.1. Văn hóa - những vấn đề chung ................................................................ 9
1.1.1. Văn học và văn hóa....................................................................................................... 9
1.1.1.1. Quan niệm về văn học ............................................................................. 9
1.1.1.2. Quan niệm về văn hóa ............................................................................10
1.1.1.3. Mối quan hệ giữa văn học và văn hóa ....................................................12
1.1.2. Một số đặc điểm của văn hóa làng quê..................................................................... 12
1.2. Sự thể hiện của văn hóa làng quê trong nền thơ ca dân tộc .................. 17
1.2.1. Trong thơ ca dân gian ............................................................................................... 177
1.2.2. Trong thơ ca trung đại.............................................................................................. 200
1.2.3. Trong thơ ca hiện đại .................................................................................................. 23
1.3. Hành trình sáng tạo thi ca của Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn, Phạm Công Trứ. .. 27
1.3.1. Nguyễn Duy về “hát những lời của ta” ..................................................................... 28
1.3.2. Đồng Đức Bốn - Đời người đời thơ........................................................................... 30
1.3.3. Phạm Công Trứ - “ Người thơ gảy khúc trăng vàng ngõ quê” ............................. 333


CHƢƠNG 2: NHỮNG BIỂU HIỆN VĂN HÓA LÀNG QUÊ TRONG THƠ
LỤC BÁT NGUYỄN DUY, ĐỒNG ĐỨC BỐN, PHẠM CÔNG TRỨ .................. 36
2.1. Cảnh sắc làng quê .................................................................................. 36
2.1.1. Cảnh sắc làng quê trong thơ lục bát Nguyễn Duy .................................................... 36
2.1.2. Cảnh sắc làng quê trong thơ lục bát Đồng Đức Bốn ................................................ 44
2.1.3. Cảnh sắc làng quê trong thơ lục bát Phạm Công Trứ ............................................... 53
2.2. Những cảnh sinh hoạt văn hóa nơi làng quê .......................................... 58
2.2.1. Phong tục tập quán, hội hè đình đám......................................................................... 58
2.2.2. Cảnh sinh hoạt đời thường của con người lao động chân lấm tay bùn ................... 62
2.3. Văn hóa làng nơi ngƣời quê ................................................................... 65
2.3.1. Những người phụ nữ chân quê................................................................................... 65
2.3.2. Những lão nông, trai làng nơi thôn dã ..................................................................... 755
2.3.3. Những em thơ của xứ đồng ........................................................................................ 77


2.4. Sự thay đổi của văn hóa làng quê trong cuộc sống mới..............................79
2.4.1. Những mã văn hóa mới mang tính tích cực .............................................................. 80
2.4.2. Những biến thái của văn hóa trong cuộc sống mới .................................................. 81
CHƢƠNG 3: PHƢƠNG THỨC BIỂU HIỆN VĂN HÓA LÀNG QUÊ TRONG
THƠ LỤC BÁT NGUYỄN DUY, ĐỒNG ĐỨC BỐN, PHẠM CÔNG TRỨ ........ 84
3.1.Thể thơ lục bát ........................................................................................ 84
3.1.1. Khái quát về thể loại thơ lục bát................................................................................. 84
3.1.2. Thơ lục bát trong sáng tác của Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn, Phạm Công Trứ .... 88
3. 2. Triển khai tứ thơ ................................................................................... 91
3.2.1. Khái niệm tứ thơ.......................................................................................................... 91
3.2.2. Tứ trong thơ lục bát Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn, Phạm Công Trứ ..................... 91
3.3. Xây dựng hình ảnh................................................................................. 96
3.3.1. Những hình ảnh mượn lại từ ca dao, dân ca.............................................................. 97
3.3.2. Những hình ảnh mang đậm hồn quê qua sự sáng tạo của ba tác giả ..................... 100
3.4. Ngôn ngữ .................................................................................................... 103

3.4.1. Đặc điểm ngôn ngữ thơ .......................................................................... 103
3.4.2. Ngôn ngữ trong thơ lục bát Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn, Phạm Công Trứ ....... 105
3.5. Giọng điệu ............................................................................................ 110
3.5.1. Khái niệm .................................................................................................................. 110
3.5.2. Giọng điệu thơ lục bát Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn, Phạm Công Trứ ............. 1111
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 115
TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1. Trong lịch sử phát triển của nhân loại, có lẽ chưa bao giờ như những năm gần
đây, văn hóa lại được nhìn nhận, đánh giá một cách toàn diện và sâu sắc như vậy. Vấn
đề văn hóa, không còn co hẹp trong phạm vi của mỗi quốc gia, nó đã trở thành một vấn
đề thời sự có tính toàn cầu. Có thể nói hiện nay đâu đâu cũng nói đến văn hóa, bàn đến
văn hóa. Cùng với sự phát triển và hội nhập về kinh tế xã hội như vũ bão, văn hóa Việt
cũng đang trong quá trình tiếp biến, thay đổi mạnh mẽ. Chỉ ngót mươi năm đầu thế kỷ
XXI này, văn hóa đời sống người Việt Nam đã có những đổi thay nhanh chóng đến
không ngờ. Trong một thế giới toàn cầu hóa như ngày nay, thế giới đã được thu nhỏ lại
như một “ngôi làng toàn cầu”, nhiều giá trị tốt đẹp của nền văn hóa truyền thống đang
đứng trước sự mai một. Vì vậy vấn đề giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc được đặt ra như
một nhu cầu bức thiết của toàn xã hội. Trong đó “văn học là một bộ phận của văn hóa
dân tộc”, “mỗi tác phẩm kinh điển của thế giới xưa nay đều mang tầm văn hóa lớn vì
trước hết nó rất riêng, rất dân tộc nhưng cũng lại rất chung, rất nhân loại về mặt văn
hóa”[48;65], hơn lúc nào hết phải góp tiếng nói của mình khẳng định những nét đẹp văn
hóa truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc trên hành trình hội nhập và phát triển.
Nghiên cứu văn học dưới góc nhìn văn hóa nhằm chỉ ra mạch nguồn sâu xa các trầm
tích văn hóa dân tộc chi phối sự hình thành các sáng tạo văn học, và đến lượt nó, các
sáng tạo văn học chính là hiện thân văn hóa dân tộc, là một trong những hướng nghiên
cứu có nhiều triển vọng hiện nay.

2. Nền văn hoá Việt Nam là một nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc. Dù trải qua
nhiều biến thiên lịch sử, nhưng văn hoá Việt Nam vẫn tồn tại bền vững và có bản sắc. Dải
đất thân thương hình chữ S, từ châu thổ sông Hồng đến đồng bằng sông Cửu Long, từ cao
nguyên Đồng Văn đến Mũi Cà Mau đã tụ hội nhiều giá trị tốt đẹp của nền văn minh lúa
nước, văn minh Á Đông. Đó là những thiên sử thi, truyện cổ tích mang đậm sắc màu
huyền thoại, những điệu hò sông nước, làn điệu dân ca mượt mà, những đêm hội chèo,
những màn trình diễn rối nước, những ngôi chùa cổ kính, những bài thơ hay… luôn sống
trong tâm hồn nhiều thế hệ. Đây là cơ sở để khẳng định văn hóa làng quê là nét tiêu biểu
cho nền văn hóa truyền thống của người Việt.
Con người làng quê Việt Nam gắn bó máu thịt với ngọn lúa, bờ tre, ruộng vườn.
Đó cũng chính là mạch nguồn không bao giờ vơi cạn của văn học từ dân gian cho đến
hiện đại khi viết về làng quê. Song cảm hứng ấy bước vào thi ca với tư cách là một dòng
văn học gắn với bản sắc dân tộc, có những cách tân hiện đại mà vẫn đậm đà phong vị
truyền thống thì phải đến với thơ đương đại với tên tuổi như: Nguyễn Duy, Đồng Đức
Bốn, Phạm Công Trứ, Bùi Giáng, Lê Đình Cánh, Nguyễn Trọng Tạo… mới có được
những giá trị mà những thời kỳ văn học trước đó vẫn còn nhiều bỏ ngỏ.
3. Ở nước ta, các thể thơ văn được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau: từ văn
học dân gian phát triển lên, từ sự du nhập bên ngoài… Thơ lục bát có cội nguồn sâu
thẳm từ văn học dân gian, có sức sống lâu bền; là thể thơ có sức mạnh vạn năng trong
1


việc bảo tồn giá trị văn hóa dân tộc. Và chính nó cũng được nuôi dưỡng bằng tâm hồn
con người Việt Nam. Vì thế nó mang tâm tư tình cảm, khát vọng và thể hiện tính dân tộc
của thơ Việt Nam. Do đó đây cũng là thể thơ đã được nhiều nhà thơ chọn làm hành
trang trong sự nghiệp thơ ca của mình.
4. Thơ Việt Nam đương đại đang đi những bước khá vững chắc trên hành trình
hiện đại hóa, hội nhập với thơ ca nhân loại. Tinh thần dân chủ trong thơ ca được đề cao.
Thơ trở nên đa dạng hơn, tư duy nghệ thuật mở rộng hơn, mở ra cuộc cách tân sâu sắc
và toàn diện cho thi ca Việt Nam những năm đầu thế kỷ XXI. Xu hướng tìm về với văn

hóa làng quê - cội nguồn sinh dưỡng của tâm hồn mỗi con người cũng là sự lựa chọn
của không ít lớp nhà thơ đương đại, là con đường đem lại giá trị thẩm mỹ đích thực. Nổi
lên trong vườn hoa thơ thời kỳ này, ta phải kể đến: Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn và
Phạm Công Trứ - ba đại diện tiêu biểu cho nền thơ hiện đại theo khuynh hướng dân gian
hóa. Thể hiện một cách hồn hậu cái duyên quê, cảnh quê trong thơ lục bát khi xã hội
đang mải miết lăn bánh về phía văn minh kỹ trị, thơ lục bát Nguyễn Duy, Đồng Đức
Bốn, Phạm Công Trứ là những ký họa sinh động về những nét văn hóa quê đẹp đẽ sau
lũy tre làng. Điều này cắt nghĩa một cách đầy thuyết phục rằng: bản sắc văn hóa dân tộc
như một dòng chảy ngầm không hề đứt đoạn trong quá trình phát triển của thơ ca dân
tộc. Văn hóa Việt Nam, văn hóa làng quê đã khơi dậy tình yêu quê hương, yêu Tổ quốc,
tạo nên tình thân ái giữa con người, xây dựng và hình thành nhân cách, đạo lí làm người
tốt đẹp của một dân tộc, một địa phương, một cộng đồng. Văn hóa làng quê tạo ra một
sức mạnh vô biên huyền bí, được gọi là sức mạnh tâm linh của người dân quê thuần hậu,
cũng là sự ngưỡng mộ và quy thuận theo lẽ phải, một lẽ tốt đẹp nhân sinh. Và chính điều
này đã trở thành nguồn mạch nối liền thơ ca dân tộc với thơ ca đương đại.
5. Khi nghiên cứu về thơ đương đại, không nhiều người chú ý đến “một dòng
chảy của thơ viết về cảnh quê, tình quê”, đặc biệt là văn hóa làng quê, hoặc có chú ý tới
cũng chỉ đề cập đến quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, làng quê có nhiều thay đổi
để phù hợp với xu thế phát triển chung. Trong xu thế hội nhập, bạn bè thế giới có điều
kiện hiểu biết về Việt Nam, đặc biệt là văn hóa Việt Nam. Hơn nữa, đây cũng chính là
điều kiện để ta nhìn lại cho rõ mình hơn. Vấn đề giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc là vấn
đề thiết yếu phải làm. Vì vậy trong Đại hội Đảng VIII, Đảng ta đã xác định việc “xây
dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” là nhiệm vụ quan trọng, trên
cơ sở kế thừa và phát huy văn hóa truyền thống.
6. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng nhận thấy chưa có một công trình nào nghiên cứu
một cách cụ thể, hệ thống và toàn diện văn hóa làng quê trong thơ lục bát đương đại.
Đặc biệt tìm hiểu đề tài: Văn hóa làng quê trong thơ lục bát đương đại (qua thơ Nguyễn
Duy, Đồng Đức Bốn, Phạm Công Trứ) là một yêu cầu cấp thiết để làm rõ hơn đặc
điểm và sức sống của thể loại thơ lục bát, thấy rõ hơn giá trị thơ ca Nguyễn Duy, Đồng
Đức Bốn, Phạm Công Trứ cũng như sự đóng góp của họ cho văn học nước nhà.

