Tải bản đầy đủ (.pdf) (179 trang)

LUẬN văn những định hướng và giải pháp chủ yếu tăng cường khai thác, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn dài hạn cho đầu tư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.49 MB, 179 trang )

LUẬN VĂN:

Những định hướng và giải pháp chủ
yếu tăng cường khai thác, nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn dài hạn cho đầu tư
phát triển kinh tế ở Hà Nội


Lời nói đầu

Vốn đầu tư, đặc biệt là vốn đầu tư phát triển dài hạn, luôn luôn đóng vai trò
quan trọng hàng đầu trong sự phát triển kinh tế cả ở cấp doanh nghiệp lẫn cấp địa
phương và quốc gia, cả trong quá khứ, hiện tại lẫn trong tương lai...
Vốn đầu tư là một khái niệm mở, rộng... ở đề tài này, vốn đầu tư được tiếp cận
theo nghĩa hẹp là các nguồn lực tài chính - tiền tệ. Hơn nữa, do thực chất các nguồn
vốn huy động trên 5 năm là rất nhỏ, và ít được bóc tách trong các thống kê hiện có,
nên vốn đầu tư dài hạn ở đây được hiểu là các khoản tín dụng và đầu tư tài chính - tiền
tệ trung và dài hạn theo cách hiểu của ngành ngân hàng nước ta, tức có thời hạn từ trên
12 tháng. Ngoài ra, đề tài cũng mới giới hạn phạm vi nghiên cứu là ở các nguồn đầu tư
dài hạn trong nước, chứ không đề cập các nguồn vốn nước ngoài hoặc chỉ xem xét nó
với tư cách nhân tố để thúc đẩy vốn đầu tư dài hạn trong nước. Với góc độ tiếp cận
trên đây, mục tiêu bao trùm của đề tài là trên cơ sở đánh giá thực trạng bức tranh
chung về việc khai thác và sử dụng vốn đầu tư dài hạn trong nước cho phát triển Thủ
đô để đề xuất một số phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường huy động
và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư dài hạn trong nước cho phát triển kinh tế của
thành phố trong thời gian tới. Để tránh trùng lặp với các đề tài khác và do nội hàm rất
rộng của tên đề tài, nên ở đây đề tài đặt trọng tâm vào nghiên cứu một số kênh và công
cụ quan trọng đối với thành phố Hà Nội như vốn XDCB tập trung, KBNN, thị trường
tài chính, thuê mua tài chính...



Chương I:
Một số vấn đề chung về vốn dài hạn cho đầu tư phát triển kinh tế

I.1. Khái niệm và vai trò của vốn dài hạn
Vốn, hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm toàn bộ các nguồn lực tài chính, nhân lực,
tri thức, tài sản vật chất và cả các quan hệ đã tích lũy được của cá nhân, DN, quốc
gia…
Vốn, hiểu theo nghĩa hẹp, chủ yếu là phần tiềm lực tài chính - tiền bạc của cá
nhân, DN, quốc gia đó.
Vốn trong nước là toàn bộ những yếu tố cần thiết cấu thành và tham gia vào quá
trình sản xuất và tái sản xuất - kinh doanh hình thành và tích lũy được trong mỗi gia
đình, DN, địa phương và cả quốc gia. Các nhân tố cấu thành vốn trong nước bao gồm:
vốn tài chính - tiền tệ, các dạng của cải, tài sản vật chất và tri thức, nguồn nhân lực và
các quan hệ trong nền kinh tế thị trường… Chúng có thể chuyển hóa cho nhau và được
đo lường chung bằng tiền trong điều kiện nhất định (trừ vốn - con người).
Dưới đây chỉ xin đề cập tới vốn trong nước với cách hiểu theo nghĩa hẹp nêu
trên.
Vốn đầu tư phát triển kinh tế dài hạn là những khoản vốn dài hạn chi cho các
hoạt động mở rộng sản xuất - kinh doanh, những công trình xd CSHT trực tiếp hoặc
gián tiếp phục vụ phát triển kinh tế, cũng như cho các hoạt động khác liên quan đến
sản xuất - kinh doanh và phát triển kinh tế theo chiều sâu của đất nước, địa phương và
DN. Hơn nữa, theo cách hiểu thông thường hiện nay, vốn ngắn hạn là vốn có thời gian
kể từ khi huy động đến lúc hoàn trả là dưới 12 tháng, trung hạn thì từ trên 12 tháng
đến dưới 5 năm và dài hạn là trên 5 năm. Tuy nhiên, do trên thực tế hoạt động của
ngân hàng, vốn có thời hạn trên 5 năm chiếm tỷ trọng rất nhỏ, nên dưới đây, vốn dài
hạn được hiểu là vốn trung và dài hạn, tức có thời hạn hoàn trả vốn từ trên 12 tháng.
Trong cơ chế quản lí kinh tế tập trung, bao cấp với chế độ cấp phát và giao nộp
sản phẩm đã không tạo động lực quan tâm nhiều đến việc huy động và sử dụng hiệu
quả vốn đầu tư nói chung, vốn dài hạn nói riêng trong nền kinh tế, cả ở cấp vĩ mô lẫn
vi mô. Vốn đầu tư và nguồn vốn đầu tư cũng được quan niệm rất đơn giản. Thậm chí



chưa có sự phân định giữa vốn và tiền. Cơ chế phân phối vốn chỉ bó hẹp ở hai kênh:
ngân sách nhà nước và vay tín dụng ngân hàng với lãi suất thấp. Từ đó dẫn đến những
sai lầm như việc phát hành thêm tiền để đầu tư, hay chưa chú ý đến các nguồn lực
khác ngoài NSNN. Các địa phương không quan tâm đến việc tự huy động vốn xây
dựng cơ sở hạ tầng và phát triển kinh tế, thậm chí là không được phép thực hiện.
Cùng với quá trình đổi mới, quyền tự chủ của các địa phương đã được coi trọng
và phát huy. Những nhận thức về vốn cũng đã thay đổi.
Mục tiêu chủ yếu trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong giai đoạn hiện
nay cũng như sắp tới của Việt Nam là tạo sự chuyển biến tích cực về chuyển dịch cơ
cấu kinh tế; tập trung đầu tư các công trình hạ tầng cơ sở; tích cực đổi mới và nâng cao
năng lực KH - CN, sức cạnh tranh của nền kinh tế và các DN, thực hiện thành công
CNH - HĐH và không ngừng cải thiện chất lượng sống của nhân dân. Để thực hiện
được các nhiệm vụ trên thì cần phải có nguồn vốn lớn, đặc biệt là vốn dài hạn. Hơn
nữa, cần nhấn mạnh rằng, về lâu dài thì vốn trong nước có ý nghĩa quyết định, vốn
ngoài nước có ý nghĩa quan trọng trong quá trình phát triển bền vững của cả nước
cũng như của từng địa phương, trong đó có Thủ đô Hà Nội.
Chính sách huy động và sử dụng vốn là một bộ phận quan trọng trong chính
sách tài chính - tiền tệ quốc gia, nó liên quan đến chính sách phân phối thu nhập trong
phạm vi toàn xã hội, tác động trực tiếp đến mối quan hệ giữa tích luỹ - tiêu dùng và
các chính sách tiền tệ, tín dụng. Việc hoạch định và thực hiện chính sách huy động vốn
trong nền kinh tế thị trường có ảnh hưởng trực tiếp đến các hoạt động tài chính, tình
hình lạm phát và ổn định tiền tệ, cũng như đến tốc độ và hiệu quả phát triển KT - XH
nói chung.
Thực tế phát triển thế giới cho thấy, bất kỳ nước nào cũng đều phải sử dụng
nguồn lực nội bộ là chính. Nguồn vốn bổ sung từ bên ngoài, dù là viện trợ, cho vay
hay đầu tư từ nước ngoài cũng không thể thay thế cho đầu tư từ các nguồn vốn trong
nước. Hơn nữa, nguồn vốn nước ngoài không phải là vốn cho không, từ trên trời rơi
xuống mà đều có điều kiện và phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Về lâu dài, vốn vay đều

phải trả cả gốc lẫn lãi, còn FDI phải dành một phần cho chuyển lãi và vốn gốc về
chính quốc.


