Tải bản đầy đủ (.doc) (66 trang)

Hoạt động giám sát của quốc hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (470.46 KB, 66 trang )

Hoạt động giám sát của Quốc hội
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU......................................................................................................1
CHƯƠNG 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUỐC HỘI

1.1................................................................................................................ Sự ra đời
và phát triển của Quốc hội...................................................................................3

1.2................................................................................................................ VỊ trí và
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
tính chất pháp lý của Quốc hội............................................................................5
KỈỈÓA 34 (2008 - 2012)

1.3................................................................................................................ Chức năng
ĐÈ TÀI
của Quốc hội........................................................................................................7
HOAT ĐÔNG GIÁM SÁT CỦA QUỐC HÔI
1.4................................................................................................................
Tổ chức và
hoạt động của Quốc hội.......................................................................................9

1.4.1............................................................................................................. Cơ cấu tổ
chức của Quốc hội...............................................................................................9

1.4.2 Hoạt động của Quốc hội...........................................................................13
1.4.3 Nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội.....................................................14
1.5
Mốivỉên
liênhướng
hệ giữadẫn:
giám sát tối cao với kiểm sát,


giám
xéthiện:
xử và thanh tra
Giảng
Sình
viênđốc
thực
Nguyễn Nam Phương
Nguyễn Trọng Hữu
kiểm
tra...............................................................................................................16
Bọ môn:
Luật Hành Chính
MSSV: 5085807
CHƯƠNG 2 HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA QUỐC HỘI

2.1 Khái niệm giám sát, mối liên hệ giữa chức năng giám sát và các
chức năng khác của Quốc hội và hoạt động giám sát của Quốc hội...................19
CBHD: Nguyễn Nam Phưtmg
SVTII: Nguyễn Trọng Hữu


Hoạt động giám sát của Quốc hội

2.2.5 Trách nhiệm của Quốc hội trong việc thực hiện quyền
giám sát tối cao...................................................................................................40
CHƯƠNG 3 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA
QUỐC HỘI VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP

3.1 Những thành tựu và hạn chế trong hoạt động giám sát tối cao

của Quốc hội.......................................................................................................43

3.1.1 Đánh giá chung........................................................................................43
3.1.2 Hoạt động chất vấn..................................................................................46
3.1.3 Hoạt động bỏ phiếu tín nhiệm..................................................................48
3.1.4 Đối với việc thành lập Uỷ ban lâm thời...................................................49
3.1.5 Hoạt động xem xét báo cáo......................................................................50
3.1.6 Hoạt động bảo vệ Hiến pháp....................................................................51
3.2 Phương hướng và các giải pháp hoàn thiện hoạt động giám sát

CBHD: Nguyễn Nam Phương

SVTII: Nguyễn Trọng Hữu


Hoạt động giám sát cửa Quốc hội
LỜI NÓI ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, do nhân dân bầu ra. Nhiệm vụ chính
của Quốc hội là lập hiến và lập pháp. Đồng thời, giám sát việc tuân thủ pháp luật của các cơ
quan nhà nước ở Trung ương và địa phương, quyết định các vấn đề quan họng của đất nước.
Mặc dù vậy, hoạt động giám sát của Quốc hội trong những năm qua còn có những
mặt hạn chế. Hiệu quả hoạt động giám sát mặc dù đã đạt những kết quả nhất định nhưng mới
đáp ứng ở mức thấp so với yêu cầu, đòi hỏi của cuộc sống, từ nguyện vọng của nhân dân và
quy định của hiến pháp, pháp luật. Một số nội dung giám sát quan họng chưa được tập trung
cao; giám sát việc ban hành vãn bản hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh chưa làm được
nhiều và thường xuyên; giám sát việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân vẫn
còn lúng túng, hiệu quả chưa cao; chưa chú họng theo dõi, đôn đốc đến cùng việc tiếp thu,
giải quyết các kiến nghị để đánh giá đúng kết quả, hiệu lực giám sát; hoạt động giám sát về

