Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng việt nam trong quá trình hội nhập quốc tế luận văn ths kinh tế 60 31 01 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (968.35 KB, 95 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ

Nguyễn Thị Khuyên

Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng Việt Nam trong quá
trình hội nhập quốc tế

LUẬN VĂN THẠC SỸ

Hà nội - 2006


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ

Nguyễn Thị Khuyên

Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng Việt Nam trong
quá trình hội nhập quốc tế

Luận văn Thạc sĩ
Mã Số: 60 31 01

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Trịnh Thị Mai Hoa

Hà nội - 2006


1


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế sang cơ chế thị
trường chủ động hội nhập với nền kinh tế trong khu vực và thế giới, vì vậy
việc sớm đưa các công cụ của nền kinh tế thị truờng vào vận hành có một ý
nghĩa vô cùng quan trọng, đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng. Vai
trò của thị trường liên ngân hàng nói chung và thị trường ngoại tệ liên ngân
hàng nói riêng trong quá trình đổi mới nền kinh tế ở Việt nam được thể hiện
qua: nhu cầu vốn đầu tư của đất nước, hoạt động của các tổ chức tín dụng và
thể hiện qua việc thực thi điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà
nước Việt nam.
Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng Việt nam được thành lập vào năm
1994 do Ngân hàng nhà nước quản lý và điều hành. Đây là nơi gặp nhau của
cung và cầu về ngoại tệ của các TCTD. Sự ra đời này là một thành quả của
Chính phủ trong việc quản lý ngoại hối. Trong những năm qua, thị trường đã
có những bước chuyển đổi đáng kể. Thông qua thị trường, NHNN đã theo dõi
được các giao dịch về ngoại tệ trong hệ thống ngân hàng, nắm bắt các diễn
biến cung cầu và tham gia thị trường với vai trò là người tổ chức và điều hành
thị trường, người mua bán cuối cùng để can thiệp khi cần thiết nhằm thực
hiện mục tiêu chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. Nhờ có sự hoạt động của
TTNTLNH, đến nay các định chế tài chính có thể kinh doanh ngoại tệ nhằm
thoả mãn các nhu cầu tiền tệ của khách hàng và cân bằng trạng thái ngoại hối
của ngân hàng. Thực tế từ năm 1997 đến nay, bên cạnh việc điều chỉnh linh
hoạt tỷ giá, việc NHNN thực hiện các biện pháp can thiệp kịp thời trên thị
trường đã phát huy tác dụng, tạo điều kiện cho các ngân hàng tháo gỡ khó
khăn trong cân đối ngoại tệ, góp phần ổn định tỷ giá. Tuy nhiên, TTNTLNH


2


của Việt nam còn non trẻ, thiếu kinh nghiệm nên còn bộc lộ một số hạn chế
như: Số lượng thành viên tham gia và khối lượng giao dịch còn nhỏ, phát
triển chậm, tỷ trọng giao dịch trên TTNTLNH còn thấp nên chưa có vai trò
chủ đạo trong thị trường ngoại hối tổng thể ở Việt nam, hệ thống tổ chức, cơ
chế hoạt động, chính sách quản lý ngoại hối… cần phải tiếp tục được hoàn
thiện và đổi mới. Tác động của thị trường đối với việc thực hiện chính sách
tiền tệ thông qua điều tiết của NHNN cũng còn những khó khăn. Hơn nữa hệ
thống ngân hàng Việt nam đã và đang phải đối mặt với những cơ hội và thách
thức của xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, thể hiện ở việc các ngân
hàng Việt nam phải trực tiếp cạnh tranh với các ngân hàng đa quốc gia đầy
tiềm lực ngay tại thi trường nội địa. Trong những năm tới khi quá trình tự do
hóa tài chính diễn ra mạnh mẽ, diễn biến luồng vốn phức tạp thì chúng sẽ đặt
ra những thách thức cho việc điều hành chính sách tiền tệ và chính sách tỷ giá
của Việt Nam. Điều đó có nghĩa là việc nâng cấp và hoàn thiện các thị trường
bộ phận đặc biệt là TTNTLNH ở Việt nam là rất cần thiết.
Nhằm đưa ra một số giải pháp có tính đồng bộ, đặc biệt là đối với
NHNN để hoàn thiện hơn nữa sự phát triển của TTNTLNH Việt nam trong
giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, tôi chọn đề tài: “Thị trường ngoại
tệ liên ngân hàng Việt nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ” để
nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu
Sự hoạt động của TTNTLNH đã mang đến cho nền kinh tế nước ta
những nguồn lực về tài chính dồi dào hơn, tạo điều kiện cho các ngân hàng
thương mại và các tổ chức tín dụng có thể điều hòa, sử dụng nguồn vốn của
mình một cách linh hoạt và hiệu quả. Cùng với sự phát triển đi lên của


3

TTNTLNH là có sự đóng góp về mặt nghiên cứu của các tác giả. Một số công

trình nghiên cứu khoa học tiêu biểu có liên quan đến đề tài luận văn, gồm:
1. “Hoàn thiện cơ chế điêù hoà vốn trong thị trường liên ngân hàng”. Đề
tài nghiên cứu khoa học cấp ngành của Tiến sĩ Vũ Thị Lợi, đề tài được hoàn
thành vào năm 2002. Tác giả của đề tài này đã tập trung vào việc phân tích
thực trạng áp dụng cơ chế, chính sách quản lý tiền tệ của NHNN đối với các tổ
chức tín dụng, các tổ chức kinh doanh tiền tệ có tham gia hoạt động trên thị
trường liên ngân hàng. Đề tài đã đóng góp một số giải pháp và kiến nghị đối
với NHNN để có được một cơ chế hoàn thiện hơn , giúp cho việc điều hoà các
nguồn vốn trở lên nhanh chóng và an toàn hơn, đáp ứng tốt các nhu cầu về vốn
cho nền kinh tế. Tuy nhiên kể từ năm 2002 cho đến nay, cùng với xu thế của
hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, nền kinh tế đã có nhiều chuyển biến cả về
lý luận và thực tiễn. Do vậy nhũng định hướng và giải pháp mà tác giả đưa ra
cho đến nay phần nào không còn mang tính thực tiễn, kịp thời.
2. “Cẩm nang thị trường ngoại hối và các giao dịch kinh doanh ngoại
hối” của PGS TS Nguyễn Văn Tiến. Tác giả đã cung cấp cho độc giả những
vấn đề, khái niệm cơ bản trong giao dịch ngoại hối, lý thuyết về kinh doanh
ngoại hối, các giao dịch trên thị trường liên ngân hàng. Đó là những nền tảng
lý thuyết cơ bản. Tuy nhiên, tác giả cũng chưa đề cập đến thực tế hoạt động
thị trường ngoại tệ liên ngân hàng Việt nam, cũng như về cơ chế, chính sách
của NHNN đối với hoạt động của thị trường.
3. “Thực trạng và giải pháp phát triển thị trường liên ngân hàng ở Việt
nam”. Luận văn thạc sĩ của Lương Thu Trang năm 2004 – Học viện ngân
hàng. Trong luận văn tác giả đã trình bày tổng quan về thi trường liên ngân
hàng, thực trạng thị trường liên ngân hàng (cả đồng nội tệ và ngoại tệ) Việt
nam. Tác giả cũng đưa ra một số giải pháp nhằm thúc đẩy thị trường liên ngân
hàng hoạt động có hiệu quả hơn. Tuy nhiên, theo tôi, luận văn chưa đi sâu


