Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Bình giảng bài " Đây Mùa Thu Tới " của Xuân Diệu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (252.63 KB, 11 trang )

BÌNH GIẢNG BÀI THƠ

ĐÂY MÙA THU TỚI
CỦA
XUÂN DIỆU

HOÀI NGUYỄN - 1


"Đây mùa thu tới" _ Xuân Diệu
Bình giảng bài thơ "Đây mùa thu tới" của Xuân Diệu / Bình giảng khổ thơ đầu trong
bài "Đây mùa thu tới" của Xuân Diệu / Bình giảng bài thơ "Đây mùa thu tới" của
Xuân Diệu.
Bình giảng bài thơ "Đây mùa thu tới" của Xuân Diệu
Bài làm
Xuân Diệu là nhà thơ tiêu biểu nhất của phong trao Thơ mới.
Hai tập Thơ Thơ và Gửi hương cho gió đã tạo nên tên tuổi lừng lẫy của Xuân Diệu
một thời. Xuân Diệu là nhà thơ của tuổi trẻ, tình yêu và của cái mới. Xuân Diệu đã
đem lại những suy nghĩ và cảm xúc mới lạ đối với lớp thanh niên đương thời. Ông
cũng đem lại những tình cảm và cảm xúc thẩm mĩ mới về đề tài thiên nhiên. Xuân
Diệu có nhiều bài thơ hay viết về mùa xuân, mùa thu. Đây mua thu tới của Xuân
Diệu cùng với Tiếng thu của Lưu Trọng Lư, Thu của Chế Lan Viên là những bài thơ
vào loại hay nhất của phong trào Thơ mới.
Miêu tả mùa thu là một vấn đề khó vì cổ kim đã có nhiều thơ hay về thu.
Thơ ca phương Đông có truyền thống miêu tả về mùa thu. Thơ ca phương Tây với
Huy-gô, Bô-đơ-le cũng có nhiều sáng tác hay về mùa thu. Xuân Diệu cũng chịu nhiều
ảnh hưởng thơ viết về mùa thu trong thơ Đường, thơ Tống. Mở đầu bai thơ, tác giả
miêu tả hình ảnh của một rặng liễu buồn như đứng chịu tang. Cây liễu cũng có thể
buồn nhưng đây chủ yếu là nỗi buồn của tâm trạng tác giả không tìm được lối thoát.
Thực ra thơ đã nói nhiều đến hình ảnh đẹp của liễu, dáng liễu, mành liễu, lá liễu.
Như câu thơ của Thế Lữ:


"Gió đào mơn trớn liễu buông tơ"
Hay như câu thơ của Tế Hanh:
"Chắc gì mắt em như lá liễu
Để cắt lòng anh một nét dao"
Xuân Diệu cũng viết nhiều câu thơ đẹp về liễu:
"Tóc liễu buông xanh quá mĩ miều"
HOÀI NGUYỄN - 2


"Lá liễu dài như một nét mi"
Những câu thơ đầu của Đây mùa thu tới gợi lên một tâm trạng buồn đến tang tóc ủ
dột. Từ ý tưởng đến âm thanh, nhạc điệu đều rất buồn. Nỗi buồn là do cảnh sắc mùa
thu hoà hợp với tâm trạng buồn của tác giả. "Xuân, người ta vì ấm mà cần tình. Thu,
người ta vì lạnh sắp đến mà cũng cần đôi, cho nên không gian đầy những lời nhớ
nhung, những linh hồn cô đơn thả ra những tiếng thở dài để gọi nhau và lòng tôi nghe
tất cả du dương của thứ vô tuyến điện ấy". (Xuân Diệu)
Tâm trạng buồn của Xuân Diệu là một nỗi buồn thế hệ, không tìm được lối ra trong
cuộc đời cũ, tác giả tìm đến những hình ảnh thiên nhiên có tính tương đồng để biểu
hiện xúc cảm. Các cụm từ "đìu hiu", "tóc buồn buông xuống", "lệ ngàn hàng" gợi lên
sự hắt hiu, lặng lẽ, gợi cảm giác về sự trôi chảy của tâm trạng buồn mà không có gì
ngăn lại được. Hoàng Trung Thông cũng có nhận xét: "Những chữ đìu hiu, chịu tang,
tóc buồn, lệ ngàn hàng, run rẩy, khô gầy, mỏng manh, rét mướt, vắng người, u uất,
hận chia li, tất cả gợi lên xa xăm và thương nhớ". Trong cuộc đời cũ, có rất nhiều lí
do để buồn, kể cả đứng trước cái đẹp, cái đẹp làm cho con người dễ khát khao nhưng
không dễ với tới được và thường rơi vào trạng thái cô đơn, buồn tủi. Mùa thu có
nhiều vẻ đẹp, màu sắc khác nhau và Xuân Diệu đã mở rộng sự tiếp nhận, cảm xúc
xúc động của mình trước vẻ đẹp, màu sắc của mùa thu:
"Đây mùa thu tới, mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng".
Bức tranh về mùa thu luôn thay đổi màu sắc. Một tiếng kêu thầm như reo vui khi cảm