Trên đây chính là những gợi ý để luận văn này hướng tới đề tài: Văn hóa làng
quê trong thơ lục bát đương đại.
2


2. Lịch sử vấn đề
Thơ đương đại đã trở thành một hiện tượng văn học được nhiều người quan tâm.
Nó cũng có những đóng góp tích cực trong quỹ đạo chuyển động của văn học Việt
Nam. Và “Trong bối cảnh thơ ca Việt Nam đương đại đang có những sa lầy trong
những đam mê rối rắm của chủ nghĩa hình thức, đang ùn ùn những linh kiện chữ, ngổn
ngang kĩ nghệ thơ Tây Âu” thì cũng có không ít những nhà thơ “không thể từ bỏ
truyền thống dân tộc, đấy chính là hồn Việt ẩn dưới tầng sâu thẳm của ngôn ngữ Việt”
[73;105]. Nét đẹp văn hóa làng quê là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong sáng tác của nhiều nhà
thơ trong nền thơ ca đương đại đặc biệt là ba thi sĩ: Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn, Phạm
Công Trứ. Có rất nhiều nhận xét, đánh giá về thơ của ba tác giả trên, nhưng chúng tôi
xin được điểm lại những thành tựu của các công trình nghiên cứu có ý nghĩa với đề tài
luận văn.
2.1. Lịch sử nghiên cứu về thơ Nguyễn Duy
Thơ Nguyễn Duy là một hiện tượng nghệ thuật độc đáo nên thu hút được sự quan
tâm rộng rãi trong bạn đọc và các nhà nghiên cứu. Năm 1972, khi tác phẩm thơ đầu tay Cát trắng của Nguyễn Duy vừa mới ra đời, Hoài Thanh đã vô cùng tinh tế nhận ra: “cái
chất quê đằm thắm quen thuộc mà không nhàm ở thơ anh”[62;5].
Tế Hanh nhận thấy ở Nguyễn Duy nét độc đáo không thể trộn lẫn “Một điểm đáng
chú ý nữa là thơ Nguyễn Duy nói về ruộng đồng dù đó là Thanh Hóa quê anh hay Cà
Mau quê bạn, có cái gì đó rất tha thiết”[30;3]. Hà Minh Đức cũng viết: “Thơ của
Nguyễn Duy mang nhiều màu sắc dân gian. Cách suy nghĩ và cảm xúc trực tiếp hay
gián tiếp nằm trong mạch suy nghĩ quen thuộc của dân gian”[27].
Nguyễn Duy xuất hiện trên văn đàn và mang một tiếng nói riêng nên đã chiếm được
sự tin cậy và cảm tình của đông đảo bạn đọc yêu thơ. Cái chất keo làm nên bản sắc ở thơ
anh chính là hồn quê trong từng con chữ. Chất quê, tình quê đã xuất hiện ngay từ những
bài thơ đầu tiên trình làng cho tới tận những bài thơ về sau. Vì vậy, thơ Nguyễn Duy

hơn lúc nào hết luôn dành được quan tâm đặc biệt của độc giả. Nhà văn Nguyễn Quang
Sáng nhận xét Nguyễn Duy “có khả năng nắm bắt cái thần, cái hồn của mỗi làng quê”,
“lời thơ đơn sơ gần với khẩu ngữ, tư duy thơ thì hiện đại”[39;17]. Đỗ Ngọc Thạch thì
cho rằng: “đó là những câu thơ nặng trĩu hồn quê, lay động tận trong sâu thẳm tâm linh
và như tự lúc nào đưa người đọc về với bản ngã, với những gì con người nhất”[60;11].
Lê Quang Hưng lại tìm thấy yếu tố truyền thống trong thơ Nguyễn Duy ở cách lập tứ
“một trong những nét riêng nổi bật của thơ Nguyễn Duy thể hiện ở Ánh trăng là cách
dựng tứ”[35;156], “Cách dựng tứ là một yếu tố tạo nên chất dân gian trong thơ Nguyễn
Duy. Nhiều bài thơ trong Ánh trăng thật đậm đà chất ca dao, nhiều đoạn thơ lục bát
nhuần nhị ngọt ngào khiến người ta khó phân biệt đấy là ca dao hay thơ”[35;157].
Trong bài Ca dao vọng về trong thơ Nguyễn Duy, Phạm Thu Yến đã đi sâu tìm hiểu
những biểu hiện trong mối quan hệ giữa ca dao và thơ hiện đại. Cụ thể là tiếng vọng của
ca dao trong thơ lục bát Nguyễn Duy. Tác giả chỉ ra được hiện tượng “tập” ca dao trong
thơ anh “Đọc thơ Nguyễn Duy, ta như gặp được một thế giới ca dao sinh động, phập
3


phồng làm nền cho tiếng đàn huyền đầy sáng tạo của hồn thơ thi sĩ”[74;76]. Bên cạnh
đó, tác giả còn nhấn mạnh “thể thơ lục bát - thể thơ đặc trưng của dân tộc được Nguyễn
Duy sử dụng một cách nhuần nhụy, giúp tác giả chuyển tải một cách nhẹ nhàng, trong
sáng những suy nghĩ và tình cảm sâu sắc, đa dạng của con người. Có lẽ những bài thành
công nhất của Nguyễn Duy là những bài làm theo thể lục bát”[74;79].
Cùng với sự khẳng định tài năng vượt trội ở việc sử dụng thể thơ lục bát của Nguyễn
Duy, Vũ Văn Sỹ trong bài viết Nguyễn Duy - người thương mến đến tận cùng chân thật
đã khẳng định: “Nguyễn Duy đã sử dụng lục bát để thuần hóa chất liệu cập nhật của đời
sống. Lục bát trong tay Nguyễn Duy trở nên vừa êm ái, vừa ngang ngạnh, vừa quen
thuộc vừa biến hóa cựa quậy. Làm thơ lục bát đến như Nguyễn Duy có thể xếp vào bậc
tài tình”[59;71].
Lại Nguyên Ân, trong bài viết Tìm giọng nói thích hợp với người thời mình đã rất
tinh tế khi nói trong thơ lục bát của Nguyễn Duy “ngay trong những bài lục bát ta cũng

thấy có cái gì bên trong như muốn cãi lại vẻ êm nhẹ mượt mà vốn có của câu hát ru
truyền thống”, “cái nhịp thông thường êm ngọt thì hẳn không còn nguyên (...) Phải
chăng anh đang văn xuôi hóa thơ mình chẳng những trong ngôn ngữ mà cả trong cách
cảm xúc”[2;11]. Chu Văn Sơn trong bài viết Nguyễn Duy thi sĩ thảo dân thì lại sâu sắc
nhận ra rằng: “với bao nhiêu là mời gọi quyến rũ, Nguyễn Duy vẫn đau đáu một niềm cố
hương, vẫn thiết tha đến thế với "cỏ và lúa và hoa hoang quả dại - vỏ ốc trắng những
luống cày phơi ải - bờ ruộng bùn lấm tấm dấu chân cua”, thủy chung đến thế với tre
pheo, rơm rạ, xó bếp, góc vườn, cái chum, cái chĩnh, cái rổ, cái xề…”, không dừng lại ở
đó, tác giả khẳng định giọng điệu thơ của Nguyễn Duy “đi ra từ nguồn dân gian”, “lục
bát vẫn được coi là hơi thở của Nguyễn Duy, giai điệu lục bát của Duy có cổ điển, có
dân gian”[84].
Bên cạnh những bài phê bình về tổng quan thơ Nguyễn Duy, còn có nhiều đánh giá
nhận xét về đặc sắc thơ lục bát của Nguyễn Duy. Đánh giá sự độc đáo, hấp dẫn trong bài
Tre Việt Nam, giáo sư Lê Trí Viễn không chỉ phát hiện ra phẩm chất của con người Việt
Nam thông qua hình ảnh cây tre mà còn thấy được giọng điệu quen thuộc của thi pháp
thơ dân gian, trong đó “người ta gặp ở đây vừa âm hưởng của ca dao - dân ca ngọt ngào
thân mật, vừa vang vọng của thơ ca bác học lắng sâu vào trí tuệ. Cách tân linh hoạt
nhưng lại nhuần nhuyễn cả xưa lẫn nay, truyền thống và hiện đại”[75;289]. Văn Giá
trong Một lục bát về tre đã khái quát giá trị thơ lục bát của Nguyễn Duy như sau: “lựa
chọn thể thơ sáu - tám, một thể thơ thuần chất Việt Nam, tác giả xử lí nhuần nhuyễn trôi
chảy, trau chuốt, không non ép, gượng gạo, vấp váp một chỗ nào. Trong toàn bộ sáng
tác của nhà thơ, phần các bài viết theo thể lục bát không phải là nhiều nhất nhưng anh
vẫn được coi là một trong những nhà thơ hiện đại viết lục bát thành công nhất. Với tất cả
những gì đạt được, anh đã góp phần đem lại một sắc điệu hiện đại cho thơ lục bát của
dân tộc”[29;39].
Tác giả Hoàng Nhuận Cầm viết Rưng rưng bóng mẹ đã đặc biệt cảm động và cảm
phục Nguyễn Duy khi Nguyễn Duy có một bài thơ lục bát thời hiện đại rất hay về mẹ 4