phòng, chống tham nhũng cũng chưa thu được kết quả như mong muốn.
Bên cạnh đó, việc lựa chọn phương thức giám sát còn bị động, nhiều cuộc giám sát
mới dừng lại ở việc nghe báo cáo, nắm tình hình và chủ yếu dựa vào thông tin do chính các
cơ quan chịu sự giám sát cung cấp; các công cụ phục vụ hoạt động giám sát chưa đủ mạnh,
do đó phát huy hiệu quả chưa cao; chưa xây dựng được các thiết chế phù họp để bảo đảm
cho Quốc hội có đầy đủ điều kiện tiến hành hoạt động giám sát một cách thực chất.
Điều đó đòi hỏi Quốc hội phải có sự giám sát chặt chẽ, xử lý kịp thời những vấn đề bất
cập trong hệ thống pháp luật cũng như những bất cập trong bộ máy nhà nước, kịp thời chấn
chỉnh, sửa đổi để hệ thống pháp luật cũng như bộ máy nhà nước phù hợp hơn với quá trình
hội nhập của đất nước, đưa đất nước vươn cao và vươn xa hơn trên trường quốc tế.
Đó chính là lý do người viết chọn đề tài: “Hoạt động giám sát của Quốc hộF làm đề
tài tốt nghiệp.

CBHD: Nguyễn Nam Phương

1

SVTH: Nguyễn Trọng Hữu


Hoạt động giám sát cửa Quốc hội
2. Mục đích nghiên cứu
Vấn đề giám sát của Quốc hội là một trong những vấn đề nhận được sự quan tâm đặc
biệt của các cơ quan chức năng. Đã có rất nhiều các công trình lớn nhỏ nghiên cứu, tìm hiểu
về vấn đề này. Với phạm vi kiến thức còn nhiều hạn chế, người viết hi vọng khóa luận tốt
nghiệp có thể đưa ra một số giải pháp mang tính tính nghiên cứu nhằm nâng cao hiệu quả
hoạt động giám sát của Quốc hội. Do đó, nghiên cứu chủ yếu của bài luận là:
Tìm hiểu chung về Quốc hội
Tìm hiểu về hoạt động giám sát của Quốc hội
Thực hạng hoạt động giám sát và một số giải pháp nhằm nâng cao hoạt động giám sát

của Quốc hội
3. Đối tượng và phạm vỉ nghiên cứu
Hoạt động giám sát của Quốc hội là một trong những nội dung có phạm vi tương đối
rộng lớn và phức tạp. Trong phạm vi bài luận tốt nghiệp, người viết chỉ đi sâu nghiên cứu
hoạt động giám sát của Quốc hội theo Hiến pháp, Luật Tổ chức Quốc hội, Luật hoạt động
giám sát của Quốc hội. Trong đó, đối tượng chủ yếu là các cơ quan nhà nước ở Trung ương
và địa phương.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện nghiên cứu đề tài, khóa luận áp dụng các phương pháp nghiên cứu tổng
hợp như: phương pháp phân tích luật viết, phương pháp tổng họp, so sánh, diễn giải, hệ
thống hóa, thống kê... từ các số liệu, tài liệu thu thập được.
5. Bổ cục đề tài
Luận văn được kết cấu theo bố cục sau:
Mục

lục

Phần mở đầu
Chương 1: Khái quát chung về Quốc hội
Chương 2: Hoạt động giám sát của Quốc hội
Chương 3: Thực hạng hoạt động giám sát của Quốc hội và một số kiến nghị