nhận mùa thu đang đến. Câu thơ có hai tiết tấu "mùa thu tới" trùng điệp và gây ấn
tượng mạnh. Tác giả miêu tả bộ áo mới của mùa thu mang lại cho cỏ cây, tấm áo màu
vàng mơ choàng lên cảnh vật. Trong thơ ca cổ hình ảnh của chiếc lá vàng đã đến
trong thơ Nguyễn Khuyến:
"Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo"
Và "bóng vàng" trong thơ Nguyễn Du:
"Long lanh đáy nước in trời,
Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng"
Và gió vàng trong thơ Nguyễn Gia Thiều:
Trải vách quế gió vàng hiu hắt.
Nhưng "gió vàng" đây là "kim phong", tức gió mùa thu.
HOÀI NGUYỄN - 3


Trong thơ hiện đại sắc vàng của mùa thu cũng được quan tâm miêu tả. Lưu Trọng Lư
với hình ảnh con nai và chiếc lá vàng khô:
"Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô".
Bích Khê với màu vàng chan chứa sắc thu:
"Ô hay! Buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi, vàng rơi thu mênh mông".
Khổ thơ đã thể hiện được chủ đề của bài thơ. Riêng về phía nhà thơ, tuy ở trong tâm
trạng buồn nhưng vẫn thiết tha yêu cuộc sống.
Đẹp buồn và tĩnh lặng thường là những chuẩn mực quen thuộc của thơ ca lãng mạn.
Khổ thơ đầu đã thể hiện khá đầy đủ đặc trưng đó.
Xuân Diệu nói lên những đổi thay của mùa thu trong cảnh vật thiên nhiên:
"Hơn một loài hoa đã rụng cành".
Nhà thơ Thế Lữ chữa hộ lời thành thơ: "Đã mấy loài hoa rụng dưới cành" và in trên
báo, Xuân Diệu lại lấy lại câu thơ của mình vì ông miêu tả một mùa thu đang tới.
Câu thơ "Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh" nói lên sự lấn dần của màu vàng, màu đỏ

với màu xanh của cây cỏ. Có ý cho rằng đây là "màu đỏ rũa màu xanh". Xuân Diệu
không tán thành ý trên mà xem "rũa" là lấn dần, ăn mòn dần. Xuân Diệu vận dụng
cảm giác quan sát rất tinh tế những đổi thay của cảnh vật. Mùa thu đến, những con
gió lạnh đầu mùa làm cho cỏ cây run rẩy: "Những luồng run rầy rung rinh lá". Cách
sử dụng những điệp từ và láy âm góp phần tạo hiệu quả cho câu thơ với người đọc.
Trong thơ ca cổ cũng đã có những câu thơ có nghệ thuật láy ý, láy âm tuyệt vời như
"Dưới trăng quyên đã gọi hè - Đầu đường lửa lựu lập loè đơm bông" (Truyện Kiều Nguyễn Du) hoặc "Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt - Làn ao lóng lánh bóng trăng
loe" (Thu ẩm - Nguyễn Khuyến). Theo Xuân Diệu, điều quan trọng không chỉ là sự
láy âm mà còn ở cái luồng cảm xúc mới của thi nhân, luồng cảm xúc có tính chất
hiện đại của những nhà thơ trong một thời kì mới khác với các nhà thơ cổ điển. Câu
thơ cuối được miêu tả như những nét phác hoạ trong bức tranh thuỷ mặc của Trung
Quốc.
"Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh"
Tác giả mở rộng tầm quan sát đến những cảnh vật ở nơi xa: ngọn núi, vầng trăng,
dòng sông, con đò:
HOÀI NGUYỄN - 4


"Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ".
Vầng trăng thu có một vẻ đẹp riêng, có khi trong vắt, có khi mờ ảo trong sương khói.
Xuâu Diệu đặc biệt nhấn mạnh đến chữ "tự", "tự ngẩn ngơ" chứ không phải bị ngẩn
ngơ. "Tự ngẩn ngơ" là trạng thái ngẩn ngơ từ bên trong, nhà thơ đã nhập vào đối
tượng miêu tả khác với lói miêu tả khách quan từ bên ngoài trong thơ xưa. Rồi hình
ảnh của núi non cũng nhạt nhoà dần trong sương:
"Non xa khởi sự nhạt sương mờ".
Hai chữ "khởi sự" là nói lên sự bắt đầu và theo Xuân Diệu thì từ ngữ hơi cứng nhưng
cũng hòa hợp được với câu thơ. Hai câu thơ được xem là hay nhất trong Đây mùa thu
tới miêu tả không khí thu, cái lạnh của mùa thu đã làm cho sinh hoạt của làng quê,
của bến sông không còn tấp nập như ngày hè:
"Đã nghe rét mướt luồn trong gió

Đã vắng người sang những chuyến đò".
Câu thơ giản dị, tự nhiên nhưng cách miêu tả rất nghệ thuật. Chưa hẳn vào mùa đông
mà ở đây thỉnh thoảng những con gió mang theo cái rét trở về như luồn đi trong
không gian... Chữ "luồn" cũng có một khả năng diễn tả đặc biệt. Huy Cận xem hai
câu thơ này là hay nhất trong toàn bài. Xuân Diệu đã miêu tả được không gian rộng
lớn của mùa thu với cách cảm nhận chân thực giản dị.
Sau những ngày hè nóng nực, không khí của những ngày thu se lạnh dễ làm cho con
người đi dần về phía nội tâm với nhiều xao xuyến, xúc động và nghĩ về sự đoàn tụ
của gia đình và hiểu thêm về những cảnh ngộ chia li xa cách. Cảnh vật mùa thu cũng
mang nhiều hình ảnh của sự chia li xa cách, những cánh chim bay về những vùng quê
ấm áp:
"Mây vẩn từng không chim bay đi
Khí trời u uất hận chia li
ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì".
Khổ thơ kết gợi nhiều về tâm trạng. Xuân Diệu miêu tả tâm trạng buồn một cách tĩnh
lặng cho hòa hợp với cảnh thu. Hình ảnh thiếu nữ "tựa cửa nhìn xa" như đang mong
đợi, mơ ước một điều gì còn chưa đến. Câu thơ khép lại bằng những hình ảnh đẹp của
con người với chiều sâu của nội tâm. "Hai câu cuối cùng nói lên nỗi buồn, một sự
ngơ ngác mà tạo ra được một hình ảnh đẹp" (Hoàng Trung Thông).
HOÀI NGUYỄN - 5


Đây mùa thu tới là một bài thơ có giá trị, tác giả đã miêu tả được những nét tiêu biểu
và gợi cảm nhất của cảnh vật mùa thu với cách cảm nhận có tính chất hiện đại. Mặc
dù có những hình ảnh hoa tàn, lá rụng nhưng người đọc vẫn thấy một mùa thu đẹp có
sức sống ở bên trong. Về phía tác giả, tuy mang một tâm trạng buồn nhưng vẫn bộc
lộ kín đáo lòng yêu đời tha thiết, đúng như nhận xét của Hoài Thanh: "Thơ Xuân
Diệu còn là một nguồn sống dào dạt chưa từng thấy ở chỗ nước non lặng lẽ này.
Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quýt

muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình. Khi vui cũng như khi buồn đều nồng
nàn tha thiết".
GS. Hà Minh Đức

