Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

Bình luận câu nói của chủ tịch HCM: “Nước Việt nam là một, dân tộc Việt Nam là một, sông có thể cạn, núi có thể mòn song chân lý ấy không bao giờ thay đổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (696.2 KB, 36 trang )

Bình luận câu nói :
“Dân tộc Việt Nam là một , Đất nước Việt Nam là một”.

Lời Mở Đầu
Đất nước ta trải dài qua 4000 nghìn năm lịch sử với bao biến cố thăng trầm
Nhưng cũng biết bao vẻ vang : Chúng ta đánh bại vó ngựa quân nguyên mông
tung hoành nhiều năm trên thế giới, Đánh bại bao âm mưu ngoại xâm, Đáng chú ý
là Chiến thắng Điện Biên Phủ -Chấn động địa cầu đập tan âm mưu của TD pháp
hòng quay lai xâm lược đất nước ta , Thậm chí là chiến thắng quân đội Mỹ với
nguồn lực quân sự và kinh tế mạnh nhất thế giới thời bấy giờ .Qua những biến cố
ấy chúng ta hiểu hơn về dân tộc mình về đất nước mình về tầm vóc tư tưởng của
cha ông , Thêm quý trọng hơn mảnh đất cha ông. Tinh thần ấy , tư tưởng ấy được
Chủ tịch Hồ chí minh đúc kết qua nhiều lần qua nhiều câu nói nổi tiếng : “ Các
Vua hùng đã có công dụng nước , Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.
(trích ký sự thăm đền hùng của bác) “ Không có gì quý hơn độc lập, tự do !” “ Vì
lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”
hay “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một
nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực
lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy.” (Trích Tuyên
ngôn độc lập) ,… . Hôm nay em có dịp được phân thích một câu nói nổi tiếng
của CT Hồ Chí Minh như sau:
“Dân tộc Việt Nam là một ,Đất nước Việt Nam là một, sông có thể cạn , núi có
thể mòn song chân lý ấy không bao giờ thay đổi ”

1


Chương 1: Lịch sử hình thành của dân tộc Việt Nam
Dân tộc Việt Nam là một danh từ chung để chỉ các dân tộc sống trên lãnh thổ Việt Nam.
Một số người cho rằng nguồn gốc của các dân tộc Việt Nam bắt nguồn từ Trung Hoa,
hoặc Tây Tạng, một số khác cho rằng nguồn gốc chính từ người Việt bản địa. Nhưng


căn cứ vào các kết quả nghiên cứu gần đây, xem xét sự hình thành các dân tộc Việt Nam
trong sự hình thành các dân tộc khác trong khu vực thì có thể nói rằng tất cả các dân tộc
Việt Nam đều có cùng một nguồn gốc, đó là chủng Cổ Mã Lai. Quá trình hình thành các
dân tộc Việt Nam có thể chia thành ba giai đoạn:


Theo các nhà nhân chủng học, nếu phân chia theo hình dáng thì loài người được
chia thành bốn đại chủng chính, đó là: Đại chủng Âu (Caucasoid), Đại chủng Phi
(Negroid), Đại chủng Á (Mongoloid), Đại chủng Úc (Australoid, hay còn gọi là
Đại chủng Phương Nam). Vào thời kỳ đồ đá giữa (khoảng 10.000 năm trước đây),
có một bộ phận thuộc Đại chủng Á, sống ở vùng Tây Tạng di cư về phía đông
nam, tới vùng ngày nay là Đông Dương thì dừng lại. Tại đây, bộ phận của Đại
chủng Á kết hợp với bộ phận của Đại chủng Úc bản địa và kết quả là sự ra đời
của chủng Cổ Mã Lai (tiếng Pháp: Indonésien). Người Cổ Mã Lai có nước da
ngăm đen, tóc quăn gợn sóng, tầm vóc thấp. Người Cổ Mã Lai từ vùng Đông
Dương lan tỏa về hướng bắc tới sông Dương Tử; về phía tây tới Ấn Độ, về phía
nam tới các đảo của Indonesia, về phía đông tới Philippines.



2






Cuối thời kỳ đồ đá mới, đầu thời kỳ đồ đồng (khoảng 5.000 năm trước đây). Tại
khu vực mà ngày nay là miền bắc Việt Nam, miền nam Trung Quốc (từ sông
Dương Tử trở xuống), có sự chuyển biến do chủng Cổ Mã Lai tiếp xúc thường

xuyên với Đại chủng Á từ phía bắc tràn xuống, sự chuyển biến này hình thành
một chủng mới là chủng Nam Á (tiếng Pháp: austro-asiatique). Do hai lần hòa
nhập với Đại chủng Á mà Chủng Nam Á có những nét đặc trưng nổi trội của Đại
chủng Á hơn là những nét đặc trưng của Đại chủng Úc. Cũng chính vì thế Chủng
Nam Á được liệt vào một trong những bộ phận của Đại chủng Á.
Thời kỳ sau đó, Chủng Nam Á được chia thành một loạt các dân tộc mà các cổ
thư Việt Nam và Trung Hoa gọi là Bách Việt. Thực ra không có đến một trăm
(bách) dân tộc nhưng quả thật đó là một cộng đồng dân cư rất đông đúc bao gồm:
Điền Việt (cư trú tại Vân Nam, Trung Quốc), Dương Việt, Mân Việt, Đông Việt,
Nam Việt (cư trú tại Quảng Đông, Trung Quốc), Lạc Việt (cư trú tại Quảng Tây,
Trung Quốc và Bắc bộ Việt Nam),... sinh sống từ vùng nam sông Dương Tử cho
đến Bắc bộ (Việt Nam). Ban đầu, họ nói một số thứ tiếng như: Môn-Khmer, ViệtMường, Tày-Thái, Mèo-Dao,... Sau này quá trình chia tách này tiếp tục để hình
thành nên các dân tộc và các ngôn ngữ như ngày nay. Trong khi đó, phía nam
Việt Nam, dọc theo dải Trường Sơn vẫn là địa bàn cư trú của người Cổ Mã Lai.
Theo thời gian họ chuyển biến thành Chủng Nam Đảo. Đó là tổ tiên của các dân
tộc thuộc nhóm Chàm (xem hình vẽ).

Việc xác định về mặt địa lý có thể hình dung như sau:







Địa bàn cư trú của người Bách Việt là một tam giác mà đáy là sông Dương Tử,
đỉnh là Bắc trung bộ, Việt Nam (xem hình, tam giác màu đỏ).
Địa bàn cư trú của người Bách Việt và Nam Đảo là một tam giác mà đáy là sông
Dương Tử, đỉnh là đồng bằng sông Mê kông, Việt Nam (xem hình, tam giác màu
vàng).

Đại bàn cư chú của hậu duệ người Cổ Mã Lai, mà ngày nay là phần lớn các cư
dân Đông Nam Á là một vùng rất rộng kéo dài từ Ấn Độ đến Philippines theo

chiều tây đông, và từ sông Dương Tử xuống đến Indonesia theo chiều bắc nam
3


Các bằng chứng địa chất và khảo cổ học
Một trong các bằng chứng nổi bật nhất chứng minh các dân tộc Đông Nam Á, trong đó có
Việt Nam, có chung một nguồn gốc là việc các nhà khảo cổ học đã phát hiện ra rất nhiều
điểm tương đồng về một nền văn hóa rất phát triển gọi là Văn hóa Hòa Bình ở rải rác các
nơi ở Đông Nam Á như Việt Nam, Thái Lan,... Các nghiên cứu đã rút ra kết luận rằng:




Có một nền văn minh Đông Nam Á cổ đại có mặt từ rất sớm, khoảng 15.000
trước Công nguyên. Nơi đây, con người biết trồng cây, làm đồ gốm, đúc đồng
sớm nhất trên thế giới. Các vật dụng được khai quật ở tây bắc Thái Lan, miền bắc
Việt Nam, Malaysia, Philippines, bắc Úc cho thấy họ biết làm những vật đó trước
Trung Đông, Ấn Độ, Trung Hoa mấy ngàn năm.
Nền văn minh Đông Nam Á không phải là hệ quả của việc du nhập từ các nền văn
minh khác như Ấn Độ, Trung Hoa, Trung Đông mà ngược lại, văn minh từ Đông
Nam Á lan tỏa đến các vùng khác như Trung Hoa 6.000 đến 7.000 năm trước
Công nguyên: Văn hóa Long Sơn (Lungsan) và Văn hóa Ngưỡng Thiều
(Yangshao) đều là hệ quả của Văn hóa Hòa Bình.