4


nghiên cứu về mặt chính sách đối với NHNN, các giải pháp đưa ra chưa đồng
bộ đối với các chủ thể tham gia TTNTLNH.
4. “Nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ với việc điều tiết vốn khả dụng”- Bài
viết của Thạc sỹ Lê Thị Tuấn Nghĩa trên Tạp chí Ngân hàng số 3/2004. Tác
giả đã nghiên cứu về việc quản lý vốn khả dụng của ngân hàng trung ương đối
với các ngân hàng thương mại thông qua việc sử dụng các công cụ của chính
sách tiền tệ để tác động vào khả năng thanh toán của các tổ chức tín dụng
nhằm đạt được các mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia, các nghiệp vụ
quản lý vốn khả dụng, nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ. Bài viết đã cung cấp cho
chúng ta kiến thức cơ bản liên quan đến TTNTLNH, tuy nhiên cũng chưa mở
rộng và đề cập đến nhiều vấn đề khác như về hoạt động của TTNTLNH, vai
trò điều tiết của NHNN…
Như vậy, liên quan đến đề tài đã có một số các công trình nghiên cứu,
song các tác giả thường đề cập đến các mảng nghiệp vụ của thị trường liên
ngân hàng, thực trạng hoạt động và một số giải pháp, nhưng các giải pháp
chưa có tính đồng bộ và có những điểm không còn phù hợp với tình hình thực
tế hiện nay. Do vậy tôi đã tiếp tục nghiên cứu vấn đề này, chủ yếu tập trung
vào thị trường ngoại tệ liên ngân hàng trong thời kỳ hội nhập và đưa một số
giải pháp, đặc biệt đối với các chính sách của ngân hàng nhà nước nhằm thúc
đẩy TTNTLNH Việt nam hoạt động có hiệu quả hơn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu: Đây là đề tài mà tôi đã quan tâm nghiên cứu từ lâu,
nhằm nâng cao hơn nữa những kiến thức trong lĩnh vực tài chính ngân hàng,
thị trường ngoại hối cũng như thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, để có thể
đáp ứng tốt hơn yêu cầu công việc được giao và mong muốn sự nghiên cứu
của mình có thể chia sẻ, trao đổi với độc giả- những người đã, đang và sẽ
quan tâm đến đề tài này. Hy vọng rằng bản thân tôi sẽ đóng góp một phần


5


nhỏ bé cho sự nghiệp phát triển ngành ngân hàng tài chính nói chung, và thị
trường ngoại tệ liên ngân hàng Việt nam nói riêng.

- Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Nghiên cứu thực trạng hoạt động của TTNTLNH tại Việt nam, từ đó đánh
giá những thành công và hạn chế của thị trường trong đó có vai trò của
NHNN và nguyên nhân tồn tại.
+ Đề xuất một số giải pháp để hoàn thiện TTNTLNH Việt nam trong quá
trình hội nhập quốc tế.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động của TTNTLNH trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về mặt thời gian: Giai đoạn từ khi TTNTLNH Việt nam thành lập (năm
1994) đến nay
+ Về mặt nội dung: Luận văn sẽ tập trung nghiên cứu thực trạng hoạt động
của TTNTLNH Việt nam, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện
TTNTLNH Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
5. Phương pháp nghiên cứu
Vận dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học: Phép biện
chứng duy vật, phương pháp phân tích, đối chiếu, so sánh, kết hợp lý luận và
thực tiễn, kết hợp sử dụng các bảng, hình và sơ đồ để minh hoạ.
6. Dự kiến những đóng góp mới của luận văn
- Đánh giá thực trạng hoạt động của TTNTLNH Việt Nam
- Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện TTNTLNH Việt nam trong điều
kiện hội nhập kinh tế quốc tế.


6



7

7. Bố cục của luận văn:
Nội dung của luận văn được trình bày trong ba chương
Chương 1: Những vấn đề chung về thị trường ngoại tệ liên ngân hàng
Chương 2: Thực trạng hoạt động của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng Việt
nam
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện TTNTLNH Việt nam trong quá
trình hội nhập quốc tế


8

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
VỀ THỊ TRƯỜNG NGOẠI TỆ LIÊN NGÂN HÀNG

1.1. Khái niệm thị trường ngoại tệ liên ngân hàng
1.1.1. Ngoại hối và thị trường ngoại hối
Theo thông lệ quốc tế, ngoại hối bao gồm các phương tiện tiền tệ được
sử dụng trong thanh toán quốc tế. Đối với một quốc gia, ngoại hối bao gồm:
Ngoại tệ: Là đồng tiền nước ngoài bao gồm cả đồng tiền chung của các nước
khác và quyền rút vốn đặc biệt SDR. Ngoại tệ có thể là tiền xu, tiền giấy, tiền
trên tài khoản, séc du lịch, tiền điện tử và các phương tiện khác được xem như
tiền; Các giấy tờ có giá ghi bằng ngoại tệ như: séc thương mại, chấp phiếu ngân
hàng, kỳ phiếu, hối phiếu, trái phiếu, cổ phiếu và các giấy tờ có giá khác; Vàng
tiêu chuẩn quốc tế: đây là vàng được sử dụng với vai trò là tiền trong thanh
toán quốc tế; Đồng tiền quốc gia do người không cư trú nắm giữ [12-15].