Bình giảng khổ thơ đầu trong bài "Đây mùa thu tới" của Xuân Diệu:
Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang,
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng,
Đây mùa thu tới, mùa thu tới,
Với áo mơ phai dệt lá vàng.
Bài làm
Xuân Diệu là nhà thơ xuất sắc của phong trào "Thơ mới" (1932 - 1945). Thơ Xuân
Diệu lúc này bộc lộ lòng yêu cuộc sống, yêu người và khát khao hạnh phúc. Ông là
một hồn thơ nhạy cảm với đời, với thiên nhiên. Đoạn thơ bình giảng ở đây trích trong
bài Đây mùa thu tới của Xuân Diệu.
Bài thơ gợi tả phong cảnh khi mới chớm vào thu, mang nỗi buồn của mùa thu. Đoạn
thơ đầu rất tiêu biểu, in đậm nét thu riêng của hồn thơ Xuân Diệu.
Hai câu thơ mở đầu tả cảnh buồn. Xuân Diệu đem đến cho đời, cho thơ ca một hình
ảnh thu mới lạ, đặc sắc: một rặng liễu thu buồn. Những chữ đìu hiu, chịu tang, tóc
buồn, lệ ngàn hàng... thật tinh tế, gợi hình, gợi tình. Cái buồn ở lòng người thấm vào
cảnh vật.
Tác giả vận dụng thành công biện pháp láy âm (liễu - đìu - hiu - chịu, tang - ngàn
hàng, buồn - buông - xuống) tạo được nhạc điệu buồn với hình ảnh thơ, khiến cho nỗi
buồn càng thêm lan tỏa, lắng sâu.

HOÀI NGUYỄN - 6


Không còn là rặng liễu thiên nhiên (liễu chỉ hơi thướt tha buồn) mà ở đây là rặng liễu
- tâm hồn của thi sĩ. Rặng liễu thu buồn của Xuân Diệu đã lên đến mức tê tái thê
lương (giống như những người con gái đang đứng chịu tang), đã vỡ ra thành tiếng

khóc và đọng lại thành hàng ngàn giọt nước mắt. Hẳn là nỗi buồn trong lòng thi nhân
phải tê tái lắm thì hình ảnh thơ mới buồn đến vậy.
Hai câu thơ tiếp theo như tiếng reo khi mùa thu đột ngột hiện ra trong màu "áo mơ
phai dệt lá vàng". Một niềm vui chợt đến nhẹ nhàng, một chút yêu đời, yêu cuộc
sống.
Câu thơ thứ tư mô tả không gian mùa thu. Cái không gian nghệ thuật ấy như chiếc áo
màu "mơ phai" khoác cho mùa thu, tạo cho mùa thu một dáng vẻ tươi sáng, thanh
nhẹ. Nhờ vậy đoạn thơ có giảm bớt không khí hiu hắt bi thương.
Màu vàng tượng trưng cho mùa thu. Nhưng trong câu thơ này, nó là màu "vàng mơ"
khiến cho sắc thu trở nên tươi tắn, dịu nhẹ. Đó chính là cái nét thu điển hình của quê
hương đất nước. Nhà thơ lãng mạn mới nhất ấy quả là nắm bắt được cái nét thu tiêu
biểu này của mùa thu Việt Nam.
Chỉ bốn câu thơ mà đã làm sống dậy cả một cảnh thu đất nước, một sắc thu Việt Nam
với những vẻ đẹp vừa thân quen vừa mới lạ của một hồn thơ nhạy cảm và tinh tế.
Nhưng xuyên suốt là một nỗi buồn thấm sâu vào cảnh vật. Đó là nỗi buồn của thời
đại, nỗi buồn của một thế hệ thi nhân mất nước mang cái "tôi" bé nhỏ của các nhà thơ
lãng mạn đang bơ vơ trước cuộc đời. Nỗi buồn ấy, vẻ đẹp ấy đã làm nên một nét thu
riêng của Xuân Diệu nhưng lại là một nét thu tiêu biểu cho thơ lãng mạn bấy giờ.
Nguyễn Bích Thuận

