Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

LUẬN văn nâng cao đời sống kinh tế người có công ở tỉnh quảng nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (594.63 KB, 74 trang )

LUẬN VĂN:

Nâng cao đời sống kinh tế người có
công ở tỉnh Quảng Nam


Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Hoạt động sống của con người gắn liền với quá trình không ngừng nâng cao chất
lượng cuộc sống. Trong đó, đời sống kinh tế là vấn đề cốt lõi, là điều kiện tất yếu khách
quan đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của mỗi cá nhân và toàn xã hội, không phân biệt
quốc gia, dân tộc, giai cấp. Xét đến cùng, mọi cuộc đấu tranh giai cấp nhằm giải quyết vấn
đề kinh tế, là không ngừng thoả mãn nhu cầu ngày càng cao của con người, của xã hội loài
người, hay nói một cách khác là không ngừng nâng cao đời sống kinh tế.
Trong quá trình phát triển lịch sử xã hội loài người đã trải qua nhiều hình thái kinh tế
xã hội, hình thái kinh tế xã hội sau bao giờ cũng tiến bộ và phát triển hơn hình thái kinh tế
xã hội trước. Trong đó, nền kinh tế xã hội của hình thái xã hội sau bao giờ cũng phát triển
hơn xã hội trước.
Dưới góc độ kinh tế - chính trị, mục tiêu phát triển kinh tế là những điều kiện, động
lực mạnh mẽ thúc đẩy và đảm bảo để nâng cao đời sống của con người, xã hội. Ngược lại,
nền kinh tế kém phát triển sẽ kìm hãm sự phát triển của quốc gia, dân tộc. Vì vậy, việc
nghiên cứu xây dựng các chính sách đảm bảo phát triển kinh tế bền vững để tạo tiền đề nâng
cao đời sống kinh tế cho cộng đồng xã hội và có như thế mới thực hiện được mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Tuy nhiên, phát triển kinh tế,
nâng cao đời sống kinh tế phải xuất phát từ thực tế khách quan, phù hợp với quy luật kinh tế
khách quan, gắn với thực hiện công bằng xã hội... mới mong đạt được những hiệu quả tốt
nhất.
Người có công là bộ phận hết sức đặc thù của xã hội Việt Nam. Bởi vì không đâu như
ở Việt Nam, cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do cho đất nước diễn ra
trong một thời gian rất dài và vô cùng ác liệt đã để lại hậu quả vô cùng nặng nề về sức


người và sức của. Trong đó, người có công là lực lượng chủ yếu chịu nhiều hy sinh mất mát.
Đó là những người như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy: "Khi nạn ngoại xâm ào ạt đến,


nó như trận lụt to. Nó đe doạ cuốn trôi cả tính mệnh, tài sản, chìm đắm cả bố mẹ, vợ con
nhân dân ta. Trước cơ nguy biến ấy, số đông thanh niên yêu quý của nước ta đã dũng cảm
xông ra trận. Họ quyết tâm đem xương máu của họ đắp thành một bức tường đồng, một con đê
vững để ngăn nạn ngoại xâm tràn ngập Tổ quốc làm hại đồng bào. Họ quyết hy sinh tính
mệnh để giữ tính mệnh đồng bào.
Họ quyết hy sinh gia đình, tài sản của họ để bảo vệ gia đình và tài sản đồng bào. Họ
quyết liều chết chống địch để cho Tổ quốc và đồng bào sống. Họ là những chiến sỹ anh
dũng của chúng ta. Trong đó có người đã bỏ lại một phần thân thể ở mặt trận, có người đã
bỏ mình ở chiến trường. Đó là thương binh liệt sỹ". Nhận rõ sự hy sinh to lớn đó người từng
dạy: "Những người con trung hiếu ấy Chính phủ và đồng bào phải báo đáp thế nào cho
xứng đáng", "Tổ quốc và đồng bào phải biết ơn, giúp đỡ cho những người con anh dũng ấy,
mọi người phải luôn học tập tinh thần dũng cảm của các liệt sỹ để vượt qua tất cả khó khăn,
gian khổ hoàn thành sự nghiệp cách mạng mà các liệt sỹ đã để lại" [ 1, tr.16-17].
Người có công đa phần những người yếu thế, khó khăn về kinh tế, là những người cần
được Nhà nước xã hội chăm lo một cách đặc biệt. Vì vậy, chăm lo đời sống vật chất, tinh
thần đối với người có công không chỉ là sự đền ơn đáp nghĩa và không chỉ là trách nhiệm
của Đảng, nhà nước, mà còn là trách nhiệm của cộng đồng và của toàn xã hội.
Thực hiện đạo lý truyền thống của dân tộc ”Uống nước nhớ nguồn” “Đền ơn đáp
nghĩa” những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách, chế độ và tổ
chức vận động toàn dân, toàn quân chăm sóc đời sống vật chất, tinh thần đối với thương
binh, gia đình liệt sỹ và người có công, giải quyết có hiệu quả những tồn đọng về chính sách
sau chiến tranh, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội của đất nước, tăng thêm lòng
tin đối với Đảng, nhà nước. Đặc biệt, trong lĩnh vực đời sống kinh tế của người có công
ngày càng được quan tâm và có cải thiện đáng kể, hệ thống chính sách với các chế độ trợ
cấp, đãi ngộ từng bước được điều chỉnh, việc tổ chức sản xuất - việc làm được quan tâm
thích đáng, việc cải thiện nhà ở được đầu tư triển khai ở nhiều cấp, các chương trình chăm

sóc người có công được xã hội và cộng đồng quan tâm và đã có những kết quả to lớn góp
phần cải thiện cuộc sống đối với người có công... Đến nay, đa số gia đình chính sách có
cuộc sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của cộng đồng dân cư nơi cư trú.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được đời sống của một bộ phận không nhỏ
thương bệnh binh, thân nhân liệt sỹ còn nhiều khó khăn, nhất là đối tượng ở nông thôn,
vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng trước đây. Tình hình đó đòi hỏi Đảng và Nhà


nước và nhân dân ta phải tiếp tục làm tốt hơn công tác chăm sóc, tiếp tục nâng cao mức
sống, đảm bảo đời sống của họ ngày một tốt hơn.
Xuất phát từ thực trạng đời sống kinh tế người có công thời gian qua ở Quảng Nam, để
tổ chức khảo sát một cách cơ bản, đề ra các giải pháp hiệu quả, góp phần nâng cao đời sống
của người có công trên phạm vi của tỉnh Quảng Nam nói riêng và cả nước nói chung. Do đó
tôi chọn đề tài: Nâng cao đời sống kinh tế người có công ở tỉnh Quảng Nam, làm luận văn
tốt nghiệp .
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thực hiện chính sách ưu đãi đối với người có công trong nhiều thập niên qua, Đảng và
Nhà nước luôn quan tâm có nhiều chủ trương chính sách và tăng cường công tác quản lý chỉ
đạo tổ chức thực hiện nhằm từng bước nâng cao đời sống người có công. Các ngành các
cấp, luôn xem đây là nhiệm vụ chính trị quan trọng thường xuyên trong việc xây dựng triển
khai các chiến lược trung hạn, dài hạn và các giải pháp có tính lâu dài cũng như trước mắt.
Trên cấp độ quốc gia, sau hàng loạt các Nghị định đã ban hành, năm 1995 Nhà nước
đã ban hành Pháp lệnh ưu dãi đối với Thương bệnh binh, gia đình liệt sỹ, người có công.
Đây là lần đầu tiên có một Pháp lệnh được xây dựng có cơ sở khoa học, có hệ thống về đối
tượng và tiêu chuẩn, về chế độ chính sách, định tính và định lượng hợp lý... đã thể hiện sự
quan tâm của Đảng, nhà nước đối với người có công, qua đó đảm bảo được một bước lợi
ích, công bằng xã hội và góp phần nâng cao đời sống kinh tế của họ, góp phần ổn định
chính trị xã hội trong thời gian qua. Tuy nhiên, dưới sự tác động của nền kinh tế thị trường
trong quá trình đổi mới, nhiều chính sách, chế độ không còn phù hợp, nhà nước đã nghiên
cứu, ban hành nhiều Nghị định kịp thời điều chỉnh chế độ chính sách đối với người có công,