Thực tế của quá trình thu hút vốn đầu tư nước ngoài đã cho chúng ta thấy:
cùng với vốn bên ngoài, bao giờ cũng phải có vốn đối ứng bên trong mới có thể triển
khai công trình một cách thuận lợi. Thêm vào đó, cần phải có vốn đầu tư cho các công
trình "ngoài hàng rào" như đầu tư cho các cơ sở hạ tầng về điện, cấp thoát nước, thông
tin liên lạc và các cơ sở hạ tầng xã hội khác.
Nhiều công trình đầu tư không phát huy được hiệu quả hoặc hiệu quả thấp
một phần là do các yếu tố cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội "ngoài hàng rào" không đáp ứng
được yêu cầu. Một nhà máy được xây dựng mà không có công trình cơ sở hạ tầng kinh
tế đồng bộ thì khó có thể hoạt động tốt được. Ngoài ra, đi cùng với nhà máy tất yếu
phải có các cơ sở hạ tầng xã hội như các khu dân cư, trường học, bệnh viện, cơ sở văn
hoá, thể thao... nếu không, sẽ gây không ít khó khăn cho hoạt động và ảnh hưởng tới
hiệu quả sản xuất kinh doanh của nhà máy. Theo kinh nghiệm của các nước, vốn đầu
tư cho các công trình ngoài hàng rào đôi khi còn cao hơn vốn đầu tư cho các nhà máy.
Vì vậy, dù là công trình được đầu tư từ nguồn vốn bên ngoài thì vốn đầu tư trong nước
cũng rất quan trọng.
Về tỷ trọng giữa vốn trong nước và vốn nước ngoài, xét về lâu dài, vốn trong
nước phải nhiều hơn vốn nước ngoài. Không thể mong đợi sự tăng trưởng nhanh và
vững chắc nhờ vào các nguồn vốn từ bên ngoài. Kinh nghiệm phát triển của các nước
cũng đã chứng minh điều đó, ở đây chỉ có trường hợp ngoại lệ của các nước có nguồn
tài nguyên quý, với trữ lượng lớn như dầu mỏ của các tiểu vương quốc A-rập,
Bruney... nhưng ngay cả những trường hợp này thì cuối cùng vốn bên trong (dù chỉ là
vốn có được do bán tài nguyên thiên nhiên) sẽ lớn hơn vốn bên ngoài.
Cuối cùng, xét về lợi ích dân tộc, nếu không có vốn đầu tư trong nước đủ mức
cần thiết thì xét về lâu dài, nguồn của cải làm ra có thể lớn, nhưng phần của cải thực sự
mà ta được hưởng (tính thông qua chỉ tiêu GNP) lại rất ít. Như vậy, nền kinh tế có vẻ
phồn vinh, sản phẩm có vẻ dồi dào nhưng của cải đó không thuộc sở hữu của nhân dân

trong nước. Tỷ lệ góp vốn của các doanh nghiệp trong nước chỉ dừng lại ở mức 3040% như hiện nay có một lý do quan trọng là thiếu vốn đối ứng trong nước. Không ít
doanh nghiệp phải dùng "quỹ đất' để góp vốn, phần còn thiếu lại phải đi vay nước
ngoài để góp vốn cho các liên doanh. Một số doanh nghiệp trong nước mua thiết bị


nước ngoài theo hình thức trả chậm, nhưng do không có vốn nên lại phải vay thương
mại với những điều kiện bất lợi, làm ảnh hưởng không tốt đến hiệu quả của công trình.
Có thể nói, vốn, đặc biệt nguồn vốn đầu tư dài hạn là một trong những yếu tố
quyết định sự thành công của sự nghiêp phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hoá và
hiện đại hoá đất nước. Không có vốn đầu tư dài hạn thì sẽ không có cơ sở hạ tầng kỹ
thuật, không đổi mới và nâng cao được năng lực KH - CN, cải thiện sức cạnh tranh và
nâng cao trình độ phát triển của đất nước, địa phương, DN.
I.2. Đặc điểm vốn đầu tư phát triển dài hạn
Vốn đầu tư dài hạn có một số đặc điểm chính sau:
Thứ nhất, đòi hỏi quy mô vốn lớn và thời hạn thu hồi vốn dài
Vốn đầu tư dài hạn được sử dụng vào việc nghiên cứu và áp dụng khoa học,
công nghệ mới, đổi mới và hiện đại hóa trang thiết bị và xây dựng cơ sở hạ tầng phục
vụ cho tăng năng suất lao động, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, mở rộng sản xuất kinh
doanh và phát triển theo chiều sâu… Đây là những lĩnh vực, dự án thường đòi hỏi quy
mô vốn đầu tư rất lớn và thời hạn hoàn vốn dài. Thậm chí, có những dự án không thể
tính được thời hạn thu hồi vốn trực tiếp, nhất là vốn đầu tư cho xây dựng đường xá,
cầu cống, nghiên cứu khoa học cơ bản… Điều này càng rõ nét đối với những quốc gia
và địa phương nào đang ở giai đoạn đầu cất cánh…
Đặc điểm của nguồn vốn dài hạn trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và
hội nhập quốc tế chi phối mạnh phưong thức huy động vốn, quá trình quản lý và sử
dụng vốn. Nói cách khác nó ảnh hưởng đến chiến lược vốn - một bộ phận quan trọng
trong chiến lược tổng thể phát triển kinh tế - xã hội đất nước và địa phương.
Thứ hai, vốn đầu tư dài hạn dễ có độ rủi ro cao tùy thuộc vào tính chất của
môi trường và cơ hội đầu tư, cũng như các phương thức và chính sách huy động, sử
dụng vốn.

Do thời hạn thu hồi vốn dài, nên đầu tư dài hạn dễ gặp rủi ro về kinh tế (lãi
suất, lạm phát, khấu hao vô hình, sự thay đổi cung – cầu tương lai…) và phi kinh tế
(thay đổi chính sách, thể chế, thiên tai…). Đây là điều mà các nhà đầu tư tư nhân hay e
ngại. Điều này cũng giải thích vì sao tỷ trọng vốn dài hạn trong tổng vốn huy động của
các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng thường rất thấp. Tuy nhiên, tùy theo sự


hấp dẫn của môi trường đầu tư, nhất là mức độ tự do hóa kinh doanh, sự ổn định và
những thay đổi có thể dự báo được của chính sách, độ thông thoáng về thủ tục quản lí
nhà nước, và các ưu đãi khác… mà vốn đầu tư dài hạn có thể được huy động ngày
càng nhiều hơn thông qua sự phối kết hợp linh hoạt của các công cụ và kênh huy động
vốn đa dạng, thích hợp, trong đó có đầu tư trực tiếp của các DN, các nhà đầu tư tư
nhân trong nước và nước ngoài.
Thứ ba, đánh giá hiệu quả vốn đầu tư dài hạn cho phát triển cần phải nhìn
trên góc độ hiệu quả kinh tế - xã hội tổng hợp và dài hạn.
Vì là đàu tư dài hạn nên hiệu quả của vốn đầu tư dài hạn cũng chậm phát huy
tác dụng. Hơn nữa, do một số dự án được đầu tư không thể định lượng được trực tiếp
và chính xác lợi ích mà nó tạo ra (nhất là các công trình CSHT công ích), nên cần đánh
giá hiệu quả vốn đầu tư dài hạn phát triển kinh tế trên góc độ hiệu quả kinh tế - xã hội
tổng hợp và dài hạn. Khi đưa ra quyết định cho mỗi dự án đầu tư cần xem xét hiệu quả
với một cách nhìn toàn diện, xem xét hiệu quả kinh tế cần đi đôi với hiệu quả xã hội.
kết hợp lợi ích trước mắt với lợi ích lâu dài, lợi ích cục bộ của từng bộ phận với lợi ích
tổng thể của toàn xã hội. Hiệu quả kinh tế, xã hội luôn gắn liền với nhau, tác động tực
tiếp đến chính sách huy động và sử dụng vốn, đặc biệt đối với các công trình xây
dựng cơ sở hạ tầng, các dịch vụ công cộng. Vì vậy, khi đầu tư vào các dự án ngoài
việc chú trọng đến hiệu quả kinh tế của dự án cần xem xét các vấn đề xã hội như công
ăn việc làm, thu nhập, mức sống của người lao động... để đảm bảo đạt được hiệu quả
tổng hợp cao nhất.
Nhằm đạt được tốc độ luân chuyển và hiệu quả cao nhất, vốn đầu tư dài hạn cần
được nhìn nhận theo một quy trình khép kín trên cả 3 phương diện: huy động, sử dụng

và quản lý, cũng như phải đảm bảo thông suốt trên cả 3 giai đoạn: tích luỹ- huy động đầu tư, đồng thời phải hướng vào đầu tư có trọng điểm với quy mô và phương thức
thích hợp, tập trung đầu tư vào các ngành nghề, lĩnh vực ưu tiên, tránh đầu tư tràn lan,
đầu tư theo kiểu phong trào, thiếu quy hoạch và nhất là không đảm bảo chất lượng xây
dựng, tiêu chuẩn kỹ thuật công nghệ và môi trường, dễ để lại hậu quả nặng nề về sau.