Các dữ liệu mới chỉ tìm thấy cách đây vài chục năm như trên đã làm thay đổi cách suy
nghĩ của các nhà khảo cổ học về sự tiến triển của các nền văn minh trên Trái Đất. Việc
tìm thấy nền văn minh Đông Nam Á rất sớm đó có thể khẳng định các dân tộc ở vùng này

là có liên hệ chủng tộc với nhau. Họ hoàn toàn không phải là hệ quả của các chủng tộc
khác từ Trung Hoa tới.

Các bằng chứng sinh học phân tử
Bằng chứng về nguồn gốc người Việt có thể thu được từ các nghiên cứu về:





Dấu chỉ bàn tay
Nhóm kháng nguyên bạch cầu (HLA)
DNA của ty thể (mtDNA)
Vùng không tái tổ hợp trên nhiễm sắc thể Y (NRY)
(theo wikipedia.org)

Thời Hồng Bàng
Bài chi tiết: Hồng Bàng

Nước Xích Quỷ
Theo một số tài liệu cổ sử chưa có căn cứ chắc chắn[7], các tộc người Việt cổ (Bách Việt)
lập quốc đầu tiên ở miền Lĩnh Nam, bao gồm một vùng rộng lớn phía nam sông Trường
Giang của Trung Quốc hiện nay đến vùng đồng bằng sông Hồng, sông Mã ở miền bắc

4


Việt Nam. Truyền thuyết cho biết nhà nước của các tộc người Việt được hình thành từ
năm 2879 TCN tại vùng Hồ Động Đình (Hồ Nam-Trung Quốc). Đến thời Xuân ThuChiến Quốc (thế kỷ 8 TCN đến thế kỷ 3 TCN) do các sức ép từ các vương quốc Sở, Tần
ở miền bắc Trung Quốc và làn sóng người Hoa Hạ chạy tỵ nạn chiến tranh từ miền Bắc

xuống nên dần dần các tộc người Việt cổ bị mất lãnh thổ, bị đồng hóa vào người Hoa Hạ.
Đỉnh điểm là vào thời Tần Thủy Hoàng lãnh thổ của Trung Hoa kéo xuống tận ven biển
phía nam Quảng Đông[8].
Vương quốc của các tộc người Việt cổ (Xích Quỷ) thời kỳ này có thể nói đây là một liên
bang lỏng lẻo giữa các nhóm tộc Việt khác nhau như Điền Việt ở Vân Nam, Dạ Lang ở
Quý Châu, Mân Việt ở Phúc Kiến, Đông Việt ở Triết Giang, Sơn Việt ở Giang Tây, Nam
Việt ở Quảng Đông, Âu Việt (Tây Âu) ở Quảng Tây, Lạc Việt ở miền bắc Việt Nam [9]...
Những biến động trong thời kỳ này cũng dẫn tới sự tan rã của nhà nước liên minh của các
tộc người Việt, từ thế kỷ 7 trước công nguyên trở đi từ các bộ tộc Việt cư trú tại các khu
vực khác nhau ở miền nam sông Dương Tử đã hình thành nên các nhà nước khác nhau ở
từng khu vực cũng như thời kỳ như: nước Việt, Văn Lang, Việt Thường, Nam Việt, Âu
Lạc, Quỳ Việt, Mân Việt, Đông Việt,...các nhà nước độc lập này từng bước bị các vương
triều của người Hoa Hạ ở miền Bắc sông Dương Tử đánh bại, hoặc là tự nội chiến với
nhau dẫn tới suy yếu. Đến thời kỳ vương triều Hán vào đầu công nguyên các nhà nước
Việt hoàn toàn bị diệt vong[10].

Nước Văn Lang

Lãnh thổ nước Văn Lang năm 500 TCN
Theo tục truyền, các đời Hùng Vương trị vì nước Văn Lang của người Lạc Việt (tên này
được ghi trong sử sách người Trung Quốc) được thành lập vào khoảng thế kỷ 7 TCN tại
khu vực miền bắc Việt Nam ngày nay, đóng đô tại Phong Châu (Phú Thọ). Người Lạc
Việt được xem như là tổ tiên của người Việt Nam hiện đại.
Các tài liệu nghiên cứu hiện đại[11] phần lớn đều đồng ý theo Việt sử lược về một vương
quốc Văn Lang của người Lạc Việt có niên đại thành lập vào thế kỷ 7 TCN cùng thời
Chu Trang Vương (696 TCN - 682 TCN) ở Trung Quốc. Vương quốc này tồn tại ở vùng
đồng bằng sông Hồng, sông Mã, sông Lam và đã có giao lưu với nước Việt (Yue) của
Việt vương Câu Tiễn (Lạc Câu Tiễn) ở khu vực hạ lưu sông Trường Giang - Trung Quốc
ngày nay.


5


Nước Âu Lạc
Đến thế kỷ thứ 3 TCN, Thục Phán từ nước Thục (phía đông bắc Văn Lang) của người Âu
Việt đã đánh bại vua Hùng Vương thứ 18 và lập nên nước Âu Lạc, đóng đô tại Cổ Loa,
thuộc huyện Đông Anh, Hà Nội ngày nay. Ông tự xưng là An Dương Vương.
Theo các nguồn sử liệu khác nhau, nước Âu Lạc của An Dương Vương bị vua Nam Việt
là Triệu Đà ở liền kề phía bắc thôn tính năm 208 TCN (hoặc 179 TCN).

Thời Bắc thuộc
Xem thêm: Vấn đề chính thống của nhà Triệu
Theo các quan điểm khác nhau của các sử gia về vấn đề Triệu Đà và nhà Triệu, thời điểm
bắt đầu của thời kỳ Bắc thuộc cũng khác nhau. Nếu nhà Triệu được tính là một triều đại
Việt Nam, thời Bắc thuộc bắt đầu từ năm 111 TCN khi nhà Hán diệt nhà Triệu. Nếu
Triệu Đà không được xem là vua Việt Nam, thời kỳ này bắt đầu từ 207 TCN (hoặc 179
TCN).

Nước Nam Việt
Xem thêm: Nhà Triệu
Cuối thời Tần, Triệu Đà (người nước Triệu - thời Chiến Quốc) là quan úy quận Nam Hải
(Quảng Đông ngày nay) nhân khi nhà Tần rối loạn sau cái chết của Tần Thủy Hoàng (210
TCN) đã cát cứ vùng đất quận Nam Hải, đánh chiếm các khu vực lân cận như Âu Lạc,
Quế Lâm (Quảng Tây ngày nay).
Khi Lưu Bang lên ngôi nhà Hán, Triệu Đà khôi phục và thống nhất các khu vực ông quản
lý ở Quảng Đông, Quảng Tây và miền Bắc Việt Nam ngày nay và tạo ra một vương quốc
tên là Nam Việt (南南). Chữ "Việt" (南 Yue) là tên được người Trung Quốc đặt cho những
người sống ở vùng đất phía nam của đế quốc nhà Hán, kể cả khu vực đồng bằng sông
Hồng. Triệu Đà chia vương quốc Nam Việt thành 9 quận, ba quận phía nam - Hợp Phố,
Giao Chỉ, Cửu Chân - là phần đất của Âu Lạc. Các Lạc hầu vẫn cai quản vùng châu thổ

sông Hồng, nhưng với địa vị chư hầu cho Nam Việt.

Thuộc Hán
Xem thêm: Hai Bà Trưng

6


Lãnh thổ Việt Nam thuộc nhà Hán năm 87 TCN
Năm 111 TCN, quân của Hán Vũ Đế xâm lược nước Nam Việt và sáp nhập Nam Việt
vào đế chế Hán. Người Trung Quốc muốn cai quản miền châu thổ sông Hồng để có điểm
dừng cho tàu bè đang buôn bán với Đông Nam Á[12]. Trong thế kỷ thứ 1, các tướng Lạc
vẫn còn được giữ chức, Trung Quốc bắt đầu chính sách đồng hóa các lãnh thổ bằng cách
tăng thuế và cải tổ luật hôn nhân để biến Việt Nam thành một xã hội phụ hệ để dễ tiếp thu
quyền lực chính trị hơn. Một cuộc khởi nghĩa do Hai Bà Trưng lãnh đạo đã nổ ra ở quận
Giao Chỉ, tiếp theo sau đó là các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố và các địa phương
khác của vùng Lĩnh Nam (mà theo cổ sử Việt ghi nhận là có tất cả 65 thành trì) hưởng
ứng trong năm 40. Sau đó nhà Hán phái tướng Mã Viện sang đàn áp cuộc khởi nghĩa này.
Sau ba năm giành độc lập, cuộc khởi nghĩa bị tướng Mã Viện đàn áp. Do bị cô lập và
quân đội chưa tổ chức hoàn thiện nên không đủ sức chống cự lại quân do Mã Viện chỉ
huy, Hai Bà Trưng đã tuẫn tiết trên dòng sông Hát để giữ vẹn khí tiết. Cuộc khởi nghĩa
của Hai Bà Trưng được coi là sự kiện đấu tranh giành lại quyền độc lập đầu tiên của dân
tộc Việt Nam.