Bình giảng bài thơ "Đây mùa thu tới" của Xuân Diệu.
Bài làm
Xuân Diệu làm thơ rất sớm và thơ ông đã gây nên một tiếng vang lớn trong phong
trào Thơ mới. Sau khi tập Thơ Thơ ra đời vào năm 1938 (Nhà xuất bản Đời nay, Hà
Nội) thì vị trí hàng đầu của Xuân Diệu trong làng thơ bấy giờ mặc nhiên được công
nhận. Hoài Thanh nhận xét: "Thơ Xuân Diệu chẳng những diễn đạt được cái tinh vi
cố hữu của nòi giống... thơ Xuân Diệu còn là một nguồn sống rào rạt chưa từng thấy
ở chốn nước non lặng lẽ này. Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời... Khi
vui cũng như khi buồn người đều nồng nàn, tha thiết... Sự bồng bột của Xuân Diệu có
HOÀI NGUYỄN - 7



lẽ đã phát biểu ra một cách đầy đủ hơn cả trong những rung động tinh vi... Xuân Diệu
mới nhất trong các nhà thơ mới..." (Thi nhân Việt Nam - Nhà xuất bản Văn học, tái
bản năm 1988).
Thơ thơ là tập thơ đầu tiên và cũng là tập thơ tiêu biểu hay vào bậc nhất của Xuân
Diệu. Bài thơ Đây mùa thu tới trích trong đó.
Mùa thu xưa nay đã làm xao động biết bao trái tim và đã hiện thành vô vàn lời thơ
trong văn chương nhân loại. Những người yêu văn chương không thể không biết Thu
hứng, Đăng cao của Đỗ Phủ, Thu Tầm Dương của Bạch Cư Dị, Bài ca mùa thu của
Véc-len, Thu của Bô-đơ-le, và gần hơn là thu trong thơ Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến,
Lưu Trọng Lư, Huy Cận... Đủ tình đủ điệu. Có điều thu trời đất thì vậy nhưng lòng
người thì ai dễ giống ai và ai nói giùm cho ai được!
Xuân Diệu có cách rung động, cách diễn đạt không giống người xưa. Trong Thơ thơ,
có mấy bài nói về mùa thu: ý thu, Thơ duyên... và Đây mùa thu tới. Tuy có nét chung
nhưng mỗi bài mang một vẻ đẹp riêng.
ở bài Đây mùa thu tới, sau khi miêu tả những cảm nhận của mình trước cảnh thu từ
gần đến xa, từ hiện đến ẩn, tác giả đi vào tâm tư con người, từ con người ngoại giới
đến con người bên trong. Tất cả đều nhằm biểu hiện nỗi buồn vừa man mác vừa thấm
sâu, vừa mênh mông vừa tinh tế; trong cái thế chung của sự sống bên ngoài như nhạt
phai, mất mát dần nhưng bên trong lại như chứa chất một sự vươn tới, một ước mong
mơ hồ mà tha thiết.
Đã tạo thành sáo ngữ những lá vàng, hoa rụng, nhánh khô gầy khi các nhà thơ động
đến mùa thu xưa nay. Xuân Diệu cũng lặp lại, không có gì mới mẻ. Mói chăng là ở
cách diễn đạt và cách diễn đạt này lại do cách cảm nhận không giống ai của tác giả.
Rặng liễu đứng chịu tang, tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng là mới; mùa thu tới với
áo mơ phai dệt lá vàng cũng mới. Ngày xưa báo thu tới là lá ngô rụng vàng một
chiếc: Ngô đồng nhất diệp lạc - Thiên hạ cộng tri thu (Ngô đồng rụng một lá, thiên hạ
biết thu sang). Xuân Diệu không trở lại với hình ảnh đã thành công thức ấy. Nhà thơ
cũng không báo thu sang mà cứ mở ra bằng cảnh buồn nơi rặng liễu và sau đó như

sực tỉnh nhận ra: mùa thu đã tới đây và lặp lại mùa thu tới như một sự bất ngờ mà
quan trọng cần báo cho mọi người hay. Mùa thu đến như một con người khoác áo kết
bằng lá vàng nhưng nhuốm màu mơ phai nhạt. Mùa thu ấy đã thành con người và tất
cả những gì của mùa thu đều sống kiếp người - thu. Liễu buồn đã đành, hoa cũng
rụng cành, sắc đỏ càu nhàu với màu xanh, gió cũng run rẩy và nhánh khô gầy trơ
xương mỏng manh. Phong cách học bảo đó là nhân hóa. Không đơn giản như vậy.
Nhà thơ đã cảm nhận mùa thu có "cuộc sống" như con người, như lòng người. Lòng
thu, hồn thu cũng như chứa chất nỗi niềm gì bên trong mà biểu hiện ra bên ngoài thì
toàn là tang, lệ, phai, vàng, úa, đỏ, rụng, rung, khô gầy, mỏng manh... Con người thu ấy có chỗ nào trùng hợp với con người, tác giả không? Lòng tác giả và lòng thu
HOÀI NGUYỄN - 8