I.3. Các phương thức huy động và sử dụng vốn dài hạn cho đầu tư phát triển
kinh tế Thủ đô
Xét trên phưong diện tổng thể, các nguồn vốn trong nước đều được sinh ra từ
quá trình tiết kiệm và tích lũy của cá nhân, tổ chức doanh nghiệp và Nhà nước. Nguồn
vốn này được huy động và sử dụng cho đầu tư phát triển chủ yếu thông qua các kênh
như Ngân sách nhà nước (mà quan trọng hơn cả là qua phần vốn XDCBTT và qua
KBNN), các ngân hàng, tổ chức tín dụng thương mại, thị trường tài chính, thuê mua tài
chính và qua các hình thức khác…
I.3.1. Huy động và sử dụng vốn dài hạn thông qua kênh Ngân sách Nhà nước
Huy động vốn qua kênh ngân sách nhà nước được thực hiện dưới các hình thức
như động viên thuế, phí và các hình thức vay nợ qua KBNN (như công trái, trái phiếu,
tín phiếu...). Nói cách khác, nguồn vốn đầu tư của NSNN được hình thành từ nguồn
vốn tích luỹ của ngân sách và nguồn vốn tín dụng của nhà nước, còn việc sử dụng cho
đầu tư dài hạn chủ yếu thông qua phần vốn xây dựng cơ bản tập trung của NSNN các
cấp và kiểm soát chi qua KBNN.
Nguồn vốn đầu tư của ngân sách Nhà nước bao gồm nguồn vốn tích luỹ đầu tư
từ ngân sách Nhà nước (chênh lệch giữa số thu từ thuế, phí với chi tiêu dùng thường
xuyên), nguồn vốn huy động từ trái phiếu Chính phủ cho đầu tư phát triển và các
nguồn vốn khác như từ quỹ dự trữ tài chính, các tài sản của Nhà nước... Đây là nguồn
vốn đầu tư hết sức quan trọng trong nền kinh tế, chủ yếu dùng để đầu tư cho các công
trình hạ tầng cơ sở, tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi và tập trung vào các ngành kinh
tế mũi nhọn để khuyến khích kinh tế phát triển. Với việc nâng cao hiệu quả quản lý
ngân sách Nhà nước trên cả hai lĩnh vực thu và chi ngân sách nhà nước, tỷ trọng chi
cho đầu tư phát triển của ngân sách nhà nước sẽ ngày càng tăng trong tổng số chi ngân

sách nhà nước và luôn giữ vai trò là nguồn vốn quan trọng trong xã hội trong quá khứ,
hiện tại và những năm trước mắt.
Tăng cường nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước là tìm cách nâng cao phần
tích luỹ của NSNN và phát triển nguồn vốn tín dụng. Để tăng nguồn vốn tích luỹ của
NSNN cần áp dụng các chính sách tăng thu triệt để các nguồn thu và tiết kiệm triệt để
các khoản chi, thực hiện tiết kiệm trong chi tiêu dùng của ngân sách. Ngân sách phải
có tích luỹ và tích luỹ ngày càng tăng thì mới có thể góp phần nâng cao tỷ trọng tích


lũy trong nước để đầu tư dài hạn cho phát triển kinh tế. Tuy nhiên, cần coi trọng giải
quyết hài hòa về lợi ích kinh tế giữa Nhà nước, doanh nghiệp và xã hội khi ban hành
các chính sách, chế độ động viên vào NSNN thông qua thuế và phí; vừa đảm bảo
nguồn thu tài chính để Nhà nước thực hiện điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế, thực hiện các
chính sách xã hội, bảo vệ an ninh quốc phòng, vừa phải tạo điều kiện tích luỹ, tích tụ,
tập trung vốn của DN, cơ sở, địa phương cho mở rộng sản xuất - kinh doanh, đầu tư
phát triển theo chiều sâu, giải phóng sức sản xuất xã hội, tạo và mở rộng nguồn thu lâu
dài.
Do vậy, việc giảm chênh lệch giữa các mức thuế suất, giảm số lượng thuế suất;
giảm dần các ưu đãi và miễn giảm thuế; mở rộng phạm vi, đối tượng nộp thuế; đảm
bảo nguyên tắc công bằng về thuế giữa các thành phần kinh tế, giữa các doanh nghiệp
trong nước và nước ngoài, góp phần thúc đẩy tăng trưởng, đẩy mạnh quá trình cơ cấu
lại sản xuất kinh doanh, khuyến khích đổi mới công nghệ, hướng dẫn tiêu dùng, thúc
đẩy xuất khẩu, điều tiết thu nhập,... là hết sức quan trọng và cần thiết trong chính sách
thuế, phí của Nhà nước khi động viên NSNN.
Tuy nhiên, trong điều kiện, tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế quốc dân còn thấp,
nguồn thu của ngân sách Nhà nước (chủ yếu là thuế) còn có hạn; trong khi đó nhu cầu
chi ngân sách và vốn cho đầu tư phát triển kinh tế rất lớn, nguồn vốn huy động thông
qua thu thuế, phí cho ngân sách nhà nước không thể đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng
lớn cho đầu tư phát triển. Do vậy, vay nợ của Chính phủ là biện pháp rất quan trọng để
bù đắp thiếu hụt ngân sách Nhà nước và bổ sung nguồn vốn cho đầu tư phát triển. Huy

động vốn thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ và cho phép các địa phương phát
hành trái phiếu (trái phiếu chính quyền địa phương, trái phiếu đô thị) là biện pháp hữu
hiệu nhất để bù đắp thiếu hụt ngân sách, đồng thời còn tập trung được lượng vốn nhàn
rỗi trong xã hội để tăng nguồn chi cho phát triển kinh tế xã hội do nó đáp ứng được các
nhu cầu chi tiêu của ngân sách mà không phải dùng biện pháp phát hành - lạm phát và
không lệ thuộc vào vay nợ nước ngoài, dễ gây nên bất ổn về kinh tế. Biện pháp này
được sử dụng tại hầu hết các nước trên thế giới, ngay cả các nước phát triển có nguồn
thu tương đối lớn. Tuy nhiên, cũng không thể lạm dụng biện pháp này bởi lẽ khi vay
nợ quá lớn thì sẽ tạo ra gánh nặng cho ngân sách Nhà nước trong trả gốc và lãi, đặc
biệt việc cung cấp lượng tín dụng ròng từ hệ thống ngân hàng cho ngân sách Nhà nước
lớn cũng sẽ gây nên áp lực lạm phát cao. Vì vậy, cần phải nắm vững nhu cầu vay vốn,


mục đích sử dụng vốn, khả năng cung ứng nguồn vốn, từ đó xây dựng chiến lược và kế
hoạch huy động vốn cho hiệu quả và phải quản lý vay nợ tốt để tránh gây nên sự bất
ổn định về tài chính.
Ngoài ra, chính quyền địa phương cũng có thể huy động vốn để đầu tư cho cơ
sở hạ tầng đô thị, thông qua việc vay từ các ngân hàng thương mại và vay trực tiếp từ
thị trường tài chính thông qua phát hành trái phiếu qua KBNN.
Cơ sở pháp lý cho việc khai thỏc và sử dụng vốn dài hạn thụng qua KBNN đó
đã được xác lập khá đồng bộ.
Luật NSNN số 01/2002/QH11 đã tạo ra khuôn khổ pháp lý cho các tỉnh thành
phố trực thuộc TW quyền chủ động huy động và sử dụng vốn dài hạn cho đầu tư phát
triển địa phương. Khoản 3 Điều 8 Luật NSNN qui định: "Trường hợp tỉnh, thành phố
trực thuộc TW có nhu cầu đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng thuộc phạm vi ngân sách
cấp tỉnh bảo đảm, thuộc danh mục đầu tư trong kế hoạch 5 năm đã được HĐND cấp
tỉnh quyết định, nhưng vượt quá khả năng cân đối của ngân sách cấp tỉnh năm dự toán,
thì được phép huy động trong nước và phải cân đối ngân sách cấp tỉnh hàng năm
để chủ động trả hết nợ khi đến hạn. Mức dư nợ từ nguồn vốn huy động không vượt
quá 30% vốn đầu tư XDCB trong nước hàng năm của ngân sách cấp tỉnh". Tuy

nhiên, Hà Nội và TP.Hồ Chí Minh được thực hiện theo qui định riêng của Chính phủ,
nghĩa là không nhất thiết phải tuân theo giới hạn 30% này.
Theo Quyết định 235/2003/QĐ-TTg ngày 13.11.2003, KBNN thực hiện chức
năng: (1) quản lý nhà nước về Quĩ NSNN, các quĩ tài chính nhà nước và các quĩ khác
của nhà nước; (2) thực hiện việc huy động vốn cho NSNN, cho đầu tư phát triển qua
hình thức phát hành công trái, trái phiếu theo qui định của pháp luật. Chính chức năng
thứ hai của KBNN qui định phạm vi và hình thức khai thác, sử dụng vốn dài hạn thông
qua KBNN Hà Nội. Khoản 10 Điều 2 Quyết định này khẳng định KBNN có nhiệm vụ:
"Tổ chức huy động vốn trong nước và ngoài nước cho NSNN và cho đầu tư phát triển
thông qua phát hành công trái, trái phiếu theo qui định của pháp luật". Điều 3 Quyết
định 235 nêu rõ "KBNN được tổ chức theo nguyên tắc tập trung, thống nhất, thành hệ
thống dọc từ TW đến địa phương, theo đơn vị hành chính. Theo đó, KBNN Hà Nội chỉ
được phép huy động cho NSNN và cho ĐTPT bằng hai công cụ công trái và trái phiếu.