Thuộc Đường
Bài chi tiết: Bắc thuộc lần 3
Kế tiếp nhà Tùy, nhà Đường đô hộ Việt Nam gần 300 năm. Trung Quốc đến thời Đường
đạt tới cực thịnh, bành trướng ra 4 phía, phía bắc lập ra An Bắc đô hộ phủ, phía đông
đánh nước Cao Ly lập ra An Đông đô hộ phủ, phía tây lập ra An Tây đô hộ phủ và phía
nam lập ra An Nam đô hộ phủ, tức là lãnh thổ nước Vạn Xuân cũ.

Trong thời kỳ thuộc nhà Đường, đã nổ ra các cuộc khởi nghĩa chống bắc thuộc của người
Việt như khởi nghĩa Lý Tự Tiên và Đinh Kiến, khởi nghĩa Mai Hắc Đế, khởi nghĩa
Phùng Hưng và khởi nghĩa Dương Thanh từ cuối thế kỷ 7 đến thế kỷ 9.
Từ sau loạn An Sử (756-763), nhà Đường suy yếu và bị mất thực quyền kiểm soát với
nhiều địa phương do các phiên trấn cát cứ, không kiểm soát nổi phía nam. An Nam đô hộ
phủ bị các nước láng giềng Nam Chiếu, Champa, Chà Và vào cướp phá và giết hại người
bản địa rất nhiều, riêng Nam Chiếu đã giết và bắt đến 15 vạn người, quân Đường bị đánh
bại nhiều lần. Tới năm 866, nhà Đường kiểm soát trở lại và đổi gọi là Tĩnh Hải quân.

7


Cuối thế kỷ 9 nhà Đường bị suy yếu trầm trọng sau cuộc nổi loạn của Hoàng Sào và các
chiến tranh quân phiệt tại Trung Quốc. Tại Việt Nam, năm 905, một hào trưởng địa
phương người Việt là Khúc Thừa Dụ đã chiếm giữ thủ phủ Đại La, bắt đầu thời kỳ tự chủ
của người Việt.

Thời phong kiến độc lập
Bài chi tiết: Lãnh thổ Việt Nam qua từng thời kỳ

[Xây dựng đất nước

Chùa Một Cột xây dựng ở thế kỷ 11
Năm 905 Khúc Thừa Dụ đã xây dựng chính quyền tự chủ của người Việt nhân khi nhà
Đường suy yếu, đặt nền móng cho Việt Nam giành độc lập. Năm 939 Ngô Quyền xưng
vương sau trận chiến lịch sử trên sông Bạch Đằng trước đoàn quân Nam Hán, đến năm
968 Đinh Bộ Lĩnh xưng đế và đặt tên nước là Đại Cồ Việt. Đại Cồ Việt trải qua các triều
đại nhà Đinh, nhà Tiền Lê và 40 năm đầu của nhà Lý. Năm 1054 vua Lý Thánh Tông đổi
tên thành Đại Việt, Đại Việt trải qua nhiều chế độ phong kiến: nhà Lý (thế kỷ 11, 12),
nhà Trần (thế kỷ 13, 14), nhà Hồ (đầu thế kỷ 15), nhà Hậu Lê (thế kỷ 15, 16, 17, 18), Nhà

Mạc (thế kỷ 16), nhà Tây Sơn (cuối thế kỷ 18).
Trong thời kỳ này các vương triều phương bắc ở Trung Hoa, Mông Cổ mang quân sang
xâm lược, nhưng đều bị Việt Nam đẩy lùi: Lê Hoàn và Lý Thường Kiệt đẩy lui 2 lần
quân nhà Tống (năm 981 và 1076), nhà Trần đánh bại quân Mông Cổ năm 1258 và kế
tiếp là nhà Nguyên vào năm 1285 và 1288. Đầu thế kỷ 15 nhà Minh xâm chiếm được Đại
Việt và cai trị trong 20 năm, nhưng cũng bị Lê Lợi nổi lên đánh đuổi năm 1428 và thành
lập nhà Hậu Lê, Năm 1789 nhà Thanh sang xâm lược cũng bị Nguyễn Huệ đánh bại. Tuy
nhiên, từ cuối thế kỷ 18 trở đi phong kiến Việt Nam đã bắt đầu suy yếu.
Từ thế kỷ 10 tới thế kỷ 14, các triều đại Đại Việt xây dựng nhà nước trên cơ sở Phật giáo
cùng với những ảnh hưởng Nho giáo từ Trung Quốc. Tới cuối thế kỷ 14, ảnh hưởng của
Phật giáo dần thu hẹp và ảnh hưởng của Nho giao tăng lên, sự phát triển nhà nước Nho
giáo theo mô hình kiểu Trung Hoa, sang đến thế kỷ 15 thì Đại Việt có một cơ cấu chính
quyền tương tự nước láng giềng Trung Hoa, cơ cấu luật pháp, hành chính, văn chương và
nghệ thuật đều theo kiểu Trung Hoa.

8


Việt Nam trong thời phong kiến phát triển vẫn dựa vào nông nghiệp mà chủ yếu là trồng
lúa nước để cung cấp lương thực, từng triều đại đã lần lượt cho đắp đê ngăn lũ lụt, đào
kênh dẫn nước cũng như giao thông đi lại, khai hoang các vùng đất đồng bằng ven biển
để tăng diện tích trồng trọt. Các hoạt động thương mại, ngoại thương cũng đã được hình
thành. Vào thời nhà Lý, nhà Trần đã có buôn bán với các vương quốc trong vùng ở Trung
Hoa, Java, Xiêm La tại cảng Vân Đồn (Quảng Ninh), thời Hậu Lê đã có buôn bán thêm
với Châu Âu, Nhật Bản tại các trung tâm như Thăng Long và Hội An

Đàng Ngoài-Đàng Trong
Bài chi tiết: Trịnh-Nguyễn phân tranh

Việt Nam thời Trịnh - Nguyễn phân tranh năm 1650

Bắt nguồn từ thời kỳ Nam-Bắc triều, năm 1527, sau khi giành ngôi từ nhà Hậu Lê, Mạc
Đăng Dung đã lập nên nhà Mạc. Nhà Hậu Lê được tái lập vài năm sau đó với sự giúp đở
của Nguyễn Kim, một tướng cũ và dành được sự kiểm soát khu vực từ Thanh Hóa vào
Bình Định. Sau khi Nguyễn Kim chết, người con rể là Trịnh Kiểm đã dành quyền bính,
60 năm kế tiếp Trịnh Kiểm và các con cháu của ông đã dành được chiến thắng trước nhà
Mạc vào năm 1592 và mở đầu cho thời kỳ đặc biệt trong lịch sử phong kiến Việt Nam,
thời kỳ vua Lê chúa Trịnh
Sự mâu thuẩn giữa hai người cận thần của nhà Hậu Lê là Trịnh Kiểm và Nguyễn Hoàng
(trấn thủ xứ Thuận Hóa và Quảng Nam) đã bắt đầu cho sự phân chia đất nước ra thành
hai lãnh thổ, hai chính quyền riêng biệt là Đàng Ngoài và Đàng Trong. Các con cháu của
Trịnh Kiểm lần lượt kế tiếp nhau nắm quyền ở Đàng Ngoài được gọi là các chúa Trịnh,
các con cháu của Nguyễn Hoàng kế tiếp nhau cầm quyền ở Đàng Trong được gọi là các
chúa Nguyễn, các vua Lê chỉ là danh vị hoàng đế của Đại Việt trên danh nghĩa.

9


Chùa Cầu do các thương nhân Nhật Bản góp công xây dựng ở thế kỷ 17
Thời kỳ đất nước chia thành 2 lãnh thổ riêng biệt Đàng Ngoài và Đàng Trong cũng là
thời kỳ hoạt động ngoại thương sôi động, cả Đàng Ngoài và Đàng Trong đều tham gia
vào hệ thống giao thương toàn cầu bởi các thương nhân Châu Âu, Nhật Bản, Trung Hoa
đến Đại Việt buôn bán. Người Hà Lan, Anh, Pháp lập các thương điếm tại Kẻ Chợ (Hà
Nội), người Bồ Đào Nha, Anh, Nhật Bản đặt các thương điếm tại Faifo (Hội An). Các
mặt hàng chính được xuất khẩu từ Đại Việt là tơ lụa, hồ tiêu, gốm sứ. Tuy nhiên, sang
đến thế kỷ 18 thì hoạt động thương mại giảm sút ở cả Đàng Trong lẫn Đàng Ngoài[14].
Cùng với sự giao thương buôn bán với các nước phương Tây, đạo Công giáo cũng bắt
đầu được truyền vào Đại Việt qua các giáo sĩ công giáo phương Tây theo các tàu buôn
vào giảng đạo ở cả Đàng Ngoài và Đàng Trong, lúc đó các chúa Trịnh và chúa Nguyễn
đều ngăn cấm, nên ảnh hưởng của Công giáo ở Việt Nam trong thời kỳ này còn hạn chế.