CBHD: Nguyễn Nam Phương

2

SVTH: Nguyễn Trọng Hữu


Hoạt động giám sát cửa Quốc hội

CHƯƠNG 1
KHẮT QUÁT CHUNG VÈ QUỐC HỘI

1.1 Sự RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIÉN CỦA QUỐC HỘI VIỆT NAM
Sau thời gian dài dưới sự thống trị của thực dân Pháp xâm lược. Năm 1945 cách mạng
Việt Nam thắng lợi và tuyên bố độc lập bằng bản Tuyên ngôn độc lập của chủ tịch Hồ Chí
Minh (2-9-1945), nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà ra đời. Ngày 8-9-1945 Chính phủ
Lâm thời ra sắc lệnh hiệu tập Quốc dân đại hội với nhiệm vụ soạn thảo Hiến pháp. Trước
đó, từ ngày 16 đến 17 tháng 8 năm 1945 Đại hội toàn dân được hiệu tập họp ở Tân Trào với
60 đại biểu của các tổ chức và đoàn thể cách mạng đã quyết định những vấn đề quan họng
của đất nước đó là Quốc dân đại hội tiền thân của Quốc hội nước ta. Quốc dân đại hội thành
lập ủy ban dân tộc giải phóng trung ương (Chính phủ lâm thời). Ngày 6-1-1946 Tổng tuyển
cử đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà thành lập ra Quốc hội Việt Nam. Quốc hội
là cơ quan đại diện cho nhân dân do nhân dân bầu ra, Hiến pháp năm 1946 Quốc hội được
gọi là Nghị viện, với nhiệm kì 3 năm.
Từ thời kỳ 1946 đến nay (2012) Quốc hội Việt Nam đã và đang trải qua 13 khoá quốc
hội. Có khoá Quốc hội kéo dài rất lâu (14 năm - Quốc hội khóa I) nhưng cũng có khoá Quốc
hội chỉ tồn tại vỏn vẹn một năm (Quốc hội khóa V). Nhưng tất cả các khoá Quốc hội đều đạt
được những mục tiêu và yêu cầu đã đề ra. Như thực hiện chính sách bình đẳng dân tộc,
chính sách người cày có ruộng, đặt biệt là lãnh đạo toàn dân chiến đấu và giành thắng lợi vẻ
vang trong hai cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ...
Quốc hội khoá I (1946-1960) là khoá Quốc hội có thời gian hoạt động dài nhất trong
lịch sử hoạt động của Quốc hội Việt Nam, do hoàn cảnh lịch sử nên chưa thể tiến hành cuộc
Tổng tuyển cử bầu Quốc hội khoá mới. Quốc hội khoá I được tổ chức bầu cử ngày 06 tháng
01 năm 1946, gồm 403 đại biểu trong đó 333 đại biểu được bầu, 70 ghế theo đề nghị của Hồ
Chí Minh. Quốc hội khoá I thông qua Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà ngày 09 tháng 11 năm 1946. Thông qua Hiến pháp sửa đổi ngày 31 tháng 12 năm 1959
(Hiến pháp 1959). Thời kỳ này Quốc hội ban hành sắc lệnh cải cách ruộng đất và phê chuẩn
hiệp định Geneva. Lúc đầu Quốc hội có 403 đại biểu nhưng đến khoá mùa thu 1946 thì số
CBHD: Nguyễn Nam Phương


3

SVTH: Nguyễn Trọng Hữu


Hoạt động giám sát cửa Quốc hội
đại biểu chỉ còn lại 291 và khi mãn khoá chỉ còn 242 vì hầu hết các đại biểu đối lập thuộc
Việt Nam cách mạng đồng minh hội và Việt nam quốc dân đảng đã bỏ chạy sang Hoa Nam
vi không còn sự hậu thuẫn về quân sụ và chính trị của quân đội Trung hoa dân quốc sau
Hiệp định so bộ ngày 06 tháng 3 năm 1946.
Quốc hội khoá II (1960 - 1964), bầu ngày 08 tháng 5 năm 1960 gồm 453 đại biểu
trong đó 362 đại biểu đuợc bầu và 91 đại biểu khoá I đuợc lưu nhiệm. Uỷ ban thường vụ
Quốc hội gồm 21 uỷ viên chính thức và 5 uỷ viên dự khuyết.
Quốc hội khoá III (1964 - 1971), bầu ngày 26 tháng 4 năm 1964 gồm 453 đại biểu:
366 đại biểu được bầu và 87 đại biểu khoá I của niềm Nam được lưu nhiệm. Uỷ ban thường
vụ Quốc hội gồm 23 uỷ viên chính thức và 3 uỷ viên dự khuyết.
Quốc hội khoá IV (1971 - 1975), bầu ngày 11 tháng 4 năm 1971 gồm 420 đại biểu.
Uỷ ban thường vụ Quốc hội gồm 24 uỷ viên chính thức và 3 uỷ viên dự khuyết.
Quốc hội khoá V (1975 - 1976), bầu ngày 06 tháng 4 năm 1975 gồm 424 đại biểu. Uỷ
ban thường vụ Quốc hội gồm 19 uỷ viên chính thức và 3 uỷ viên dự khuyết. Đây là khoá
Quốc hội có thời gian hoạt động ngắn nhất trong lịch sử hoạt động của Quốc hội Việt Nam.
Trong thời gian này dân tộc ta đã hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, thống nhất
hoàn toàn đất nước. Vì vậy yêu cầu đặt ra phải tổ chức cuộc Tổng tuyển cử thống nhất trong
cả nước để bầu Quốc hội khoá mới.
Quốc hội khoá VI (1976 - 1981), Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam thống nhất,
bầu ngày 25 tháng 4 năm 1976 gồm 492 đại biểu. Ngày 02 tháng 7 năm 1976 Quốc hội
quyết định đổi tên nước thành Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và đổi tên Sài Gòn
thành Thành phố Hồ Chí Minh. Hiến pháp 1980 được thông qua tại kỳ họp thứ 7 ngày 18
tháng 12 năm 1980. Uỷ ban thường vụ Quốc hội gồm 21 uỷ viên chính thức và 2 uỷ viên dự