Ở Việt nam, theo Nghị định số 63/1998/NĐ-CP ngày 17/8/1998 của
Chính phủ, ngoại hối là: Tiền nước ngoài như: tiền giấy, tiền kim loại; Công
cụ thanh toán bằng tiền nước ngoài như: séc, thẻ thanh toán, hối phiếu, chứng
chỉ tiền gửi ngân hàng, chứng chỉ tiền gửi bưu điện và các công cụ thanh toán
khác; Các loại giấy tờ có giá bằng tiền nước ngoài như: trái phiếu Chính phủ,
trái phiếu công ty, kỳ phiếu, cổ phiếu và các loại giấy tờ có giá khác; Quyền
rút vốn đặc biệt, đồng tiền chung Châu Âu, các đồng tiền chung khác dùng
trong thanh toán quốc tế và khu vực; Vàng tiêu chuẩn quốc tế; Đồng tiền đang
lưu hành của Việt nam trong trường hợp chuyển vào và chuyển ra khỏi lãnh
thổ Việt nam hoặc được sử dụng làm công cụ trong thanh toán quốc tế.
Thị trường ngoại hối là nơi mà ở đó xảy ra việc mua và bán, trao đổi
ngoại hối, trong đó chủ yếu là trao đổi, mua bán ngoại tệ và các phương tiện


9

thanh toán quốc tế. Trên thị trường ngoại hối giá trị tương đối của các đồng
tiền quốc gia được xác lập.
Quá trình phát triển thị trường ngoại hối đã hình thành hai hệ thống
được tổ chức khác nhau: Hệ thống Anh- Mỹ và hệ thống các nước Âu lục địa.
+ Theo hệ thống Anh-Mỹ, thị trường ngoại hối có tính chất biểu tượng,
chỉ giao dịch ngoại hối thường xuyên giữa một số ngân hàng và các nhà môi
giới qua các phương tiện thông tin hiện đại, tức loại thị trường không qua
quầy (over the counter - OTC). Thị trường ngoại hối thực chất không phải là
một địa điểm cụ thể, không phải là một văn phòng nơi các nhà kinh doanh
ngoại tệ gặp nhau, mà thực ra nó là một mạng lưới thông tin liên lạc liên ngân
hàng nối mạng điện tử với nhau, liên kết những người mua bán ngoại tệ trực
tiếp với nhau hoặc thông qua người môi giới ngoại hối.
+ Theo hệ thống các nước Châu Âu lục địa (không gồm nước Anh), thị
trường ngoại hối có địa điểm nhất định, hàng ngày những người mua bán

ngoại hối có thể tới đó để giao dịch và ký kết hợp đồng, nhưng giao dịch được
thực hiện chủ yếu qua điện thoại, telex, fax và hệ thống Reuters.
1.1.2. Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng
Thị trường liên ngân hàng (Interbank Market) là một bộ phận của thị
trường tiền tệ mà ở đó các TCTD vay, gửi vốn lẫn nhau. Nói cách khác, thi
trường liên ngân hàng là thị trường biểu hiện mối quan hệ vay và cho vay
ngắn hạn giữa các ngân hàng; Là thị trường tín dụng giữa các TCTD, NHTW,
các nhà môi giới, mà một bên là ngân hàng bị thiếu vốn do cần bổ sung vốn
khả dụng tạm thời bị thâm hụt với một bên là các ngân hàng có vốn dư thừa
cần cho vay với yêu cầu là an toàn và có lãi.
Căn cứ vào đồng tiền giao dịch trên thị trường mà phân chia thành thị
trường nội tệ liên ngân hàng và thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Hai thị
trường này có mối quan hệ mật thiết với nhau, đều thực hiện trao đổi vốn


10

ngắn hạn giữa các ngân hàng. Các chủ thể tham gia hai thị trường này đều
nhằm mục đích tìm kiếm các nguồn vốn ngắn hạn bổ sung vốn khả dụng tạm
thời thiếu hụt trong kinh doanh, hoặc tìm nơi điều chỉnh vốn dư thừa ngắn hạn
mang lại thu nhập với chi phí thấp. Trong hoạt động kinh doanh, một ngân
hàng tại một thời điểm có thể thừa vốn ngoại tệ nhưng lại thiếu vốn nội tệ và
ngược lại, có thể thiếu vốn ngoại tệ và thừa vốn nội tệ. Điều này đã dẫn đến
sự trao đổi vốn lẫn nhau giữa các ngân hàng trên hai thị trường. Sự phát triển
của thị trường nội tệ đã tạo điều kiện cho thị trường ngoại tệ phát triển và
ngược lại sự phát triển của thị trường ngoại tạo điều kiện cho sự phát triển của
thị trường nội tệ.
Quan hệ giữa hai thị trường này còn được thể hiện thông qua mối quan
hệ giữa lãi suất và tỷ giá, diễn biến của thị trường này sẽ ảnh hưởng đến thị
trường kia. Khi lãi suất thực của đồng nội tệ tăng lên, lợi tức dự tính đầu tư

vào đồng nội tệ tăng, dẫn đến khả năng các ngân hàng di chuyển vốn từ ngoại
tệ sang nội tệ thông qua thị trường hối đoái giao ngay. Ngược lại, nếu trên thị
trường ngoại tệ đồng nội tệ có xu hướng giảm giá so với ngoại tệ, các nhà đầu
tư có xu hướng đầu tư vào ngoại tệ, xu hướng tiền gửi nội tệ tại các NHTM
giảm, nhu cầu vay nội tệ tăng, để cân bằng các ngân hàng thường phải tăng lãi
suất nội tệ. Như vậy, một sự thay đổi về lãi suất nội tệ hoặc tỷ giá đều ảnh
hưởng đến hoạt động của hai thị trường này.
Sự chuyển hoá vốn giữa hai thị trường làm thay đổi cung, cầu ngoại tệ
và nội tệ. Do vậy, hoạt động của hai thị trường luôn có mối quan hệ lẫn nhau
và chính mối quan hệ đó đã tạo điều kiện để hai thị trường hoạt động hiệu
quả, thông suốt và đồng nhất. Hai thị trường hoạt động với cơ chế hoạt động
do chính các thành viên tham gia hai thị trường quyết định.
* Khái niệm TTNTLNH:


11

- Theo thông lệ quốc tế thị trường hối đoái liên ngân hàng (hoặc thị trường
bán buôn) là một mạng lưới các quan hệ ngân hàng đại lý, trong đó các
NHTM lớn mở tài khoản tiền gửi thanh toán tại các ngân hàng khác- được gọi
là tài khoản ngân hàng đại lý. Hệ thống tài khoản ngân hàng đại lý giúp thị
trường hối đoái hoạt động hiệu quả. Hầu hết các giao dịch mua và bán tiền tệ
được chu chuyển qua kênh thị trường liên ngân hàng toàn cầu, một thị trường
bán buôn mà trong đó các ngân hàng lớn chủ chốt giao dịch mua bán với
nhau. Nó là thị trường tài chính quốc tế lớn nhất thế giới, thị trường chu
chuyển vốn tiền tệ, nhưng không phải tiền tệ của mọi quốc gia, mà bằng ngoại
tệ tự do chuyển đổi, thể hiện bằng các phương tiện tiền tệ của một quốc gia
hay tiền tệ tập thể đa quốc gia đã được quốc tế hoá. Thực chất, thị trường hối
đoái liên ngân hàng là sự liên kết toàn cầu giữa các ngân hàng, các nhà buôn
phi ngân hàng và những người môi giới tiền tệ. Những người này liên kết với

nhau thông qua mạng lưới điện thoại, telex, máy tính và các hệ thống truyền
tin tự động để thực hiện các giao dịch mua bán các đồng tiền tự do chuyển
đổi. Thị trường hối đoái liên ngân hàng không tập trung đặt tại một quốc gia
duy nhất, mà rải rác khắp các trung tâm tài chính của thế giới. Các bên tham
gia chủ yếu trên thị trường hối đoái liên ngân hàng là các NHTM lớn, người
môi giới ngoại hối ở thi trường liên ngân hàng, các nhà kinh doanh ngoại hối
lớn mà chủ yếu là các tập đoàn đa quốc gia, các NHTW của các quốc gia.[813,14,15]
- Theo quyết định số 101/1999/QĐ-NHNN13 ngày 26/03/1999 của Thống
đốc ngân hàng nhà nước Việt nam, TTNTLNH do NHNN tổ chức, giám sát
và điều hành nhằm hình thành một thị trường mua bán ngoại tệ có tổ chức
giữa các TCTD là thành viên TTNTLNH. NHNN tham gia TTNTLNH với tư
cách là người mua, người bán cuối cùng, thực hiện can thiệp khi cần thiết vì
mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia.


12

* Đặc điểm TTNTLNH[13-15,16]
- TTNTLNH là thị trường vốn ngắn hạn: Quan hệ mua bán ngoại tệ giữa các
ngân hàng thực chất là luân chuyển vốn ngoại tệ ngắn hạn giữa các ngân
hàng.
- Xét trong phạm vi một quốc gia, TTNTLNH là thị trường có tổ chức vì nó
chịu sự quản lý, điều tiết và giám sát của Nhà nước mà cụ thể là NHTW. ở
các nước khác nhau, mức độ điều tiết, giám sát của NHTW trên TTNTLNH
khác nhau để thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ của từng quốc gia.
- Căn cứ vào giao dịch TTNTLNH gồm: thị trường giao ngay (The currency
spot market), thị trường có kỳ hạn (The currency future market), thị trường
quyền lựa chọn (The currency options market), thị trường hoán đổi ngoại tệ
(Swaps market). Ngoài ra còn có thể phân tách thành thị trường sơ cấp và thị
trường thứ cấp. Thị trường sơ cấp (thị trường cơ bản) là thị trường thực hiện

các nghiệp vụ hối đoái giao ngay. Thị trường thứ cấp (thị trường phái sinh) là
thị trường bắt nguồn từ thị trường sơ cấp, thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh
hối đoái có kỳ hạn, hoán đổi tiền tệ, quyền chọn tiền tệ, hợp đồng tương lai.
- Địa điểm hoạt động của TTNTLNH: TTNTLNH là thị trường không có địa
điểm về địa lý, do vậy, trên thế giới chỉ có một thị trường hối đoái duy nhất.
Các giao dịch hối đoái được tiến hành đồng thời ở tất cả các thị trường các
nước, ví dụ: cùng một thời điểm có thể đồng thời giao dịch tại Paris, London,
New York…
- Phương tiện thông tin sử dụng trong giao dịch: Xuất phát từ thị trường
không có địa điểm cụ thể nên các thành viên thị trường khi giao dịch thường
sử dụng các phương tiện truyền tin hiện đại như: điện thoại, telex kèm theo
các mạng thông tin chuyên ngành (Reuters, Telerate) thông qua hệ thống máy
tính nối mạng để thực hiện nhanh chóng các giao dịch giữa các thành viên.


13

- Thời gian giao dịch: Thị trường hoạt động không ngừng và diễn ra hầu khắp
tất cả các châu lục, tỷ giá các loại ngoại tệ được yết 24/24 giờ trong các ngày
làm việc trong tuần.Tóm lại, TTNTLNH là một bộ phận trung tâm của thị
trường ngoại hối, là thị trường bán buôn, ở đó diễn ra sự lưu chuyển của các
dòng vốn ngắn hạn. Thị trường hối đoái bao gồm TTNTLNH và thị trường
khách hàng (thị trường bán lẻ) là thị trường trong đó các ngân hàng giao dịch
với khách hàng là các cá nhân, tổ chức, đơn vị kinh tế…; các giao dịch kinh
doanh trên thị trường hối đoái gồm giao dịch vốn ngắn hạn và giao dịch vốn
dài hạn.
1.2. Hoạt động của TTNTLNH
Sự hình thành và phát triển TTNTLNH
Khi các khách hàng có tài khoản tiền gửi tại các ngân hàng khác nhau
mà có nhu cầu thanh toán với nhau thì xuất hiện quan hệ thanh toán giữa các

ngân hàng. Để thực hiện chức năng trung gian thanh toán, các ngân hàng phải
thường xuyên giao dịch với các ngân hàng khác ở cả trong và ngoài nước.
Điều kiện cho giao dịch này là các ngân hàng phải duy trì tài khoản của mình
ở tại các ngân hàng có quan hệ. Mối quan hệ giữa các ngân hàng được phát
triển từ thấp đến cao, bằng nhiều hình thức, mới đầu chỉ là quan hệ tự phát và
đơn giản, các ngân hàng tự thoả thuận mở tài khoản cho nhau để tập hợp tất
cả các khoản giao dịch thanh toán. Cùng với sự phát triển của công nghệ ngân
hàng, quan hệ thanh toán giữa các ngân hàng được thực hiện bởi công nghệ
thanh toán ngày càng hiện đại, không còn đơn giản giữa hai ngân hàng mà có
nhiều ngân hàng của các quốc gia khác nhau cùng tham gia. Như vậy,
TTNTLNH được ra đời và phát triển một cách khách quan, cùng với sự phát
triển các nghiệp vụ kinh doanh của các ngân hàng trên thế giới.
Khi quan hệ thương mại và đầu tư giữa các quốc gia phát triển thì việc
chuyển đổi một đồng tiền nước này sang đồng tiền nước khác có ý nghĩa quan