Mở rộng lãnh thổ về phương Nam
Bài chi tiết: Nam tiến

Lãnh thổ Việt Nam mở rộng sau các cuộc Nam tiến (1069-1757)
Dấu ấn về sự mở rộng đất nước trong thời kỳ phong kiến này là sự bành trướng xuống
phương Nam, cuộc Nam tiến nhằm tìm đất nông nghiệp để cung cấp lương thực cho sự
gia tăng dân số của Đại Việt. Với một quân đội có tổ chức tốt hơn, từ thế kỷ 11 đến thể
kỷ 15, sau các cuộc chiến tranh giữa Đại Việt và Champa, lãnh thổ Đại Việt đã được mở
rộng thêm từ đèo Ngang (Quảng Bình) tới núi Thạch Bi (Phú Yên).

10


Từ thế kỷ 17, Đàng Trong là một lãnh thổ, chính quyền riêng biệt với Đàng Ngoài. Nhằm
tiếp tục tìm kiếm thêm diện tích đất đai cho sự gia tăng dân số, cũng như tăng cường
quyền lực các chúa Nguyễn đã lần lượt tiến hành các cuộc chiến tranh với Champa và sát
nhập hoàn toàn phần lãnh thổ còn lại của người Chăm (từ Phú Yên tới Bình Thuận) vào
năm 1693.
Tiếp đó, sau các cuộc di dân của người Việt từ Đàng Trong vào sinh sống ở vùng đất của
người Khmer, các chúa Nguyễn lần lượt thiết lập chủ quyền từng phần trên vùng đất Nam
Bộ, sau các cuộc chiến với vương quốc Khmer, vương quốc Ayutthaya cũng như các yếu
tố chính trị khác, các chúa Nguyễn đã giành được hoàn toàn Nam Bộ ngày nay vào sự
kiểm soát của mình vào năm 1757.
Sự khác biệt về văn hóa giữa hai miền có lẽ bắt nguồn từ cuộc Nam tiến này. Văn hóa
Nho giáo trong chính quyền miền Nam không phát triển nhiều, do họ chịu ảnh hưởng
phần nào của văn hóa Champa, văn hóa Khmer. Ngày nay, người miền Bắc tiết kiệm, bảo
vệ nhóm, giỏi ứng xử; người miền Nam thoải mái trong đời sống, trong suy nghĩ và thẳng
thắn[15]. Tổ chức hành chính cũng khác biệt. Cách tổ chức chính quyền tỉ mỉ ở miền Bắc
đã được đơn giản hóa ở miền Nam[16].


Thống nhất đất nước
Bài chi tiết: Chiến tranh Tây Sơn–Chúa Nguyễn (1789-1802)

An Nam Đại Quốc họa đồ năm 1838
Từ giữa thế kỷ 18, các cuộc chiến liên tục giữa Đàng Trong với vương quốc Khmer,
Ayutthaya cũng như các cuộc tranh chấp ở Đàng Ngoài làm cho đời sống người dân thêm
cùng quẫn. Nhiều cuộc khởi nghĩa của nông dân đã nổ ra, song phần lớn chịu thất bại.
Tới phong trào nổi dậy của Tây Sơn bùng nổ năm 1771 tại Quy Nhơn (Bình Định) đã
phát triển rộng lớn đánh bại hai chế độ cai trị của hai họ Nguyễn, Trịnh, chấm dứt việc
chia đôi đất nước, cũng như bãi bỏ nhà Hậu Lê vốn chỉ còn trên danh nghĩa. Nhà Tây Sơn
đã đánh bại 5 vạn quân Xiêm La (năm 1784) tại miền Nam và 20 vạn quân Mãn Thanh

11


(năm 1789) xâm lược tại miền Bắc. Nguyễn Huệ chính thức trở thành vua của Đại Việt
lấy niêu hiệu là Quang Trung, thống nhất hầu hết lãnh thổ từ miền Bắc vào tới Gia Định,
tuy nhiên sau cái chết của ông năm 1792, nội bộ lục đục khiến chính quyền Tây Sơn càng
ngày càng suy yếu.
Một người thuộc dòng dõi chúa Nguyễn ở miền Nam là Nguyễn Phúc Ánh, với sự hậu
thuẫn của một số người Pháp, đã đánh bại được nhà Tây Sơn vào năm 1802. Ông lên làm
vua, lấy niên hiệu là Gia Long và trở thành vị vua đầu tiên cai trị một đất nước thống nhất
với hai đồng bằng phì nhiêu nối với nhau bằng một dải duyên hải, năm 1804 ông cho đổi
tên nước từ Đại Việt thành Việt Nam.
Gia Long (1802-1820) đóng đô ở Huế, ông cho xây dựng kinh đô Huế tương tự như Tử
Cấm Thành ở Bắc Kinh (Trung Quốc). Gia Long và con trai Minh Mạng (cai trị 18201841) đã cố gắng xây dựng Việt Nam theo khái niệm và phương pháp hành chính Trung
Hoa. Từ thập niên 1830, giới trí thức Việt Nam (đại diện tiêu biểu là Nguyễn Trường Tộ)
đã đặt ra yêu cầu học hỏi phương Tây để phát triển công nghiệp - thương mại, nhưng họ
chỉ là thiểu số. Đáp lại, vua Minh Mạng và những người kế tục Thiệu Trị (1841-1847) và
Tự Đức (1847-1883) chọn chính sách đã lỗi thời là coi trọng phát triển nông nghiệp (dĩ

nông vi bản) và ngăn cản Thiên chúa giáo, tôn giáo từ phương Tây.
Những nhà truyền giáo người Pháp thực ra đã có mặt ở Việt Nam từ giữa thế kỷ 17. Họ
cũng hỗ trợ nhân lực và vật lực cho nhà Nguyễn trong cuộc chiến với nhà Tây Sơn. Đến
giữa thế kỷ 19, có khoảng 450.000 người cải đạo sang Thiên chúa giáo [17]. Chính quyền
thực sự lo ngại sự hình thành của một tôn giáo có tổ chức nên đã sát hại những người
theo đạo Thiên chúa giáo và san bằng nhiều xóm đạo.

Chương 2 : Vài nét về tư tưởng dân tộc ỏ nước ta
Ảnh hưởng của thời kỳ bắc thuộc đến văn hóa Việt Nam
Các triều đại này cố gắng đồng hóa dân tộc Việt Nam theo tộc Hán. Trong hơn 1.000
năm bị Trung Hoa cai trị, người Việt chịu ảnh hưởng bởi thể chế chính trị, xã hội và văn
hóa của phương Bắc.
Người Việt cũng chịu ảnh hưởng của Phật giáo Đại thừa đang phát triển ở Đông Á. Mặc
dù lúc đó Đông Nam Á đã chịu ảnh hưởng của Ấn Độ giáo và Phật giáo Nguyên thủy.
Phật giáo Đại thừa được hòa trộn với Nho giáo, Lão giáo và thêm vào đó là các tín
ngưỡng dân gian địa phương[13].