có chỗ nào gần gũi không? Chưa đi ngay vào vấn đề này. Chỉ biết dùng cách nói như
vậy về thu là kiểu riêng của nhà thơ, rất mới.
Sâu xa hơn và tinh vi hơn nhiều là sức cảm nhận của trái tim và trí tuệ nhà thơ. Đó là
ở câu: Những luồng run rẩy rung rinh lá. Hoài Thanh nhận xét: "Trong cảnh mùa thu
rất quen với thi nhân Việt Nam chỉ Xuân Diệu mới để ý đến: Những luồng run rẩy
rung rinh lá"...". Chúng ta có thể nhớ tới chiếc lá rơi (Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo)
của Nguyễn Khuyến, hoặc chiếc lá rơi mà Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng của
Trần Đăng Khoa. Các câu thơ ấy đều tả lá chứ không tả gió, nhưng ai không thấy gió
trong đó đều rất nhẹ. Đây không có gió hiện ra, chỉ có luồng run rẩy làm rung rinh lá.
Lặp bốn phụ âm R là một phụ âm rung mà nghe chẳng thấy dao động mạnh mẽ gì cả,
trái lại chỉ rất khẽ, khẽ rung rinh mà run rẩy cũng khẽ, cái rùng mình nhè nhẹ của gió
se sẽ chuyển qua lá và lá rung rinh - ai biết lá rung rinh vì gió hay vì lạnh? Mà cái
luồng run rẩy kia cũng do đâu? Gió hay lạnh? Có lẽ do cảm quan nhà thơ chỉ thấy run
rẩy và rung rinh chứ không phân biệt đó là luồng gió hay luồng lạnh, bởi cả hai đều là
của mùa thu. Nhưng sự ngập ngừng mơ hồ chút ít như thế đúng là chỉ hiện ra với độ
tinh vi của cảm quan thơ nhanh nhạy nhất của tác giả.
Độ tinh vi ấy là một bằng chứng: lòng tác giả đã thấm sâu vào lòng thu, sự thâm nhập
không dừng ở bên ngoài mà đã đi xuyên vào bên trong. Đi vào nhưng thực là để đi ra,

nói ra được điều kín sâu nhất của lòng mình. Cảnh thu đó là hồn thu, hồn thu đó là
hồn nhà thơ. Chưa rõ vì lẽ gì nhưng vấn đủ buồn, khóc, úa, rụng, run rẩy, khô gầy...
Rất đau thương.
Từ liễu buồn, lá vàng, hoa rụng, sắc đỏ, lá xanh, nhánh khô gầy đã chuyển sang nàng
trăng ngẩn ngơ, non xa nhạt sương mờ, bến đò vắng người sang, tầng không mây vẩn,
chim chóc bay đi, khí trời u uất và thiếu nữ tựa cửa không rõ nghĩ gợi gì...
Cái cao đã thay vào cái thấp (trăng thay vườn), cái xa đổi cho cái gần (non xa đổi cho
hoa vườn), cái hẹp cái nhỏ chuyển sang cái rộng lớn (rặng liễu, tóc buồn, đôi nhánh
khô gầy, rung rinh lá chuyển sang non xa, sương mờ, từng không), Cái cụ thể nhòa
thành cái mơ hồ, cái xác định tan trong cái vô định (chịu tang, buông lệ, rụng cành,
sắc đỏ, màu xanh, run rẩy, rung rinh, khô gầy, mỏng manh là cụ thể, cố định, xác
thực; còn ngẩn ngơ, nhạt sương mờ, luồn trong gió, chuyến đò vắng người sang, chim
bay đi, hận chia li, buồn không nói, nghĩ ngợi gì đều là mơ hồ, vô định, không bến
bờ, phương hướng). Trên kia đang là cảnh vật trong không gian, đây đã thêm thời
gian: thỉnh thoảng, khởi sự, đã nghe, đã vắng... mà thời gian cũng mơ hồ, dù có bắt
đầu (khởi sự), có đã qua (đã nghe, đã vắng), và lặp đi lặp lại (thỉnh thoảng).
Bao nhiêu sự biến chuyển ấy đưa tới hiệu lực gì? Gần hoá xa, thấp thành cao, hẹp trở
nên rộng, nhỏ biến ra to, mơ hồ, vô định thay cho cụ thể, xác định... không gian đã
nới rộng ra đến không còn biết đâu là biên giới, thời gian có thuỷ mà chẳng có chung.
Tất cả đều là từ bên ngoài đi vào bên trong, không gian, thời gian đều là tâm trạng
của cảnh vật và tâm trạng người làm thơ, trên cái thế chung là nhạt dần, phai đi, mơ
hồ đi, nghiêng đổ, mất mát một cái gì mà chính mình không biết.
HOÀI NGUYỄN - 9


Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ. Ngẩn ngơ như vừa mất một cái gì, mong một
cái gì mà không tới, lơ lơ, lửng lửng, chưa thật buồn mà không còn vui. Lại là tự
ngẩn ngơ. Vậy không có nguyên nhân bên ngoài mà cơ sự là bên trong, tự mình làm
cho mình ngẩn ngơ. Đó là "tâm trạng" nàng trăng. Còn đây là của núi: Non xa khởi
sự nhạt sương mờ. Núi cũng chẳng còn xanh biếc bình thường. Núi đã nhạt phai

trong sương mờ, trở thành lạnh lẽo bên ngoài, còn bên trong ai biêt tình núi ra sao?
Mà đây mới là khởi sự, mới bắt đầu, còn kéo dài bao lâu, kéo dài tới đâu, ai hay
được? Non xa đã trở nên một khối bí mật không sao hiểu nổi. Còn gió? Còn chuyến
đò? Thì đây: Đã nghe rét mướt luồn trong gió - Đã vắng người sang những chuyến
đò. Lạnh rồi. Những luồng run rẩy trên kia đã hiện ra là gió rồi. Và gió lạnh. Trăng
ngẩn ngơ chưa phải là lạnh. Non nhạt sương mờ cũng chưa hẳn lạnh. Bây giờ là cả
bầu thu quét trong gió, mênh mông và luồn vào, len vào, âm thầm, lặng lẽ cái lạnh
của dất trời, không để ai biết ai hay, trừ nhà thơ biết lắng nghe và đã nghe được, bắt
được cái hồn ấy của gió, cái tâm trạng của gió. Chính cái bầu trời mênh mông gió
lạnh ấy đã khiến cho con đò thưa chuyến và người sang đò cũng ngại ngần mà vắng
sang. Tâm trạng sâu kín của gió đã chuyển sang tâm trạng của con đò: gió thì lạnh, đò
thì vắng khách sang sông.
Đất trời thu đã đầy những ngẩn ngơ, bí mật, những lạnh luồn sâu, những vắng bóng
người, như vậy thì làm gì chim chóc chẳng bay đi và khí trời không u uất những mối
hận chia li? Ai chia li? Liễu chịu tang ai? Lệ rời tóc và tóc buông lệ. Hoa chia tay với
cành, màu xanh chia tay với lá, xương xóc đã thay thịt da. Trăng sáng trăng xa đã đi
biệt. Non biếc cũng phai nhạt rồi. Gió đã trở lạnh. Người đông đã bỏ bến đò. Chim đi.
Mà tất cả, nào ai biết vì lẽ gì, chỉ thấy u và uất. Đến con người. Sang đò là con người
ngoài đời, đang đi, đang hoạt động. Còn thiếu nữ tựa cửa buồn không nói thì mới là
con người suy tư, con người tâm trạng.
Thế là cả không gian và thời gian đều ăm ắp tâm trạng. Tâm trạng là một gam cảm
giác và xúc cảm đi từ ngẩn ngơ đến chia li. Nhưng chẳng rõ nguyên nhân do đâu?
Dường như chỉ tại mùa thu. Thu ngoại giới và thu trong lòng. Vậy ý tứ mà nhà thơ
đặt vào hình ảnh: ít nhiều thiếu nữ buồn không nói ở cuối bài thơ, cuối chuỗi tâm
trạng này là gì? Nếu đúng đây là mùa thu Huế thì phải chăng vì màu mắt của người
con gái Huế cũng đầy thu trong đó? Dù sao tả mùa thu mà không có bóng dáng con
người thì sao đủ? Phải có con người và hơn nữa, tâm trạng con người. Mà cảm
thương với thu thì gì bằng lòng thiếu nữ! Quả nhiên nhà thơ tính toán không lầm.
Không những một cô mà nhiều cô đều cùng một điệu. Thì ra bao nỗi niềm thu ở liễu,
ở hoa, ở cảnh, ở trăng, ở non, ở tầng không, ở khí trời, ở đò, ở chim... đều dồn lại