đã động thấu đến những tình cảm thiêng liêng nhất, sâu xa nhất và thân thương nhất của

chúng ta - tình cảm đối với mẹ [15].
Ngoài ra còn có những bài viết của Nhị Hà, Nguyễn Thị Bông, Nguyễn Bùi Vợi, Vũ
Quần Phương và một số luận văn… tất cả đều nhằm khẳng định những đặc sắc về thơ
lục bát trong thơ Nguyễn Duy.
Có thể thấy, các bài viết trên đã phần nào nói lên được những tinh hoa trong thơ của
Nguyễn Duy, đặc biệt là khi đề cập đến những nét văn hóa làng quê trong thơ anh. Tuy
nhiên chưa có một công trình cụ thể nào đi sâu nghiên cứu một cách toàn diện về sự thể
hiện văn hóa làng quê trong thơ Nguyễn Duy và vị trí của nó trong hành trình thơ lục bát
đương đại. Vì thế khi tìm hiểu thơ lục bát Nguyễn Duy, chúng tôi muốn được nhìn nhận
một cách cụ thể, có hệ thống về sự thể hiện nét văn hóa ở thơ lục bát Nguyễn Duy.
Trong quá trình tìm hiểu này, những nhận xét, đánh giá về tình quê, hồn quê trong thơ
lục bát Nguyễn Duy của các nhà nghiên cứu phê bình sẽ là những định hướng chung,
những gợi mở ban đầu để chúng tôi tiếp cận, tìm hiểu thơ Nguyễn Duy ở một hướng tiếp
cận mới - tiếp cận thơ từ góc nhìn văn hóa.
2.2. Lịch sử nghiên cứu về thơ Đồng Đức Bốn
Trong thời đại ra ngõ gặp nhà thơ như hiện nay, Đồng Đức Bốn nổi lên như một hiện
tượng đặc biệt. Đồng Đức Bốn – “một cây bút tài hoa, một cá tính mạnh mẽ. Cần ném
thì ném, cần giữ thì giữ. Đau đáu theo đuổi cái đẹp và bên những câu chữ rạn vỡ ẩn chứa
một dòng nhạc dân gian”[12;7]. Là một hiện tượng thơ độc đáo, Đồng Đức Bốn đã thu
hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu phê bình và bạn đọc. Như: Đồng Đức
Bốn vị cứu tinh của thơ lục bát, Khổ câu thơ đến rồi lại đi (Nguyễn Huy Thiệp), Đồng
Đức Bốn kẻ mượn bút của trời, Trời đưa anh đến cõi thơ (Đỗ Minh Tuấn), Múa võ
trong không gian hẹp (Lê Quang Trang), Đồng Đức Bốn phiêu du vào thơ lục bát
(Nguyễn Đăng Điệp), Những câu thơ tình tang quê mùa (Đoàn Hương), Đọc thơ lục bát
của Đồng Đức Bốn (Nguyễn Thị Anh Thư), Đồng Đức Bốn người cày ruộng trên cánh
đồng thương nhớ (Nguyễn Văn Quân), Đồng Đức Bốn Tiếng chuông chùa trong mưa
(Khánh Phương), Nhà thơ Đồng Đức Bốn nhàu nát và trau chuốt (Trần Huy Quang),
Đồng Đức Bốn tựa bão để sống làm người (Nguyễn Anh Quân), Lục bát tình của Đồng
Đức Bốn (Vĩnh Quang Lê), Đồng Đức Bốn thi sĩ đồng quê (Băng Sơn), Tản mạn sau
thơ Đồng Đức Bốn (Trần Thị Thường), Chờ đợi tháng ba (Chu Nguyễn), Đến với bài

thơ hay (Chử Văn Long), Hoa dong riềng (Lê Quốc Hán), Chăn trâu đốt lửa (Nguyễn
Chu Nhạc), Đồng Đức Bốn- chàng thi sĩ đồng quê (Nguyễn Thanh Phong), Đồng Đức
Bốn một câu chuyện hoang đường (Vũ Dũng), Bốn sáu tám (Nguyễn Việt Hà), Đoản
khúc buồn, Đồng Đức Bốn (Xuân Ba)… [12].
Tất cả các bài viết trên đây đề cập về thơ Đồng Đức Bốn nói chung và thơ lục bát
của anh nói riêng ở nhiều khía cạnh khác nhau. Nhìn chung các ý kiến đều thống nhất
khẳng định: Đồng Đức Bốn là một nhà thơ lục bát tài hoa, thơ lục bát của anh có một vị
trí riêng trong thơ Việt Nam hai thập kỷ nay.Và thơ lục bát của Đồng Đức Bốn đậm đà
5


bản sắc dân tộc, rất gần với ca dao, dân ca. Thơ anh thắp lên trong tâm thức mỗi chúng
ta những nét đẹp về văn hóa làng quê trong dòng chảy vội vã của thời gian.
Trong một chùm bài viết: Đồng Đức Bốn vị cứu tinh của thơ lục bát, Khổ câu thơ
đến rồi lại đi, Nguyễn Huy Thiệp đã đánh giá cao về tài năng thơ lục bát của Đồng Đức
Bốn. Ông coi thơ lục bát của Đồng Đức Bốn thuộc vào môn phái “ngộ năng”, là lục bát
“gin” [12;533]. Và trên hết ông khẳng định “cái duyên thơ lục bát của Đồng Đức Bốn là
cách làm sống dậy những nét văn hóa làng quê ở thơ ông”[12;533]. Trân trọng tài năng
và tấm lòng thơ của Đồng Đức Bốn, Đinh Quang Tốn đã viết: “Nhắc đến Đồng Đức
Bốn, ai cũng biết đấy là một hồn thơ lục bát. Phải thừa nhận rằng: thơ lục bát của Đồng
Đức Bốn có một vị trí riêng trong thơ Việt Nam hai thập kỷ nay”[82]. Nguyễn Đăng
Điệp trong bài viết Đồng Đức Bốn - phiêu du vào thơ lục bát đã rất tinh tế khi nói rằng:
“Trong các thứ hương hỏa, Đồng Đức Bốn ăn lộc của ca dao nhiều hơn cả. Cái chất nhà
quê trong thơ anh kết hợp với cái lang bang thân cò vạc của một kẻ bị bầm dập trong đời
sống hiện đại đã làm thành một lối nói ngang, tưng tửng”[12;110]. Còn nhà thơ, nhà phê
bình Đỗ Minh Tuấn thì lại nói: “thơ Đồng Đức Bốn vụt lên với sự sáng trong giản dị mà
vẫn không kém phần sâu sắc, mới lạ, ấn tượng như mang cả hồn thiêng của tổ tiên trong
mỗi lời đối thoại, mỗi tiếng nhủ thầm”[12;105]. Với kinh nghiệm và một tâm hồn nhạy
cảm của người phê bình có nghề, Đoàn Hương trong bài viết Những câu thơ tình tang
quê mùa đã khám phá ra những nét đẹp của thơ Đồng Đức Bốn ở chính trong những

hình ảnh quê mùa: “Thơ lục bát của Đồng Đức Bốn đẹp vẻ đẹp mộc của thơ ca dân gian,
của những câu ca dao mà ta đọc trong mọi thế hệ, đọc trong cả cuộc đời mà vẫn cứ giật
mình”[12;661]. Tác giả Băng Sơn trong bài Đồng Đức Bốn - thi sĩ đồng quê đã khẳng
định Đồng Đức Bốn là “một nhà thơ kiệt xuất trong lục bát, có lẽ là hồn Việt chắt lọc
ngàn năm để ứ dồn vào tâm hồn thi sĩ làm ta nghiêng ngả mê say những vần thơ như từ
ca dao đi ra, như từ thơ đi vào ca dao, cứ ngọt lịm và ở lại”[12;728-729]. Khánh
Phương trong Tiếng chuông chùa trong mưa thì nhận thấy rằng: “Thơ Đồng Đức Bốn dễ
hiểu đối với đại đa số công chúng. Nó dễ đi vào tâm hồn người đọc bởi chính lối cảm và
logic dân gian”[12;686-687]. Còn nhà thơ Nguyễn Thanh Toàn trong bài Vài ý nghĩ tản
mạn về thơ Đồng Đức Bốn thì lại viết: “thế mạnh thơ Đồng Đức Bốn là thể thơ đồng quê,
ngôn ngữ đồng quê, cảm hứng đồng quê…Đặc biệt là tình ý tư tưởng đồng quê”[12;752].
Và Chử Văn Long trong bài viết Đến với bài thơ hay đã khẳng định vẻ đẹp mộc mạc, tinh
tế mà lắng sâu của thơ Đồng Đức Bốn như sau: “Trong thị trường thơ ào ạt hiện nay, thơ
Đồng Đức Bốn như một bông hoa đồng nội, nhưng vẻ đẹp của những bông hoa ấy lại
thiên về sự vĩnh hằng”[12;775]. Có thể thấy “Mười năm gần đây, Đồng Đức Bốn xuất
hiện như một ngôi sao băng giữa bầu trời thơ lục bát. Giữa công cuộc đổi mới thơ ồn ào,
hỗn loạn, anh hiện lên như một niềm yêu mến những giá trị dân tộc, anh bỏ qua một số
nhà thơ lục bát có tiếng vượt lên trở thành một nhà thơ lục bát xuất sắc”[12;719].
Trong các bài viết trên, các tác giả chủ yếu nhận xét về thơ lục bát của Đồng Đức
Bốn ở cả hai mặt nội dung và hình thức nghệ thuật và đều có những phát hiện mới mẻ,
độc đáo về thơ lục bát của anh. Điều này đã khẳng định tài năng thơ lục bát của Đồng
6


Đức Bốn cũng như sự yêu thích và trân trọng của bạn đọc đối với những vần thơ lục bát
hấp dẫn, giản dị, mộc mạc, thấm đẫm hồn quê của người thi sĩ tài hoa mà cũng lắm
truân chuyên này.
2.3. Lịch sử nghiên cứu về thơ Phạm Công Trứ
Là người đến muộn nhưng Phạm Công Trứ đã gây ấn tượng sâu đậm với độc giả
bằng những câu thơ vấn vương hồn quê của một tài năng hiếm có về thơ lục bát. Đã có

khá nhiều bài viết thẩm bình, đánh giá về thơ anh. Tìm hiểu về sự thể hiện văn hóa làng
quê trong thơ anh, chúng tôi quan tâm hơn đến những bài viết, nhận xét có ý nghĩa đối
với đề tài của luận văn.
Trước hết phải kể đến những nhận định rất sâu sắc của Vũ Quần Phương - một
cây bút viết rất hay về thơ Phạm Công Trứ. Trong bài Phạm Công Trứ sau 10 năm thề
với cỏ may, ông viết: “Anh Phạm Công Trứ có giọng thơ dân tộc hơi xưa cũ, gần gũi với
giọng Nguyễn Bính, cũng là nhà thơ Thành Nam, đồng hương với Trứ (…) Anh Phạm
Công Trứ là người mới viết, nhưng cái giọng thơ anh có hôm nay cũng đã mang được
nhiều phong vị ngọt ngào và duyên dáng của cảnh quê, tình quê”[55;5]. Rồi đến Cỏ may
thi tập, Vũ Quần Phương lại có những nhận xét rất chân thành với thơ Phạm Công Trứ.
Cỏ may thi tập gồm 5 phần: Phố; Quê; Em; Tuyết; Rừng, gồm ngót 200 bài chọn từ 3
tập Lời thề cỏ may (I, II, III). Ông khẳng định thơ Phạm Công Trứ hấp dẫn bạn đọc đặc
biệt là lớp trẻ vì: Phạm Công Trứ hay chộp được các chi tiết sống, phá khuôn phép xưa;
nhà thơ hay đóng vai nhà quê để quan sát các mốt sống đương thời. Còn Trần Đăng
Khoa lại chỉ ra cái chất thơ mang hồn dân tộc khi ông ngầm so sánh Phạm Công Trứ với
Nguyễn Bính: “Giữa lúc người ta xuôi về thành phố thì Phạm Công Trứ lại ngược ra
ngoại ô, trở về làng quê, và rồi anh cứ đi mãi, đi hút về xứ dân gian, ở đó anh gặp
Nguyễn Bính, và ngay lập tức, anh đã bị thi sĩ đồng hương này bắt mất hồn!”[69;312].
Chu Văn Sơn thì viết: “Phạm Công Trứ chủ trương trở về khơi tiếp mạch hồn quê. Bên
cạnh điệu than buồn có tự ca dao, hồn quê ở Trứ còn đậm thêm một điệu vui say, khỏe
khoắn, tươi trẻ. Giữa cái thời thơ trẻ đang tung tẩy canh tân, tìm kiếm những điệu thức
mới, Trứ lại giấu chiếc đàn bầu xưa trong những hàng lục bát về “gảy khúc trăng vàng
ngõ quê” mà gửi vào đó những vui buồn của thời mình”[69;314]. Trong Người thơ gảy
khúc trăng vàng ngõ quê, Vũ Nho đã đưa ra những cảm nhận rất xác đáng về những nét
độc đáo của thơ Phạm Công Trứ: “…nếu không tài năng mà vào làng thơ muộn dở tỉnh,
dở quê lại gảy khúc trăng vàng ngõ quê trên cái đàn cũ kĩ một dây thì đến…mùng thất
cũng chẳng khiến được ai để ý”[49;62]. Tiếp tục khẳng định những nét đặc sắc riêng có
của thơ Phạm Công Trứ, Vũ Nho viết: “Bước vào làng thơ, Phạm Công Trứ như người
đã có duyên nợ từ lâu với thể tài lục bát…Về mặt thể tài lục bát, Phạm Công Trứ đúng
là một nhà thơ lục bát. Quả không sai khi anh coi lục bát là cả gia tài”[49;67-69]. Bùi