Các bằng chứng ngôn ngữ học, văn hóa dân gian
12


Truyền thuyết "Con Rồng cháu Tiên" nói về nguồn gốc của dân tộc Việt.
Nguồn gốc dân tộc Việt bắt đầu từ họ Hồng Bàng. Vị vua đầu tiên là Kinh Dương
Vương (vua nước Xích Quỷ) hiện còn có mộ tại làng An Lữ, huyện Thuận Thành,
tỉnh Bắc Ninh. Ông lên làm vua vào khoảng năm Nhâm Tuất (hơn 2000 năm
trước Công nguyên) sau đó lấy bà Long Nữ (con gái Thần Long là vua Hồ Động
Đình), sinh hạ được Sùng Lãm (lấy hiệu là Lạc Long Quân). Ông lấy bà Âu Cơ
(con gái Đế Lai) sinh ra 100 trứng, nở ra 100 người con. Một hôm nhà Vua bảo
bà Âu Cơ: "Ta là giống Rồng, nàng là giống tiên, thủy hỏa khắc nhau, chung hợp
thật khó". Bèn từ biệt, hai ông bà đồng ý chia hai số người con; năm mươi người

con theo mẹ lên núi, số còn lại theo cha xuống biển. Sau đó, nước Xích Quỉ chia
thành nhiều nước gọi là Bách Việt. Một trong các nước nhỏ này là nước Văn
Lang. Lạc Long Quân về sau phong cho người con trưởng làm vua nước Văn
Lang, xưng hiệu là Hùng Vương thứ 1, đặt quốc hiệu là Văn Lang, đóng đô ở
Phong Châu (Bạch Hạc, Vĩnh Phúc hoặc Phú Thọ). Dòng dõi Hùng Vương lưu
truyền được 18 đời, đến đời Hùng Vương thứ 18 thì bị nhà Thục lấy mất nước.
Một số nhà nhân chủng ngôn ngữ học đã xác định "một số từ Trung Quốc có gốc rễ từ
các từ Việt cổ", như "giang" (南) có nghĩa là sông (xem Dương Tử Giang). 南, 南, 南 trong
Hán văn cổ đều có âm là "việt" và cùng nghĩa có thể thay thế lẫn nhau được. Ngày nay 南,
"lưỡi rìu dùng trong nghi lễ" và có thể tìm thấy rất nhiều ở Hàng Châu, Triết Giang, là
một phát minh của phương Nam; 南 là tên gọi tắt cho tỉnh Quảng Đông; còn 南 chỉ Việt
(Việt Nam) hoặc khu vực bắc Triết Giang bao quanh Thiệu Hưng và Ninh Ba.
Các tên gọi có thể có nguồn gốc phương Nam như Thần Nông, Nữ Oa vì không theo ngữ
pháp tiếng Hán.
Các tập tục: ăn trầu, nhuộm răng,...

Các bằng chứng ngôn ngữ Văn hoá có chữ viết
Trích theo kho tàng dân gian Việt Nam cũng chứa đựng nhiều câu chuyện nói về
tình đoàn kết giữa các dân tộc : Sự tích hồ gươm, một bọc trăm trứng , …
Trong quá trình đấu tranh chống phong kiến phương bắc có không ít bài thơ bất hủ
khẳng định độc lập chủ quyền dân tộc :
“ Sông núi nước nam vua nam ở
Giành giành định phận ở sách trời
Cớ sao lũ giặc dám xâm phạm
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời”
(Nam Quốc Sơn Hà - Lý Thường Kiệt)
Hay khí thế hiên ngang , hào khí bất khuất của bao lớp người dân tộc việt nam
“ Như nước Đại Việt ta từ trước
vốn xung nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia

Phong tục băc nam cũng khác

13


Từ triệu Đinh Lý Trần bao đời dựng độc lập
Cùng Hán Đường Tống Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Nhưng hào kiệt đời nào cũng có”
(Bình ngô đại cáo -Nguyễn Trãi )
Cả khi đất nước chìm trong ách đô hộ của TD pháp đầy hà khắc và bất công làm điêu
đứng bao thế hệ :
“Lũ chúng con ngủ trong giường chiếu hẹp
Giấc mơ con đè nát cuộc đời con
Hạnh phúc đựng trong một tà áo đẹp
một mái nhà yên rủ bóng xuống tâm hồn”
( Chế lan Viên)
“Đêm thu buồn lám chị hằng ơi
Trần thế em nay chán nửa rồi”
(Tản Đà)
Mặc dù bị đàn áp rất dã man nhưng trong các vần thơ ấy vẫn le lói sáng lên tình cảm dân
tộc , lòng tự hàotự tôncủa dân tộc :
“Nước non nặng một lời thề
Nước đi đi mãi chẳng về cùng non
Nhớ lời nguyện nước cùng non
Nước đi chưa lại non còn đứng trông” (Tản Đà)
“Khi xưa cũng lám anh hùng
Một tay ngang dọc vẫy vùng bể khơi”
(Chiêu hồn nước -Phạm tất đắc )


Chương 3: Hoàn cảnh lịch sử và nội dung tư tưởng Hồ
Chí Minh
I.

Thời kỳ pháp Thuộc đến truớc cách mạng tháng
8/1945

Thời Pháp thuộc
Bài chi tiết: Pháp thuộc
Năm 1858, Hải quân Pháp đổ bộ vào cảng Đà Nẵng và sau đó xâm chiếm Sài Gòn. Năm
1862, Tự Đức ký hiệp ước nhượng ba tỉnh miền Đông cho Pháp. Năm 1867, Pháp chiếm
nốt ba tỉnh miền Tây kế tiếp để tạo thành một lãnh thổ thực dân Cochinchine (Nam kỳ).
14


Từ năm 1873 đến năm 1886, Pháp xâm chiếm nốt những phần còn lại của Việt Nam qua
những cuộc chiến phức tạp ở miền Bắc. Miền Bắc khi đó rất hỗn độn do những mối bất
hòa giữa người Việt và người Hoa lưu vong. Chính quyền Việt Nam không thể kiểm soát
nổi mối bất hòa này. Cả Trung Hoa và Pháp đều coi khu vực này thuộc tầm ảnh hưởng
của mình và gửi quân đến đó, nhưng cuối cùng thì người Pháp đã chiến thắng.

Quân Pháp tấn công quân Thanh tại Lạng Sơn năm 1885
Pháp tuyên bố là họ sẽ bảo hộ Bắc kỳ (Tonkin) và Trung kỳ (Annam), nơi họ tiếp tục duy
trì các hoàng đế bù nhìn cho đến Bảo Đại (làm vua từ 1926 đến 1945 và quốc trưởng từ
1949 đến 1956). Năm 1885, các quan lại Việt Nam tổ chức phong trào kháng chiến Cần
Vương chống Pháp nhưng thất bại.
Vào năm 1887, hoàn tất quá trình xâm lược Việt Nam, người Pháp đã tổ chức ra một bộ
máy cai trị khá hoàn chỉnh từ trung ương cho đến địa phương. Ở trung ương là Phủ toàn
quyền Đông Dương (ban đầu thủ phủ ở Sài Gòn, năm 1902 đặt ở Hà Nội). Đứng đầu Phủ
toàn quyền gọi là Toàn quyền Đông Dương, là người có quyền hành cao nhất trong thể

chế chính trị Pháp trên toàn cõi Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ và Cao Miên. Đứng đầu ở 3
kỳ là: Thống đốc Nam kỳ, Khâm sứ Trung kỳ và Thống sứ Bắc kỳ, cả ba đều nằm dưới
quyền giám sát và điều khiển tối cao của viên Toàn quyền Đông Pháp, trực thuộc bộ
Thuộc địa. Đến năm 1893 quyền kiểm soát của Toàn quyền Đông Pháp được mở rộng
thêm, bao gồm cả Ai Lao.

15


Việt Nam bị chia làm 3 kỳ thuộc Liên bang Đông Dương
Những người Việt cấp tiến đã thành lập Việt Nam Quốc dân đảng (giống Quốc Dân Đảng
ở Trung Hoa) năm 1927. Tuy nhiên, đến năm 1930, sau khi cuộc khởi nghĩa Yên Bái thất
bại, Việt Nam Quốc dân đảng bị suy yếu nghiêm trọng. Cùng năm, một số thanh niên
Việt Nam theo chủ nghĩa Marx-Lenin thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương, nhưng
cũng mau chóng trở thành mục tiêu tiêu diệt của Pháp mặc dù tổ chức của họ thân thiện
với Mặt trận Bình dân trong chính quyền Pháp.
Nhật Bản tấn công Đông Dương vào năm 1940 và nhanh chóng thỏa thuận được với
chính quyền Vichy ở Pháp để cho Nhật toàn quyền cai trị Đông Dương. Chính quyền
thực dân Pháp chỉ tồn tại đến tháng 3 năm 1945 khi Nhật tấn công toàn bộ Đông Dương.
Ngay sau đó, Nhật thiết lập một chính quyền thân Nhật với quốc vương Bảo Đại và thủ
tướng Trần Trọng Kim, đặt quốc hiệu mới đế quốc Việt Nam và quốc kỳ là cờ quẻ ly.
Việt Minh (viết tắt của Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội) thành lập năm 1941 với vai
trò một mặt trận của Đảng Cộng sản Đông Dương được điều hành từ Pắc Bó (ở biên giới
Việt-Trung) bởi Hồ Chí Minh khi ông trở về nước lần đầu tiên kể từ 1911 (năm ông rời
Việt Nam), mặc dù ông có liên hệ với những người Cộng sản trong nước trong các thập
niên 1920 và 1930.
Đầu năm 1945, Việt Nam rơi vào một tình trạng hỗn loạn. Chiến tranh đã làm kiệt quệ
nền kinh tế, người Nhật chiếm lấy lúa gạo và các sản phẩm khác, bắt dân phá lúa trồng
đay để phục vụ chiến tranh, cộng thêm thiên tai, nạn đói (Nạn đói Ất Dậu) đã xảy ra tại
Bắc kỳ và Trung kỳ. Người ta ước tính rằng đã có khoảng hai triệu người chết vì nạn đói

này [18].