14

trọng đặc biệt. Do trên toàn thế giới có hàng trăm đơn vị tiền tệ của các quốc gia,
cho nên phải có thị trường hối đoái liên ngân hàng để trao đổi giữa đồng tiền này
với đồng tiền khác cho các hoạt động mua và bán với nước ngoài. Trước đây,
trong giao dịch hối đoái thực hiện chủ yếu bằng điện thoại trực tiếp giữa phòng
giao dịch của ngân hàng ở các nước khác nhau. Sau đó, Fax, Telex cũng thường
xuyên được sử dụng, đặc biệt là trong các giao dịch liên ngân hàng, giao dịch
qua hệ thống giao dịch Reuter Dealing System, sau đó được nhận bằng văn bản,
hoặc điện tín. Trên thực tế, thoả thuận mua bán bằng điện thoại giữa các giao
dịch viên của ngân hàng vẫn được thực hiện. Các cuộc thương lượng đó phần
lớn được ghi âm để kiểm tra lại chi tiết, chủ yếu là tỷ giá, số tiền, kỳ hạn. Trách
nhiệm của các giao dịch viên là thay mặt ngân hàng để quyết định mua bán với
đối tác trên TTNTLNH với quyền hạn đã được xác định.

Hiện nay, kỹ thuật viễn thông hiện đại tạo ra các giao dịch hoàn hảo
nhất. Mạng Reuter Dealing System được nối giữa các trung tâm hối đoái, các
ngân hàng thương mại trên thế giới bằng cáp quang quốc tế. Các giao dịch
viên giao dịch trên màn hình vi tính thay cho đàm thoại bằng điện thoại, Telex
và Fax. Giá cả, lượng tiền, ngày giá trị sẽ được thoả thuận bằng cách sử dụng
bàn phím vi tính và sẽ hiện lên màn hình mà không cần dùng lời nói như
trước. Sau đó, người ta cũng có thể xác nhận lại với nhau bằng telex về tính
chính xác của các thoả thuận.
Các giao dịch hối đoái được thực hiện 24/24 giờ trên toàn thế giới. Tuy
nhiên, TTNTLNH không tập trung đặt địa điểm tại một quốc gia duy nhất, mà
rải rác khắp các trung tâm tài chính của thế giới. Thị trường hối đoái quốc tế
bao gồm ba khu vực chính là: Á - Úc, Bắc Mỹ, Châu Âu. Khu vực Á- Úc bao
gồm: Sydney, Tokyo, Hongkong, Singapore và Bahrain. Khu vực Châu Âu
bao gồm: Zurich, Frankfurt, Paris, Brussels, Amsterdam và London. Khu vực
Bắc Mỹ gồm có NewYork, Montreal, Toronto, San Fransico và Los Angeles.


15

Hầu hết các phòng giao dịch mở cửa từ 9 giờ đến 12 giờ một ngày, tuy nhiên
đã có một vài ngân hàng hoạt động mỗi ngày ba ca, mỗi ca 8 tiến. Hoạt động
kinh doanh hối đoái được vận hành liên tục: khi thị trường Á- Úc đóng cửa
cũng là lúc thị trường Châu Âu hoạt động, khi thị trường Châu Âu ngưng làm
việc thì thị trường Bắc Mỹ bắt đầu mở cửa hoạt động.
Các nghiệp vụ mua bán trên TTNTLNH giữa các ngân hàng, các công
ty môi giới, NHTW đều được thực hiện bằng chuyển khoản. Hiện nay, số
lượng mua bán các đồng tiền tự do chuyển đổi trung bình của một giao dịch
trên thị trường hối đoái quốc tế giữa các ngân hàng lớn với giá trị tối thiểu là
1 triệu USD (giá trị tương đương).
Như vậy, có thể thấy rằng cùng với sự phát triển kinh tế, công nghệ…

trên toàn thế giới TTNTLNH cũng được phát triển không ngừng về doanh số
mua bán, phương thức và phương tiện giao dịch ngày càng hiện đại. Ước tính
doanh số mua bán hàng ngày hiện nay giữa các ngân hàng trên toàn thế giới
lên tới hàng tỷ đô la Mỹ.
Vai trò của TTNTLNH
* Đối với hoạt động thương mại quốc tế
Trong điều kiện nền kinh tế mở, hàng ngày xuất hiện rất nhiều chu
chuyển kinh tế, làm nảy sinh các hoạt động thanh toán đối ngoại. Các hoạt
động thanh toán đối ngoại đều được thực hiện thông qua ngân hàng, trong đó
ít nhất có hai ngân hàng tham gia: một ngân hàng nằm ở nước người thụ
hưởng và một ngân hàng thuộc nước người thanh toán. Các ngân hàng của
người hưởng chuyển các phương tiện thanh toán cho các ngân hàng ở nước có
người mắc nợ, sau đó ghi vào tài khoản Nostro của mình ở ngân hàng đó. Do
có ngoại tệ trên tài khoản mở ở ngân hàng đồng nghiệp tại nước ngoài, các
ngân hàng ở nước này bán các phương tiện thanh toán ghi bằng ngoại tệ đó
cho các thể nhân và pháp nhân nào đó cần ngoại tệ thanh toán cho việc nhập


16

khẩu hàng hoá, chi phí về vận tải, bảo hiểm và cho việc trả nợ và lợi tức của
mình ở nước đó. Nghiệp vụ thanh toán của ngân hàng thực hiện bằng cách
chuyển một số tiền từ tài khoản của ngân hàng uỷ thác vào tài khoản của ngân
hàng nhận uỷ thác. Sau đó số tiền này được ghi vào tài khoản của người
hưởng lợi qui định trên các phương tiện thanh toán đó. Hiện nay, tất cả các
việc thanh toán giữa các nước chủ yếu được tiến hành thông qua ngân hàng.
TTNTLNH là thị trường tài chính quốc tế lớn nhất thế giới, là nơi tập
trung tư bản tài chính toàn cầu, có nguồn gốc lịch sử hình thành từ các giao
lưu thương mại và phi thương mại cùng các hoạt động đầu tư, hợp tác kinh tế
quốc tế khác giữa các chủ thể kinh tế của các nước.

