Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

NHỮNG NỖI OAN KHIÊN CỦA BÀ ‘CHÚA TIÊN’

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (229.66 KB, 4 trang )

Một trong những nỗi oan khiên của bà 'chúa Tiên' Lê Ngọc Hân là sau 7 năm
qua đời vẫn bị cho là 'lấy hai vua'.
Công chúa Lê Ngọc Hân, con gái thứ 9 của vua Lê Hiển Tông được cả kinh
thành Thăng Long thập kỷ thứ 8 của thế kỷ 18 gọi nàng là “Chúa tiên” bởi dung
nhan xinh đẹp, cầm kỳ thi họa đủ tài xuất chúng. Nhưng hồng nhan ấy đã phải gánh
chịu không ít nỗi oan khiên cả khi sống và khi đã qua đời.

Tam quan Đền Ghềnh, trong Đền "thờ kín" bà Hoàng Lê Ngọc Hân.
Năm “Chúa tiên” 16 tuổi (1786), cả đất nước, kinh thành và vương triều nhà Hậu Lê,
đều gặp cơn biến động lớn. Tây Sơn Nguyễn Huệ đem quân ra Bắc, bằng “chiến
dịch kép” Phú Xuân - Thăng Long, đã xóa sổ thế lực các Chúa Trịnh. Với danh
nghĩa “Phù Lê”, được vua Lê Hiển Tông phong làm “Nguyên soái Phù chính Dực vũ
Uy Quốc công”, một cuộc “hôn nhân chính trị” để liên kết vương triều nhà Hậu Lê
với thế lực Tây Sơn cũng được tính toan liền đấy. Và thế là thành một đám cưới linh
đình suốt hai ngày (10 và 11 tháng bảy âm lịch) năm 1786, sự kiện nghìn năm chưa


từng thấy ở chốn đế đô: gả Chúa tiên cho thủ lĩnh Tây Sơn!
Cuộc tình duyên siêu hạng giữa Ngọc Hân và Nguyễn Huệ chỉ kéo dài 6 năm.
Nhưng ở ngay năm đầu tiên gắn bó, khó khăn nghiêm trọng và căng thẳng đã ập đến
với nàng công chúa nhà Lê đi làm dâu nhà Tây Sơn rồi.
Số là, vua cha Lê Hiển Tông, chỉ 6 ngày sau khi gả con gái yêu cho thủ lĩnh Tây
Sơn, thì băng hà (ngày 17 tháng bảy âm lịch). Nhưng vẫn kịp di chúc (được ghi vào
sách “Hoàng Lê nhất thống chí”) rằng: “Sau khi ta nhắm mắt, việc nối ngôi là sự
trọng đại. Chuyện gì cũng phải bẩm qua với ông ấy, không được khinh suất”.
Do đấy, việc triều đình nhà Lê quyết định đưa Hoàng tự tôn Lê Duy Kỳ lên nối ngôi,
đã được “bẩm qua với ông ấy” ngay. Nhưng “ông ấy”, tức Nguyễn Huệ, lại đem sự
trọng đại này, hỏi ý kiến người vợ trẻ mới cưới của mình, vừa là công chúa nhà Lê,
vừa chính là Hoàng cô của Lê Duy Kỳ. Và đã nhận được lời khuyên sáng suốt vô tư
của Ngọc Hân là: “Không chấp nhận”.
Việc đăng quang của Lê Duy Kỳ lúc đầu bị phủ quyết, vậy là có nguyên nhân từ


chính Lê Ngọc Hân. Đám cựu thần và hoàng thân quốc thích thủ cựu nhà Hậu Lê dò
biết được điều này, đã nhao nhao phản ứng, dồn sức ép thậm chí cả lời nguyền rủa
lẫn đòi xóa tên khỏi “Kim sách” (Sổ vàng hoàng tộc) đối với Ngọc Hân.
Trong hoàn cảnh ấy, Nguyễn Huệ, biết chắc ý kiến Ngọc Hân là đúng nhưng để giải
tỏa sức ép cho người vợ yêu đã quyết định lại: hãy cứ cho Lê Duy Kỳ lên ngôi. Để
rồi phải trả giá cho sự dĩ hòa vi quý của mình bằng cả một loạt trận đánh ở mùa
“Xuân lửa Đống Đa” sau đấy: quét sạch vừa là 29 vạn quân Thanh xâm lược, vừa là
kẻ “cõng rắn cắn gà nhà” Lê Chiêu Thống. Chiêu Thống chính là niên hiệu trị vì của
Hoàng tự tôn Lê Duy Kỳ mà Ngọc Hân trước đã phản đối việc nối ngôi.