16


II. Tư tuởng Hồ chí minh về vấn đề dân tộc
1. Cuộc đời và sự nghiệp của chủ tịch Hồ Chí Minh
Xuất thân và quê quán
Ông tên thật là Nguyễn Sinh Cung (,giọng địa phương phát âm là Côông), tự là
Tất Thành[5]. Quê nội là làng Kim Liên (tên Nôm là làng Sen). Ông được sinh ra
ở quê ngoại là làng Hoàng Trù (tên Nôm là làng Chùa, nằm cách làng Sen khoảng
2 km) và sống ở đây cho đến năm 1895. Hai làng này vốn cùng nằm trong xã
Chung Cự, thuộc tổng Lâm Thịnh, huyện Nam Đàn. Quê nội của ông, làng Kim
Liên[6] là một làng quê nghèo khó. Phần lớn dân chúng không có ruộng, phải làm
thuê cấy rẽ, mặc quần ít, đóng khố nhiều, bởi thế nên làng này còn có tên là làng
Đai Khố[7]. Vào đời ông, phần lớn dòng họ của ông đều cơ hàn, kiếm sống bằng
nghề làm thuê, và cũng có người tham gia các hoạt động chống Pháp[8].
Thân phụ ông là một nhà nho tên là Nguyễn Sinh Sắc, từng đỗ phó bảng[9]. Thân
mẫu là bà Hoàng Thị Loan. Ông có một người chị là Nguyễn Thị Thanh, một
người anh là Nguyễn Sinh Khiêm (tự Tất Đạt, còn gọi là Cả Khiêm) và một người
em trai mất sớm là Nguyễn Sinh Nhuận (1900-1901, tên khi mới lọt lòng là Xin).
Theo lý lịch chính thức, Nguyễn Sinh Cung sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890, tuy
nhiên có những thông tin khác không đồng nhất:
Tuổi trẻ
Năm 1895, Nguyễn Sinh Cung cùng cha mẹ và anh trai vào Huế lần đầu tiên. Sau
khi mẹ mất (1901), ông về Nghệ An ở với bà ngoại một thời gian ngắn rồi theo
cha về quê nội, từ đây ông bắt đầu dùng tên Nguyễn Tất Thành. Tất Thành theo
học cử nhân Hoàng Phạm Quỳnh và một số ông giáo khác[10].
Năm 1906, Nguyễn Tất Thành theo cha vào Huế lần thứ hai và học ở trường tiểu
học Pháp-Việt Đông Ba. Tháng 9 năm 1907, ông vào học tại trường Quốc học

Huế, nhưng bị đuổi học vào cuối tháng 5 năm 1908 vì tham gia phong trào chống
thuế ở Trung Kỳ[11]. Cha ông bị triều đình khiển trách vì "hành vi của hai con trai".
Hai anh em Tất Đạt và Tất Thành bị giám sát chặt chẽ. Ông quyết định vào miền
Nam để tránh sự kiểm soát của triều đình.
Đầu năm 1910, Nguyễn Tất Thành vào đến Phan Thiết. Ông dạy chữ Hán và chữ
Quốc ngữ cho học sinh lớp ba và tư tại trường Dục Thanh của hội Liên Thành[12]
[13]
. Khoảng trước tháng 2 năm 1911, ông nghỉ dạy và vào Sài Gòn. Tại đây, ông
theo học trường Bá Nghệ là trường đào tạo công nhân hàng hải và công nhân
chuyên nghiệp cho xưởng Ba Son. Ở đây, ông được nuôi ăn nhưng chỉ học 3 tháng

17


thì bỏ khi nhận ra rằng phải học 3 năm mới thành nghề[14]. Ông quyết định sẽ tìm
một công việc trên một con tàu viễn dương để được ra nước ngoài.
Hoạt động ở nước ngoài
Bài chi tiết: Hoạt động của Hồ Chí Minh trong giai đoạn 1911-1941
Thời kì 1911-1919
Ngày 5 tháng 6 năm 1911, từ Bến Nhà Rồng, ông lấy tên Văn Ba, lên đường sang
Pháp với nghề phụ bếp trên chiếc tàu buôn Đô đốc Latouche-Tréville, với mong
muốn học hỏi những tinh hoa và tiến bộ từ các nước phương Tây. Sau khi ở Hoa
Kỳ một năm (cuối 1912-cuối 1913), ông quay trở lại nước Anh làm nghề cào
tuyết, đốt lò rồi phụ bếp cho khách sạn. Cuối năm 1917, ông trở lại nước Pháp,
sống và hoạt động ở đây cho đến năm 1923.
Thời kì ở Pháp

Tấm biển đồng gắn tại nhà số 9 ngõ Compoint, quận 17 Paris: "Tại đây, từ năm
1921-1923, Nguyễn Ái Quốc đã sống và chiến đấu vì quyền độc lập và tự do cho
nhân dân Việt Nam và các dân tộc bị áp bức"

Ngày 19 tháng 6 năm 1919, thay mặt Hội những người An Nam yêu nước,
Nguyễn Tất Thành đã mang tới Hội nghị Hòa bình Versailles bản Yêu sách của
nhân dân An Nam gồm 8 điểm để kêu gọi lãnh đạo các nước Đồng Minh áp dụng
các lý tưởng của Tổng thống Wilson cho các lãnh thổ thuộc địa của Pháp ở Đông
Nam Á, trao tận tay tổng thống Pháp và các đoàn đại biểu đến dự hội nghị[15]. Bản
yêu sách này do một nhóm các nhà ái quốc Việt Nam sống ở Pháp, trong đó có
Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường và Nguyễn Tất Thành, cùng viết, và được ký
tên chung là Nguyễn Ái Quốc[16]. Từ đây, Nguyễn Tất Thành công khai nhận mình
là Nguyễn Ái Quốc[17] và sử dụng tên này trong suốt 30 năm sau đó[18].

18


Tranh biếm họa của Nguyễn Ái Quốc cho tờ Le Paria, đời sống người dân dưới
ách thống trị của thực dân Pháp
Năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của
Lenin, từ đó ông đi theo chủ nghĩa cộng sản. Ông tham dự Đại hội lần thứ 18 của
Đảng Xã hội Pháp tại Tours (từ 25 đến 30 tháng 12 năm 1920) với tư cách là đại
biểu Đông Dương của Đảng Xã hội Pháp, ông trở thành một trong những sáng lập
viên của Đảng Cộng sản Pháp và tách khỏi đảng Xã hội. Năm 1921, ông cùng một
số nhà yêu nước của các thuộc địa Pháp lập ra Hội Liên hiệp Thuộc địa (Union
intercoloniale - Association des indigènes de toutes les colonies) nhằm tập hợp các
dân tộc bị áp bức đứng lên chống chủ nghĩa đế quốc. Năm 1922, ông cùng một số
nhà cách mạng thuộc địa lập ra báo Le Paria (Người cùng khổ), làm chủ nhiệm
kiêm chủ bút, nhằm tố cáo chính sách đàn áp, bóc lột của chủ nghĩa đế quốc nói
chung và thực dân Pháp nói riêng. Tác phẩm "Bản án chế độ thực dân Pháp" bằng
tiếng Pháp (Procès de la colonisation française) do Nguyễn Ái Quốc viết được
xuất bản năm 1925, đã tố cáo chính sách thực dân tàn bạo của Pháp và đề cập đến
phong trào đấu tranh của các dân tộc thuộc địa.
Thời kì ở Liên Xô lần thứ nhất