Đức Ba trong bài Màu sắc phong tình dân dã và cuộc sống trong Phồn thi I của Phạm
Công Trứ đã khẳng định Phạm Công Trứ “có giọng thơ đậm đà chất dân gian, khá
nhuần nhị (…) Và rồi như thể một cuộc tìm kiếm sự bình an trong lòng, nhà thơ thả hồn
mộng mị về chốn đồng quê thương nhớ”[3;7]. Không chỉ vậy, tác giả bài viết còn chỉ ra
7


nét đặc sắc nhất của Phồn thi I, đó là: “Phồn thi còn có màu sắc phong tình, đậm đà tính
dân gian, đồng thời hài hòa giữa nội dung hiện đại với hình thức thơ dân tộc (…) Những
bài thơ hay trong Phồn thi I phần lớn được viết theo thể lục bát. Điều này có thể xác
định lục bát là sở trường, là cái tạng riêng đã định hình phong cách, tài năng và giọng
điệu thơ của Phạm Công Trứ”[3;7].
Những nghiên cứu trên đây đều là những chỗ dựa, những gợi dẫn vô cùng quan
trọng cho việc khảo sát, tìm hiểu văn hóa làng quê trong thơ lục bát Phạm Công Trứ.
Tóm lại, đã có nhiều ý kiến đánh giá về thơ của Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn, Phạm
Công Trứ nhưng lại chưa có một công trình nghiên cứu nào cụ thể, toàn diện sự thể hiện
văn hóa làng quê trong thơ lục bát đương đại qua thơ của các anh. Luận văn của chúng
tôi nhằm đáp ứng nhu cầu đó.
3. Mục đích, đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
- Mục đích: Nghiên cứu sự thể hiện văn hóa làng quê trong thơ Nguyễn Duy, Đồng
Đức Bốn, Phạm Công Trứ, luận văn nhằm thấy được những nét độc đáo trong cách
chiếm lĩnh đời sống và thể hiện hiện đời sống thông qua hình tượng nghệ thuật trong
một hình thức thơ ca truyền thống. Từ đó làm rõ hơn một khuynh hướng vận động của
thơ Việt Nam đương đại.
- Đối tƣợng: Luận văn tập trung vào việc thể hiện văn hóa làng quê trong thơ lục bát
đương đại qua khảo sát thơ lục bát của ba tác giả Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn, Phạm
Công Trứ.
- Phạm vi:
+ Chúng tôi tập trung vào thể loại thơ lục bát của các tác giả. Và đặt sáng tác của
họ trong mối tương quan với các sáng tác cùng chủ đề của trào lưu thơ lục bát đương đại

+ Bên cạnh đó, chúng tôi còn nghiên cứu và sử dụng tài liệu nói về văn hóa dân tộc,
và sự thể hiện bản sắc văn hóa dân tộc trong thơ ca để làm cơ sở lý luận cho đề tài này.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học sau:
- Phương pháp hệ thống.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu.
- Phương pháp thống kê.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp.
- Phương pháp lịch sử - xã hội.
5. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận, luận văn gồm có 3 chương:
Chƣơng 1: Văn hóa làng quê và sáng tác của Nguyễn Duy, Đồng Đức
Bốn, Phạm Công Trứ.
Chƣơng 2: Những biểu hiện văn hóa làng quê trong thơ lục bát Nguyễn
Duy, Đồng Đức Bốn, Phạm Công Trứ.
Chƣơng 3: Phương thức biểu hiện văn hóa làng quê trong thơ lục bát
Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn, Phạm Công Trứ.
CHƢƠNG 1
8


VĂN HÓA LÀNG QUÊ VÀ SÁNG TÁC CỦA
NGUYỄN DUY- ĐỒNG ĐỨC BỐN - PHẠM CÔNG TRỨ
1.1. Văn hóa - những vấn đề chung
1.1.1. Văn học và văn hóa
1.1.1.1. Quan niệm về văn học
Văn học là một hình thái xã hội thẩm mĩ. Nó cũng như các loại hình nghệ thuật
khác, không phải là của cải vật chất của xã hội, cũng không phải là một lực lượng trực
tiếp sản sinh ra một giá trị vật chất nào cho đời sống xã hội. Nhưng chúng ta sẽ không
thể hình dung nổi một xã hội mà ở đó không có sự tồn tại của văn chương nghệ thuật.

Chỉ bởi nó chiếm giữ một vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống tinh thần của con
người. Và cũng vì vậy, đã từ lâu vấn đề bản chất của văn học luôn luôn thu hút sự
quan tâm rộng rãi của các nhà nghiên cứu văn học. ý thức được vai trò, giá trị của văn
học trong đời sống của mình, con người từ xa xưa đã muốn tìm hiểu để nắm bắt được
bản chất, quy luật đặc trưng, đặc điểm của văn học.
Khi nói văn học là hình thái xã hội thẩm mĩ, là nói tới đặc thù của văn học với
các hình thái ý thức xã hội khác thuộc kiến trúc thượng tầng như khoa học, triết học,
đạo đức, chính trị, tôn giáo vv… Khi nói văn học là loại hình nghệ thuật ngôn từ, được
ra đời từ rất sớm là nói đặc thù của văn học so với các loại hình nghệ thuật khác như
hội họa, điêu khắc, âm nhạc, kiến trúc…. Tất cả các loại hình nghệ thuật, kể cả văn
chương, đều thống nhất ở một điểm cơ bản là phản ánh cuộc sống bằng hình tượng.
Nhưng sở dĩ các loại hình nghệ thuật đều song song tồn tại, và dường như là để bổ
sung cho nhau là vì đặc trưng hình tượng của các loại hình nghệ thuật đó khác nhau
trên nhiều điểm cơ bản. Chẳng hạn, hình tượng của nghệ thuật hội họa, điêu khắc, kiến
trúc là có tính tĩnh và chiếm một khoảng không gian nhất định; hình tượng của nghệ
thuật âm nhạc, điện ảnh…có tính chất động và diễn ra trong một khoảng thời gian nhất
định vv…Vậy cái gì đã khiến cho hình tượng các loại hình nghệ thuật có đặc điểm
riêng biệt đó? Lí do trên hết và trước hết chính là ở đặc trưng của chất liệu xây dựng
nên hình tượng nghệ thuật của chúng. Chất liệu màu sắc, đường nét của hội họa khác
hẳn chất liệu âm thanh của âm nhạc, hình khối của điêu khắc. Chất liệu ngôn từ của
hình tượng văn chương khác xa với âm thanh, màu sắc, đường nét, hình khối của các
nghệ thuật kia. Ở đó, người ta thấy văn chương có một vị trí đặc biệt, nó vừa mang
tính chất của nghệ thuật tĩnh, lại vừa mang tính chất của nghệ thuật động; vừa là nghệ
thuật biểu hiện, lại vừa có mặt trong nghệ thuật tạo hình; lại nữa nó như cầu nối giữa
nghệ thuật tổng hợp với các nghệ thuật riêng lẻ. Chính ngôn từ, chất liệu cấu tạo nên các
hình tượng văn chương đã qui định tính độc đáo và đặc biệt của văn chương. Vì vậy để
tìm hiểu về văn chương nghệ thuật, không thể không tìm hiểu đặc trưng bản chất chất
liệu đã tạo nên hình tượng văn chương. Vậy ngôn từ của văn học có khả năng gì?
Sức mạnh nghệ thuật của ngôn từ trước hết là ở khả năng tạo hình của nó. Ngôn
từ mang tính hình tượng tự trong bản chất của nó. Bởi vì, ngôn ngữ là hiện thực trực

9


tiếp của tư duy và ý thức không thể tồn tại ngoài ngôn ngữ được. Ngôn từ nào cũng là
phát ngôn của chủ thể. Không có ngôn từ vô chủ. Tác phẩm văn học là tổng thể của
những phát ngôn (của tác giả, của người kể chuyện, nhân vật, cái tôi trữ tình…) cho
nên ngôn từ còn cho ta hiểu được giọng điệu, tư tưởng, tình cảm, quan điểm, tính
cách…của các chủ thể phát ngôn đó. Với chất liệu ngôn từ, văn học có thể phản ánh
bất kỳ một phương diện nào của đời sống hiện thực, có khả năng nhận thức to lớn, thể
hiện tư tưởng một cách trực tiếp và toàn vẹn nhất. Văn học với chất liệu là ngôn từ có
thế mạnh riêng của nó, đã vươn lên vị trí hàng đầu như là điểm giao thoa của nhiều
ngành nghệ thuật. Văn học vẫn mãi là loại hình nghệ thuật quan trọng trong các loại
hình nghệ thuật, góp phần làm cho đời sống tinh thần con người thêm phong phú.
Khi nói văn học là bao gồm cả văn học dân gian (những sáng tác lưu truyền
bằng miệng từ đời này qua đời khác) và cả văn học viết (những tác phẩm văn học được
sáng tác, lưu truyền bằng những văn bản viết). Văn học ra đời do nhu cầu của con
người trong quá trình phát triển của lịch sử của mình, vì vậy văn học phục vụ đời sống
của con người.
Văn học là một thứ thông điệp nhưng là một thứ thông điệp thẩm mĩ của một
tâm hồn gửi đến một tâm hồn, của một trái tim gửi đến một trái tim. Một thứ thông
điệp mà nội dung chủ yếu là: Con người với tất cả đời sống tự nhiên và xã hội, thân
phận và cuộc đời của nó - một thứ thông điệp mà nó có thể làm dấy lên ở người đọc
những tình cảm, suy nghĩ, tưởng tượng lâu dài, bền bỉ, sâu sắc khác với nhiều loại
thông điệp khác. Khi tiếp xúc với văn học, con người bước chân vào thế giới của cái
đẹp, của các giá trị Chân - Thiện - Mỹ, vì vậy văn học có chức năng đặc biệt trong
hoàn thiện nhân cách của con người. Những tác phẩm văn học chân chính luôn là
những tác phẩm có giá trị nhân văn sâu sắc.
Từ khi ra đời cho đến nay, văn học đã có sự thay đổi và phát triển cùng với sự
thay đổi và phát triển của con người, nhưng bản chất và chức năng của văn học thì
không thay đổi. Văn học luôn luôn hướng tới cái đẹp, hướng tới con người và những