Thị trường ngoại hối nói chung và TTNTLNH nói riêng có vai trò bôi
trơn và thúc đẩy hoạt động XNK của nền kinh tế. Đối với những nhà xuất
khẩu nhận được ngoại tệ từ xuất khẩu hàng hoá cho nước ngoài, thường phải
bán lại số ngoại tệ cho các NHTM để nhận nội tệ, sau đó dùng số nội tệ thu
được để trang trải các chi phí đầu vào cho xuất khẩu và hạch toán lãi kinh
doanh. Tương tự, đối với những nhà nhập khẩu để có ngoại tệ thanh toán hàng
nhập khẩu, họ phải mua ngoại tệ từ các NHTM để thanh toán cho nhà xuất
khẩu nước ngoài. Một khi thị trường ngoại hối có tính thanh khoản cao, hoạt
động hiệu quả và thông suốt sẽ kích thích hoạt động XNK phát triển.
* Đối với các NHTM
TTNTLNH là nơi cung cấp các nguồn ngoại tệ kinh doanh cho các
NHTM, là nơi các ngân hàng thực hiện trao đổi mua bán ngoại tệ thiếu hoặc
thừa với nhau, đây chính là kênh điều hoà vốn giữa các ngân hàng. Thông qua
các giao dịch trên TTNTLNH các ngân hàng còn nhằm mục đích thu lợi nhận
khi tỷ giá thay đổi. Lợi nhuận ngân hàng thu được từ mức chênh lệch giữa giá
mua và giá bán, các khoản thu phí và hoa hồng, hoặc từ chênh lệch giữa thời
gian khách hàng giao vốn cho ngân hàng để thực hiện giao dịch hối đoái cho


17

họ và thời gian ngân hàng giao vốn cho người mua đồng tiền đó. Đôi khi ngân
hàng giữ các khoản tiền đối ứng từ một đến hai ngày trước khi chuyển vào tài
khoản của khách hàng. Như vậy, ngân hàng cũng có thể sử dụng số vốn trên
trong vòng hai ngày này.
Thông qua hoạt động trên TTNTLNH, các NHTM sẽ thực hiện giao
dịch cần thiết để thay đổi trạng thái hối đoái có lợi cho bản thân ngân hàng.
TTNTLNH giúp cho các ngân hàng thực hiện cân bằng vốn trong kinh doanh,
đảm bảo khả năng thanh toán và uy tín của ngân hàng trong nền kinh tế.


* Đối với NHTW
NHTW không chỉ chịu trách nhiệm phát hành đồng tiền của nước mình
và quản lý cung ứng tiền tệ, mà còn có nhiệm vụ bảo vệ sự ổn định tỷ giá giữa
đồng bản tệ với các đồng tiền khác. Điều này hoàn toàn phù hợp với hệ thống
“tỷ giá hối đoái cố định”, nhưng ngay cả trong hệ thống tỷ giá thả nổi, NHTW
cũng thường xuyên buộc phải can thiệp vào thị trường hối đoái nhằm duy trì
trật tự của thị trường. TTNTLNH được NHTW sử dụng để thực hiện các công
cụ điều tiết tỷ giá, ổn định tiền trong nước nhằm thực hiện chính sách tiền tệ
quốc gia.
Ở hầu hết các quốc gia, NHTW đều can thiệp vào TTNTLNH, song với
mức độ khác nhau phụ thuộc vào loại hình kinh tế, mức độ thị trường, chế độ
tỷ giá áp dụng và thái độ của Chính phủ trong việc kiểm soát tỷ giá. Trong
chế độ tỷ giá cố định, NHTW phải thực hiện việc can thiệp khi tỷ giá dao
động có khả năng vượt quá mức cố định, nhằm duy trì tỷ giá trong biên độ
nhất định. NHTW tiến hành mua ngoại tệ vào khi cung ngoại tệ lớn hơn cầu
ngoại tệ và tiến hành bán ngoại tệ ra khi cầu lớn hơn cung, nhờ đó tỷ giá được
duy trì cố định hoặc duy trì tỷ giá biến động xung quanh tỷ giá cố định. Sự


18

can thiệp của NHTW thường tác động có tính quyết định và nhiều khi còn ấn
định mức độ tỷ giá hối đoái.
Các chủ thể tham gia TTNTLNH
* Các NHTM
NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội
dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và
cung ứng các dịch vụ thanh toán.
NHTM là thành viên đông đảo và quan trọng nhất trên TTNTLNH, là
thành phần chủ yếu tạo ra thị trường mua bán ngoại tệ. Các NHTM phải có tài

khoản ngoại tệ ở các NHTM khác nhau, ngoại tệ dự trữ và thực hiện mua bán
ngoại tệ thường xuyên trên TTNTLNH để có nguồn ngoại tệ phục vụ cho các
nhu cầu của các khách hàng như: mở thư tín dụng, thanh toán hàng xuất khẩu,
chuyển tiền ra nước ngoài,… và khi khách hàng xuất khẩu, có nguồn thu ngoại
tệ thì NHTM sẽ chuyển đổi ra nội tệ. Trong phạm vi một quốc gia thì việc mua
bán giữa các ngân hàng trên TTNTLNH có thể được tiến hành giữa ngoại tệ
với nội tệ hoặc giữa các loại ngoại tệ với nhau. Còn trên phạm vi quốc tế thì
các ngân hàng chỉ thực hiện mua bán giữa các loại ngoại tệ với nhau (chủ yếu
các đồng tiền mạnh, tự do chuyển đổi). Tỷ giá mà các ngân hàng tính với nhau
được xem là tỷ giá liên ngân hàng hay là tỷ giá bán buôn giữa các ngân hàng.
Tại các NHTM lớn đều có phòng kinh doanh ngoại tệ gồm các nhà kinh
doanh giỏi và chuyên mua bán một loại tiền tệ. Các ngân hàng thực hiện
chuyên môn hoá nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ bằng cách kinh doanh những
loại tiền khu vực hoặc tiền tệ của các quốc gia đang phát triển.
* Các nhà môi giới (Broker)
Nhà môi giới là người giới thiệu hai bên giao dịch với nhau. Ở nhiều
nước, các nhà kinh doanh ngoại hối của NHTM thực hiện giao dịch ngoại hối
phải thông qua nhà môi giới, khi đó nguồn gốc của các bên giao dịch sẽ được