Ngày 20/11/2003 Chính phủ ban hành Nghị định số 141/2003/NĐ-CP về việc
phát hành TPCP, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh và trái phiếu Chính quyền địa
phương, cụ thể hoá hoạt động huy động thông qua KBNN, thay thế Nghị định số
01/2000/NĐ-CP về Qui chế phát hành TPCP. Trái phiếu Chính phủ hay trái phiếu
chính quyền địa phương đều là một loại chứng khoán nợ do Chính phủ hay UBND cấp
tỉnh phát hành, có thời hạn, có mệnh giá, có lãi, xác nhận nghĩa vụ trả nợ của người
phát hành đối với người sở hữu trái phiếu. Trái phiếu Chính phủ bao gồm 6 loại: Tín
phiếu Kho bạc, Trái phiếu Kho bạc, Trái phiếu công trình TW, Trái phiếu đầu tư, Trái
phiếu ngoại tệ và Công trái xây dựng Tổ quốc. Ngoại trừ Tín phiếu và Trái phiếu Kho
bạc phát hành để bù đắp thiếu hụt của NSNN trong năm tài chính hoặc theo dự toán
hàng năm, 5 loại Trái phiếu Chính phủ còn lại và Trái phiếu của Chính quyền địa
phương (đối với Hà Nội là trái phiếu đô thị) đều có thể là những công cụ để KBNN Hà
Nội huy động vốn trung dài hạn cho đầu tư phát triển Thủ đô. Trái phiếu được phát
hành bằng cả đồng Việt Nam và ngoại tệ tự do chuyển đổi dưới dạng chứng chỉ hoặc
bút toán ghi sổ, có ghi tên hoặc không ghi tên.

Các loại Trái phiếu công trình TW, Trái phiếu đầu tư, Trái phiếu ngoại tệ, Công
trái XDTQ đều có thời hạn trên 1 năm và do Chính phủ, Bộ Tài chính quyết định nên
KBNN Hà Nội chỉ đóng vai trò tham gia khai thác và sử dụng "gián tiếp", nghĩa là
theo chỉ tiêu nhiệm vụ thu chi được TW giao. Công cụ trực tiếp huy động và sử dụng
vốn đầu tư của KBNN Hà Nội được qui định trong Nghị định 241/2003/NĐ-CP chính
là Trái phiếu chính quyền địa phương - loại trái phiếu đầu tư có kỳ hạn trên 1 năm do
UBND cấp tỉnh uỷ quyền cho KBNN hoặc tổ chức tài chính, tín dụng trên địa bàn phát
hành, nhằm huy động vốn cho các dự án, công trình thuộc nguồn vốn đầu tư của
NSĐP, đã ghi trong kế hoạch năm nhưng chưa được bố trí vốn ngân sách trong năm.
Điều kiện phát hành TPCQĐP là:
(1)

dự án công trình phải thuộc Kế hoạch đầu tư 5 năm;

(2)

có phương án phát hành, kế hoạch sử dụng và phương án trả nợ;

(3)

Chủ tịch UBND ra quyết định uỷ quyền cho KBNN hoặc tổ chức tài chính,

tín dụng trên địa bàn chịu trách nhiệm phát hành, thanh toán trái phiếu.
Trái phiếu CQĐP được phát hành theo 3 phương thức:
1.

Đấu thầu: lựa chọn các tổ chức, cá nhân tham gia dự thầu trái phiếu


2.


Bảo lãnh phát hành: tổ chức bảo lãnh giúp tổ chức phát hành thực hiện các thủ

tục trước khi phát hành trái phiếu ra thị trường chứng khoán, phân phối trái phiếu cho
các nhà đầu tư, nhận mua trái phiếu để bán lại hoặc mua số trái phiếu còn lại chưa
phân phối hết.
3.

Đại lý phát hành: tổ chức phát hành uỷ thác cho một tổ chức khác thực hiện bán

trái phiếu cho các nhà đầu tư. Chỉ có các Công ty chứng khoán, Quĩ đầu tư, Công ty
Tài chính và các ngân hàng được phép bảo lãnh hoặc đại lý phát hành trái phiếu.
Đáng lưu ý là TPCQĐP không được phép phát hành bằng phương thức bán lẻ,
dù là qua hệ thống KBNN hay không. Lãi suất TPCQĐP do Chủ tịch UBND cấp tỉnh
quyết định hoặc hình thành theo kết quả đấu thầu trong giới hạn biên độ do Bộ trưởng
Bộ Tài chính quyết định và mặt bằng lãi suất thực tế của TPCP cùng kỳ hạn tại thời
điểm phát hành. Khoản thu từ TPCQĐP được ghi thu vào ngân sách cấp tỉnh và ngân
sách cấp tỉnh chịu toàn bộ trách nhiệm thanh toán gốc lãi và các chi phí liên quan tới
TPCQĐP. Việc thanh toán được thực hiện thông qua các tổ chức tài chính, tín dụng
nhận uỷ thác do TPCQĐP chỉ được phát hành bằng phương thức đấu thầu, bảo lãnh
hay đại lý phát hành. Người sở hữu TPCQĐP cũng có các quyền lợi tương tự như
người sở hữu các loại TPCP, đó là: (1) được thanh toán đầy đủ, đúng hạn gốc và lãi
khi đến hạn; (2) được bán, tặng, cho, thừa kế, cầm cố, chiết khấu trái phiếu; (3) được
miễn thuế thu nhập đối với khoản thu nhập từ trái phiếu. TPCQĐP cũng được mua bán
trên thị trường tiền tệ hoặc chiết khấu, cầm cố tại NHNN, được niêm yết và giao dịch
trên thị trường chứng khoán. KBNN còn nhận ký gửi trái phiếu theo yêu cầu của người
sở hữu trái phiếu với mức phí do Bộ Tài chính qui định.
Đồng bộ với việc tạo ra khuôn khổ pháp lý tăng cường quyền chủ động chi địa
phương, thực hiện đẩy mạnh phân cấp ngân sách theo Luật NSNN, cho phép chính
quyền địa phương khai thác các nguồn lực cho đầu tư phát triển, các qui định pháp lý

đảm bảo cho việc sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đã khai thác được cũng liên tục
được hoàn thiện.
Dù là tham gia phát hành TPCP, một phần được sử dụng thông qua chi ĐTPT
và tín dụng nhà nước hay phát hành TPCQĐP trực tiếp sử dụng vào các công trỡnh dự
ỏn đầu tư của Thành phố thỡ cỏc nguồn vốn đều được phản ánh vào ngân sách Thành
phố nên việc sử dụng phải đảm bảo hiệu quả, tuân thủ các qui định của Luật NSNN,