giá trị người, văn học luôn là một loại hình nghệ thuật quan trọng trong đời sống tinh
thần của con người, văn học là một bộ phận của văn hóa con người.
1.1.1.2. Quan niệm về văn hóa
Văn hóa là một khái niệm rộng vì vậy có rất nhiều hướng nghiên cứu, và cũng
có rất nhiều định nghĩa về văn hóa được nhìn từ nhiều góc độ khác nhau. Theo thống
kê của nhà nghiên cứu Phan Ngọc thì có tới hơn 400 định nghĩa về văn hóa tính đến
năm 1994. Theo A. Kroeber và Kluckhohn (Mỹ), có trên 200 định nghĩa về văn hoá.
Sự phong phú đa dạng trong khái niệm văn hóa chứng tỏ nhân loại đã, đang và sẽ quan
tâm sâu sắc tới việc nhận thức rõ hơn về văn hóa. Và con người càng ngày càng thấy
được tầm ảnh hưởng của văn hóa đến hầu hết các lĩnh vực khác nhau trong đời sống.
Federico Mayor - Tổng giám đốc UNESCO cho rằng “Đối với một số người
văn hóa chỉ bao gồm những kiệt tác tuyệt vời trong các lĩnh vực tư duy và sáng tạo,
đối với những người khác, văn hóa bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác
10


với dân tộc khác từ những sản phẩm tinh vi hiện đại nhất cho đến tín ngưỡng, phong
tục, tập quán lối sống và lao động”[63;21]. Và chính Federico Mayor cũng phải thừa
nhận “văn hóa định nghĩa chúng ta nhiều hơn chúng ta định nghĩa văn hóa”.
Xem văn hoá phản ánh và thể hiện một cách tổng quát, sống động mọi mặt của
cuộc sống con người đã diễn ra trong quá khứ cũng như đang diễn ra trong hiện tại,
qua hàng bao thế kỷ, nó đã cấu thành nên một hệ thống các giá trị truyền thống thẩm
mỹ và lối sống, mà dựa trên đó từng dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mình.
Nhà văn hoá Eduord Herriot cho rằng: “Văn hoá là cái còn lại khi người ta quên đi tất
cả, là cái vẫn thiếu khi người ta học tất cả”.
Ở Việt Nam vấn đề văn hóa cũng được quan tâm sâu sắc và có nhiều ý kiến
khác nhau. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương
thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh nhằm thích ứng với
những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”[33;1].
Học giả Đào Duy Anh quan niệm: “Theo nghĩa rộng văn hóa gồm tất cả những

giá trị vật chất và tinh thần mà tất cả loài người sản sinh ra. Theo nghĩa hẹp, văn hóa
chỉ là gồm những năng lực tinh thần do các nhà tri thức vận dụng để duy trì và phát
triển những giá trị văn hóa theo nghĩa rộng kia”[1;51].
Nhà nghiên cứu Phan Ngọc trong cuốn Bản sắc văn hóa Việt Nam cũng đã định
nghĩa “Văn hóa là mối quan hệ giữa thế giới biểu tượng trong óc một cá nhân hay một
tộc người với cái thế giới thực tại ít nhiều đã bị cá nhân này hay tộc người này mô
hình hóa theo cái mô hình tồn tại trong biểu tượng. Điều biểu hiện rõ nhất chứng tỏ
mối quan hệ này đó là văn hóa dưới hình thức dễ thấy nhất, biểu hiện thành một kiểu
lựa chọn riêng của cá nhân hay tộc người khác, các biểu hiện lựa chọn của cá nhân hay
tộc người khác”[47;17].
Các định nghĩa trên thể hiện những góc nhìn khác nhau, những quan niệm khác
nhau về văn hóa. Trong khoa học xã hội và nhân văn, không có một khái niệm nào lại
mơ hồ như khái niệm văn hóa. Có thể thấy văn hóa là tất cả những gì do con người
sáng tạo ra trong quá trình ứng xử với tự nhiên và xã hội. Là tổng thể sống động các
hoạt động sáng tạo của cộng đồng và cá nhân qua thời gian. Văn hóa đó là sản phẩm
đặc hữu chỉ có ở con người. Do đó mọi cái liên quan đến con người đều có mặt văn
hóa của nó.
Văn hóa được hình thành từ bốn thành tố chính: lao động sản xuất, tri thức học vấn, tiềm lực sáng tạo, lối sống. Lao động sản xuất ở đây được quan niệm cả lao
động chân tay và trí óc. Đó là hoạt động để nuôi sống con người, duy trì sự tồn tại của
xã hội. Tri thức học vấn là muốn nói đến những hiểu biết do giáo dục đưa lại. Tiềm lực
sáng tạo bao gồm các lĩnh vực khoa học kỹ thuật và nghệ thuật. Lối sống muốn nói tới
cách giao tiếp, ứng xử của con người với con người, con người với tự nhiên xã hội.
Đặc trưng của văn hóa thể hiện ở tính hệ thống, tính giá trị, tính nhân sinh, tính
lịch sử. Những đặc trưng khác nếu có, cũng chỉ là biến dạng của những đặc trưng trên
đây mà thôi.
11


Điểm chung nhất dễ nhận thấy trong các quan niệm về văn hóa là đều lí giải sự
tác động kì lạ của văn hóa đối với đời sống của con người và thông qua văn hóa để tìm

hiểu con người sâu hơn nữa. Văn hóa là dấu hiệu để phân biệt giữa cộng đồng xã hội
này với xã hội khác, và giữa các cá nhân với nhau. “Văn hóa là bộ mặt của xã hội, là
bộ mặt của con người và cộng đồng con người, diện mạo bên trong với những phẩm
chất cao quý và phong cách bên ngoài với những hoạt động đa dạng của nó”[24;85].
Một dân tộc muốn tồn tại và tạo ra được một chỗ đứng của mình trong nhân
loại phải tạo ra, lưu giữ và phát triển bản sắc văn hóa dân tộc. Bản sắc văn hóa dân tộc
được coi là cốt lõi của văn hóa. “Nói đến bản sắc của văn hóa là nói đến nhân tố nội
sinh của văn hóa, là nói đến thuộc tính, bản chất bên trong của quá trình sáng tạo văn
hóa. Bản sắc văn hóa còn tạo thành phong cách nền văn hóa đó nữa”[65;40]. Văn hoá
góp phần trực tiếp tạo nên bản sắc của dân tộc, tạo nên sự khác biệt giữa dân tộc này
với dân tộc khác. Mỗi cộng đồng riêng biệt sẽ sản sinh ra nền văn hóa kết tinh những
tinh hoa của dân tộc mình. Trên nửa thế kỷ qua, với đường lối văn hoá - văn nghệ của
Đảng, cùng chính sách coi trọng và tôn vinh văn hoá dân tộc, chúng ta bước đầu đã
xây dựng thành công một nền văn hoá - văn nghệ mới, đậm đà bản sắc dân tộc. Cố
Thủ Tướng Phạm Văn Đồng đã khẳng định: “Văn hóa là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ
lịch sử của dân tộc, nó làm nên sức sống mãnh liệt, giúp cộng đồng dân tộc Việt Nam
vượt qua biết bao sóng gió và thác ghềnh tưởng chừng không thể vượt qua được, để
không ngừng phát triển và lớn mạnh”[24;16].
Giá trị của một nền văn hoá dân tộc thường được bồi đắp qua nhiều thế kỷ, có
tính tiếp nối truyền thống. Không có và không bao giờ có văn hoá giống nhau hoàn
toàn giữa các dân tộc cũng như từng con người trong một dân tộc. Văn minh giữa các
dân tộc có thể và rất dễ có thể giống nhau nhưng đối với văn hoá thì đó là điều không
thể vì nó lên quan đến lĩnh vực tinh thần, lĩnh vực tâm linh của con người. Cũng chính
vì vậy mà không thể nói rằng, một con người, một dân tộc được hưởng thụ một nền
văn minh cao hơn sẽ có một nền văn hoá cao hơn.
Có thể thấy, nắm bắt được bản chất của văn hóa sẽ giúp chúng ta có thể nắm bắt
được sự tác động và ảnh hưởng của văn hóa đối với văn học. Bởi văn học cũng là một
bộ phận của văn hóa. “Mỗi dân tộc có nền văn hóa riêng. Văn học nằm trong văn hóa,
là tinh túy của văn hóa nên nó cũng phải là đặc trưng của văn hóa dân tộc”[48;65].
1.1.1.3. Mối quan hệ giữa văn học và văn hóa

Văn học đã đi một chặng đường khá dài trong lịch sử nhân loại, nó đã trở thành
một bộ phận của văn hóa tinh thần và có mối quan hệ chặt chẽ với văn hóa: “Văn học
là một phần của văn hóa. Nó phản ánh sự sáng tạo vô giá của nền văn hóa đó”[67;3].
Khẳng định mối quan hệ đặc biệt sâu sắc giữa văn học và văn hóa, Nghị quyết Trung
ương 4, khóa VII viết: “Văn học là một bộ phận trọng yếu của nền văn hóa dân tộc.
Thể hiện khát vọng của nhân dân về chân - thiện - mỹ”. Đây là mối quan hệ giữa bộ
phận và toàn thể (vì văn học chỉ là một bộ phận nằm trong một thành tố cấu thành văn
hóa đó là tiềm lực sáng tạo mà thôi), là mối quan hệ biện chứng, phản ánh đặc điểm có
12


tính quy luật của quan hệ riêng chung có tầm cấp triết học “… cái riêng chỉ tồn tại
trong mức độ nó liên hệ với cái chung. Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua
cái riêng…”(Lênin). Vì lẽ đó, nghiên cứu văn học không thể tách rời những mối liên
hệ với nhiều bộ phận khác, và nhất là không thể không đặt nó trong mối quan hệ với
văn hoá với tư cách là toàn bộ sáng tạo vật chất và tinh thần của nhân loại. Nhà bác
học Nga M.Bakhtin đã từng chỉ rõ rằng “Văn học là một bộ phận không thể tách rời
của văn hóa. Không thể hiểu nó ngoài cái bối cảnh nguyên vẹn của toàn bộ văn hóa
một thời đại trong đó nó tồn tại”[6;361].
Muốn có văn học phải có văn hóa, phải có sự hiểu biết lịch sử, xã hội, con
người, hiểu biết về dân tộc và nhân loại. Mặc dù, văn học “không phải là tất cả nền
văn hóa dân tộc nhưng trong văn hóa, văn học là mặt cơ bản, tiêu biểu nhất, sinh động
nhất, nhiều hương sắc và có sức sống bền bỉ nhất”[66;7]. Do đó, để hiểu và tiếp cận
một tác phẩm văn học bắt buộc người đọc phải hiểu được chiều sâu văn hóa, mã văn
hóa trong đời sống dân tộc bởi mỗi tác phẩm văn học bao giờ cũng chứa đựng những
nội dung văn hóa đặc thù nào đó. Giải mã văn hóa ẩn giấu trong văn học cũng chính là
công việc khám phá mối quan hệ nhiều mặt giữa văn hóa và văn học: “Phải tiếp cận
tác phẩm văn học từ văn hóa. Một là phải đặt tác phẩm văn học trong bối cảnh văn hóa
rộng rãi, đi sâu khám phá văn hóa của một thời đại tác động đến sáng tác văn học như
thế nào. Hai là phải phát hiện cho được những tố chất văn hóa ẩn chứa trong tác phẩm