Nguyễn Ái Quốc, chụp tại Liên Xô năm 1923

19


Tháng 6 năm 1923, Nguyễn Ái Quốc đến Moskva học tập tại trường Đại học
Phương Đông. Tại đây ông đã dự Hội nghị lần thứ nhất Quốc tế Nông dân (họp từ
ngày 12 đến ngày 15 tháng 10 năm 1923), ông được bầu vào Ban chấp hành và
Đoàn Chủ tịch Quốc tế Nông dân. Tại Đại hội lần thứ 5 Quốc tế Cộng sản (họp từ
ngày 17 tháng 6 đến ngày 8 tháng 7 năm 1924), ông được cử làm ủy viên Ban
Phương Đông, phụ trách Cục Phương Nam.
Thời kì ở Trung Quốc (1924-1927)
Cuối năm 1924, Nguyễn Ái Quốc rời Liên Xô tới Quảng Châu, lấy tên là Lý
Thụy, làm phiên dịch trong phái đoàn cố vấn của chính phủ Liên Xô bên cạnh
Chính phủ Trung Hoa Dân quốc, do Mikhail Markovich Borodin làm trưởng đoàn.
Năm 1925, ông thành lập tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội
ở Quảng Châu (Trung Quốc) để truyền bá chủ nghĩa Marx-Lenin (thường được
phiên âm là Mác–Lê-nin) vào Việt Nam[cần dẫn nguồn]. Cuốn Đường Kách mệnh, mà
ông là tác giả, tập hợp các bài giảng tại các lớp huấn luyện chính trị của Việt Nam
Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội, được xuất bản năm 1927.
Theo nghiên cứu của một số sử gia có tên tuổi tại Hoa Kỳ, Pháp, và Trung Quốc,
trong thời gian ở Quảng Châu, ông đã kết hôn với một thiếu nữ Trung Quốc tên là
Tăng Tuyết Minh (ngày 18 tháng 10 năm 1926) và sống với nhau cho đến khi ông
rời Quảng Châu, vào khoảng tháng 4 hoặc 5 năm 1927. Sau khi ông đã trở thành
Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, cả hai người đã tìm nhau thông qua
tổ chức Đảng Cộng sản Trung Quốc và cơ quan ngoại giao Việt Nam tại Trung
Quốc nhưng không thành công.[19][20]
Cùng năm 1925, ông tham gia thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á
Đông, do Liêu Trọng Khải, một cộng sự thân tín của Tôn Dật Tiên, làm hội trưởng

và ông làm bí thư. Do Tưởng Giới Thạch khủng bố các nhà cách mạng cộng sản
Trung Quốc và Việt Nam, ông rời Quảng Châu đi Hương Cảng, rồi sang Liên Xô.
Tháng 11 năm 1927, ông được cử đi Pháp, rồi từ đó đi dự cuộc họp Đại hội đồng
của Liên đoàn chống đế quốc từ ngày 9 đến ngày 12 tháng 12 năm 1927 tại
Brussel, Bỉ.
Những năm 1928, 1929
Mùa thu 1928, ông từ châu Âu đến Xiêm La, với bí danh Thầu Chín để tuyên
truyền và huấn luyện cho Việt kiều.
Cuối năm 1929, ông rời Xiêm La sang Trung Quốc.

20


Thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Ngày 3 tháng 2 năm 1930, tại Cửu Long (南南, Kowloon) thuộc Hương Cảng, ông
thống nhất ba tổ chức đảng cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam (sau đó đổi
tên là "Đảng Cộng sản Đông Dương", rồi đổi thành "Đảng Lao Động Việt Nam"
và nay là "Đảng Cộng sản Việt Nam").
Tháng 3 năm 1930, ông trở lại Xiêm La trong một thời gian ngắn, sau đó quay lại
Trung Hoa.
Những năm 1931 - 1933
Năm 1931, dưới tên giả là Tống Văn Sơ (Sung Man Ch'o), Nguyễn Ái Quốc bị
nhà cầm quyền Hương Cảng bắt giam với ý định trao cho chính quyền Pháp ở
Đông Dương. Tờ L'Humanité số ra ngày 9 tháng 8 năm 1932 đưa tin Nguyễn Ái
Quốc đã chết vì bệnh lao phổi trong trạm xá nhà tù tại Hồng Kông đồng thời tố
cáo đây là âm mưu của thực dân Pháp câu kết với thực dân Anh nhằm ám sát
người lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương[21]. Nhưng sau đó nhờ sự biện hộ
và giúp đỡ tận tình của luật sư Frank Loseby[22], Tống Văn Sơ được thả ngày 28
tháng 12 năm 1932. Ông đi Thượng Hải rồi bí mật quay trở lại Liên Xô.
Thời kì ở Liên Xô lần thứ hai

Ông đến Moskva vào mùa xuân năm 1934. Với bí danh Lin, Nguyễn Ái Quốc học
ở Trường Quốc tế Lenin (1934-1935). Ông dự Đại hội lần thứ 7 Quốc tế Cộng sản
(từ ngày 25 tháng 7 đến ngày 20 tháng 8 năm 1935) với vai trò quan sát viên của
ban thư ký Dalburo với tên Linov[23]. Theo tài liệu của một số nhà sử học, ông bị
buộc ở Liên Xô cho đến năm 1938 và bị giam lỏng ở đó do bị nghi ngờ về lý do
ông được nhà cầm quyền Hương Cảng trả tự do[24]. Trong những năm 1931-1935,
ông đã bị Trần Phú và sau đó là Hà Huy Tập phê phán về đường lối cải lương
"liên minh với tư sản và địa chủ vừa và nhỏ", không đúng đường lối đấu tranh giai
cấp của Quốc tế Cộng sản[25][26].
Từ năm 1938 đến đầu năm 1941
Năm 1938, ông trở lại Trung Quốc. Trong vai thiếu tá Bát Lộ quân Hồ Quang,
Nguyễn Ái Quốc đến công tác tại văn phòng Bát Lộ quân Quế Lâm, sau đó đi Quý
Dương, Côn Minh rồi đến Diên An, căn cứ đầu não của Đảng Cộng sản Trung
Quốc và Hồng quân Trung Quốc mùa đông 1938.

21


Trở về Việt Nam
Ông trở về Việt Nam vào ngày 28 tháng 1 năm 1941[27], ở tại hang Cốc Bó, bản
Pác Bó, tỉnh Cao Bằng với bí danh Già Thu. Tại đây, ông mở các lớp huấn luyện
cán bộ[28], cho in báo, tham gia các hoạt động thường ngày... Tài liệu huấn luyện
và tuyên truyền chủ yếu là sách do ông dịch và viết về nhiều chủ đề. Tại cuối một
cuốn sách như vậy ông ghi "Việt Nam độc lập năm 1945"[29]. Ông cho lập nhiều
hội đoàn nhân dân như hội phụ nữ cứu quốc, hội phụ lão cứu quốc, hội nông dân
cứu quốc,...
Tháng 5 năm 1941, hội nghị mở rộng lần thứ 8 của Trung ương Đảng họp ở Cao
Bằng và quyết định thành lập Việt Nam Độc lập Đồng minh Hội (Việt Minh). Ông
là chủ tọa.
Từ khi bị giam ở Trung Quốc cho tới ngày 2 tháng 9 năm 1945

Ngày 13 tháng 8 năm 1942, ông lấy tên Hồ Chí Minh, sang Trung Quốc với danh
nghĩa đại diện của cả Việt Minh và Hội quốc tế phản xâm lược Việt Nam (một hội
đoàn được ông tổ chức ra trước đó) để tranh thủ sự ủng hộ của Trung Hoa Dân
quốc. Đây là lần đầu tiên trong các giấy tờ cá nhân ông sử dụng tên Hồ Chí Minh.
Ông khai nhân thân là "Việt Nam-Hoa kiều"[30].
Ông bị chính quyền địa phương của Trung Hoa Dân quốc bắt ngày 29 tháng 8 khi
đang đi cùng một người Trung Quốc dẫn đường và giam hơn một năm, trải qua
khoảng 30 nhà tù. Ông viết Nhật ký trong tù trong thời gian này (từ tháng 8 năm
1942 đến tháng 9 năm 1943). Các đồng chí của ông (Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên
Giáp, Vũ Anh...) ở Việt Nam tưởng lầm là ông đã chết (sau này nguyên nhân được
làm rõ là do một cán bộ Cộng sản tên Cáp nghe và hiểu sai ngữ nghĩa)[31]. Họ thậm
chí đã tổ chức đám tang và đọc điếu văn cho ông (Phạm Văn Đồng làm văn điếu)
cũng như "mở chiếc va-li mây của Bác ra tìm xem còn những gì có thể giữ lại làm
kỉ niệm" (lời của Võ Nguyên Giáp). Vài tháng sau họ mới biết được tình hình thực
của ông sau khi nhận được thư do ông viết và bí mật nhờ chuyển về.
Sau khi được trả tự do ngày 10 tháng 9 năm 1943, Hồ Chí Minh tham gia Ban
Chấp hành Trung ương Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội. Từ trước đó, Việt
Minh cũng đã ra tuyên bố ủng hộ Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội. Ông cũng
cố gắng tranh thủ Trương Phát Khuê, tướng cai quản vùng Quảng Đông và Quảng
Tây của Quốc Dân Đảng, nhưng kết quả là hạn chế.
Cuối tháng 9 năm 1944, ông trở về Việt Nam. Khi này các đồng chí của ông ở
Liên tỉnh ủy Cao-Bắc-Lạng như Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng... đã quyết
định tiến hành phát động chiến tranh du kích trong phạm vi liên tỉnh. Ông ngăn
chặn thành công quyết định này[32]. Thay vào đó, ông ra lệnh tổ chức lập lực lượng