để phù hợp với giai đoạn phát` triển mới, ngày 29/6/2005 Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh
số 26/2005/PL-UBTVQH11, đây là một văn bản được xây dựng trên cơ sở khoa học nghiên
cứu một cách hệ thống, phù hợp với tình hình hiện nay, định hướng cho việc thực hiện
chính sách ưu đãi, góp phần cải thiện nâng cao đời sống kinh tế đối với người có công ở giai
đoạn hiện nay và trong những năm tới.
Riêng đối với tỉnh Quảng Nam, việc nghiên cứu, ban hành các cơ chế chính sách mặc
dù đã có nhiều người đề cập nhưng còn phân tán, thiếu tính hệ thống và không cơ bản. Các
công trình nghiên cứu tổng kết việc thực hiện các chương trình hỗ trợ, góp phần nâng cao
đời sống kinh tế đối với người có công như việc tổng kết thực hiện 5 năm, 10 năm thực hiện
Pháp lệnh ưu đãi người có công năm 1995, Đề án hỗ trợ cải thiện nhà ở đối với người có


công giai đoạn 1995-2000 và 2001-2005; Tổng kết thực hiện chương trình giải quyết việc
làm theo Nghị quyết 120/HĐBT, ngày 11/4/1992 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính
phủ)... đã bước đầu đã xác định rõ việc thực hiện chính sách đối với người có công, đã góp
phần cải thiện đáng kể đời sống vật chất và tinh thần đối với người có công và góp phần vào
sự tăng trưởng phát triển kinh tế, ổn định trật tự xã hội trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. Đồng
thời qua các công trình trên cũng đã khái quát được tình hình thực hiện chính sách, đảm bảo
công bằng xã hội, trách nhiệm của nhà nước, xã hội đối với người có công của nhà nước nói
chung và của tỉnh Quảng Nam nói riêng trong thời gian qua. Song những công trình đó mới
chỉ nêu những vấn đề có tính hiện tượng, bề ngoài, kết quả tổ chức thực hiện, hạn chế ở việc
giới thiệu một số kết quả nhất định chưa phân tích những căn nguyên, những nhân tố có tính
cốt lõi tác động đến việc thực hiện chính sách, đảm bảo nâng cao đời sống nói chung và đời
sống kinh tế của người có công trong thời gian qua và vì vậy việc đề ra giải pháp chưa mang
tính cơ bản khái quát, phù hợp với yêu cầu của thực tiễn hiện nay trên địa bàn tỉnh.
Bên cạnh đó, về giới khoa học, tuy trong thời gian qua đã có một số đề án nghiên cứu
ở cấp quốc gia nhằm phục vụ cho việc xây dựng các chính sách đối với người có công ở tầm
vĩ mô, nhưng ở trên địa bàn tỉnh Quảng Nam ngoài việc tổ chức một số cuộc toạ đàm mang
tính lĩnh vực (toạ đàm về hỗ trợ cải thiện nhà ở đối với người có công), các cuộc khảo sát
nhỏ (nhóm đối tượng như: Khảo sát thực trạng chăm sóc Thương bệnh binh nặng; thực

trạng chăm sóc, phụng dưỡng Bà mẹ Việt Nam anh hùng)... việc nghiên cứu khoa học về
những vấn đề liên quan đến lợi ích kinh tế của người có công còn rất nhiều hạn chế, chưa có
công trình nào trùng tên với đề tài nghiên cứu. Vì vậy, việc cần có một công trình nghiên
cứu một cách độc lập và sâu sắc dưới góc độ kinh tế chính trị để tìm ra những vấn đề mang
tính quy luật, khách quan trong sự vận động của đời sống kinh tế của người có công trên địa
bàn tỉnh đến nay vẫn còn bỏ ngõ. Và đó cũng là những nguyên nhân chưa tạo ra được các
giải pháp mang tính cơ bản lâu dài để giúp cho người có công đảm bảo cuộc sống cá nhân,
gia đình họ và qua đó đóng góp cho sự phát triển chung của xã hội thúc đẩy sự nghiệp đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá của tỉnh Quảng Nam trong thời gian tới.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
Xuất phát từ tính chất vấn đề cần nghiên cứu và khả năng của bản thân, luận văn đặt ra
các mục đích và nhiệm vụ sau đây:
3.1. Mục đích của luận văn


- Hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm
của Đảng ta cũng như các nhà khoa học khác về vấn đề công bằng xã hội, nâng cao đời sống
kinh tế đối với người có công .
- Khái quát bức tranh về thực trạng người có công, tình hình thực hiện các chính sách,
đảm bảo lợi ích, công bằng xã hội, nâng cao đời sống kinh tế của người có công, trên cơ sở
đó đưa ra các giải pháp mang tính khả thi cho việc tìm kiếm các cách thức nhằm góp phần
nâng cao đời sống nói chung và đời sống kinh tế cho đối tượng người có công trên địa bàn
tỉnh Quảng Nam trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Khảo sát, kế thừa và nghiên cứu các công trình, các tài liệu có liên quan đến hướng
nghiên cứu của luận văn.
- Làm rõ lý luận chung về công bằng xã hội và nâng cao đời sống kinh tế đối với
người có công.
- Phân tích thực trạng đối tượng người có công và đời sống của người có công trên địa
bàn tỉnh Quảng Nam từ 1997 đến nay.

- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu để góp phần nâng cao đời sống kinh tế đối với
người có công trên địa bàn tỉnh, góp phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội tỉnh
Quảng Nam trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Luận văn nghiên cứu về thực tiễn đời sống người có công ở địa bàn tỉnh Quảng Nam.
- Luận văn nghiên cứu các vấn đề về liên quan đến đời sống nói chung và đời sống
kinh tế người có công và các vấn đề có liên quan chủ yếu là trong những năm 2001-2005. Các
vấn đề có liên quan khi nghiên cứu nhằm phục vụ cho việc kiến giải các lập luận, các giải pháp,
các nhận định được luận văn rút ra.
5. Phương pháp nghiên cứu luận văn
Để đạt được mục tiêu và nhiệm vụ luận văn đặt ra, ngoài phương pháp luận khoa học
Mác - Lênin, luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể như: khảo sát, điều
tra nghiên cứu thực tế, tổng hợp, phân tích và một số phương pháp khác có liên quan.
6. ý nghiã của luận văn
Có thể cung cấp cho các cấp chính quyền, các nhà khoa học quan tâm đến vấn đề công
bằng xã hội và đời sống kinh tế của người có công địa bàn tỉnh Quảng Nam những luận cứ


khoa học. Vấn đề mang tính lý luận về chính sách đối với người có công trên phạm vi cả
nước nói chung và trên địa bàn tỉnh Quảng Nam nói riêng.
Kết quả của luận văn có thể giúp cho các cấp chính quyền trong địa bàn tỉnh tham
khảo, nghiên cứu ứng dụng trong việc hoạch định các chính sách kinh tế đối với người có
công trên địa bàn địa phương đơn vị mình.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu nội dung luận
văn gồm 3 chương 6 tiết.


Chương 1
Nâng cao đời sống kinh tế

đối với người có công - một trong những nhiệm vụ
để thực hiện công bằng xã hội

1.1. công bằng xã hội là một Tất yếu của kinh tế thị trường hiện đại
1.1.1. Khái niệm công bằng xã hội
Công bằng xã hội là một phạm trù lịch sử. Trong mỗi giai đoạn phát triển của nhân
loại, con người có quan niệm và đánh giá khác nhau về công bằng xã hội phù hợp với địa vị,
lợi ích của từng giai cấp, tầng lớp khác nhau trong xã hội đó. Chính vì vậy khi đề cập đến
công bằng xã hội Ph.ăng-ghen viết: “Công bằng của của những người Hy Lạp và La Mã là
sự công bằng của chế độ nô lệ. Công bằng của giai cấp tư sản năm 1789 là những đòi hỏi
phải xoá bỏ chế độ phong kiến mà nó coi là bất công” [12, tr.273].
Từ điển Bách khoa Việt Nam viết về công bằng xã hội: Công bằng xã hội là phương
thức đúng đắn nhất để thỏa mãn một cách hợp lý những nhu cầu của các tầng lớp xã hội, các
nhóm xã hội, các cá nhân, xuất phát từ những khả năng hiện thực của những điều kiện kinh
tế xã hội nhất định. Về nguyên tắc, chưa thể có sự công bằng nào được coi là tuyệt đối trong
chừng mực mà mâu thuẩn giữa nhu cầu của con người và khả năng hiện thực của xã hội còn
chưa được giải quyết. Bởi vậy, mỗi thời đại lại có những đòi hỏi riêng về công bằng xã hội.
Tư tưởng về công bằng xã hội được đặt ra rất sớm trong lịch sử nhân loại. Khi tư duy
đạt đến trình độ nhất định, con người đã biết đặt mình trong mối quan hệ với tự nhiên, với
người khác và với xã hội. Có so sánh mới thấy sự hơn thua, cao thấp, được mất giữa người
này với người khác, giữa cá nhân với xã hội. Có thể nói so sánh là khởi điểm của tư tưởng
công bằng. Xã hội càng phát triển thì tư tưởng về công bằng càng phát triển.
ở xã hội cộng sản nguyên thuỷ, con người sinh hoạt và lao động mang tính cộng đồng
nhằm thoả mãn nhu cầu của mình. Xã hội này tồn tại trên nguyên tắc cùng làm cùng hưởng.
Do sản xuất hết sức thấp kém làm cho sản phẩm lao động quá ít ỏi chỉ đảm bảo cho sự tồn
tại của cộng đồng ở mức tối thiểu, do vậy sản phẩm đó phải được chia đều cho mọi thành
viên trong cộng đồng. Như vậy ở thời kỳ này công bằng xã hội là phương thức để đảm bảo
cho sự tồn tại của cộng đồng nguyên thuỷ- phương thức tối ưu và duy nhất. Sự công bằng ở
thời kỳ này đồng nhất với chủ nghĩa bình quân. ở cuối thời kỳ cộng sản nguyên thuỷ, do lực
lượng sản xuất phát triển của cải làm ra không những đủ nuôi sống cộng đồng mà còn có