như sắc thái tình cảm, phương thức tư duy, hứng thú thẩm mĩ, phong tục tập quán,
niềm tin giáo lý…của nhân dân đất nước mình trong một giai đoạn phát triển nhất định
của lịch sử”[42;141]. Văn học lúc này là tấm gương của văn hóa. Tìm trong các tác
phẩm văn học, người ta sẽ thấy chiều sâu của văn hóa qua cách tiếp nhận và tái hiện
của nhà văn. Ví như bức tranh văn hoá dân gian trong thơ Hồ Xuân Hương, vẻ đẹp của
văn hoá truyền thống- văn hóa ẩm thực, lối sống trong các sáng tác của Thạch Lam,
Vũ Bằng, hay đó là những nét đẹp văn hóa quê hương, đất lề quê thói và thú phong lưu
đồng ruộng trong những truyện ngắn của Kim Lân, là những tín ngưỡng, phong tục
trong tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh như: đạo Mẫu và tín ngưỡng phồn thực,
tục thờ Thần Chó đá, Thần Cây đa, Thần Thành hoàng, cách lên đồng, hát chầu văn,
tục kết chạ, ma chay, cưới hỏi… Như vậy đọc một tác phẩm văn học theo quan điểm
văn hóa học là vận dụng những tri thức về văn hóa để nhận diện và giải mã các yếu tố
thi pháp của tác phẩm. Một cách tổng quát, phương pháp tiếp cận tác phẩm văn học từ
góc nhìn văn hóa ưu tiên cho việc phục nguyên không gian văn hóa trong đó tác phẩm
văn học đã ra đời, xác lập sự chi phối của các quan niệm triết học, tôn giáo, đạo đức,
chính trị, luật pháp, thẩm mỹ, quan niệm về con người cũng như sự chi phối các
phương diện khác nhau trong đời sống sinh hoạt xã hội sống động hiện thực…từng tồn
tại trong một không gian văn hóa xác định đối với tác phẩm về các mặt xây dựng nhân
vật, kết cấu, mô típ, hình tượng, cảm xúc, ngôn ngữ…Và để tạo nên những mã văn hóa đó
thì nhà văn phải là người có vốn văn hóa rộng. Văn hóa như một cái nền móng, một cái
13


phông để nhà văn từ đó mà sáng tạo ra, xây dựng tác phẩm của mình. Điều này đòi hỏi
nhà văn phải nâng cao trình độ văn hóa của mình bằng nhiều con đường.
Tuy nhiên, văn học và văn hóa lại có tính độc lập của nó. Người có văn hóa cao
chưa chắc đã là một nhà văn. Nhưng đã là nhà văn thì phải có văn hóa. Nhà văn phải là
nhà văn hóa. Một tác phẩm văn học có giá trị là một tác phẩm phải thể hiện được trình
độ văn hóa của nhà văn và trình độ văn hóa của dân tộc. “Nền tảng văn hóa luôn là
mảnh đất màu mỡ nuôi dưỡng những tài năng; trong lịch sử văn học nghệ thuật, các nhà

văn lớn bao giờ cũng đồng thời là những nhà văn hóa tiêu biểu cho thời đại của mình.
Tác phẩm của họ luôn luôn là những kết tinh của những kiến thức văn hóa tổng hợp,
rộng lớn đòi hỏi độc giả cũng phải rất có văn hóa mới cảm nhận và đánh giá chúng
được”[61;31]. Do đó, văn học không thể tách khỏi văn hóa mà phải dựa vào văn hóa.
Bàn về tính văn hóa trong văn học, DS Likhachev - Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa
học Nga đã đưa một nhận định có tính đặc trưng và khái quát: “Văn hóa - đó là hồn
thiêng của mỗi dân tộc, một quốc gia; là những gì làm nên bản sắc của dân tộc và biện
minh cho sự tồn tại của dân tộc đó”. Chính vì thế, nghiên cứu văn học không thể tách
rời văn hóa. Sức sống và sự kỳ diệu của văn học được bắt đầu và làm nên từ cội nguồn
văn hóa dân tộc. Nên để giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, không thể không
gắn với yêu cầu về một nền văn học phát triển lành mạnh, phong phú và đa dạng. Văn
hóa là một phạm trù rộng lớn, vì vậy văn hóa thâm nhập và tồn tại trong toàn bộ các
dạng thức của đời sống xã hội. Văn học cũng là một hình thái ý thức xã hội, phản ánh
tồn tại xã hội. Vì vậy văn học phải phản ánh văn hóa, bởi khi phản ánh những phương
diện của đời sống con người, văn học đã phản ánh văn hóa.
Vì văn hóa là nền tảng của văn học, chi phối văn học trước hết ở cơ sở văn hóa
truyền thống của mỗi dân tộc. Nên văn học luôn luôn chịu những ảnh hưởng to lớn của
truyền thống văn hóa. Do đó, văn học muốn phát triển lại phải biết lựa chọn những yếu
tố tích cực, tiến bộ của truyền thống văn hóa, phê phán, loại trừ những yếu tố lạc hậu,
tiêu cực có trong đó bởi nền văn hóa nào cũng bao hàm trong đó cả hai phương diện
tiên bộ và lạc hậu, tiêu cực và tích cực. Văn học luôn luôn phải nắm bắt, chọn lựa, kết
tinh từ văn hóa dân tộc những giá trị và kinh nghiệm để không ngừng phát triển.
Như đã trình bày, văn hóa như một tổng thể, một hệ thống bao gồm những yếu
tố như ngôn ngữ, phong tục tập quán, luật pháp, tín ngưỡng tôn giáo, nghệ thuật tạo
hình, nghệ thuật biểu diễn, văn học…Trong hệ thống văn hóa, nhất là văn hóa Việt
Nam yếu tố chủ đạo thường là văn học. Yếu tố chủ đạo này không phải là bất biến mà
nó thường xuyên thay đổi qua các thời đại văn hóa. Bởi văn hóa không bao giờ là một
phạm trù khép kín, đứng yên mà luôn có sự giao thoa, vận động và biến đổi. Là một
yếu tố mạnh, văn học luôn biết tiếp thu những gì ngoài hệ thống để phát triển. Tiếp thu
những cái ngoài hệ thống đến một mức độ nào đó, yếu tố văn học sẽ không còn phù

hợp với hệ thông văn hóa nữa, nó chống lại hệ thống, làm cho hệ thống phải thay đổi
cùng với nó. Chẳng hạn như ảnh hưởng của văn hóa nước ngoài đến văn học trong quá
trình giao lưu và tiếp biến văn hóa trên cả hai phương diện nội dung và hình thức. Sự
14


ảnh hưởng này đã có tác động sâu sắc đến văn học dân tộc như: ảnh hưởng của văn
học Trung Quốc đối với văn học Trung đại Việt Nam, ảnh hưởng của văn hóa Phương
Tây đặc biệt là văn học Pháp đối với trào lưu Thơ mới 1932-1945…
Với những gì đã trình bày trên đây, theo chúng tôi để tiếp cận được văn học từ
góc độ văn hóa phải bắt đầu từ cách nhận thức và phân tích bình giá những biểu trưng
văn hóa tinh thần kết tinh trong văn học qua các hình tượng nghệ thuật, ngôn từ nghệ
thuật, tư duy nghệ thuật, phong cách nghệ thuật… Các biểu trưng văn hóa tinh thần có
thể có truyền thống từ lâu đời, có thể chỉ mới hình thành trong lịch sử văn hóa dân tộc,
và cũng có thể là từ văn hóa ngoại sinh du nhập vào trong nước thông qua nhiều hình
thức giao lưu khác nhau.
Việc nghiên cứu văn học dưới góc nhìn văn hóa đã được nhiều nhà nghiên cứu
quan tâm từ rất sớm. Gần đây việc UNESCO phát động những thập kỷ phát triển văn hóa,
người ta bắt đầu nhận thức được văn hóa là động lực của phát triển thì nghiên cứu phê
bình văn học từ văn hóa càng được chú ý nhiều hơn, họ càng ý thức nhiều hơn về mối
quan hệ giữa văn học với văn hóa. Điều ấy lí giải rằng, mối quan hệ giữa văn hóa và văn
học càng ngày càng được làm sáng tỏ bởi nhiều công trình nghiên cứu sâu sắc, toàn diện.
1.1.2. Một số đặc điểm của văn hóa làng quê
Văn hóa làng được hiểu là tổng thể các biểu hiện và các giá trị văn hóa được thể
hiện trong một nhóm người cùng chung một không gian cộng cư được gọi là làng. Làng
là một không gian cộng cư tự nguyện của người Việt đã được hình thành từ rất lâu đời
dựa trên những điều kiện khác nhau, vì thế mỗi làng một vẻ, rất đa dạng. Các nhà nghiên
cứu lịch sử và văn hóa đều thống nhất cho rằng, lịch sử văn hóa Việt Nam có ba đơn vị
được coi là hằng số cơ bản tồn tại trong suốt trường kỳ lịch sử cho đến tận hôm nay, đó
là: nhà – làng - nước. Ba đơn vị hằng số này chi phối toàn bộ đời sống vật chất tinh thần

người Việt, làm nên diện mạo và bản sắc văn hóa Việt Nam. Xét văn hóa làng bao giờ
cũng cần thiết phải đặt trong mối tương quan với nhà (gia đình) và nước (tổ quốc). Giáo
sư Hà Minh Đức viết: “Cộng đồng làng xóm tồn tại từ ngàn đời đã sản sinh ra nền văn
hóa riêng của nó. Đó là những nền nếp, phong tục tập quán, thế giới tâm linh qua tín
ngưỡng tôn giáo và cách xử sự trong quan hệ giữa người với người. Đó cũng là nếp
thẩm mỹ đượm màu dân tộc, giản dị, chân quê trong sinh hoạt hàng ngày, lòng hiếu học,
giấc mơ quan trạng, tình yêu đôi lứa thề bồi, cho đến những ngày hội xuân, đêm hát
chèo, buổi lễ chùa, lớp học thầy đồ… tất cả đều là những bộ phận nhỏ của văn hóa làng
quê”[25;20]. Chính tầng văn hóa này thâu giữ sâu kín hồn quê mà các nhà thơ đã khai
thác thành công nếp sống văn hóa lành mạnh, giàu chất thầm mĩ.
Một nhà nghiên cứu về văn hóa cho rằng: “Với Việt Nam, khoe văn minh ấy là
văn minh lúa nước, khoe văn hóa ấy là văn hóa làng quê”. Gắn bó với đời sống nông
nghiệp, với những con người của ruộng đồng, văn hóa làng quê chính là nhân tố tiêu
biểu đặc trưng cho văn hóa Việt Nam. Đó là cái nôi nuôi dưỡng và phát triển tâm hồn
thuần hậu Việt Nam.
15