khuyết.
Quốc hội khoá VII (1981 - 1987), bầu ngày 26 tháng 4 năm 1981 gồm 496 đại biểu.
Là khoá Quốc hội đầu tiên thực hiện mô hình tập thể quản lý. Hội đồng nhà nước gồm 12
thành viên đảm nhận chức năng của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, là cơ quan cao nhất và hoạt
động thường xuyên của Quốc hội.

CBHD: Nguyễn Nam Phương

4

SVTH: Nguyễn Trọng Hữu


1 Lịch sử Quốc hội Việt Nam qua các thời kỳ, http ://baodaklak.vn/channel/3721/201102/Lich-su-Quoc-hoi-VietNam- ___________________________________________________Hoạt động giám sát cửa Quốc hội
quacacthoikyQuốc hội khoá VIII (1987 - 1992), bầu ngày 19 tháng 4 năm 1987 gồm 496 đại biểu
đuợc bầu. Hội đồng nhà nuớc gồm 15 thành viên. Trong kỳ họp 11 ngày 15 tháng 4 năm
1992 Quốc hội thông qua Hiến pháp 1992.
Quốc hội khoá IX (1992 - 1997), bầu ngày 19 tháng 7 năm 1992 gồm 395 đại biểu.
Quốc hội khoá IX quyết định quay trở lại mô hình Uỷ ban thuờng vụ quốc hội gồm 13 uỷ
viên.
Quốc hội khoá X (1997 - 2002), bầu ngày 20 tháng 7 năm 1997 với 450 đại biểu đuợc
bầu. Uỷ ban thuờng vụ Quốc hội gồm 8 uỷ viên.
Quốc hội khoá XI (2002 - 2007), bầu ngày 19 tháng 5 năm 2002 gồm 498 đại biểu,
ưỷ ban thuờng vụ Quốc hội gồm 9 uỷ viên.
Quốc hội khoá XII (2007 - 2011), bầu ngày 20 tháng 5 năm 2007 với 493 đại biểu
đuợc bầu. Quốc hội khoá XII rút ngắn thời gian hoạt động một năm để tiến hành bầu cử
Quốc hội khoá XIII cùng thời gian với bầu cử HĐND các cấp vào năm 2011.
Quốc hội khoá XIII (2011 - 2016), bầu ngày 22 tháng 5 năm 2011 với 500 đại biểu
đuợc bầu.1
1.2 VỊ TRÍ VÀ TÍNH CHẤT PHÁP LÝ CỦA QUỐC HỘI

Từ 1945 khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nuóc
Việt Nam dân chủ cộng hoà, Việt Nam tiến hành xây dựng đất nuớc theo chế độ Xã hội chủ
nghĩa cho đến ngày nay. Tuy trong thời gian từ truớc đến nay chế độ Xã hội chủ nghĩa trên
thế giới có những thay đổi mạnh mẽ với sự thất bại của chế độ Xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô,
sau đó là các nuớc ở Đông âu và các nuớc khác trên thế giới. Nhung dân tộc Việt Nam vẫn
cố gắng đứng vững và tồn tại cho đến ngày nay.
Bản chất của chế độ Xã hội chủ nghĩa là xã hội của nhân dân, do nhân dân và vì nhân
dân nhung nhân dân là những cá thể riêng biệt sống trên khắp lãnh thổ Việt Nam nên không
thể sử dụng quyền lực của mình để quản lý đất nước đuợc. Vì vậy, họ phải chọn ra những
nguời mà họ tin tuởng để bầu vào các co quan đại diện để thay mặt họ sử dụng quyền lực
1978864/ [truy câp ngày 03/4/2012]