Nghị định số 60/2003/NĐ-CP và Thông tư số 59/2003/TT-BTC qui định chi tiết và
hướng dẫn thi hành Luật NSNN,... và các văn bản pháp qui liên quan tới quản lý đầu
tư hiện hành như Nghị định số 52/1999/NĐ-CP, Nghị định số 12/2000/NĐ-CP, Nghị
định 07/2003/NĐ-CP về Qui chế quản lý đầu tư và xây dựng. Việc quản lý, cấp phỏt,
thanh toỏn, quyết toỏn vốn của KBNN Hà Nội thực hiện theo Thụng tư số
44/2003/TT-BTC, Thông tư 45/2003/TT-BTC và Thông tư số 100/2003/TT-BTC của
Bộ Tài chính hướng dẫn việc quản lý, cấp phỏt, thanh toán, quyết toán vốn đầu tư từ
nguồn TPCP. Theo đó, cần đặc biệt lưu ý lập kế hoạch riêng cho các dự án đầu tư
bằng nguồn TPCP khi lập kế hoạch vốn đầu tư hàng năm, Sở Tài chính thông báo kế
hoạch thanh toán vốn đầu tư cho KBNN Hà Nội. Đối với các dự án do địa phương
quản lý, căn cứ vào kế hoạch thanh toán vốn đầu tư và tiến độ thực hiện các dự án, Bộ
Tài chính chuyển vốn từ nguồn TPCP về Sở Tài chính, Sở lại chuyển vốn sang KBNN
Hà Nội để thanh toán cho các dự án. Chủ đầu tư quyết toán vốn đầu tư hàng năm theo
chế độ hiện hành về vốn đầu tư nguồn NSNN nhưng quyết toán riêng nguồn vốn
TPCP. KBNN tổ chức hạch toỏn và theo dừi riờng nguồn vốn TPCP, KBNN Hà Nội
quyết toán với Sở Tài chính, Sở lại quyết toán với Bộ Tài chính riêng nguồn vốn này,
không quyết toán vào NSĐP. KBNN Thành phố phải giúp cơ quan quản lý trong việc
mở hồ sơ theo dừi, nghiờm tỳc thực hiện chế độ báo cáo định kỳ theo qui định đối với
các dự án đầu tư sử dụng nguồn vốn TPCP, thực hiện chế độ kiểm tra định kỳ và đột
xuất, tăng cường công tác quản lý, kiểm tra việc thực hiện tiến độ, khối lượng, chất
lượng công trỡnh, tỡnh hỡnh sử dụng vốn, khụng được dùng nguồn vốn TPCP để chi
cho các nhiệm vụ, dự án ngoài danh mục, không để tỡnh trạng vượt vốn đầu tư của dự

án đó được duyệt và tỡnh trạng lóng phớ, thất thoỏt, tiờu cực.
Như vậy khuôn khổ pháp lý cho việc khai thỏc và sử dụng cỏc nguồn vốn đầu
tư thông qua hệ thống KBNN đó tương đối đầy đủ, chi tiết và đồng bộ. Khuôn khổ
pháp lý cho việc KBNN Hà Nội huy động vốn trong dân thông qua phát hành
TPCQĐP cũng đó cú, nhưng cũn thiếu qui định cụ thể về việc quản lý sử dụng nguồn
vốn TPCQĐP. Về cơ bản, nội dung của các qui định này tương tự như nội dung quản
lý vốn đầu tư từ nguồn TPCP, song có những điểm khác biệt nhất định liên quan tới
phân cấp ngân sách và quyền chủ động của các cấp chính quyền địa phương, tính chất
của các dự án đầu tư đa dạng phụ thuộc vào đặc thù của từng địa phương nên cần có
qui định riêng.


Tóm lại, xuất phát từ nhu cầu thực tế và tiềm năng huy động vốn của địa
phương, căn cứ vào những cơ sở pháp lý quan trọng, KBNN Hà Nội hoàn toàn cú điều
kiện và triển vọng tăng cường huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn dài hạn
trong dân cho đầu tư phát triển Thủ đô thông qua hai công cụ là Trái phiếu Chính phủ
và TPCQĐP.
I.3.2. Huy động và sử dụng vốn dài hạn thông qua các ngân hàng thương mại và tổ
chức tín dụng
Ngoài kênh huy động vốn dài hạn thông qua ngân sách còn có các kênh huy
động thông qua công cụ vay và cho vay trung và dài hạn của các ngân hàng thương
mại và các tổ chức tín dụng.
Về truyền thống và thực tại, với chức năng trung gian huy dộng vốn từ nơi cung
ứng đến nơi có nhu cầu đầu tư để giải quyết các quan hệ cung cầu về vốn đầu tư trên
pham vi toàn xã hội và là trung tâm thanh toán trong toàn bộ nền kinh tế, các ngân
hàng thương mại và tổ chức tín dụng có vai trò hết sức quan trọng trong việc góp phần
thoả mãn nhu cầu bổ sung vốn đầu tư của các doanh nghiệp, góp phần đẩy nhanh qua
trình tích tụ và tập trung vốn cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Tuy nhiên, việc huy động và cho vay vốn dài hạn từ các ngân hàng thương mại
càng ngày càng khó đáp ứng nhu cầu thực tế xã hội do có một số hạn chế sau:

- Nhu cầu vốn cho xây dựng cơ sở hạ tầng nói riêng, đầu tư phát triển dài hạn
nói chung là rất lớn, song các ngân hàng lại bị giới hạn trong việc cho vay tối đa đối
với một khách hàng, một dự án;
- Nguồn vốn của các ngân hàng chủ yếu là các nguồn vốn ngắn hạn, song nhu
cầu đầu tư phát triển dài hạn, trong đó có các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng lại đòi
hỏi các nguồn vốn có tính dài hạn.
- Việc huy động và cho vay vốn dài hạn của ngân hàng đòi hỏi các thủ tục và
điều kiện ngặt nghèo (nhất là về tài sản thế chấp) mà nhiều dự án và đơn vị có nhu cầu
vay khó đáp ứng trên thực tế. Hơn nữa, vốn tự có của ngân hàng cũng không phải là
nhiều, vì vậy, khả năng huy động vốn của ngân hàng cũng bị hạn chế theo các quy
định nhằm đảm bảo an toàn chung cho hệ thống ngân hàng.


I.3.3. Huy động và sử dụng vốn thông qua thị trường tài chính
Với tư cách là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi, mua - bán quyền sử dụng các
nguồn tài chính thông qua những phương thức giao dịch, các công cụ và dịch vụ tài
chính nhất định, thị trường tài chính (TTTC) là tổng hòa các quan hệ cung - cầu về vốn
và được phân thành 2 loại: thị trường vốn ngắn hạn (thị trường tiền tệ) và thị trường
vốn dài hạn.
- Thị trường vốn ngắn hạn, hay còn gọi là thị trường tiền tệ, là các hoạt động về
cung- cầu vốn ngắn hạn (dưới một năm) diễn ra chủ yếu thông qua các hoạt động của
hệ thống ngân hàng các cấp.
- Thị trường vốn dài hạn là nơi diễn ra các hoạt động về cung - cầu vốn dài hạn
cho Chính phủ, doanh nghiệp và hộ gia đình. Thị trường vốn dài hạn bao gồm thị
trường vay nợ dài hạn và thị trường chứng khoán.
Nhìn chung, TTTC dù ngắn hạn hay dài hạn, đều ngày càng mang tính mở và
có vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội hiện đại cả ở cấp quốc gia, cũng
như quốc tế. Chúng tạo ra các kênh và công cụ huy động vốn cho đầu tư phát triển từ
các nguồn trong và ngoài nước, từ doanh nghiệp và trong dân; cung cấp cho các nhà
đầu tư những cơ hội và hình thức đầu tư đa dạng, phù hợp; làm tăng khả năng thanh

khoản của các công cụ tài chính và giúp đánh giá xác thực hơn giá trị của doanh
nghiệp và nền kinh tế; đồng thời giúp thực hiện hiệu quả hơn các chính sách kinh tế vĩ
mô theo hướng thị trường mở...
Phát hành trái phiếu là hình thức phổ biến để huy động vốn dài hạn cho đầu tư
phát triển ở tất cả các địa phương trên thế giới và nó luôn là phương thức huy động
vốn quan trọng không chỉ đối với chính chính quyền địa phương, mà đối với cả các
doanh nghiệp (ngoài cổ phiếu).
Xét về tổng thể, huy động vốn của chính quyền địa phương từ việc phát hành
trái phiếu đô thị là một trong những lựa chọn ngày càng nhận được nhiều sự quan tâm
của chính quyền đô thị trên khắp thế giới do những lợi ích mà nó đem lại vượt ra
ngoài mục đích ban đầu là huy động vốn.Việc cho phép và buộc chính quyền địa
phương phát hành trái phiếu để bù đắp nguồn vốn ngân sách nhà nước thiếu hụt cho
đầu tư phát triển dài hạn sẽ tạo ra áp lực buộc các chính quyền địa phương phải cải
tiến, tăng cường tính minh bạch và công khai hoá trong quản lý ngân sách địa phương,


nâng cao hiệu quả của các dự án đầu tư công cộng, giúp phát triển thị trường tài chính,
tạo sự chủ động trong việc hoạch định chiến lược phát triển.
Tuy nhiên để phát hành trái phiếu được thành công phải có nhiều yếu tố đi liền
với nó làm nền tảng như:
-

Phải có môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát thấp;