tích luỹ. Chính phần của cải dư thừa nầy đủ kích thích cho sự nẩy sinh xung đột về lợi ích
của những người trong cộng đồng. Tư hữu, giai cấp và nhà nước ra đời làm cho công bằng
xã hội bị vi phạm ở mức độ “văn minh hơn”. Cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra ngày càng gay
gắt và công bằng xã hội trở thành một trong những nội dung chính trị của cuộc đấu tranh đó.
Trong các thời đại khác nhau, con người đều quan tâm đến vấn đề công bằng xã hội và
đã có nhiều nhận thức đánh giá giải quyết khác nhau:
Pla-tôn (427-437, trước Công nguyên) là một trong những nhà triết học kiệt xuất thời
cổ đại. Trong học thuyết triết học của mình, Pla- tôn cho rằng: xã hội được chia làm ba hạng
người tương ứng với ba phần của linh hồn con người. Nhà nước xuất hiện từ sự đa dạng của
nhu cầu con người và từ đó xuất hiện các dạng phân công lao động để thoả mãn nhu cầu ấy.
Vì vậy trong xã hội cần phải duy trì các hạng người khác nhau, và do đó không thể có sự
hoàn toàn bình đẳng giữa mọi người được. Công lý là ở chỗ mỗi hạng người làm hết trách
nhiệm của mình, biết sống đúng với tầng lớp của mình, nói một cách khác là phải biết phận
mình.
A-rixtốt (384-322 trước công nguyên) bộ óc bách khoa toàn thư của triết học Hy Lạp
cổ đại. Ông cho rằng, việc phân chia giai cấp và địa vị giai cấp là một trật tự tự nhiên. Công
bằng là sự đối xử ngang nhau, bình đẳng chỉ với những người trong cùng một giai cấp. Còn
những người ở các giai cấp khác nhau thì không thể có chung một sự công bằng. Đó chính
là lẽ đương nhiên, là sự công bằng của tự nhiên.
T. Hốp-xơ (1588-1679) là nhà triết học đại biểu cho chủ nghĩa duy vật Anh thế kỷ
XVII. Vấn đề trung tâm trong học thuyết của ông là lạm bàn về xã hội và nhà nước, Hốp-xơ
cho rằng: con người là giống nhau, nghĩa là theo tạo hóa, con người phải bình đẳng, phải
được hưởng sự công bằng. Nhưng do lòng tham lam ích kỷ và dục vọng của bản thân nên
không thể có sự bình đẳng và công bằng với nhau được. Từ sự phân tích đó ông chỉ ra: để đi
đến sự hoà hợp, công bằng giữa con người với con người thì phải có một lực lượng đứng lên
trên dàn xếp các lợi ích cá nhân, đó là Nhà nước. Như vậy Hốp-xơ đã có tư tưởng duy vật
về các hiện tượng xã hội. Tuy nhiên ông không thấy được nhà nước cũng mang bản chất
giai cấp cuả nó, trong xã hội có đối kháng giai cấp, nhà nước không thể nào thiết lập được

sự công bằng chung cho toàn xã hội.
Xpi-nô-za (1632-1677), nhà triết học duy vật lỗi lạc Hà Lan, là người kế tục Hốp - xơ
trong học thuyết về xã hội. Ông đưa ra quan điểm hạn chế quyền lực vô hạn của nhà nước
bằng những đòi hỏi về tự do. Xpi-nô-za đã đề ra tư tưởng giải phóng con người và chìa khoá


để giải phóng chính là nhận thức. Nhận thức và không ngừng nâng cao nhận thức là biện
pháp để con người tránh khỏi mọi tệ nạn xã hội, giải phóng mọi áp bức bất công. Theo ông,
những tệ nạn xã hội, áp bức và bất công có nguyên nhân từ sự dốt nát, không nhận thức
được hiện thực, không chế ngự được lòng tham của mình. Tuy nhiên, ở đây ông đã bộc lộ
quan điểm không triệt để về xã hội.
J.J. Rút-xô (1712-1778) nhà triết học khai sáng vĩ đại người Pháp, đã phê phán các
quan hệ đẳng cấp và chế độ chuyên chế. Theo ông, xã hội công dân đã tạo ra một xiềng xích
mới để trói buột kẻ yếu, trao vũ khí và sinh lực cho kẻ mạnh, tiêu diệt không thương tiếc
bình đẳng cá nhân, duy trì quan hệ bất bình đẳng. Muốn xoá bỏ bất công cần phải có một
nhà nước kiểu mới trong đó nhân dân phải có vai trò thật sự trong chính quyền. Rút-xô đã
phê phán sâu sắc tính hai mặt của sở hữu tư nhân và chính sở hữu tư nhân làm cho xã hội
phân hoá thành kẻ giàu người nghèo. Các cơ sở pháp lý về sở hữu là xiềng xích trói buộc
người nghèo và là đôi cánh cho những người giàu có. Như vậy, mặt trái của sở hữu đã làm
cho xã hội bất công hơn. Để xoá bỏ được tình trạng đó, con người cần phải lập “khế ước xã
hội” để cải biến chính mình, loại bỏ tính xấu xa đặc biệt là lòng tham và tính ích kỷ thì sẽ
đạt được công bằng và bình đẳng. Những giải pháp của ông mang ý tưởng nhân đạo nhất
định, tuy nhiên vẫn chưa thoát khỏi hạn chế của lịch sử.
Can- tơ (1724-104), người thiết lập nền triết học cổ điển Đức, ông có những đóng góp
hết sức to lớn vào tư tưởng công bằng xã hội. Theo ông, công bằng xã hội bao gồm công
bằng về bảo hộ, công bằng trong trao đổi và trong phân phối. Trong đó công bằng trong
phân phối là quan trọng nhất. Theo ông, trạng thái không pháp luật là một xã hội không công
bằng về phân phối, thông thường gọi nó là trạng thái tự nhiên. Đối lập với trạng thái tự nhiên là
trạng thái văn minh, bởi vì xã hội này xây dựng trên sự công bằng về phân phối. Tư tưởng của
Can-tơ về công bằng sau này được nhiều người chấp nhận và vận dụng.

Các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng như Xanh- xi-mông người (Pháp), Pu-riê
(người Pháp) và Owen (người Anh) đã phê phán xã hội đương thời được xây dựng trên nền
tảng tư hữu- nguyên nhân của mọi bất công xã hội. Đồng thời, đề ra việc xây dựng một xã
hội mới mà trong đó nguyên tắc tối cao là mọi người đều phải lao động, mọi người đều
được hưởng thụ như nhau, xoá bỏ hết mọi đặc quyền, đặc lợi, xây dựng một xã hội công
bằng. Xã hội công bằng là điều kiện để đem đến sự công bằng cho tất cả các thành viên.
Tuy nhiên, mô hình xã hội mà các ông xây dựng ngay từ đầu đã biến thành những điều
không tưởng (cả lý luận và thực tiễn).


Như vậy, vấn đề công bằng xã hội được đề cập trong suốt quá trình lịch sử của
nhân loại, nó phản ánh sự đấu tranh của các giai cấp về quyền sỡ hữu về tư liệu sản xuất,
tổ chức và quản lý sản xuất, xã hội, phân phối và sử dụng sản phẩm lao động. Các nhà tư
tưởng trong lịch sử nhân loại đã trình bày những quan niệm khác nhau về công bằng xã
hội mặc dù chưa đầy đủ và chưa hệ thống. Song những quan niệm đó là tiền đề lý luận
quan trọng làm cơ sở cho việc nghiên cứu vấn đề công bằng xã hội cho các nhà tư tưởng sau
này.
* Quan niệm của chủ nghĩa Mác- Lê-nin về công bằng xã hội trong chủ nghĩa xã
hội.
Bằng việc kế thừa có chọn lọc những tư tưởng của các nhà triết học trước đó, trên nền
tảng thế giới quan duy vật biện chứng, Các Mác, Ph.Ăng- ghen và V.I.Lênin đã giải quyết
một cách triệt để các vấn đề về tự nhiên, xã hội và tư duy. Trong học thuyết của mình các
ông đã bàn nhiều về công bằng xã hội.
Khi phân tích chủ nghĩa tư bản, Các Mác đã chỉ ra rằng: sự tăng trưởng kinh tế trong
chủ nghĩa tư bản đồng nghĩa với quá trình tăng cường bóc lột giai cấp công nhân, do vậy sự
tăng trưởng đó, về bản chất không dẫn đến công bằng xã hội được. Phương thức phân phối
trong chủ nghĩa tư bản là bất hợp lý, bởi nó không dựa vào sức lao động, mà căn cứ vào tài
sản, vào lượng vốn. Và kết quả của những phương thức này là: nhà tư bản ngày càng giàu
lên trên sự đau khổ và nghèo đói của những người lao động, người công nhân. Từ sự phân
phối không công bằng đó đã làm cho những mâu thuẫn xã hội nẩy sinh và ngày càng trở nên