Từ những khái niệm trên ta có thể thấy văn hóa làng quê bao giờ cũng bao gồm
các giá trị vật chất và tinh thần do người dân quê sáng tạo ra. Văn hóa làng quê bao
đời nay luôn là một thực thể phồn tạp hiểu theo nghĩa là nơi chung sống của tất cả
những cái hay, cái dở, cái cao cả, cái thấp hèn, cái đẹp, cái xấu, cái bi, cái hài, cái hài
hòa chuẩn mực, cái dị mọ, thô kệch... Tuy nhiên, những phạm trù ấy đều mang tính
lịch sử, mỗi thời mỗi khác. Trải qua năm tháng, có cái bị bào mòn, tiêu biến, có cái lại
được trương nở, khuếch đại, có cái bị biến dạng bất thường...
Nói tới văn hóa làng trước hết nói tới người làng, những con người trong các tư
cách: chủ thể sáng tạo văn hóa làng, hiện thân của văn hóa làng, thụ hưởng văn hóa
làng và quảng bá văn hóa làng.
Bản sắc của văn hoá làng quê có thể xem xét trên các bình diện ngôn ngữ,
phong tục, tập quán, tín ngưỡng, cách ăn, ở, mặc, đi lại, đời sống nghệ thuật, tổ chức

làng xã vv... Về ngôn ngữ, có thể thấy ở cách phát âm, ở hệ thống từ vựng, mỗi làng
quê vùng miền đều có những đặc điểm khá riêng biệt .Về phong tục, ở làng quê Việt
cũng hết hết sức đa dạng và phong phú. Do mỗi làng được hình thành trên những điều
kiện khác nhau nên giữa làng ở miền xuôi và miền ngược, giữa làng ở đồng bằng, rừng
núi và hải đảo sẽ có những đặc trưng văn hóa khác nhau ví như: tục uống rượu cần của
các dân tộc Mường, Thái; tục trao vòng cầu hôn của dân tộc Ê-đê; tục Bát canh rêu đá
trong ngày Tết của dân tộc Thái… Tất cả đã làm nên sự phong phú đa dạng trong đời
sống văn hóa của người Việt. Về tín ngưỡng, ta có thể thấy nó biểu hiện rõ ở các ở lễ
hội. Trong đời sống cộng đồng làng xã Việt Nam, có lẽ không một nơi nào là không có
lễ hội (hội làng). Lễ hội là hình ảnh thu nhỏ nét văn hoá làng xã người Việt nói chung
và từng làng, từng xóm nói riêng. Dải đất Việt kéo dài trên 15 vĩ độ từ Bắc chí Nam ở
làng quê nào cũng có rất nhiều những lễ hội kéo dài từ đầu năm cho đến cuối năm như
Lễ hội Gò Đống Đa, Lễ hội Đền Gióng, Hội Lim, lễ hội Cầu mùa (người Tà Ôi), lễ hội
Lồng Tồng- Hội xuống đồng (dân tộc Tày), lễ hội Đâm đuống-hình thức giã gạo
(người Mường), lễ hội Gầu tào- cầu phúc, cầu mệnh (dân tộc H’mông), lễ hội Cầu
mưa (dân tộc Chăm), lễ hội đua bò Bảy Núi (dân tộc Khmer)… Đó chính là biểu hiện
cụ thể sức sống bền bỉ của văn hóa làng quê. Dân tộc Việt Nam vốn nặng lòng ơn nhớ
tiền nhân, đã dựng xây tô đắp nên những ngôi đền, đình, miếu để tôn thờ. Mỗi dòng họ
cũng lập ra nhà thờ để cúng giỗ. Sự thể hiện tình cảm bằng vật chất đó ta thường gặp ở
hầu hết khắp làng quê đất Việt. Sự sống và lẽ đời là có văn hóa, văn hóa có tôn vinh
thờ phụng. Biết tôn vinh thờ phụng chính là tự ta đã hướng tâm theo đúng quy luật của
dòng chảy văn hóa làng quê, mà tổ tiên cha ông chúng ta đã tạo dựng để làm điểm tựa
vững chắc cho con cháu có những bước đi xa hơn và ngày càng tốt đẹp hơn. Đúng như
một nhận xét: “thờ cúng tổ tiên là tạo điều kiện duy trì những không gian linh thiêng,
những môi trường văn hóa truyền thống”[34;195-196].
Mặt khác, mỗi làng quê Việt cũng là nơi sinh sống, hội tụ của rất nhiều dòng
họ. Chiến tranh, trận mạc, những cuộc lưu đày, những cuộc mưu sinh vv... đã đưa các
dòng họ lớn về tụ hợp ở mỗi ngõ xóm làng quê. Sự giao thoa văn hoá giữa các dòng họ
16



đến từ các miền đất khác nhau cũng là nguyên nhân làm cho đời sống văn hoá làng
quê Việt thêm phần phong phú. Cùng với đó, cốt lõi văn hoá làng quê Việt vẫn là
trọng đạo làm người, trọng tình làng nghĩa xóm, điều ân nghĩa thủy chung, trọng sự
học hành, trọng điều ăn nết ở. Đây là nét nhân văn trong tâm hồn con người Việt Nam,
là nét đẹp của văn hóa Việt Nam.
Không chỉ vậy, văn hóa làng quê Việt còn được tạo nên bởi nét đẹp thanh nhã
của phong cảnh làng quê. Là cây đa, bến nước, những bến đò ngang cùng những ngôi
nhà thâm nâu vì mầu của rơm rạ, của ngói mũi in hằn vết thời gian thấp thoáng, ẩn
hiện trong những luỹ tre rợp mát trưa hè, trong màu xanh của ruộng đồng cây cối; là
cổng làng cũ kỹ rêu phong, là giếng nước như chứa đựng phần tâm linh cùng phần đời
thường của những người muôn năm cũ; là nét đẹp của con đường làng quê; là âm
thanh của những câu hát ru, tiếng võng tre kẽo cà, kẽo kẹt vang vọng giữa thinh không
như mời gọi chúng ta trở về với quê hương nối nhịp cuộc đời, như nâng bước ta trên
mọi nẻo đường. Là tiếng chuông như nhịp đập của thời gian thả vào mênh mông
hương sắc của ruộng đồng bờ bãi quyện xoắn lấy tâm hồn người…Tất cả những hình
ảnh, âm thanh đó là biểu tượng thân thương của làng quê, là những mảnh hồn quê
được lắp ghép để tạo nên bản sắc riêng của văn hóa làng quê.
Văn hóa làng quê như dòng suối mát lành tạo nên dòng chảy liên tục của văn
hóa dân tộc để bồi tụ lớp trầm tích văn hóa ngày càng thêm phong phú qua lớp bụi thời
gian. Văn hóa làng quê là điểm tựa vững chắc cho chúng ta có thể tiến xa hơn và ngày
càng tốt đẹp hơn trong hành trình phát triển.
1.2. Sự thể hiện của văn hóa làng quê trong nền thơ ca dân tộc
Trong tâm thức của mỗi người Việt, làng xóm thật gần gũi và gắn bó. Văn hóa
làng quê là nét độc đáo trong tâm hồn Việt Nam được thể hiện đa dạng, phong phú
trong đời sống, trong văn học từ cổ chí kim.
1.2.1. Trong thơ ca dân gian
Thơ ca dân gian là điệu tâm hồn của người dân đất Việt; là sự biểu hiện toàn vẹn,
sâu sắc không gian địa - văn hóa làng quê Việt Nam. Thơ ca dân gian mang đến cho ta
cảm nhận về cái đẹp trong cuộc sống, trong thiên nhiên và trong quan hệ ứng xử.

Trong ca dao, dân ca, văn hóa làng quê được thể hiện sinh động ở nhiều phương
diện khác nhau. Ca dao tồn tại dưới dạng văn vần, khúc ngâm, là khuôn thước cho lối
thơ trữ tình (tách khỏi điệu hát thì ca dao cũng là thơ). Ca dao khác với tục ngữ: ca dao
thiên về khía cạnh tình cảm, tục ngữ thiên về lý trí, kinh nghiệm. Đời sống tình cảm
của nhân dân ta biểu hiện rất dồi dào, thắm thiết và sâu sắc trong ca dao.
Mỗi chúng ta đều sinh ra từ chiếc nôi gia đình lớn lên trong vòng tay yêu thương
của cha mẹ, sự đùm bọc nâng niu của anh chị em ruột thịt. Mái ấm gia đình ấy, dẫu có
đơn sơ đến đâu đi nữa vẫn là nơi đi về, lắng hồn ta những lúc vui buồn, khi mưa nắng.
Có lẽ thế, nên tình cảm gia đình như một mạch nguồn chảy xuyên suốt, mạnh mẽ trong
ca dao, dân ca. Tất cả những lời ca ấy khi bé ta đều được nghe qua lời ru của bà, của mẹ
để rồi lớn khôn lên được tìm hiểu nó, ta thêm cảm nhận thấm thía hơn:
17


Ơn cha nặng lắm ai ơi
Nghĩa mẹ bằng trời chín tháng cưu mang
Có lẽ bao giờ cũng vậy, trong tình cảm gia đình, khơi nguồn sâu sắc nhất luôn
là tình cảm của người con đối với cha mẹ và ngược lại, rất tự nhiên như hơi thở của
cuộc sống vậy. Nơi ấy có cha mẹ là có tình yêu thương đằm thắm, ngọt ngào.
Không những khuyên con người ta biết ơn mẹ cha, ca dao dân ca còn hướng
mỗi trái tim chúng ta về với cội nguồn, tổ tiên - một đạo lí truyền thống vô cùng đẹp
đẽ của dân tộc:
Con người có tổ có tông
Như cây có cội như sông có nguồn
Trong tâm hồn người dân Việt Nam không chỉ lắng sâu những khúc ca về đạo lí
biết ơn mẹ cha, tổ tông, mà còn là tiếng nói từ trái tim về tình cảm anh em ruột thịt:
Anh em như thể chân tay
Rách lành đùm bọc dở hay đỡ đần
Cũng như tình cảm cha mẹ con cái, tình cảm anh em với mỗi người thật sâu nặng
và có ý nghĩa lớn lao. Chỗ dựa, nơi giúp ta khi vấp ngã, khổ đau ấy chính là anh em.

Còn gì quí giá và hạnh phúc bằng ta có những người anh em biết yêu thương, đùm bọc
lẫn nhau.
Tình cảm vợ chồng có lẽ là nội dung được nhắc nhiều trong ca dao. Nó biểu
hiện nét đẹp trong quan hệ ứng xử của con người.
Chồng em áo rách em thương
Chồng người áo gấm xông hương mặc người
Câu ca đẹp ở cái nghĩa tình thủy chung son sắt của người vợ - một nét đẹp trong
phẩm hạnh của người phụ nữ Việt.
Nếu tình cảm gia đình là cảm hứng khơi nguồn trong tâm hồn mỗi con người
thì tình cảm bạn bè, nghĩa tình gắn bó với công việc, những vật thân thuộc là sự phát
triển tiếp, sâu sắc thêm những gì đẹp đẽ trong đời sống tình cảm của người dân quê.
Sự gắn bó tình người phải chăng chính là một trong những yếu tố tạo nên sức sống của
người Việt Nam, tâm hồn Việt Nam, văn hóa Việt Nam.
Ra đi vừa gặp bạn hiền
Cũng bằng ăn quả đào tiên trên trời
Đây là câu hát mừng trong những cuộc hát lễ hội được diễn tả như gặp một điều
cao quí thiêng liêng, một niềm vui lớn. Nó thường là câu hát ở chặng mở đầu, làm
quen trong các cuộc hát đối đáp xưa. Lời ca cho ta thấy cái gốc là tình cảm chân thực,
niềm khát khao có bạn, quí trọng tình bạn đã làm nên niềm vui sướng đến bất ngờ của
nhân vật trữ tình. Mang hình thức trò chuyện, lời trò chuyện thể hiện tình cảm gắn bó
làng trên xóm dưới, nương tựa, giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống sinh hoạt cộng đồng.
Không chỉ gắn với người nhà, anh em, làng xóm, người Việt Nam vốn nhân ái
bao dung ngay cả với những vật tưởng như tầm thường nhất.:
Trâu ơi ta bảo trâu này
18


Trâu ăn no cỏ trâu cày với ta
Cấy cày vốn nghiệp nông gia
Ta đây trâu đấy ai mà quản công