22


vũ trang và căn cứ địa cho chặt chẽ và hiệu quả hơn. Ông trực tiếp ra chỉ thị thành
lập một đội quân mang tính chính thống và chính quy là đội Việt Nam Tuyên

truyền Giải phóng quân, với 34 đội viên là các tiểu đội trưởng, trung đội trưởng
hoặc thành viên của các đội quân nhỏ bé và rải rác trước đó của Việt Minh. Cuối
năm 1944, ông lại trở lại Côn Minh hoạt động cho tới đầu năm 1945.
Ngay trước khi Hội nghị Tân Trào họp vào tháng 8 năm 1945, ông ốm nặng,
tưởng không qua khỏi [33].
Ngày 16 tháng 8 năm 1945, Tổng bộ Việt Minh triệu tập Đại hội quốc dân tại Tân
Trào (Tuyên Quang), cử ra Ủy ban dân tộc giải phóng tức Chính phủ lâm thời, do
Hồ Chí Minh làm chủ tịch.
Giai đoạn lãnh đạo
Toàn quốc kháng chiến Từ Độc lập tới

Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng tại Paris, 1946
Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập vào ngày 2 tháng 9 năm 1945 trên
quảng trường Ba Đình tại Hà Nội, tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa. Ông trích dẫn bản Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ và bản Tuyên ngôn
Dân quyền và Nhân quyền của Pháp để mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập của Việt
Nam[34].
Ông gửi thư cho nhiều nguyên thủ quốc gia trên thế giới kêu gọi công nhận nhà
nước Việt Nam mới được thành lập cũng như tranh thủ sự ủng hộ nhưng không

23


nhận được hồi âm (Tổng thống Hoa Kỳ Harry Truman[35], Stalin, Tổng thống Pháp
Léon Blum, bộ trưởng Thuộc địa Pháp Marius Moutet và Nghị viện Pháp,…).
Ngày 23 tháng 9 năm 1945, quân Pháp tấn công Sài Gòn. Quân dân Sài Gòn cấp
tập chống cự. Ủy ban kháng chiến Nam Bộ được thành lập với Trần Văn Giàu là
chủ tịch. Xứ ủy và Ủy ban nhân dân Nam Bộ điện ra Trung ương xin cho được
đánh. Chính phủ ra huấn lệnh, bản thân ông gửi thư khen ngợi "lòng kiên cường ái
quốc của đồng bào Nam Bộ"[cần dẫn nguồn].

Ngày 6 tháng 1 năm 1946, tổng tuyển cử tự do trong cả nước được tổ chức, bầu ra
Quốc hội và Quốc hội thông qua Hiến pháp dân chủ đầu tiên của Việt Nam. Quốc
hội khóa I của Việt Nam đã cử ra Chính phủ Liên hiệp kháng chiến do Hồ Chí
Minh làm chủ tịch. Đại biểu quốc hội chủ yếu là nhân sĩ trí thức, người ngoài
Đảng. Hồ Chí Minh trở thành Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, và với
chức danh Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ông cũng đảm nhiệm
luôn công việc của thủ tướng. Chính phủ này, cho tới cuối năm 1946, đã trải qua 3
lần thay đổi cơ cấu và nhân sự vào các thời điểm: ngày 1 tháng 1; tháng 3; và ngày
3 tháng 11.
Nhà nước và chính phủ của ông đối mặt với hàng loạt khó khăn cả về đối nội và
đối ngoại. Về đối ngoại, khi này Việt Nam chưa được bất cứ quốc qia nào công
nhận [36], không phải thành viên Liên hiệp quốc[37], cũng như không nhận được sự
ủng hộ nào về vật chất của các nước cộng sản khác. Ngoài 20 vạn quân của Tưởng
Giới Thạch ở miền Bắc, còn có quân Anh và quân Pháp (vào thời điểm toàn quốc
kháng chiến, tháng 12 năm 1946, Pháp có quãng 6 vạn quân), và khoảng 6 vạn
quân Nhật. Về đối nội, "giặc đói, giặc dốt" - như chính cách ông gọi - và ngân quỹ
trống rỗng là những vấn đề hệ trọng nhất[38][39].
Bởi thế ông thi hành một chính sách đối ngoại mềm dẻo và nhẫn nhịn. Ông nói:
"chính sách của ta hiện nay là chính sách Câu Tiễn, nhưng nhẫn nhục không phải
là khuất phục"[40].
Với tập đoàn Tưởng Giới Thạch, ông chấp nhận sự hiện diện của Việt Cách, Việt
Quốc trong các chính phủ liên tục được thay đổi, chấp nhận 70 ghế cho Việt Quốc,
Việt Cách trong quốc hội không cần qua bầu cử. Ông cũng cung cấp gạo (ban đầu
kiên quyết từ chối[41]) cho quân Tưởng. Quân Tưởng cũng được tiêu giấy bạc "kim
quan" và "quốc tệ" tại miền Bắc. Trước đó, tháng 10 năm 1945, khi Hà Ứng
Khâm, tổng tham mưu trưởng của quân đội Tưởng tới Hà Nội, hàng vạn người
được huy động xuống đường, hô vang các khẩu hiệu "Ủng hộ chính phủ Hồ Chí
Minh", "Ủng hộ chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa" để "đón
tiếp".


24


Tháng 11 năm 1945, ông quyết định cho Đảng tự giải tán. Về mặt công khai, đảng
của ông không còn hiện diện mà chỉ có một bộ phận hoạt động dưới danh nghĩa
Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương[42].
Ông kêu gọi các đảng viên nếu tự xét thấy mình không đủ phù hợp thì nên tự rút
lui khỏi hàng ngũ lãnh đạo chính quyền[43].
Trước Quốc hội, ông tuyên bố: "Tôi chỉ có một Đảng - đảng Việt Nam"[44].
Theo Hiệp ước Pháp-Hoa, ký ngày 28 tháng 2 năm 1946, quân Pháp sẽ thay thế
quân của Tưởng Giới Thạch. Một tuần sau, ngày 6 tháng 3 năm 1946, ông cùng
Vũ Hồng Khanh ký với Jean Sainteny - Ủy viên Pháp ở miền bắc Ðông Dương bản Hiệp định sơ bộ với Pháp, với 3 nội dung chủ chốt:





Pháp công nhận Việt Nam "là một nước tự do, là một phần tử trong Liên
bang Đông Dương thuộc Liên hiệp Pháp". Trước đó, đàm phán căng thẳng
khi ông muốn Việt Nam được công nhận là quốc gia độc lập và phản đối
kịch liệt khi Pháp muốn dùng chữ "Quốc gia Tự trị" để mô tả tổ quốc của
ông.
Pháp được đưa 1,5 vạn quân ra Bắc thế cho quân Tưởng, nhưng phải rút
trong 5 năm, mỗi năm rút 1 phần 5 quân số.
Ngừng xung đột, giữ nguyên quân đội tại vị trí cũ.

Ngày 31 tháng 5 năm 1946, ông lên đường sang Pháp theo lời mời của chính phủ
nước này; cùng ngày, phái đoàn chính phủ do Phạm Văn Đồng dẫn đầu cũng khởi
hành. Trước khi đi, ông bàn giao quyền lãnh đạo đất nước cho Huỳnh Thúc
Kháng[45] với lời dặn "Dĩ bất biến, ứng vạn biến"[46]. Tại Việt Nam, ông dự đoán

thời gian ở Pháp là "...có khi một tháng, có khi hơn"[47] nhưng cuối cùng ông ở
Pháp 4 tháng (Hội nghị Fontainebleau diễn ra từ 6 tháng 7 tới 10 tháng 9 năm
1946) mà không tránh khỏi thất bại chung cuộc.
Ngày 14 tháng 9 năm 1946, ông ký với đại diện chính phủ Pháp, bộ trưởng Thuộc
địa Marius Moutet, bản Tạm ước (Modus vivendi), quy định đình chỉ chiến sự tại
miền Nam, và thời gian tiếp tục đàm phán vào đầu năm 1947.
Thế nhưng những nhân nhượng đó cũng không tránh nổi chiến tranh. Sau khi nhận
được liên tiếp 3 tối hậu thư của Pháp trong vòng chưa đầy một ngày, ông kí lệnh
kháng chiến. Tối ngày 19 tháng 12 năm 1946, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến
do ông chấp bút được phát trên đài phát thanh. 20h tối cùng ngày, kháng chiến
bùng nổ.

25


×