gay gắt. Các Mác đã chỉ ra rằng phương thức phân phối tư bản chủ nghĩa đó sẽ mất đi khi
mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất mang tính chất xã hội hoá ngày càng cao với quan hệ sản
xuất dựa trên chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất trong phương thức
tư bản chủ nghĩa trở nên gay gắt đến mức bùng nổ cách mạng xã hội xã hội chủ nghĩa, để
mở ra một thời đại mới. Trong thời đại mới đó tư liệu sản xuất sẽ được công hữu hoá và
phương thức phân phối sản phẩm sẽ hợp lý hơn, công bằng xã hội sẽ được đảm bảo. Trong
tác phẩm “Phê phán cương lĩnh Gô-ta” Các Mác đã chỉ ra những đặc trưng cơ bản của chủ
nghĩa xã hội “Cái xã hội mà chúng ta nói ở đây không phải là một xã hội cộng sản chủ nghĩa
đã phát triển trên những cơ sở của chính nó, mà trái lại là một xã hội cộng sản chủ nghĩa
vừa thoát thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa, do đó một xã hội về mọi phương diện: kinh tế, đạo
đức, tinh thần, còn mang dấu vết của xã hội cũ mà nó đã lọt lòng ra”[13,tr.33]. Do đó, theo
Các Mác, dưới chế độ xã hội chủ nghĩa người lao động làm việc theo năng lực của bản thân


và được nhận lại phần vừa đúng cái mà anh ta đã đóng góp cho xã hội sau khi đã trừ đi số
lao động cần thiết để duy trì phát triển sản xuất và quỹ phúc lợi xã hội. Đây là một nguyên
tắc mang tính công bằng trong chủ nghĩa xã hội. Bởi vì, theo nguyên tắc này tất cả những
người sản xuất đều có quyền ngang nhau trong việc tham gia vào quỹ tiêu dùng của xã hội
khi làm một công việc ngang nhau. Nguyên tắc phân phối trên đây được coi là công bằng.
Tuy nhiên Các Mác cũng chỉ rõ rằng trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội, sự phân phối
công bằng đó chẳng những chưa loại trừ được, mà vẫn còn hàm chứa trong nó sự chấp nhận
một tình trạng bất bình đẳng nhất định giữa các thành viên trong xã hội và với một công
việc ngang nhau và do đó, với một phần tham dự như nhau vào quỹ tiêu dùng của xã hội thì
trên thực tế người này vẫn lĩnh hơn người kia, người nầy vẫn giàu hơn người kia” [12,
tr.35], do vậy, “Muốn tránh tất cả những thiếu sót ấy thì quyền phải không bình đẳng, chứ
không phải là bình đẳng” [13, tr.35]. Đây vừa là ưu việt, vừa là thiếu sót của phân phối theo
lao động, một thiếu sót không thể tránh khỏi trong giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ
nghĩa. V.I. Lênin trong một số tác phẩm của mình cũng đã đề cập đến vấn đề công bằng xã
hội trong chủ nghiã xã hội, ông cho rằng “Như thế là trong giai đoạn đầu của xã hội cộng
sản chủ nghĩa (mà người ta vẫn thường gọi là chủ nghĩa xã hội), “pháp quyền tư sản” chưa

bị xoá bỏ hoàn toàn, mà chỉ bị xoá bỏ một phần, chỉ bị xoá bỏ với mức độ phù hợp với cuộc
cách mạng kinh tế đã được hoàn thành, nghĩa là chỉ trong phạm vi tư liệu sản xuất thôi.
“Pháp quyền tư sản” thừa nhận tư liệu sản xuất là sở hữu riêng của cá nhân. Chủ nghĩa xã
hội biến tư liệu sản xuất thành tài sản chung” [11, tr.116]. Đặc biệt V.I. Lênin chú ý đến
công bằng trong phân phối lao động “Người nào không làm thì không có ăn”: nguyên tắc xã
hội chủ nghĩa ấy được thực hiện: “Số lượng lao động ngang nhau, thì hưởng số lượng sản
phẩm ngang nhau”, nguyên tắc xã hội chủ nghĩa naỳ cũng đã được thực hiện” [11, tr.116].
Như vậy, theo Các Mác, Ph.Ăng ghen và V.I.Lênin thì trong chủ nghĩa xã hội, công
bằng xã hội trong lĩnh vực kinh tế đóng vai trò là cơ sở và quyết định các lĩnh vực khác như
văn hoá, xã hội... cụ thể là về phương diện quan hệ giữa cống hiến (thực hiện nghiã vụ) và
hưởng thụ (được hưởng quyền lợi). Trong chủ nghĩa xã hội công bằng cơ bản là làm nhiều
hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, sản phẩm được phân phối theo nguyên tắc “làm theo năng lực
hưởng theo lao động”. Công bằng xã hội mà các nhà kinh điển chỉ ra ở đây là công bằng xã
hội mang tính tương đối, còn nhiều hạn chế, nó chỉ tồn tại ở một giai đoạn thấp của xã hội
cộng sản chủ nghĩa. Bởi vì, xã hội mới này chỉ là giai đoạn quá độ từ chủ nghĩa tư bản- một
xã hội bất công bằng, bất bình đẳng sang xã hội cộng sản chủ nghĩa- một xã hội có một sự


công bằng tuyệt đối. Do vậy, công bằng xã hội trong chủ nghĩa xã hội còn nhiều khiếm
khuyết. “Nhưng đó là những thiếu sót không thể tránh khỏi trong giai đoạn đầu của xã hội
cộng sản chủ nghĩa, lúc nó vừa lọt lòng từ xã hội tư bản chủ nghĩa ra, sau những cơn đau đẻ
kéo dài. Quyền không bao giờ có thể cao hơn chế độ kinh tế và sự phát triển của xã hội do
chế độ kinh tế đó quyết định” [13, tr.35-36]. Quan niệm về công bằng trong chủ nghĩa xã
hội sẽ bị thay đổi cùng với sự tự mất đi của chủ nghĩa xã hội để ra đời một xã hội cao hơnxã hội cộng sản chủ nghĩa. Sự mất đi sớm hay muộn tuỳ thuộc vào sự phát triển của sản
xuất, sự phát triển của xã hội. Do vậy công bằng xã hội là một khái niệm mang tính lịch sử,
nó có thể biến đổi, ra đời và mất đi. Theo các ông, để xã hội đạt được công bằng thực sự,
một cách tuyệt đối chỉ khi con người không còn lệ thuộc vào phân công lao động nữa, lúc
đó khoảng cách giữa lao động trí óc và lao động chân tay được rút ngắn tối đa, lao động
không còn là phương tiện để sinh sống nữa mà là một nhu cầu hoạt động và phát triển. Khi
đó cá nhân được phát triển một cách toàn diện, sản xuất xã hội sẽ có sự tiến bộ vượt bậc

chưa từng có trong lịch sử, của cải trở nên dư thừa “chỉ khi đó người ta mới có thể vượt hẳn
khỏi giới hạn chật hẹp của pháp quyền tư sản và xã hội mới có thể ghi trên lá cờ của mình:
“Làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu” [13, tr.36]. Như vậy, theo chủ nghĩa Mác: Trong
giai đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản, mặc dù chế độ công hữu về tư liệu sản xuất đã được
thiết lập, song phương thức phân phối tương ứng đó vẫn chưa đạt tới sự công bằng thật sự.
Đó mới chỉ là một bước tiến bộ nhất định bước đầu về công bằng xã hội. Điều quan trọng là
cùng với chế độ công hữu thì sản xuất càng phát triển, mọi cá nhân phải có cơ hội phát huy
mọi tiềm năng để vươn tới sự ngang nhau về năng lực, điều kiện, cơ hội, khi đó mới có thể
đạt được sự công bằng tuyệt đối.
* Một số quan niệm về công bằng xã hội ở nước ta
Trong thời kỳ trước đổi mới.
Giai đoạn trước 1975, ở miền Bắc nhiệm vụ giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước
được đặt lên trên hết, với khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến; tất cả vì miền Nam ruột thịt”.
Thời gian này nền kinh tế mang nặng “tính chất thời chiến” cùng với sự viện trợ lớn từ các
nước bên ngoài nhằm tập trung phục vụ cho sự nghiệp thống nhất nước nhà. Vì vậy, vấn đề
phát triển kinh tế trở thành thứ yếu sau nhiệm vụ cấp bách là đánh đuổi giặc ngoại xâm,
thống nhất đất nước. Công bằng xã hội là thực hiện phân phối theo nguyên tắc “Cộng sản
thời chiến”. Các chính sách xã hội phải chú ý thoả đáng đến lợi ích của các đối tượng, gia
đình có chồng, con đi làm nhiệm vụ chiến đấu.


Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, non sông thu về một mối, cả nước bước vào
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Từ hàng loạt khó khăn và bề bộn sau chiến tranh, với
tinh thần “lạc quan” của người chiến thắng chúng ta bắt tay vào kiến thiết đất nước. Cùng
với việc “giữ vững” cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp chúng ta tiếp tục duy
trì chế độ công hữu về tư liệu sản xuất dưới hai hình thức sở hữu quốc doanh và hợp tác xã.
Trong giai đoạn này kinh tế tăng trưởng chậm, hàng hoá thiếu về số lượng, kém về chất
lượng và chính từ những bất cập đó mà dẫn đến quan niệm về phân phối không dựa theo
nguyên tắc mức độ đóng góp lao động mà vẫn duy trì phương thức phân phối bình quân
kiểu bao cấp. Quan niệm này đã được triển khai trong việc thực hiện chế độ tiền lương của

khu vực nhà nước, chế độ phân phối sản phẩm trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, chế độ
học phí, viện phí trong lĩnh vực giáo dục và y tế.
Công bằng của cơ chế hành chính, bao cấp trong giai đoạn nầy được hiểu và thực hiện
theo chủ nghĩa bình quân, nhưng đó là sự bình quân trong nghèo khó. Nhưng chính vì biết
“chia đều sự nghèo khó” nên số đông là người lao động vẫn chấp nhận được trong một thời
gian dài.
Đánh giá về thời kỳ thực hiện cơ chế tập trung quan liêu bao cấp G.S,T.S. Lê Hữu
Tầng viết: “Trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp mà chúng ta lầm tưởng là duy nhất
đúng, là cái duy nhất đảm bảo xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, khái niệm công bằng
đồng nhất hoàn toàn với khái niệm bình đẳng, còn khái niệm bình đẳng được hiểu là sự
ngang bằng nhau hoàn toàn giữa người và người về quan hệ kinh tế, chính trị, văn hoá, xã
hội... Kết quả là khái niệm về công bằng về thực chất bị đem đồng nhất với khái niệm cào
bằng một cách bình quân chủ nghĩa. Mọi sự đi lệch khỏi trục bình quân đó đều bị coi là biểu
hiện của sự không công bằng. Chính quan niệm sai lầm đã làm suy giảm, thậm chí triệt tiêu
mất động lực của sự phát triển kinh tế xã hội và việc thực hiện quan điểm đó trong cuộc
sống về thực chất là bóc lột người có công đối với sản xuất và phát triển xã hội” [26, tr.62].
ở thời kỳ nầy người ta đã nhầm lẫn giữa công bằng xã hội và bình đẳng xã hội. Công bằng
xã hội được quan niệm là sự ngang bằng về mọi phương diện kinh tế, chính trị, văn hoá, xã
hội... giữa mọi thành viên trong xã hội. Chính từ chỗ quan niệm sai lầm đó đã làm triệt tiêu
động lực phát triển kinh tế, xã hội làm cho người lao động thờ ơ với quyền làm chủ của
mình.
Và điều này chính Ph. Ăgghen cũng đã từng cảnh báo: “Nếu cho rằng luận điểm “bình
đẳng = công bằng” là một nguyên tắc tối cao và là một chân lý cuối cùng thì thật là ngu


xuẩn. Bình đẳng chỉ tồn tại trong khuôn khổ đối lập với bất bình đẳng, công bằng chỉ tồn tại
trong trong khuôn khổ đối lập với không công bằng” [14, tr.840].
Như vậy ở trước thời kỳ đổi mới, chúng ta đã có cách hiểu chưa đầy đủ về công bằng
và bình đẳng xã hội: đã đồng nhất công bằng với bình đẳng, đó là sự ngang nhau hoàn toàn
giữa mọi thành viên trong xã hội về mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Và thực chất công

bằng ở đây là cào bằng, chia đều theo chủ nghĩa bình quân; chủ nghĩa bình quân chính là
“kẻ tòng phạm” với bất công xã hội. Với quan niệm như vậy, bên cạnh những mặt tích cực
như tập trung được lực lượng cho các hoạt động mang tính cộng đồng, tập thể thì mặt trái
của nó cũng đã nẩy sinh đó là triệt tiêu động lực phát triển cho mọi khả năng, năng lực của
xã hội. Chính những yếu tố bất hợp lý của chủ nghĩa bình quân đã làm cho người lao động
thờ ơ với quyền làm chủ tư liệu sản xuất của mình, không quan tâm đến hiệu quả sản xuất.
Thời kỳ đổi mới.
Đánh dấu sự nghiệp đổi mới đất nước được bắt đầu từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI của Đảng (năm 1986), chúng ta đã mạnh dạn chuyển nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch
hoá tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản
lý của nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc tiếp nhận nền kinh tế thị trường là một
sự lựa chọn hoàn toàn đúng đắn của Đảng và nhân dân ta. Trong những năm qua kinh tế thị
trường đã mang lại sự tăng trưởng kinh tế cao; đời sống các tầng lớp nhân dân được cải
thiện rõ rệt. Tuy nhiên, bên cạnh đó, những vấn đề thuộc mặt trái của kinh tế thị trường
đang len lỏi và tác động mạnh mẽ tới mọi mặt của đời sống xã hội. Trong các vấn đề nổi lên
thì vấn đề công bằng xã hội gây chú ý nhất, nó trở thành tiêu điểm của mọi vấn đề được bàn
bạc, được đề cập sôi nổi trên các diễn đàn từ các góc độ khác nhau. ở góc độ kinh tế chính
trị, chúng tôi thống nhất với quan niệm cho rằng: công bằng xã hội và bình đẳng xã hội là
hai khái niệm khác nhau. Bình đẳng xã hội là nói tới sự ngang bằng nhau giữa người với
người trong xã hội về một, một số hay mọi phương diện nào đấy (về kinh tế, chính trị, văn
hoá, xã hội...) có nghĩa là chưa thể có được sự công bằng xã hội hoàn toàn khi nền kinh tế
còn ở mức thấp. Trong khi đó, nói tới công bằng xã hội là nói tới sự ngang bằng nhau giữa
người với người không phải về một phương diện nào đấy bất kỳ, mà chính là về một
phương diện hoàn toàn xác định: phương diện quan hệ giữa nghĩa vụ và quyền lợi hay giữa
cống hiến và hưởng thụ theo nguyên tắc: cống hiến (thực hiện nghĩa vụ) ngang nhau thì
hưởng thụ (được hưởng quyền lợi) ngang nhau. Công bằng xã hội chính là một dạng, một
biểu hiện cụ thể của bình đẳng xã hội và thực hiện công bằng xã hội chính là thực hiện của


một phần bình đẳng xã hội, là thực hiện bình đẳng về một phương diện nhất định - phương

diện giữa cống hiến và hưởng thụ - và là một bước tiến trên con đường lâu dài nhằm dần
dần đạt tới bình đẳng xã hội một cách hoàn toàn [25, tr.27, 31].
ở phương diện khác, công bằng được hiểu theo hai góc độ: công bằng theo chiều
ngang nghĩa là đối xử ngang nhau với những người có đóng góp như nhau. Công bằng theo
chiều dọc nghĩa là đối xử khác nhau đối với những người có những khác biệt bẩm sinh hoặc
có những điều kiện xã hội khác nhau. Nếu công bằng theo chiều ngang được thực hiện bởi
cơ chế thị trường thì công bằng theo chiều dọc cần có sự điều tiết của nhà nước. Việc phân
định như thế sẽ đảm bảo công bằng thực sự. Qua đây có thể thấy công bằng xã hội là một
khái niệm rộng, hoàn chỉnh gồm các yếu tố: kinh tế, chính trị, xã hội và văn hoá. Như vậy:
“Công bằng xã hội là một giá trị định hướng để con người thoả mãn những nhu cầu cơ bản
về đời sống vật chất và tinh thần trong mối quan hệ tương đối hợp lý giữa cá nhân và nhóm
xã hội, phù hợp với khả năng hiện thực của những điều kiện kinh tế- xã hội nhất định” [27,
tr.9].
Không bao giờ có thể đạt được công bằng tuyệt đối trong khi mâu thuẩn giữa nhu cầu
ngày càng cao của con người và khả năng đáp ứng nhất định của xã hội còn chưa thể giải
quyết được. Trong khi khẩu hiệu “làm theo năng lực, hưởng theo lao động” còn gặp không
ít mâu thuẫn và không phải dễ dàng khắc phục được ngay thì chắc chắn còn rất lâu chúng ta
mới thực hiện được khẩu hiệu “làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu”.
Công bằng xã hội phải được quan niệm một cách toàn diện bao gồm cả trong lĩnh vực
kinh tế, chính trị, xã hội, trong đó công bằng về kinh tế là gốc, là quyết định. Công bằng về
kinh tế không phải chỉ có công bằng trong hưởng thụ, mà trước hết và quan trọng phải là sự
công bằng trong sự tiếp cận với điều kiện làm kinh tế, điều kiện phát huy sức sáng tạo của các
cá nhân và cộng đồng.
Ngày nay công bằng xã hội cần phải phân biệt với những loại bất công khác nhau:
Loại bất công “tự nhiên”, là loại bất công do sự cấu tạo về thể chất sinh học của mỗi
người cũng như những khác biệt về trình độ phát triển do lịch sử để lại (ví dụ sự khác biệt
do sinh ra và sống ở đồng bằng hay miền núi; thành thị hay nông thôn). Đối với loại bất
công này hướng lâu dài là dựa trên sự phát triển ngày càng cao của xã hội mà thu hẹp dần
bất công, và trước mắt phải cố gắng đến mức tối đa để bù đắp những thiệt thòi do bất công
này gây ra, không thể để trở thành tình huống căng thẳng và xung đột xã hội có hại cho sự

phát triển chung của cộng đồng.