-

Lòng tin của các nhà đầu tư vào trái phiếu;

-


Tồn tại một thị trường thứ cấp vận hành tốt và năng động để giảm bớt rủi ro cho
nhà đầu tư vì trái phiều đô thị thường là trái phiếu dài hạn,

-

Chất lượng tín nhiệm cao trong việc trả nợ, điều này đòi hỏi chính quyền nguồn
thu thuế, lợi tức, bảo lãnh... đủ để nhà đầu tư tin vào việc có thể thu lợi từ trái phiếu
đô thị,

-

Hệ thống thông tin chất lượng cao về các hoạt động ngân sách của chính quyền địa
phương, các dự án có bán trái phiếu, hệ thống kế toán, kiểm toán công khai theo
tiêu chuẩn quốc tế
Tuỳ theo cơ sở pháp lý xác định nghĩa vụ và phương thức điều hàng các khoản

nợ huy động dưới hình thức trái phiếu này, trái phiếu đô thị có 2 loại cơ bản sau đây:
Trái phiếu công ích (General Obligation Bonds -GOs)
Đây là loại trái phiếu đô thị được bảo đảm cả tiền gốc và lãi bằng toàn bộ các
nguồn thu tài chính và quyền lực thu thuế của chủ thể phát hành. Trái phiếu này có
mức độ đảm bảo thanh toán cao, mức độ rủi ro thấp, do vậy thông thường mức lãi suất
của loại trái phiếu này thường thấp. Một số điểm đáng chú ý khi tham khảo loại trái
phiếu này là: Giới hạn theo luật về lượng nợ mà chính quyền địa phương được phép
huy động. Giới hạn này được Nhà nước cho phép hoặc do Hội đồng nhân dân địa
phương quyết định.
Trái phiếu thu nhập hay trái phiếu công trình
Trái phiếu thu nhập (Revenue Bonds) là loại trái phiếu đô thị có lãi và gốc được
trả dựa theo thu nhập của công trình mà trái phiếu tài trợ, Ví dụ dễ thấy nhất của loại
trái phiếu thu nhập là các trái phiếu tài trợ cho các dự án về cầu dường có thu phí, các
chương trình phát triển nhà ở, mở rộng bến cảng, sân bay...



Tại các nước công nghiệp phát triển, lịch sử phát triển của họ có phần đóng góp
quan trọng của những loại trái phiếu này. Đây là loại trái phiếu tập trung chủ yếu để
phát triển hạ tầng, giúp Chính phủ và chính quyền địa phương nhẹ gánh ngân sách.
Trái phiếu thu nhập được xem là loại có chất lượng thấp hơn trái phiếu công
ích. Bởi vì mỗi công trình có những rủi ro khác nhau và tuỳ thuộc vào điều kiện khai
thác công trình đó có hiệu quả hay không. Thu nhập thu được dùng để trả nợ từ các
công trình tuỳ theo loại, nhưng nó chính là tiền thu từ việc sử dụng từ các tiện ích đó.
Trái phiếu thu nhập được huy động và điều hành bởi các tổ chức xây dựng và khai thác
do chính quyền địa phương chọn và quản lý.
Các trái phiếu thu nhập thường có mức lợi tức hấp dẫn nhưng có thể bị rủi ro
cao, vì chúng không được bảo trợ hay bảo đảm bằng bất cứ nguồn vốn nào khác ngoài
thu nhập từ chính công trình mà chúng góp phần tạo ra thu nhập.
Trái phiếu đô thị là loại trái phiếu dài hạn và có những tích chất chung của
chứng khoán, đó là tính thanh khoản (chuyển nhượng, mua bán; tính rủi ro; và tính
sinh lời . Với những tính chất này trái phiếu đô thị trở thành công cụ rất có hiệu quả
để các chính quyền địa phương thu hút các nguồn vốn nhà rỗi trong dân cư phục vụ
cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng của địa phương. Điều quan trọng là đỏi hỏi chính
quyền địa phương cần chủ động xây dựng chiến lược phát hành trái phiếu có hiệu quả
và phải chứng minh cho các nhà đầu tư về tính hiệu quả của dự án cần huy động vốn;
đưa ra mức sinh lời hấp dẫn mà trái phiếu tạo ra; tạo ra nhiều tiện ích đáp ứng được
yêu cầu của nhà đầu tư.
Ngoài ra, để phát hành trái phiếu đô thị đạt hiệu quả cao, thu hút được các
nguồn vốn trong xã hội thì việc đa dạng hóa loại hình trái phiếu có vị trí quan trọng.
Loại trái phiếu phát hành sẽ phụ thuộc vào mục tiêu huy động và chủ thể phát hành trái
phiếu. Đối với các chương trình trọng điểm, công trình mà nhiều người dân cùng được
hưởng lợi thì phù hợp với việc phát hành trái phiếu công ích. Đối với các công trình
hay dự án có nguồn thu cụ thể thì có thể phát hành trái phiếu thu nhập (trái phiếu công
trình hay trái phiếu doanh nghiệp). Hơn nữa, về nguyên tắc lãi suất của trái phiếu phải

cao hơn lãi suất tiết kiệm cùng kỳ, lãi suất trái phiếu thu nhập phải cao hơn lãi suất trái
phiếu công ích, có như vậy mới thu hút được các nhà đầu tư trái phiếu.


Song để việc phát hành trái phiếu được thuận lợi thì cần có một thị trường thứ
cấp phát triển, cụ thể là thị trường chứng khoán. Phát triển thị trường chứng khoán và
huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán là một trong những nội dung lớn của
chiến lược huy động vốn cũng như quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường ở
Việt nam nói chung, ở Hà Nội nói riêng trong thời gian tới.
Đối với DN, việc huy động vốn trên thị trường tài chính thường thông qua phát
hành cổ phiếu và trái phiếu DN phù hợp với Luật doanh nghiệp và các quy đinh pháp
lí hiện hành khác. Ngoài ra, các ngân hàng thương mại còn có thêm các chứng khoán
khác như kỳ phiếu, giấy chứng nhận tiền gửi và các giấy tờ có giá khác tùy theo sự
phát triển dịch vụ và nghiệp vụ của mình, phù hợp với luật ngân hàng và các tổ chức
tín dụng…
I.3.4. Huy động và sử dụng vốn dài hạn thông qua hình thức thuê mua tài chính
I.3.4.1. Khái niệm và cơ cấu thuê mua tài chính
Thuê mua tài sản đã xuất hiện khá sớm trong lịch sử nhân loại (từ vài nghìn
năm trước công nguyên) với các hình thức sơ khai (tương tự như phương thức thuê
vận hành ngày nay), đến đầu thế kỷ XIX, đã xuất hiện hình thức thuê mua và phát
triển trở thành công cụ tài trợ vốn được chấp nhận rộng rãi. Đến những năm 50 của thế
kỷ XX, giao dịch thuê mua đã có bước phát triển nhảy vọt nhằm đáp ứng nhu cầu về
vốn trung và dài hạn. Nghiệp vụ tín dụng thuê mua thuần hay còn gọi là thuê mua tài
chính được sáng tạo ở Mỹ vào năm 1952 và nhanh chóng phát triển ở Châu Âu vào
thập kỷ 60, Châu á và nhiều khu vực khác vào thập kỷ 70 do đây là hình thức tài trợ
vốn có tính an toàn cao, hiệu quả và tiện lợi cho các bên giao dịch (Hiện nay ở Mỹ,
thuê mua thiết bị chiếm khoảng gần 1/3 tổng số tiền tài trợ cho các giao dịch mua bán
thiết bị). Các loại hình thuê mua cũng phát triển rất phong phú, có loại thuê ngắn hạn,
dài hạn, thuê mua có quyền mua tài sản sau thời hạn thuê… các hình thức này đen xen
nhau. Từ những điểm chung nhất của các loại hình thuê mua, người ta đi đến định

nghĩa tổng quát về thuê mua như sau:
Thuê mua (leasing) còn có nhiều tên gọi khác nhau như cho thuê tài chính, tín
dụng thuê mua, thuê mua vốn… nhưng đều có những nội dung cơ bản giống nhau, vì
vậy ở đây xin được gọi chung là thuê mua tài chính. Về thực chất, đây là một loại hình
nghiệp vụ tín dụng thuê mua của ngân hàng, các tổ chức tài chính phi ngân hàng và