19

giữ kín cho tới khi giao dịch kết thúc. Các nhà môi giới có thể góp phần mở
rộng thị trường. Theo đánh giá của các thành viên tham gia thị trường, doanh
số hoạt động thông qua các nhà hoạt động môi giới chiếm đến 50% tổng
doanh số kinh doanh ngoại hối.
Khi thực hiện cung cấp dịch vụ, nhà môi giới đóng vai trò là người nhận
thông tin yết giá và các điều kiện của người mua, người bán cung cấp và đưa
người có nhu cầu mua gặp người có nhu cầu bán, họ không mua vào hoặc bán
ngoại tệ ra cho chính mình và cũng không chịu trách nhiệm về tiến trình giao

dịch giữa hai ngân hàng mà đơn thuần chỉ cung cấp dịch vụ trên thị trường liên
ngân hàng. Nhà môi giới cũng có thể đóng vai trò kinh doanh ngoại tệ bằng
cách mua ngoại tệ của người chào bán và bán ngoại tệ cho người chào mua.

* Các nhà kinh doanh ngoại tệ (Foreign Exchange Traders)
Các nhà kinh doanh ngoại tệ là những người chuyên mua bán ngoại tệ
trên TTNTLNH. Họ mua ngoại tệ là để bán lại với mục đích kiếm lời từ việc
mua thấp bán cao. Đôi khi họ cũng phải chịu lỗ khi tỷ giá hối đoái biến động
theo chiều ngược lại (mua cao, bán thấp). Các nhà kinh doanh ngoại tệ hoạt
động trên TTNTLNH với tư cách là người môi giới trung gian giữa người
mua và người bán trên thị trường. Họ mua ngoại tệ với dự tính tỷ giá sắp tăng
và án một ngoại tệ khi xác định được xu hướng giảm tỷ giá của ngoại tệ này.
Các nhà kinh doanh ngoại tệ đóng một vai trò quan trọng trên
TTNTLNH bởi vì người cần bán ngoại tệ thường bán cho họ và người cần
mua cũng mú của họ. Trong khi các chủ thể khác chỉ bán hoặc mua khi có
nhu cầu.
* Ngân hàng trung ương (Central Bank)
NHTW tham gia TTNTLNH với tư cách là người quản lý thị trường.
NHTW sẽ can thiệp khi tỷ giá biến động vượt quá sự kiểm soát của mình


20

bằng việc mua hoặc bán ngoại tệ để điều tiết tỷ giá nhằm đạt được mục tiêu
của chính sách tiền tệ quốc gia.
Nhìn chung, các NHTW thường xuyên kiểm soát sự biến động của tỷ
giá đối với đồng tiền do mình phát hành. Do vậy, trong hệ thống tỷ giá thả
nổi, các NHTW vẫn thường xuyên can thiệp trên thị trường nhằm ảnh hưởng
lên tỷ giá theo hướng mà NHTW cho là có lợi. Trong hệ thống tỷ giá cố định,
NHTW phải giữ tỷ giá của đồng bản tệ dao động trong biên độ hẹp, do đó nếu

giá trị của đồng bản tệ giảm xuống dưới mức cho phép, thì NHTW buộc phải
can thiệp vào để chống lại xu hướng trên của thị trường.
NHTW can thiệp vào thị trường bằng các phương thức sau:
+ Trực tiếp với các ngân hàng
+ Thông qua nhà môi giới
+ Thông qua các thị trường giao dịch tương lai
+ Thông qua các NHTW khác.
NHTW mua ngoại tệ trên thị trường làm tăng lượng tiền trung
ương(MB), bán ngoại tệ trên thị trường làm giảm MB, sự thay đổi đó còn ảnh
hưởng đến lãi suất thị trường và từ đó tác động vào nền kinh tế. Ngoài ra,
thông qua can thiệp nhằm duy trì trật tự của thị trường hoặc điều chỉnh thị
trường theo mục tiêu mong muốn bằng khối lượng can thiệp, phương pháp
can thiệp tác động vào trạng thái của thị trường mà NHTW xác định được
hiệu quả can thiệp. Vai trò can thiệp của NHTW còn gây ảnh hưởng về mặt
tâm lý đối với thành viên tham gia thị trường, nhiều khi yếu tố tâm lý ảnh
hưởng nhiều hơn là can thiệp về qui mô, vì thế NHTW phải hết sức thận trọng
khi đưa quyết định can thiệp thị trường.
Các nghiệp vụ chủ yếu trên TTNTLNH.
* Giao dịch hối đoái giao ngay (Spot).


21

Giao dịch ngoại hối giao ngay là việc mua bán các đồng tiền khác nhau
giữa các bên mua bán tiến hành thanh toán ngay sau khi thoả thuận. Việc
thanh toán thường từ một đến hai ngày làm việc kể từ ngày ký hợp đồng.
Tỷ giá giao dịch được xác định theo quy luật cung cầu trên TTNTLNH.
Thị trường ngoại hối giao ngay là thị trường phi tập trung (không giao
dịch trên sở giao dịch), trong đó các NHTM lớn, nhà môi giới liên hệ với
nhau bằng điện thoại, telex, và hệ thống SWIFT. Thông qua SWIFT các