Loại bất công tạm thời, ở đây hiểu theo nghĩa tương đối, là phải chấp nhận sự bất công
nầy nếu muốn đưa đất nước thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ và văn minh”. Chúng ta biết rằng nói “dân giàu” nhưng không phải mọi người cùng một lúc
đều có thể giàu như nhau. Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII ghi rõ:
“Coi việc có một bộ phân dân cư giàu trước là cần thiêt cho sự phát triển” [7, tr.47]. Đó cũng là
quan điểm của Hồ Chí Minh: “Làm cho người nghèo thì đủ ăn. Người đủ ăn thì khá giàu.
Người khá giàu thì giàu thêm” [15, tr.65].
Trong một thời gian nhất định, chưa thể loại trừ tình trạng nghèo tuyệt đối và tương
đối. Sự phân hoá giàu nghèo không thể tránh khỏi, nhưng không để xảy ra tình trạng khoảng
cách giàu, nghèo ngày càng tăng “kẻ ăn không hết, người lần chẳng ra”, “nước chảy chỗ
trũng”, người nghèo vô phương kế mà không có sự giúp đỡ nào có hiệu quả từ phía cộng
đồng, xã hội và chính phủ.
Nói một cách khác, chúng ta chấp nhận sự làm giàu chính đáng, hợp pháp và có lợi
cho sự phát triển của đất nước. Đó là sự làm giàu dựa trên những năng lực và nguồn lực
chính đáng, sự làm giàu này không vấp phải một hạn chế nào. Tài kinh doanh, óc tổ chức
quản lý, sáng kiến đều có điều kiện phát huy đến mức cao nhất qua cạnh tranh lành mạnh.
Loại bất công phi lý và phi pháp, đó là tất cả những bất công đi ngược lại lợi ích của
sự phát triển của xã hội, làm cho đời sống xã hội biến dạng và đạo đức xã hội suy đồi.
Những bất công phi lý, phi pháp này phải bị xoá bỏ càng sớm bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu.
Việc xoá bỏ những bất công phi lý, phi pháp, điều tiết những bất công tự nhiên và
chấp nhận những bất công tạm thời tuy là việc làm quan trọng, nhưng dù sao vẫn là mặt thụ
động của việc thực hiện công bằng xã hội. Theo chúng tôi mặt quan trọng, tích cực, chủ
động hơn của nhiệm vụ quản lý sự phát triển xã hội là phải dần dần tạo ra các điều kiện
thuận lợi, điều kiện ngang nhau cho mọi thành viên đều có thể phát triển.
Trong cơ chế thị trường, sự phân hoá giàu nghèo là một hiện tượng phổ biến có tính
khách quan, nó mang tính hai mặt: tiêu cực gắn với bất bình đẳng xã hội và mặt tích cực gắn
với phân công lao động xã hội. Khi có sự phân tầng xã hội tính năng động của cá nhân được

phát huy là cơ sở tất yếu kéo theo tính năng động của xã hội, tạo động lực cho sự phát triển.
Chấp nhận sự phân hoá giàu nghèo đang diễn ra được hiểu theo nghĩa cống hiến ngang nhau
thì hưởng thụ ngang nhau, đó là cách hiểu mới về công bằng xã hội. Nếu sự phân hoá giàu
nghèo là do tài năng, trí tuệ và những điều kiện khách quan khác quy định thì việc thu nhập
không ngang nhau là công bằng. Song, có thể coi là bất công nếu có sự cách biệt giữa người


lao động chân chính đang sống nghèo khó với những kẻ làm giàu phi pháp bằng các hành vi
tham nhũng, buôn lậu, lừa đảo, trốn thuế... Sự bất công còn xảy ra ngay trong lực lượng lao
động, đó là sự chênh lệch quá lớn về thu nhập giữa những người trong những ngành nghề có
lợi thế nghề nghiệp, hoặc những ngành nghề ít nhiều có tính chất độc quyền với những
người lao động ở các ngành khác.
Như vậy, hiện nay ở chúng ta người lao động sẵn sàng chấp nhận tạm thời sự chưa
bình đẳng, nhưng không chấp nhận sự không công bằng; công bằng phải được xây dựng
trên cơ sở cống hiến và hưởng thụ ngang nhau. Mỗi cá nhân muốn cống hiến được cho xã
hội thì cá nhân tối thiểu phải có hai điều kiện: Thứ nhất, phải có môi trường thuận lợi nhằm
vừa tạo điều kiện cho cá nhân có khả năng cống hiến, vừa là thước đo để đánh giá khách
quan sự cống hiến của mỗi cá nhân, đó có thể gọi là “cơ hội xã hội”. Cơ hội xã hội là điều
kiện rất quan trọng mà không có nó thì cá nhân dù có nhiệt tình cống hiến đến mấy cùng với
tài năng thực sự đôi khi cũng trở thành bất lực. Thứ hai, muốn cống hiến thì phải có năng
lực nhất định; năng lực càng cao thì khả năng cống hiến càng lớn.
Trên cơ sơ những quan niệm về công bằng xã hội đã trình bày, có thể hiểu về công
bằng xã hội như sau: Công bằng xã hội là một giá trị định hướng để thoả mãn một cách hợp
lý những nhu cầu cơ bản về đời sống vật chất và tinh thần trong quan hệ phân phối sản
phẩm xã hội và khả năng tiếp cận các cơ hội phát triển giữa các cá nhân, nhóm xã hội dựa
trên sự tương xứng giữa cống hiến và hưởng thụ, xuất phát từ khả năng hiện thực của
những điều kiện kinh tế- xã hội nhất định.
1.1.2. Công bằng xã hội là vấn đề quan trọng của vấn đề phân phối trong nền
kinh tế thị trường hiện đại
Trong các tác phẩm của mình, khi nói đến công bằng xã hội, bao giờ Các Mác cũng đề

cập tới những lĩnh vực phân phối sản phẩm xã hội theo lao động. Đây là lĩnh vực đặc biệt có
ý nghĩa để xem xét vấn đề công bằng. Nhưng theo Các Mác, phân phối sản phẩm, đến lượt
nó, lại bị phụ thuộc vào quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất. Ai nắm quyền sở hữu những tư
liệu sản xuất chủ yếu của xã hội đồng thời là giai cấp thống trị xã hội. Quan niệm duy vật
lịch sử của Các Mác bắt nguồn từ luận điểm cho rằng sản xuất vật chất và phân phối sản
phẩm là cơ sở, là nền tảng tồn tại của mọi xã hội. Do đó muốn cắt nghĩa đúng đắn mọi hiện
tượng xã hội thì phải tìm vào gốc rễ của nó là sản xuất vật chất và các quan hệ sản xuất,
trong đó quan hệ sở hữu là quan hệ đóng vai trò trung tâm.


Trong tác phẩm: “Phê phán cương lĩnh Gô-Ta”, công bằng xã hội được thể hiện trong
nguyên tắc phân phối theo lao động.. Các Mác đã chỉ rõ rằng trong xã hội xã hội chủ nghĩa,
sau khi đã khấu trừ đi những khoản cần thiết để tái sản xuất cũng như để duy trì đời sống
của cộng đồng, toàn bộ số sản phẩm của xã hội còn lại sẽ được phân phối theo nguyên tắc:
mỗi người sản xuất sẽ được nhận trở lại từ xã hội một số lượng vật phẩm tiêu dùng trị giá
ngang với số lượng lao động mà anh ta cung cấp cho xã hội sau khi đã khấu trừ số lao động
của anh ta cho các quỹ xã hội [ 13, tr.30-34]. Đó là một nguyên tắc phân phối công bằng vì
nó đảm bảo cho tất cả những người sản xuất đều có quyền hưởng thụ ngang nhau khi làm
một công việc ngang nhau trong xã hội.
Tuy nhiên, trong xã hội không phải mọi người đều bình đẳng với nhau về cơ hội phát
triển mà còn tồn tại nhiều khác biệt, như về nguồn gốc xuất thân, về địa vị xã hội, về năng
khiếu cá nhân, về năng lực lao động... Do vậy trên thực tế, với một công việc ngang nhau
nhưng vẫn có tình trạng người này lĩnh hơn người kia và do đó, người nầy giàu hơn người
kia. Vì vậy, Các Mác cho rằng, sự phân phối công bằng vẫn phải chấp nhận một tình trạng
bất bình đẳng nhất định giữa các thành viên trong xã hội.
Theo Mác, mỗi thời đại kinh tế có một phương thức phân phối riêng đặc trưng cho nó.
Phương thức ấy do những quan hệ sản xuất quyết định. Không có phương thức phân phối
chung cho mọi thời đại thì điều đó cũng có ý nghĩa rằng, không có một khái niệm công bằng
chung chung. Mặc dù tiêu chí chung của công bằng nằm trong quan hệ phân phối. Trong
chủ nghĩa tư bản, cũng giống như các phương thức phân phối trước đây, phương thức phân

phối tư bản chủ nghĩa không phải là vĩnh cửu. Nó cũng mang tính lịch sử. Trong quá trình
sản xuất tư bản chủ nghĩa, phân phối căn cứ vào tài sản, vào vốn và theo phương thức nầy
thì kết quả nhà tư bản ngày càng giàu thêm, lao động ngày càng bị tha hoá, bất bình đẳng xã
hội ngày càng lớn. Đó là sự công bằng xã hội đối với giai cấp tư sản “Bọn tư sản há chẳng
khẳng định rằng sự phân phối hiện nay là “công bằng” đó sao? Và quả vậy, trên cơ sở
phương thức sản xuất hiện nay thì đó há chẳng là sự phân phối duy nhất “công bằng” hay
sao?”.
Việc phân phối không công bằng đó đã làm cho những mâu thuẫn xã hội càng trở nên
gay gắt. Phương thức phân phối tư bản chủ nghĩa sẽ mất đi khi mâu thuẫn cơ bản giữa quan
hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và lực lượng sản xuất trong xã hội tư bản chủ nghĩa gay gắt
đến mức bùng nổ cách mạng xã hội. Một thời đại mới, thời đại của chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản xuất hiện.