các công ty thuê mua tài chính. Thuê mua tài chính là loại tín dụng có hiệu quả và
thường được các doanh nghiệp ưa chuộng, góp phần đáng kể vào việc thúc đẩy phát
triển kinh tế, đặc biệt là với các quốc gia đang phát triển.
Thuê mua tài chính là một thoả thuận thuê mua thông qua một hợp đồng giữa
hai hay nhiều bên liên quan đến một hay nhiều tài sản. Người thuê mua chuyển giao
tài sản cho người thuê sử dụng trong một thời gian nhất định. Đổi lại, người thuê phải
trả một số tiền cho người thuê mua, số tiền thuê thông thường cả tiền gốc về hao mòn
tài sản cộng với tiền lãi.
Đặc trưng của thuê mua tài chính là:
- Người thuê lựa chọn thiết bị từ nhà cung cấp, thương lượng với người cung
cấp về phương thức bảo đảm, bảo trì, giao nhận, lắp đặt, giá cả và phương thức thanh
toán.
- Người thuê mua thiết bị trực tiếp từ nhà cung cấp; người thuê mua vẫn giữ
quyền sở hữu thiết bị trong thời gian người thuê sử dụng.
- Hợp đồng thuê mua thường không được phép huỷ bỏ ngang chừng.
Việc thuê mua tài chính cho phép người thuê được lựa chọn tài sản thuê trong
tương lai vào thời điểm ký hợp đồng thuê thiết bị; thuê mua với thời hạn nhất định để
bên thuê mua thu hồi được vốn đầu tư và có lãi; hao mòn thiết bị do bên thuê chịu, bên
thuê có toàn quyền sử dụng thiết bị; bên thuê chịu trách nhiệm sửa chữa, bảo dưỡng và
bảo hiểm thiết bị; thiết bị có phù hợp hay không thuộc trách nhiệm bên thuê. Thuê
mua tài chính thường được áp dụng đối với thiết bị dùng cho sản xuất, thương mại,
dịch vụ.
Một nghiệp vụ tài trợ thuê mua được coi là thuê mua tài chính nếu thoả mãn

các tiêu chí sau:
- Đối với người đi thuê: (1) cuối thời hạn thuê mua, người đi thuê được chuyển
quyền sởt hữu tài sản; (2) hợp đồng thuê mua có điều khoản về quyền chọn mua tài
sản theo giá thoả thuận; (3) thời hạn hợp đồng xác định từ hoá đơn, trên cơ sở giá trị
của tài sản (điều này chỉ áp dụng với tài sản mới, giá trị được xác định ít nhất bằng
hoặc cao hơn 90% giá thị trường của tài sản thuê).


- Đối với người cho thuê: ngoài việc thoả mãn các tiêu chí trên, còn phải thoả
mãn các điều kiện: (1) việc thu tiền thuê tối thiểu có thể tính trước và phải hợp lý; (2)
người cho thuê không chịu trách nhiệm thanh toán những chi phí không được hoàn trả
trong những trường hợp ngoài dự tính.
Ngày nay, sau nhiều năm phát triển, hình thức thuê mua tài chính đã có những
bước tiến nhất định và chiếm được ưu thế trong một số ngành kinh tế trọng điểm có
nhu cầu vốn đầu tư ban đầu lớn như ngành hàng hải, hàng không… và không dừng lại
ở các tài sản là những động sản mà còn phát triển sang cả bất động sản (nhà cửa, đất
đai…) với nhiều hình thức khác nhau và mang tính chất xuyên quốc gia. Ví dụ như
hình thức tín dụng thuê mua lại (lease back): ở hình thức này người thuê mua (khách
hàng) là những người có tài sản chuyên dùng và có nhu cầu sử dụng loại tài sản này,
nhưng lại cần có khoản tiền nhất định để sử dụng vào việc khác. Lúc này, họ mang
bán tài sản đó cho công ty thuê mua tài chính (chuyển quyền sở hữu) và xin thuê lại để
sử dụng, rồi sau đó sẽ mua lại những tài sản này khi kết thúc hợp đồng thuê mua.
Cơ cấu giao dịch thuê mua như sau:
Công

ty thuê
mua (người
thuê mua)

Hợp đồng mua thiết bị


Nhà cung cấp

Hợp đồng thuê mua

Lựa chọn thiết bị

Người đi thuê

Chuyển giao tài sản
ở Việt Nam, sau một thời gian xuất hiện, khái niệm tín dụng thuê mua đã được
đưa ra ở thể lệ tín dụng thuê mua: tín dụng thuê mua là một hoạt động thuê mua máy
móc thiết bị và các động sản khác phục vụ cho sản xuất kinh doanh được tổ chức tín
dụng mua theo yêu cầu của bên thuê, bên thuê thanh toán tiền thuê cho các tổ chức tín


dụng trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên thoả thuận và không được huỷ bỏ. Khi
kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được quyền sở hữu tài sản thuê, hoặc được mua lại tài
sản thuê, hay tiếp tục thuê tài sản theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng tín
dụng thuê mua.
Khái niệm này đã từng bước được hoàn thiện và đã có một số khái niệm khác
nhau, nhưng những nội dung cơ bản đều có sự thống nhất. Cụ thể như:
- Về phương diện hoạt động tín dụng: Tín dụng thuê mua là một phương thức
thuê mua tài sản dài hạn mà trong thời hạn đó, người thuê mua chuyển giao tài sản cho
người đi thuê sử dụng. Bên thuê có trách nhiệm thanh toán tiền thuê và được quyền:
hoặc sở hữu tài sản sau khi kết thúc hợp đồng thuê; hoặc được quyền mua tài sản bất
cứ lúc nào cho đến khi kết thúc hợp đồng thuê; hoặc được quyền thuê tiếp tài sản.
Theo định nghĩa này, tín dụng thuê mua ở Việt Nam có một số giới hạn như:
không áp dụng thuê mua với bất động sản; người thuê mua là sở hữu chủ tài sản, như
vậy không áp dụng phương thức thuê rồi thuê mua lại.

- Về phương diện thuê mua tài chính: Thuê mua tài chính là một hoạt động tín
dụng trung và dài hạn thông qua việc thuê mua máy móc thiết bị và các động sản khác;
bên thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã được
hai bên thoả thuận và không được huỷ bỏ hợp đồng trước thời hạn. Khi kết thúc thời
hạn thuê, bên thuê được chuyển quyền sở hữu, hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo các
điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng thuê.
Theo định nghĩa này, thuê mua tài chính là một hình thức thuê mua tài sản có
kèm theo lời hứa bán lại cho người thuê khi kết thúc hợp đồng với giá cả được thoả
thuận từ trước. Như vậy, thuê mua tài chính (hay tín dụng thuê mua) khác hẳn với
hình thức thuê mua tài sản đơn thuần hay hình thức bán hàng trả chậm , trả góp về
phương thức sở hữu, tính chất cũng như mối quan hệ giữa các bên tham gia.
Quan hệ giữa thuê mua tài chính (tín dụng thuê mua) với các loại hình tín dụng:
- Là một trong những hình thức tài trợ vốn cho kinh doanh, ra đời và phát triển
song song với nghiệp vụ cấp tín dụng của ngân hàng, những nghiệp vụ này bổ sung và
hỗ trợ vốn cho nhau, tạo nên sự phong phú, đa dạng trong cung ứng vốn cho nền kinh


tế. Đối với các lĩnh vực kinh doanh có vốn đầu tư lớn, các doanh nghiệp mới thành lập
hay sắp xếp lại thì phương thức đầu tư này tỏ ra hữu hiệu và chiếm ưu thế.
- Thuê mua tài chính là hình thức đặc biệt của tín dụng trung và dài hạn. Về
hình thức, thuê mua mang đầy đủ các yếu tố đặc trưng của tín dụng, đó là tính hoàn trả,
tính thời hạn và lãi suất, do tài sản thuê mua thường có gía trị lớn và tuổi thọ dài nên
thời gian hợp đồng thường là trung và dài hạn. Như vậy, trong thuê mua, vai trò của
người cho thuê là người cung cấp tài chính. Tuy nhiên, thể hiện dưới hình thức tài sản,
nên tín dụng thuê mua không phải là phương pháp thay thế tín dụng trung và dài hạn
mà nó là hình thức đặc biệt, bổ sung tham gia tài trợ trong những trường hợp mà tín
dụng trung và dài hạn không thể thực hiện được.
Sự khác nhau giữa thuê mua tài chính với thuê mua thông thường:
- Đối với người thuê mua thông thường:
+ Người cho thuê mua không cam kết bán lại tài sản cho người đi thuê khi

chấm dứt hợp đồng thuê.
+ Người cho thuê mua phải gánh chịu phần lớn các rủi ro đối với tài sản thuê
mua.
+ Thời hạn thuê mua thường ngắn so với thời gian hữu dụng của tài sản.
+ Hiện giá của các khoản tiền thuê của một hợp đồng thường nhỏ hơn nhiều so
với giá trị tài sản.
- Đối với thuê mua tài chính:
+ Người cho thuê mua cam kết bán lại tài sản sau khi chấm rứt hợp đồng thuê
mua của giai đoạn cơ bản. Trường hợp người đi thuê không muốn mua thì trả lại cho
người cho thuê mua hoặc ký tiếp hợp đồng thuê giai đoạn sau.
+ Người đi thuê phải chịu những rủi ro liên quan đến tài sản.
+ Thời hạn thuê mua thường dài hơn hoặc gần bằng thời gian hữu dụng của tài
sản.
+ Hiện giá các khoản tiền thuê của một hợp đồng gần bằng giá trị tài sản.
Theo kinh nghiệm của một số nước, người ta thường quy định 3 tiêu chuẩn của
thuê mua tài chính như sau:


+ Một là, quyền sở hữu tài sản thuê mua có thể chuyển giao cho người đi thuê
sau khi chấm dứt hợp đồng thuê mua.
+ Hai là, thời hạn thuê mua khoảng 75% thời gian hữu dụng của tài sản.
+ Ba là, hiện giá của tổng các các khoản tiền thuê bằng 90% hoặc cao hơn giá
trị tài sản. Nhưng trong thực tế cần lưu ý việc xác định kỳ hạn sao cho tiền thuê phải
trả mỗi kỳ ở mức vừa phải, không ảnh hưởng lớn đến tình hình tài chính của người đi
thuê; đồng thời sau khi chấm rứt hợp đồng thuê mua, người thuê mua có thể bán được
tài sản.
Tổ chức thuê mua tài chính là một doanh nghiệp đứng ra thực hiện nghiệp vụ
thuê mua, tuỳ theo định chế của mỗi nước mà cho phép ngân hàng thương mại, công
ty tài chính, công ty thuê mua thực hiện nghiệp vụ này. Một số nước không cho phép
ngân hàng thương mại trực tiếp thực hiện đầu tư thuê mua nhưng lại cho phép ngân

hàng thành lập công ty thuê mua tài chính để thực hiện nghiệp vụ thuê mua (Một số
ngân hàng thương mại của nước ta cũng đang thực hiện theo mô hình này).
Đối với công ty thuê mua tài chính là công ty con của ngân hàng, giữa ngân
hàng và công ty thuê mua tài chính có mối quan hệ rất chặt chẽ. Ngân hàng đứng ra
giới thiệu khách hàng cho công ty thuê mua tài chính của mình; ngân hàng bảo lãnh
cho các doanh nghiệp khi thực hiện việc thuê mua (tức là ngân hàng sẽ gánh chịu một
phần rủi ro cho công ty thuê mua tài chính); ngân hàng tái cấp vốn cho công ty thuê
mua tài chính trên các hợp đồng thuê mua.
Có thể phân biệt giữa thuê mua tài chính với tín dụng trả góp và bán trả góp
qua bảng so sánh sau:

Tiêu thức so sánh
Chủ thể cấp vốn

Thuê mua tài chính

Tín dụng trả góp

Bán trả góp

Ngân hàng, công ty

Ngân hàng thương mại, Doanh nghiệp sản

thuê mua

công ty tài chính, quỹ

xuất (hoặc có thể


tiết kiệm, tổ chức bán lẻ. thông qua công ty tài
chính)
Hình thức vốn tài trợ Vốn hiện vật (thiết bị, tài Vốn bằng tiền
Sản)

Vốn hiện vật


Tiêu thức so sánh

Thuê mua tài chính

Tín dụng trả góp

Tính chất pháp lý đối Người thuê mua là chủ sởNgười được cấp vốn sở
với tài sản

hữu tài sản và chuyển

Tính chất tài sản

Bán trả góp
Người nhận được

hữu tài sản mua được từ tài

quyền sử dụng cho người vốn tín dụng

sản là người sở


đi thuê

hữu

Máy móc thiết bị có giá Vốn tín dụng thường sử Hàng
trị lớn, tuổi thọ lâu dài.

hoá

tiêu

dụng cho việc tiêu dùng: dùng, ô tô, vật
Mua ô tô, cho vay lưu thông,
dụng gia đình…
cho vay chuyển nhà…

Thời hạn hoàn trả vốn Thời hạn thuê gần bằng Thời hạn vay ngắn.

Thời hạn ngắn.

Thời gian hữu dụng của
tài sản và cuối hợp đồng
thuê, người đi thuê có
quyền chọn mua, thuê
tiếp hay trả lại tài sản.

Vấn đề rủi ro

Là hình thức ít rủi ro vì tàiRủi ro lớn do quyền sở


Rủi ro rất lớn.

sản thuê mua vẫn thuộc hữu tài sản thuộc về ngườ
quyền ở hữu của người

đi vay nên khó có thể

thuê mua. Người đi thuê kiểm soát được việc sử
không được sửa chữa,

dụng tài sản. Có những

làm giảm giá trị tài sản trường hợp người đi vay
hay thế chấp.

không trả được nợ, ngân

Nếu vi phạm những

hàng tịch biên tài sản

quy định trong hợp đồng, nhưng giá trị còn lại
người thuê mua có quyền thường thấp do đã sử dụng.
thu hồi tài sản.

Tóm lại, xét về mục đích cuối cùng (hành động cho vay) thì thuê mua tài chính
cũng là tín dụng đầu tư, thông qua đầu tư vốn thuê mua (thay cho vay) nhằm thu lãi
suất và lợi nhuận. Nhưng xét về bản chất nghiệp vụ thì thuê mua tài chính có một số



đặc điểm phân biệt với các loại hình tín dụng. Thuê mua tài chính có nhiều ưu điểm
hơn hẳn các loại tín dụng khác như: thời hạn thanh toán mềm dẻo hơn (thoả thuận tự
nguyện); mức độ đáp ứng về vốn/ tổng nhu cầu vốn đầu tư cao hơn; thủ tục đơn giản,
chấp thuận và thực hiện hợp đồng nhanh chóng; trong trường hợp có vấn đề phát sinh
ngoài mong muốn thì việc thu hồi tài sản cũng nhanh và tiện lợi hơn. Thuê mua tài
chính có mối quan hệ bởi cấu trúc ba bên: người thuê mua (cho vay), người đi thuê (đi
vay) và nhà cung cấp tài sản, thiết bị. Ngược lại, tín dụng thông thường chỉ có mỗi
quan hệ song phương giữa người cho vay và người đi vay.
I.3.4.2. Các hình thức thuê mua:
Căn cứ vào các tiêu thức khác nhau, người ta có thể phân loại các hình thức
thuê mua như sau:
- Căn cứ vào loại tài sản tài trợ thuê mua, theo truyền thống người ta phân
thành 2 loại: thuê mua động sản và thuê mua bất động sản. Tuy nhiên, do sự phát triển
mạnh mẽ của hoạt động thuê mua, đã xuất hiện thêm loại thứ 3 là thuê mua vốn
thương mại, trong đó người ta thuê mua nguyên cả một cơ sở sản xuất kinh doanh
hoàn chỉnh, có đầy đủ nhà xưởng, văn phòng, kho bãi, máy móc thiết bị, thiết bị văn
phòng… bao gồm cả động sản và bất động sản; người đi thuê chỉ lo về vốn lưu động
và tiến hành sản xuất kinh doanh.
- Căn cứ vào phương thức tài trợ, có các loại như:
+ Thuê mua thuần: là loại hình thuê mua có sự tham gia của cả ba bên: người đi
thuê, nhà cung cấp và người thuê mua. Đây là loại hình thuê mua chuẩn nhất, thể hiện
đầy đủ nét đặc trưng của thuê mua. Có thể tóm tắt phương thức này như sau: Người đi
thuê chọn thiết bị và nhà cung cấp, người đi thuê và người thuê mua ký hợp đồng thuê
mua; người thuê mua ký hợp đồng và mua thiết bị của nhà cung cấp; người thuê mua
chuyển quyền sử dụng thiết bị cho người đi thuê.
+ Bán rồi thuê lại: ở hình thức này, người đi thuê lúc đầu chính là chủ sở hữu
tài sản thuê mua, họ bán tài sản này cho tổ chức thuê mua để rồi sau đó thuê mua lại
chính tài sản đó, cuối thời hạn hợp đồng, họ lại là chủ sở hữu tài sản. Phương thức này
thường áp dụng đối với bất động sản, hình thức này mang đến cho người đi thuê
những lợi ích nhất định như: Bù đắp những thiếu hụt về vốn; tái tài trợ các tài sản trên

cơ sở trung hạn mà trước đó đã mua bằng cách vay nợ trên thị trường, có thể giảm chi


×