hiện ra đủ hết ở các cô: ít nhiều thiếu nữ buồn không nói - Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi
gì? Tới đây mới thấy tất cả hồn thu đã đi vào hồn người. Thiếu nữ buồn nhưng không
nói, chỉ tự cửa nhìn xa, còn nghĩ ngợi gì chẳng ai hay biết. Cái im lặng thật kì diệu.
Ngôn ngữ nghệ thuật có cái lại. Cần nói nhiều nhất, có khi đủ nhất, thấm nhất, người
ta lại nhờ cái lặng câm. Cái im lặng của các cô lại nói năng nhiều biết bao! Tự cửa là
để nhìn ra mà cũng để đón vào. Nhìn ra và đón vào thì biết bao cảnh vật trước mắt,
cái gần cái xa, cái thấp cái cao, cái rộng cái hẹp, cái cụ thể cái mơ hồ, cái xác định cái
HOÀI NGUYỄN - 10


vô định, cái bên trong cái bên ngoài, cái ngoại giới cái tâm tư... Tất cả đều úa phai,
rơi rụng, khô gầy, ngẩn ngơ, nhạt mờ,lạnh vắng, chia li, mà chẳng biết duyên do gì,
hầu như một thứ định mệnh. Nhận hết thảy vào lòng, các cô chỉ có buồn, chứ chẳng
nói gì. Nói làm sao được? Bởi các cô tự dưng cũng thấy mình không khác gì trời đất,
cũng chỉ thấy buồn mà nào có hiểu từ đâu!
Đó, cảnh thu và tình thu là như thế.
Thực ra, chìm sâu trong tâm trạng nhà thơ là một nỗi buồn mà biểu hiện là những
ngẩn ngơ, những chia li, những úa tàn, rụng rơi, mất mát như trên đã phân tích. Nó là
một tâm trạng hiện thực, nó có mặt và thấm sâu vào trong xương tuỷ. Cả thế hệ có
chút học vấn, nhất là những ai mon men đến với văn chương, đều thấy nó ngự trong
tâm hồn mình không biết tự bao giờ mà mình không hiểu nó từ đâu tới. Hoặc giả như
người xưa đã nói: nó là mối sầu vạn cổ lâu bền như loài người, và hễ tài hoa bao
nhiêu thì càng bị nó bám chặt bấy nhiêu.
Căn nguyên của mối sầu vạn cổ ấy chắc không ngoài niềm thương đối với bao bất
hạnh trong xã hội bóc lột. Kẻ có tâm huyết không ai dửng dưng nên sinh ra sầu. Đối
với thế hệ Xuân Diệu, trên mối sầu ấy còn chồng lên một nỗi buồn khác mà những kẻ
không gặp được Cách mạng đều không nhận thức ra, đó là nỗi buồn mất nước lẩn vào
trong xương thịt mà mình không hay, không biết; chỉ thấy nó hiện lên trong tâm hồn
mình và thấm vào cảnh vật thiên nhiên một cách bất ngờ khiến mình tưởng đó là nỗi
buồn tự thân của thiên nhiên. Các cô thiếu nữ trong bài thơ chỉ buồn và ôm ấp mối

buồn mà không nói ra được, và dù có nghĩ suy đi nữa cũng chưa dễ đã tìm ra nguyên
nhân rất sâu của nó.
Bài thơ trên đây đâu chỉ thuần tuý tả cảnh. Nó mang tâm trạng tác giả nhưng tâm
trạng ấy tiềm ẩn, bàng bạc ở bên trong... ở một tầng tâm tư sâu kín hơn và mầu nhiệm
hơn, cái tâm trạng đau buồn ấy có gốc rễ từ lòng yêu nước, từ thái độ bất mãn với xã
hội trước mắt, từ một mong ước tốt đẹp về cuộc đời, nhưng cuộc đời đang bị thực dân
phong kiến bao vây, vùi dập không thương tiếc.
GS. Lê Trí Viễn.

HOÀI NGUYỄN - 11



×