Trong thời đại mới, tư liệu sản xuất sẽ được công hữu hoá và phân phối sản phẩm sẽ
dựa trên một cơ sở pháp lý hơn. Đó là phân phối theo lao động. Theo tư tưởng của Mác,
công bằng xã hội không phải là một ý tưởng, một mong muốn mà là kết quả tất yếu của sự
vận động trong bản thân phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Phân phối theo lao động,
trên thực tế, là một phương thức mới để xác lập công bằng xã hội, và hơn nữa, còn là để giải
phóng con người ra khỏi sự bất công và bất bình đẳng xã hội nói chung.
Các Mác chia hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa thành hai giai đọan: Giai
đoạn thấp là chủ nghiã xã hội; và giai đoạn cao là chủ nghiã cộng sản. Trong chủ nghĩa xã
hội, thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động, đây là nguyên tăc phân phối công bằng
nhất. Mặt khác, Mác cũng chỉ rõ, trong điều kiện chủ nghĩa xã hội, sự phân phối theo lao
động còn hàm chứa trong nó sự chấp nhận một tình trạng bất bình đẳng nhất định giữa các
thành viên trong xã hội. Trong chủ nghĩa xã hội, người lao động không phải đã được thừa
hưởng trọn vẹn giá trị do lao động của mình tạo ra. Lao động đó phải được khấu trừ những
khoản sau đây: Một là thay thế những tư liệu sản xuất đã tiêu dùng; Hai là, một phần phụ
thêm để mở rộng sản xuất; Ba là, dự trữ hoặc dành cho quỹ bảo hiểm; Bốn là, chi phí cho
quản lý chung; Năm là, tạo quỹ dùng cho quỹ phúc lợi xã hội; Sáu là, tạo quỹ cần thiết để

nuôi dưỡng những người không có hoặc có rất ít khả năng lao động.
Như vậy, ngay với chủ nghĩa xã hội, tức là một xã hội đã được tổ chức theo nguyên tắc
của chủ nghĩa tập thể dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu thì sự công bằng
đó vẫn chưa phải là công bằng lý tưởng, công bằng tuyệt đối theo đúng nghĩa. Trong những
điều kiện như nhau thì vẫn có sự khác nhau, thậm chí khác nhau rất xa về năng lực, điều
kiện, hoàn cảnh và ở đó, cái quyền ngang nhau đó, tức là sự bình đẳng vẫn “bị giới hạn
trong khuôn khổ tư sản” nếu mà chúng ta dùng một thước đo như nhau tức là “giá trị lao
động”. Cho nên “với một công việc ngang nhau và do đó với một phần tham dự như nhau
vào quỹ tiêu dùng của xã hội thì trên thực tế, người nầy vẫn lĩnh hơn người kia, người này
vẫn giàu hơn người kia.v.v...[13, tr.35].
Bởi vậy, C. Mác kết luận về những hạn chế tất yếu của công bằng trong chế độ xã hội
chủ nghĩa như sau: “Đó là những thiếu sót không thể tránh khỏi trong giai đoạn đầu của xã
hội cộng sản chủ nghĩa, lúc nó vừa mới lọt lòng từ xã hội tư bản chủ nghĩa ra, sau những
cơn đau đẻ kéo dài. Quyền không bao giờ có thể ở một mức cao hơn chế độ kinh tế và sự
phát triển văn hoá của xã hội do chế độ kinh tế đó quyết định” [13, tr.34-36]. Đó vừa là ưu


việt, vừa là thiếu sót của nguyên tắc phân phối theo lao động- một thiếu sót theo Mác, là
không thể tránh khỏi trong giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Theo Mác, sự công bằng thật sự sẽ đạt được khi xã hội bước vào giai đoạn cao - giai
đoạn cộng sản chủ nghiã, khi con người không còn phụ thuộc vào sự phân công lao động.
Lúc đó, khoảng cách giữa lao động trí óc và lao động chân tay được rút ngắn tối đa; lao
động không còn là phương tiện để sinh sống mà là một nhu cầu hoạt động và phát triển, khi
cùng với sự phát triển toàn diện của cá nhân thì sức sản xuất xã hội sẽ tiến bộ vượt bậc chưa
từng có trong lịch sử, của cải trở nên dư thừa, và cho đến khi đó người ta “mới có thể vượt
ra khỏi giới hạn chật hẹp của pháp quyền tư sản và xã hội mới có thể ghi trên lá cờ của
mình: làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu” [13, tr.36].
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo quan điểm của Chủ nghĩa Mác- Lênin về
công bằng xã hội vào hoàn cảnh thực tiễn của Việt Nam, Người đã đưa ra một quan niệm
khái quát về công bằng xã hội trong chủ nghĩa xã hội: “chủ nghĩa xã hội là gì ? là mọi người

được ăn no, mặc ấm, sung sướng, tự do. Nhưng, nếu muốn tách riêng ra một mình mà ngồi
ăn no, mặc ấm người khác mặc kệ, thế là không tốt. Mình muốn ăn no, mặc ấm, cũng cần
làm sao cho tất cả mọi người được ăn no, mặc ấm” [ 15, tr.682]
Năm 1966, khi cuộc kháng chiến cống Mỹ cứu nước bước vào giai đoạn quyết liệt,
nhân dân miền Bắc phải chịu nhiều thiếu thốn, khó khăn trong cuộc sống để dồn sức người
sức của cho tiền tuyến lớn miền Nam, Người luôn chú ý đến vấn đề thực hiện công bằng xã
hội cho mọi người dân Việt Nam “Không sợ thiếu chỉ sợ không công bằng”.
Trên lập trường của Chủ nghiã Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản
Việt Nam khẳng định mục tiêu xây dựng đất nước ta trong giai đoạn hiện nay là “dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, vững bước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Mục tiêu đó chứa đựng nội dung vừa phát triển kinh tế-xã hội, vừa thực hiện công bằng
và tiến bộ xã hội cho nhân dân lao động.
Công bằng xã hội luôn luôn biến đổi phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Trong
hoàn cảnh của chúng ta hiện nay cần khẳng định rằng phân phối theo lao động trước sau vẫn
là tiêu chí quan trọng bậc nhất của công bằng. Tiêu chí này xuyên suốt cả thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, là hình thức phân phối chủ yếu trong điều kiện hiện nay của nước ta. Lao
động không chỉ là lao động hiện tại mà còn là những lao động quá khứ đã tích luỹ vào trong
vốn, tài sản, tư liệu sản xuất... thực hiện phân phối theo hình thức này sẽ gắn kết được kết
quả lao động với lợi ích của người lao động, nhờ vậy người lao động sẽ có động lực trong


quá trình sản xuất, giúp họ có thu nhập cao. Quan điểm này được Đảng ta khẳng định: “Cơ
chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao
động và hiệu quả kinh tế” [9, tr.88]. Để thực hiện được tốt hình thức phân phối nầy đòi hỏi
người lao động phải có sức khoẻ và tri thức. Do đó nhà nước phải tạo mọi điều kiện cho
người lao động có điều kiện chăm lo sức khoẻ và học tập thông qua hệ thống y tế và giáo
dục đào tạo, có nghĩa là: tăng cường đầu tư cho y tế và giáo dục, để nâng cao sức khoẻ và trí
tuệ cho người lao động là điều kiện cần thiết để thực hiện triệt để phân phối theo lao động.
Nếu trước đây chúng ta coi phân phối theo lao động là tiêu chí duy nhất của sự công bằng
thì ngày nay trong điều kiện chuyển sang cơ chế thị trường, trước nhu cầu bức bách phải thu

hút vốn đầu tư để có điều kiện mở rộng và đẩy mạnh sản xuất thì ngoài phân phối theo lao
động chúng ta còn phải coi trọng hình thức: “...phân phối theo mức đóng góp vốn và các
nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh...” [9, tr.88]. Các nguồn lực khác ở đây được hiểu
là vốn, tài sản, công cụ sản xuất... được gọi chung là tài sản đóng góp vào quá trình sản
xuất. Tuỳ theo mức đóng góp mà được hưởng phần thu nhập tương ứng. Hình thức phân
phối này cho phép thu hút, huy động moị nguồn lực của các thành phần kinh tế tham gia vào
quá trình sản xuất.
Ngoài phân phối theo lao động và theo nguồn vốn, để đảm bảo công bằng xã hội trong
quá trình phân phối còn phải tính đến nhiều cống hiến khác cho xã hội. Đó là những đóng góp
về tài năng, sức lực, xương máu cho lợi ích chung của cộng đồng xã hội. Trong đó, đặc biệt là
sự cống hiến của người có công trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ và xây dựng đất
nước.
Một trong những đặc thù lớn nhất của nước ta là chiến tranh kéo dài: chống thực dân
Pháp, đế quốc Mỹ, kẻ thù biên giới phía Bắc và Tây Nam. Bên cạnh đó còn có lực lượng tham
gia quân tình nguyện giúp các nước bạn Lào, Cămpuchia trong cuộc đấu tranh giải phóng dân
tộc. Chính vì vậy đã có nhiều gia đình, nhiều đồng bào chiến sỹ, nhiều vùng đất đã không tiếc
công sức, tiền của, máu xương cống hiến cho sự nghiệp cách mạng góp phần thực hiện nhiệm
vụ cao cả. Ngày nay, bước vào guồng quay của kinh tế thị trường thì chính họ là những người
bị thiệt thòi nhất bởi họ không còn sức lao động do nêu đơn, thương tật, già yếu, khó khăn về
vốn, họ rơi vào nhóm nghèo của xã hội, Bởi vậy, thực hiện công bằng xã hội trong điều kiện
hiện nay không thể không tính đến sự cống hiến trong quá khứ của những thế hệ người đã kinh
qua chiến tranh... Việc thực hiện chính sách nhân đạo, phong trào làm việc thiện, phong trào
đền ơn đáp nghĩa, thành lập quỹ xoá đói giảm nghèo... là trách nhiệm của toàn xã hội, là sự đền