NHTM, nhà môi giới ở tất cả các trung tâm tài chính liên kết với nhau để mua
bán, trao đổi ngoại hối, các trung tâm tài chính lớn hầu như hoạt động 24
giờ/ngày. Đây là thị trường hoạt động sôi động, với tốc độ nhanh nhằm tận
dụng những cơ hội chênh lệch tỷ giá dù rất nhỏ nên là thị trường hoạt động có
hiệu quả. Tại hầu hết các nước, thị trường ngoại hối giao ngay có hai cấp, đó
là: Thị trường liên ngân hàng trực tiếp giữa các ngân hàng và thị trường liên
ngân hàng gián tiếp thông qua nhà môi giới.
+ Trên thị trường liên ngân hàng trực tiếp, các ngân hàng giao dịch trực tiếp
với nhau không thông qua môi giới. Điều này có nghĩa là, trên TTNTLNH
ngân hàng này yết giá mua vào và bán ra trực tiếp cho ngân hàng kia và
ngược lại. Vì giao dịch giữa các ngân hàng trên TTNTLNH không diễn ra
trên sở giao dịch và các giao dịch được thực hiện một cách liên tục, nên thị
trường này được biết đến như là thị trường: Phi tập trung, liên tục, đấu giá
mở, và giao dịch hai chiều.
+ Trên thị truờng liên ngân hàng gián tiếp, các ngân hàng đặt lệnh giới hạn
(limit orders) một chiều cho các nhà môi giới. Trong giao dịch, nhà môi giới
sẽ đưa ra tỷ giá tốt nhất cho khách hàng, tỷ giá này gọi là tỷ giá tay trong
(inside spread). Người môi giới sẽ được hưởng hoa hồng do người mua và
người bán trả. Thị trường qua người môi giới là thị trường bán tập trung, đặt
lệnh có giới hạn và thông qua phương thức đấu gía một chiều.


22

Ưu điểm của giao dịch thông qua môi giới:
+ Các lệnh đặt mua và bán được chuyển nhanh và rộng khắp
+ Tỷ giá được yết một chiều hoặc mua, hoặc bán.
+ Cho phép ngân hàng yết giá không phải xưng danh mình là ai, như vậy, họ
sẽ giữ được bí mật ý định giao dịch
+ Tạo cho thị trường có độ thanh khoản cao

+ Được nhà môi giới cung cấp giá tốt nhất
Thủ tục giao dịch hối đoái giao ngay là khi thực hiện mua hoặc bán
ngoại tệ thì thời hạn thực hiện giao dịch vốn là sau hai ngày làm việc kể từ khi
ký hợp đồng. Nếu ta gọi J là ngày giao dịch (ngày ký hợp đồng) thì việc trả
tiền được thực hiện vào ngày J+2 tức là tại ngày này, tiền sẽ được giao dịch
theo giá đã thoả thuận. Nghiệp vụ hối đoái giao ngay thực chất là mua một số
ngoại tệ A đối ứng với việc bán một số lượng ngoại tệ B với một tỷ giá cho
biết cần phải trả bao nhiêu ngoại tệ B để có một lượng ngoại tệ A. Nhưng việc
thực hiện thanh toán tiền là sau 2 ngày làm việc kể từ khi ký hợp đồng. Sở dĩ
có thời gian thanh toán tiền sau 48 giờ là vì khoảng thời gian đó để cho các
bên mua bán ngoại tệ hoàn tất các thủ tục hành chính trên các tài khoản giao
dịch thực hiện đúng theo qui định của hợp đồng.
* Giao dịch hối đoái có kỳ hạn (Forward Exchange).
Giao dịch hối đoái có kỳ hạn: Là nghiệp vụ kinh doanh mua hoặc bán
đồng tiền này lấy đồng tiền khác mà thời hạn trả tiền được xác định vào ngày
cụ thể trong tương lai đã được thoả thuận trước trong hợp đồng. Hay nói cách
khác, giao dịch có kỳ hạn nghĩa là hai bên ký hợp đồng mua (hoặc bán) ngoại
tệ vào ngày J và đồng thời họ phải thoả thuận với nhau việc giao ngoại tệ và
trả tiền vào ngày (J+n) nhưng tỷ giá đã được xác định tại thời điểm ký hợp
đồng (J) còn n là thời gian đã được thoả thuận có thể là 5,7,10 ngày hoặc
1,2,3,…tháng. Loại giao dịch này mặc dù thanh toán tiền vào một thời gian đã


23

xác định nhưng phải thực hiện tỷ giá tại thời điểm tiến hành ký hợp đồng mà
không được áp dụng tỷ giá tại thời điểm thanh toán tiền. Để tránh thiệt hại
trong giao dịch có kỳ hạn thì việc xác định tỷ giá thanh toán khi tiến hành ký
hợp đồng tại ngày (J) được các thành viên giao dịch dựa vào tỷ giá thực tế tại
ngày (J) và chênh lệch lãi suất của hai đồng tiền trao đổi với nhau trên số

ngày của kỳ hạn kể từ ngày (J) đến ngày (J+n). Nếu lãi suất của đồng tiền
định giá lớn hơn lãi suất của đồng tiền yết giá, khoản chênh lệch này sẽ là số
dương, khi đó tỷ giá kỳ hạn lớn hơn tỷ giá giao ngay và được gọi là có điểm
gia tăng- Premium. Nếu lãi suất của đồng tiền định gía nhỏ hơn lãi suất của
đồng tiền yết giá, khoản chênh lệch sẽ là số âm, khi đó tỷ giá kỳ hạn nhỏ hơn
tỷ giá giao ngay, gọi là có điểm khấu trừ – Discount. ở thị trường ngoại hối,
điểm gia tăng và điểm khấu trừ được gọi chung là điểm SWAP.
Công thức tính tỷ giá kỳ hạn như sau:
Tỷ giá kỳ hạn = Tỷ giá giao ngay + Điểm SWAP
Điểm SWAP được tính theo công thức sau: 2.-227
Tỷ giá giao ngay*Chênh lệch lãi suất tiền gửi*Số ngày kỳ hạn
Điểm SWAP
=
360 ngày
Tỷ lệ SWAP phản ánh chênh lệch giữa tỷ giá kỳ hạn và tỷ giá giao ngay
(trong nghiệp vụ kỳ hạn, tỷ lệ SWAP được gọi là điểm kỳ hạn).
Điểm kỳ hạn dương (+) gọi là điểm gia tăng, còn nếu điểm kỳ hạn âm (-) gọi
là điểm khấu trừ.
Vậy một điểm gia tăng kỳ hạn sẽ làm đồng ngoại tệ có giá hơn trên thị
trường kỳ hạn so với đồng nội tệ và ngược lại, một điểm khấu trừ sẽ làm đồng
nội tệ có giá hơn trên thị trường kỳ hạn so với đồng ngoại tệ. Tại TTNTLNH,


×