Tượng Hoàng hậu Lê Ngọc Hân "thờ kín" ở Đền Ghềnh.
Nguyễn Huệ tin và yêu Ngọc Hân vì những việc như thế. Cho nên, sau khi lên ngôi
Quang Trung Hoàng Đế, đã phong ngay Ngọc Hân làm Bắc cung Hoàng hậu. Nhưng
chỉ được 2 năm thì Hoàng hậu đã thành Thái hậu (góa chồng): Quang Trung đột ngột
từ trần (ngày 29 tháng chín âm lịch năm 1792).
Thiên Ai tư vãn của Ngọc Hân đã ra đời trong hoàn cảnh ấy. Nhưng áng thơ nôm
tuyệt bút của bà Hoàng 22 tuổi đổ máu mắt khóc chồng và thay mặt được cả lịch sử
và dân tộc mà đánh giá Quang Trung bằng (chỉ) 2 câu (nhưng) hay nhất mọi thời:
“Mà nay áo vải cờ đào/ Giúp dân dựng nước xiết bao công trình”. Vậy mà vẫn
chẳng giúp Ngọc Hân thoát được những oan khiên tệ hại. Có kẻ còn xưng xưng
nhưng vẫn được ghi lại vào sách vở như một “giả thuyết khoa học” rằng, Quang
Trung đột tử là do bị Ngọc Hân… đầu độc bởi ghen tuông.
Chưa hết vạ này đã sang nạn khác. 7 năm sau, khi đã lặng lẽ đi theo Quang Trung
vào cõi vĩnh hằng ở tuổi 29 rồi, vậy mà Ngọc Hân vẫn còn bị mắc vào một chuyện
tày trời nữa: “lấy chồng hai vua”.


Dễ dàng đọc trong Dụ Am văn tập của văn hào Phan Huy Ích ở thế kỷ 18, bài Văn tế
Bắc cung Hoàng hậu, do họ Phan được vua Cảnh Thịnh, kế vị ngai vàng do vua

Quang Trung để lại, ủy thác việc khóc tang Lê Ngọc Hân. Ở đó ghi rõ cả ngày tháng
qua đời của Bắc cung Hoàng hậu là mùng 8 tháng 11 năm Kỷ Tị (1799). Ấy thế mà
đến năm 1802, khi vua Gia Long nhà Nguyễn đánh bại Tây Sơn Cảnh Thịnh, có việc
ông vua sáng nghiệp triều Nguyễn này, nhân đà đắc thắng, đã lấy luôn “ngụy hậu”
(hoàng hậu (ngụy) triều Tây Sơn) làm vợ, không ít người đã cho và tin rằng: Ngọc
Hân chính là bà “ngụy hậu” đó.
Thật tội cho người đã mất từ 3 năm trước đấy! Chỉ bởi vì cái tên “Ngọc Hân” nghe
na ná như “Ngọc Bình”. Đây mới chính là “ngụy hậu” (vợ vua Cảnh Thịnh), vốn tên
gốc là Nguyễn Thị Bình, có danh nghĩa là “em gái nuôi” của Nguyễn Thị Huyền (mẹ
đẻ của Ngọc Hân), chính đã được cất nhắc lên hàng “con nuôi”, mang tên Lê Ngọc
Bình và được đem gả cho vua Cảnh Thịnh làm phi tần.
Tuy nhiên, tất cả những oan sai bịa đặt mà Ngọc Hân phải chịu đó, đều không thể
sánh được với cái nghiệt họa - đích thực và ghê gớm - sau đây:
Bà Chiêu nghi Nguyễn Thị Huyền, vì là vợ vua Lê Hiển Tông, nên sau khi chồng
(và cả vương triều Hậu Lê) mất, thì vẫn giữ được quê hương làng Nành (Ninh Hiệp,
Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội) một khu dinh thự khang trang (gọi là Dinh Thiết
Lâm). Xót phận con gái Ngọc Hân sau khi mất, vẫn phải gửi thân xác ở xứ xa (Phú
Xuân - Huế), bà Chiêu nghi Nguyễn Thị Huyền đã tìm cách đưa được hài cốt Bắc
cung Hoàng hậu nhà Tây Sơn về an táng (ở trong Dinh Thiết Lâm) tại quê nhà.
Không ngờ đến đời vua Minh Mệnh, kế nghiệp vua cha Gia Long, do tranh chấp
quyền lợi và mâu thuẫn dòng tộc, có kẻ quê làng Nành (Ninh Hiệp) đã đem việc
“ngụy hậu” Tây Sơn vẫn đang được “mồ yên mả đẹp” ở quê mẹ, đang thoát việc “trả
thù 9 đời” do vua Gia Long khởi xướng và thực thi. Thế là chiếu chỉ từ triều đình
Huế ban ra, lập tức đào mồ quật mả Ngọc Hân lên, san đất thành bình địa cho cỏ gai
mọc đầy, còn xương cốt thì đem vứt xuống sông, phi tang tích!
Cả một cuộc đời nhiều oan khiên của nàng “Chúa tiên”, Bắc cung Hoàng hậu Lê
Ngọc Hân vì thế bây giờ chỉ còn hai nơi chỗ bóng gió lưu dấu phụng thờ là tòa miếu
nhỏ ở Ninh Hiệp (Gia Lâm) và ngôi đền Ghềnh ở Bồ Đề (Long Biên), nấp dưới danh
nghĩa: thờ “Cô hồn” và thờ “Mẫu Thoải”.
Theo Giáo sư Lê Văn Lan (Quê Hương)




×