ơn đáp nghĩa chứ tuyệt nhiên không phải là sự ban ơn. Trong điều kiện hiện nay còn có sự bất
bình đẳng trong thu nhập, việc thực hiện phân phối thông qua phúc lợi xã hội có tác dụng giảm
bớt sự bất bình đẳng đó.
Phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải đặt mục tiêu tiến bộ và
công bằng xã hội lên trên hết, coi đó là mục tiêu của mọi chính sách phát triển kinh tế xã hội,

ngược lại phát triển kinh tế xã hội là vì mục tiêu đảm bảo thực hiện công bằng xã hội, vì tự do,
hạnh phúc của con người. Vì vậy, Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ của Đảng (khoá
VII) đã khẳng định “Tăng tưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay
trong từng bước phát triển. Công bằng xã hội thể hiện cả ở khâu phân phối hợp lý tư liệu sản
suất, lẫn ở khâu phân phối kết quả sản xuất, cũng như ở điều kiện phát triển năng lực của mọi
thành viên trong cộng đồng” [7, tr.47].
Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng, tư tưởng về công bằng xã
hội tiếp tục được Đảng ta quán triệt và làm rõ trong điều kiện mới: “Tăng trưởng kinh tế
phải gắn liền với tiến bộ xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển.
Công bằng xã hội phải thể hiện ở tất cả các khâu phân phối hợp lý tư liệu sản xuất lẫn ở
khâu phân phối kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội và
phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình” [8, tr.113]. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX, Đảng ta một lần nữa khẳng định: “... tăng trưởng kinh tế với phát triển văn
hoá, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường” [9,tr.24].
Đến Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng lại tiếp tục khẳng định:
Kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước,
ở từng lĩnh vực, địa phương; thực hiện công bằng xã hội ngay trong từng bước và
từng chính sách phát triển, thực hiện tốt chính sách xã hội trên cơ sở phát triển
kinh tế, gắn quyền lợi và nghĩa vụ, cống hiến và hưởng thụ, tạo động lực mạnh
mẽ và bền vững hơn cho phát triển kinh tế - xã hội. Tập trung giải quyết những
vấn đề xã hội bức xúc” [10, tr.32].
1.2. Nâng cao đời sống kinh tế đối với người có công là một trong những nhiệm vụ
quan trọng để đảm bảo công bằng xã hội


1.2.1. Nâng cao đời sống kinh tế đối với người có công cách mạng là trách nhiệm
của nhà nước và toàn xã hội trong tiến trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Mặc dù chính sách ưu đãi người có công đã được thực hiện gần 6 thập kỷ qua, nhưng

cho đến ngày nay cũng chưa có một văn bản nào nêu rõ khái niệm người có công. Tuy
nhiên, qua các quy định tiêu chuẩn đối với từng đối tượng là người có công, chúng tôi nêu
ra khái niệm người có công như sau:
Theo nghĩa rộng: người có công là những người thuộc một dân tộc nào đó, tự nguyện
hiến dâng cuộc đời mình cho đại nghĩa, cho sự nghiệp của đất nước. Họ có những đóng góp,
những cống hiến xuất sắc, phục vụ cho lợi ích của đất nước, của dân tộc. Người có công
gồm những người không phân biệt tôn giáo, tín ngưỡng, dân tộc, nam nữ, tuổi tác, miễn là
họ có những hành động xuất sắc có lợi cho dân tộc. ở đây có thể thấy rõ những tiêu chí cơ
bản của người có công, đó là phải có đóng góp, cống hiến xuất sắc và vì lợi ích dân tộc.
Những đóng góp, cống hiến của họ có thể là trong các cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do
cho Tổ quốc và cũng có thể là trong công cuộc xây dựng và phát triển của đất nước.
Như đã nêu trên, phạm trù người có công rất rộng, trong phạm vi của luận văn này,
chúng tôi chỉ tập trung vào những đối tượng là người có công trước cách mạng tháng 8 năm
1945, trong các cuộc kháng chiến cứu nước và trong bảo vệ Tổ quốc của dân tộc. Như vậy,
khái niệm người có công ở đây được hiểu theo nghĩa hẹp. Người có công hiểu theo nghiã
hẹp này như sau: Người có công là những cá nhân không phân biệt tôn giáo, tín ngưỡng,
dân tộc, nam nữ... có những đóng góp, những cống hiến xuất sắc trong thời kỳ trước cách
mạng tháng Tám năm 1945, trong các cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ
quốc, được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền công nhận. Như vậy, ở khái niệm này, người có
công là những người tham gia hoặc giúp đỡ cách mạng mà hy sinh xương máu hoặc một
phần thân thể của mình hoặc cống hiến cả cuộc đời mình cho sự nghiệp cách mạng và được
các cơ quan có thẩm quyền công nhận.
Các loại đối tượng người có công:
Theo quy định hiện hành, các đối tượng có công có nhiều loại, trong phạm vi của luận
văn, chỉ nêu những đối tượng có công theo nghĩa hẹp đã trình bày trên. Những đối tượng có
công này được quy định trong Pháp lệnh ưu đãi người có công số 26/2005/PLUBTVQH11
ngày 29/6/2005 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và Nghị định số 54/2006/NĐ-CP ngày
26/5/2006 của Chính phủ, bao gồm:



+ Thương binh: Là những quân nhân, công an nhân dân vì chiến đấu, hoặc trực tiếp
chiến đấu; bị địch bắt, tra tấn vẫn không chịu khuất phục, kiên quyết đấu tranh, để lại
thương tích thực thể; làm nghĩa vụ quốc tế; đấu tranh chống tội phạm hoặc dũng cảm thực
hiện công việc cấp bách, nguy hiểm phục vụ quốc phòng, an ninh, dũng cảm cứu người, cứu
tài sản của nhà nước, nhân dân, làm nhiệm vụ quốc phòng, an ninh ở địa bàn có điều kiện
kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn mà bị thương tật, mất sức lao động từ 21% trở lên.
Những người không thuộc lực lượng vũ trang nhân dân (công an nhân dân, quân đội
nhân dân), trong khi làm những nhiệm vụ trên đây mà bị thương suy giảm khả năng lao
động từ 21% trở lên thì được hưởng chính sách như thương binh.
+ Bệnh binh: Là những quân nhân, công an nhân dân mắc bệnh làm suy giảm khả
năng lao động từ 41% trở lên do chiến đấu hoặc trực tiếp phục vụ chiến đấu; hoạt động ở
địa bàn có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn; làm nghĩa vụ quốc tế; dũng cảm làm công
việc cấp bách, nguy hiểm phục vụ quốc phòng an ninh khi xuất ngũ về với gia đình
+ Liệt sỹ: Là những người đã hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc
và làm nghĩa vụ quốc tế hoặc vì lợi ích của nhà nước, của nhân dân được Nhà nước tặng
bằng “Tổ quốc ghi công” trong khi: Chiến đấu hoặc trực tiếp phục vụ chiến đấu; Trực tiếp
đấu tranh chính trị, binh vận với địch có tổ chức với địch; Hoạt động cách mạng, hoạt động
kháng chiến bị địch bắt tù đày tra tấn nhưng không chịu khuất phục, kiên quyết đấu tranh
hoặc thực hiện chủ trương vượt tù, vượt ngục hy sinh; làm nghĩa vụ quốc tế; đấu tranh
chống tội phạm; dũng cảm thực hiện công việc cấp bách, nguy hiểm hoặc phục vụ nhiệm vụ
quốc phòng, an ninh; dũng cảm cứu người, cứu tài sản của nhà nước của nhân dân; Do ốm
đau, tai nạn khi đang làm nhiệm vụ quốc phòng an ninh ở địa bàn kinh tế có điều kiện kinh
tế- xã hội đặc biệt khó khăn; Thương binh chết vì vết thương tái phát.
+ Thân nhân liệt sỹ: Là những người thân thiết, ruột thịt hoặc có công nuôi dưỡng liệt
sỹ trước khi hy sinh, như:
- Vợ (hoặc chồng) của liệt sỹ. Chỉ xác định là những người kết hôn hợp pháp với liệt
sỹ trước khi liệt sỹ hy sinh và quan hệ hôn nhân còn tới thời điểm liệt sỹ hy sinh và được
báo tử (hợp pháp ở đây được hiểu là có đăng ký kết hôn hoặc được tổ chức, đoàn thể có
thẩm quyền công nhận).Trong trường hợp liệt sỹ có nhiều vợ (trước khi có luật hôn nhân gia
đình) mà thực tế đã được thừa nhận thì những người vợ đó cũng được công nhận là thân

nhân liệt sỹ.


×