Lời ca cho thấy tình cảm gắn bó, thương quí của người nông dân với con trâu một người bạn thân thiết của nhà nông. Bài ca mang đậm chất giọng tâm tình, cảm
thông càng làm sáng lên nét đẹp trong nhân cách người dân quê Việt Nam.
Tình yêu quê hương đất nước là một đề tài lớn trong ca dao. Đó là những tình
cảm chân thành, tự nhiên mà sâu sắc nồng nàn: sự gắn bó với quê hương, với nghề
nông, lòng yêu mến tự hào về cảnh đẹp, về cuộc sống thanh bình, về núi sông với
những danh lam thắng cảnh nổi tiếng:
Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương
Nhớ ai dãi nắng dầm sương
Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao
Bài ca là lời bộc bạch nhẹ nhàng, đằm thắm nỗi nhớ của chàng trai. Nỗi nhớ
làm nền tâm trạng, để trên nền tâm trạng ấy hình ảnh quê hương hiện lên thật gần gũi
và sinh động qua những món ăn dân dã, đơn sơ, bình dị cùng những con người vất vả
biết đùm bọc yêu thương thật đậm đà khó quên! Trong tâm hồn người xa xứ, thấm
đượm hồn quê giản dị, dư vị quê hương thật đậm đà, sâu sắc.
Cũng biểu hiện tình yêu quê, ở bài ca dao sau lại là niềm tự hào đầy yêu mến
của nhân vật trữ tình về phong cảnh, con người làng quê của mình:
Làng ta phong cảnh hữu tình
Dân cư đông đúc như hình con long
Nhờ giời hạ kế sang đông
Làm nghề cày cấy vun trồng tốt tươi
Cái nhìn, cái tình của người nông dân với nơi sinh sống của mình tuy đơn sơ,
chất phác nhưng giàu tình nghĩa và chân thành. Đặc biệt trong đó tình làng hòa lẫn tình
người, tình yêu lao động bởi thế nên sâu đằm vô cùng.
Ca dao luôn là tiếng nói tâm tình, là sản phẩm tinh thần ra đời trong cuộc sống
lao động sản xuất và chiến đấu của người xưa. Nó như một bức tranh vừa khái quát
vừa cụ thể, về cảnh vật, phong tục, sinh hoạt, quan hệ gia đình xã hội của dân tộc Việt
Nam. Có thể thấy trong ca dao, dân ca, văn hóa làng quê được thể hiện thật nhiều
chiều “lời ca dao mộc mạc nhưng thấm thía và sâu sắc mang theo cả những nỗi niềm
tâm sự, những ước mơ thầm kín, những tiếng hát ngợi ca chân tình. Và trong cuộc

sống hôm nay, những cái gì đẹp nhất, cao quý và tinh anh của đất nước cũng trở thành
lời ca tiếng hát trong tâm hồn dân tộc”[26;282].
Cùng với ca dao, dân ca những câu tục ngữ, thành ngữ ngắn gọn mà súc tích
cũng là tấm gương phản ánh lời nói hàng ngày mọi biểu hiện của đời sống cộng đồng
dân tộc và quan niệm của nhân dân lao động về đạo đức và các hiện tượng xã hội. Đó
là những bài học của phong cách ứng xử đẹp đẽ, phù hợp với đạo lí truyền thống và
19


cũng phù hợp với sự phát triển của xã hội. Họ truyền cho nhau những kinh nghiệm lâu
đời có tính tập thể, quí báu rút ra trong quá trình quan sát và cải tạo thiên nhiên để có
được mùa màng bội thu, làm ấm lên nghĩa tình làng xóm: “Trồng khoai trên ruộng lạ/
gieo mạ ở ruộng quen”. Họ truyền cho con cháu những tư tưởng và đạo đức của nhân
dân lao động ứng xử với nhau trong cuộc sống như: răn dạy con cháu hãy giữ cho
mình những phẩm giá phù hợp với tiêu chuẩn đạo đức tốt đẹp của cha ông “Đói cho
sạch, rách cho thơm”, “chết trong còn hơn sống đục”, hãy sống cho đúng với lương
tâm mình cả với người trong gia đình, người ngoài xã hội. Với người trong một nhà thì
phải biết “Chị ngã em nâng”, “Anh em như thể chân tay”, “máu chảy ruột mềm”. Hiểu
thật sâu sắc giá trị của tinh thần tương thân tương ái, lòng cưu mang giúp nhau khi cơ
nhỡ, vấp váp, ông cha ta còn khuyên nhủ: “Bán anh em xa mua láng giềng gần” phải
cùng “Tối lửa tắt đèn có nhau”. Trong cuộc sống hàng ngày, người làng quê rất coi
trọng tình cảm, đó là tình cảm lớn nhiều khi vượt quá tình cảm của gia đình:
Khôn ngoan đối đáp người ngoài
Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau
Hay:
Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng
Con người làng quê sống vì nghĩa với nhau, sống vì con cháu, cao hơn chính
bản thân mình là đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Tình cảm ấy đã
gắn kết họ chặt chẽ lại với nhau để tạo nên một kết cấu quyền lực làng xã có sức mạnh

vô thường: “phép vua thua lệ làng”.
Tục ngữ là những câu nói ngắn gọn, có ý nghĩa hàm súc, do nhân dân sáng tạo
ra và lưu truyền từ đời này sang đời khác, nó biểu đạt những kinh nghiệm, những lý
tưởng bằng hình thức nghệ thuật ngôn từ dân gian. Đó chính là những nét đẹp của
văn hóa làng quê được gìn giữ qua thời gian.
Như vậy có thể thấy, đến với thế giới của ca dao, dân ca và tục ngữ Việt Nam là
chúng ta đến với những điệu cảm xúc của con người làng quê, với những vẻ đẹp văn hóa
ánh lên từ nhiều bình diện, đó là hồn dân tộc Việt vút lên thành thanh âm, phổ vào câu
hát, lời ca. Để từ đó ta biết yêu và trân trọng cái đẹp trong cuộc sống.
1.2.2.Trong thơ ca trung đại
Dân tộc ta vốn yêu chuộng hòa bình, yêu văn chương, yêu cái đẹp muôn thuở
của đất trời sông núi, yêu quê hương đất nước với bao niềm vui, nỗi buồn. Mười thế
kỷ văn học trung đại là sự kết tinh tinh hoa của lối văn học mang nặng tính quy
phạm, ước lệ tượng trưng. Nó cũng dành một chỗ đứng trang trọng để miêu tả những
cảnh đẹp của quê hương. Và hơn bao giờ hết, những hình ảnh thân thuộc của quê
hương luôn là nguồn thi hứng không bao giờ vơi cạn của các thi nhân. Tình cảm đó
được các nhà thơ phản ánh vào những trang thơ đẹp như những bức tranh hữu tình.
Đọc những vần thơ của những nhà thơ từ Lý -Trần đến những năm cuối thế kỷ 19, ta
20


thấy rõ tình yêu quê hương của ông cha ta như sợi chỉ đỏ xuyên suốt từ xưa đến nay,
trở thành truyền thống của người Việt Nam, là tâm hồn Việt Nam.
Sự thể hiện văn hóa làng quê trong văn học trung đại được phản ánh gián tiếp
và cũng có khi trực tiếp qua trang thơ. Từ thế kỷ X – XIV, văn học được hình thành và
phát triển trong bối cảnh phục hưng của đất nước, dân tộc và văn hóa Đại Việt. Thành
tựu văn học giai đoạn này là bằng chứng về một trong những thời đại huy hoàng của
quốc gia Đại Việt và nền văn hóa Đại Việt. Các nghệ sĩ ca ngợi cái đẹp của thiên
nhiên, mượn thiên nhiên để gửi gắm tâm sự của mình. Đó cũng chính là một cách để
biểu hiện tấm lòng yêu mến những nét đẹp của văn hóa làng quê.

Xuân qua trăm hoa rụng
Xuân tới trăm hoa cười
Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước, một nhành mai
Một bức tranh thiên nhiên tươi mát luôn nảy nở, phát triển đã được nhìn qua
lăng kinh đầy nhạy cảm của nhà sư Mãn Giác(đời Lí). Thiên nhiên mùa xuân của
làng quê đã tô điểm cho cuộc đời và tác động sâu sắc đến mọi người, cuộc đời.
Với trái tim mẫn cảm với cái đẹp, Vua Trần Nhân Tông đã có những câu thơ
viết về thiên nhiên trở thành mẫu mực:
Chim hót véo von, liễu nở đầy
Thềm hoa chiều ảnh bóng mây bay
Một bức tranh thiên nhiên đầy sức sống và rực rỡ! Ánh trăng chiều in bóng
mây lên thềm, chim hót vang trong rặng liễu đầy hoa lá. Thiên nhiên - quê hương ta
một buổi chiều thật gợi cảm và lộng lẫy!
Thế kỷ XV đến giữa thế kỷ XVIII, đối chọi với sự tàn phá khốc liệt, thâm
độc của giặc Minh là sức sống quật khởi của nền văn hóa Đại Việt. Nền văn hóa
nước nhà có bị tàn phá nhưng không bị diệt vong. Truyền thống văn hóa Lí -Trần
vẫn tiếp sức cho thời đại mới để Nguyễn Trãi trong Bình Ngô đại cáo đã có thể
khẳng định:
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Nguyễn Trãi nhà chính trị, quân sự, ngoại giao lỗi lạc và trên hết là một nhà
thơ giàu cảm khái, luôn thả lòng mình hòa với thiên nhiên của quê hương thể hiện
một sự rung động sâu xa và tinh tế trước tạo vật, thể hiện một lòng yêu đời tràn trề
và sôi nổi. Trong thơ chữ Hán và chữ Nôm của ông, chúng ta bắt gặp những hình
ảnh thiên nhiên quen thuộc của làng quê Việt Nam. Đó là tiếng khắc khoải của cuốc
kêu khi vào hè, là hoa xoan và mưa bụi mùa xuân lất phất nơi thôn dã:
Trong tiếng cuốc kêu xuân đã muộn
Đầy sân mưa bụi nở hoa xoan
(Cuối xuân tức sự)

21


Hay đó còn là những đọt chuối xanh non, những bè rau muống, những bông
sen cuối hạ còn đầy vương vấn:
Ao cạn vớt bèo cấy muống
Đìa thanh phát cỏ ương sen
(Thuật hứng)
Và đây nữa, một bức tranh quê thật cụ thể, sinh động. Vườn dưa, luống đậu,
ngọn tre, dây khoai và những người lao động được Nguyễn Bảo miêu tả bằng cảm
hứng chân thành, một niềm vui dạt dào:
Phân phất mưa phùn, xâm xẩm mây,
Mặc manh áo ngắn, giục trâu cày.
Nàng dâu sớm đã gieo hạt đỏ,
Bà lão chiều con xới đậu dây.
Mía cạnh giậu tre, đang nảy ngọn,
Khoai trong đám cỏ đã xanh cây.
(Trừng Mại thôn xuân văn)
Cũng gợi tả vẻ đẹp thanh bình của làng quê, Thái Thuận lại đưa ta đến với hình
ảnh vô cùng gần gũi và bình dị không màu mè hoa mỹ nhưng lại luôn là sức sống bền
lâu khi nhắc tới làng quê Việt Nam:
Bãi phẳng triều lên ngập,
Nhà nông sớm vội cày.
Vắt trâu nghe mấy tiếng,
Có trắng giật mình bay
(Muộn giang)
Động lòng trước vẻ đẹp của làng cảnh Việt Nam, Lê Thánh Tông lại có cách
miêu tả khác:
Chấp chảnh trời vừa mọc Đẩu tinh
Ban khi trống một mới thu canh

Đầu nhà khói tỏa lồng sương bạc
Sườn núi chim gù ẩn lá xanh,
Tuần điếm kìa ai khua mõ cá
Dâng hương nọ kẻ nện chày kình
Nhà nam nhà bắc đều no đủ,
Lừng lẫy cùng ca khúc thái bình.
(Canh một)
Với một bút pháp vững chắc, tác giả đã vẽ nên khung cảnh của một cuộc sống
yên ổn, ấm áp ở làng thôn. Vẻ đẹp của thiên nhiên quê hương là ở cái thanh bình, yên
ả đến xao lòng.
Từ nửa cuối thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX, Truyện Kiều - kiệt tác văn
chương Việt Nam của Nguyễn Du lại cho ta thấy những nét vẽ thần tình về cảnh sắc
thiên nhiên:
22


×