CBHD: Nguyễn Nam Phương

5

SVTH: Nguyễn Trọng Hữu


Hoạt động giám sát cửa Quốc hội
Nhà nước. Cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất mà nhân dân bầu ra đó là Quốc hội. Theo
điều 83 Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) và Điều 1 Luật tổ chức Quốc hội 2001
( sửa đổi, bổ sung năm 2007) ghi nhận: "Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân
dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. Quốc hội quyết định những
chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh
của đất nước, những nguyên tắc chủ yểu về tổ chức và hoạt động của bô mảy nhà nước, về
quan hệ xã hội và hoạt dộng của công dân. Quốc hội thực hiện quyền giảm sát tối cao đổi
với toàn bộ hoạt động của Nhà nước”.
Quốc hội là cơ quan duy nhất do nhân dân cả nước bầu ra, là cơ quan quyền lực Nhà

nước cao nhất, nói lên tiếng nói và thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Vì thế, Quốc
hội có ưu thế đặt biệt hơn hẳn so với các cơ quan nhả nước khác trong bộ máy nhà nước.
Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền ban hành Hiến pháp, luật để điều chỉnh các mối quan
hệ trong xã hội thể hiện thẩm quyền tối cao của Quốc hội. Vì là cơ quan quyền lực Nhà nước
cao nhất nên Quốc hội có quyền giám sát tối cao về việc tuân thủ Hiến pháp và pháp luật
cũng như mọi hoạt động của bộ máy nhà nước ở Trung ương.
Ở Việt Nam Chủ tịch nước là Nguyên thủ quốc gia nhưng vẫn phải đứng dưới Quốc
hội, do Quốc hội bầu ra phải chịu trách nhiệm và báo cáo trước Quốc hội.
Đối với các cơ quan nhà nước khác ở Trung ương đều được Quốc hội thành lập là hai
cơ quan hành pháp và tư pháp: Chính phủ và Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân
dân tối cao. Những người đứng đầu hai cơ quan hành pháp và tư pháp là Thủ tướng Chính
phủ và Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đều
được Quốc hội bầu ra, chịu trách nhiệm trước Quốc hội và phải báo cáo trước Quốc hội. Từ
việc thành lập và hoạt động của các cơ quan nhà nước ở trung ương có thể thấy Quốc hội là
cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Quốc hội có tính chất pháp lý là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Được cử tri cả nước bầu ra và trao mọi quyền lực nhằm thực
hiện tâm tư nguyện vọng của nhân dân. Chính vì thế đại biểu Quốc hội phải phục vụ lợi ích

CBHD: Nguyễn Nam Phương

6

SVTH: Nguyễn Trọng Hữu


___________________________________________________Hoạt động giám sát của Quốc hội
chung cho nhân dân cả nước một cách toàn tâm toàn lực, và phải chịu hách nhiệm trước cử
tri và Quốc hội những gì mà đại biểu Quốc hội đã làm.
Vị trí và tính chất pháp lý của Quốc hội là tối cao được quy định trong Hiến pháp,

Luật tổ chức Quốc hội và Luật hoạt động giám sát của của Quốc hội. Ngoài ra, còn được quy
định trong các vãn bản dưới luật khác như: Nội quy kỳ họp Quốc hội, Quy chế hoạt động
của đại biểu Quốc hội và đoàn đại biểu Quốc hội.
1.3 CHỨC NĂNG CỦA QUỐC HỘI
Chức năng của Quốc hội được quy định tại Điều 83 Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung
năm 2001) bao gồm những phương diện lớn như sau:
Thứ nhất, Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp: Hiến pháp là
đạo luật cơ bản nhất, có tính chất pháp lý cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Chỉ có Quốc hội là cơ quan quyền lực nhả nước cao nhất mới có thẩm quyền thông
qua Hiến pháp, thay đổi Hiến pháp; thông qua luật và thay đổi luật. Việc lập pháp sẽ tạo ra
những khuôn khổ, mẫu mực chung, nề nếp sống cho moi người phải tuân theo. Những quy
phạm pháp luật do Quốc hội thông qua được tổ chức thực hiện và đảm bảo thực hiện bằng
sức mạnh của bộ máy nhà nước. Các vãn bản quy phạm pháp luật khác do các cơ quan nhả
nước ban hành không được trái nội dung, tinh thần với Hiến pháp, luật và nghi quyết của
Quốc hội. Mọi cá nhân phải nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật và sống trong khuôn khổ của
pháp luật, mọi trường họp làm trái với quy định của pháp luật đều phải chịu chế tài mà theo
pháp luật mà hành vi đó gây ra. Tuy nhiên để Hiến pháp và luật có thể đi vào cuộc sống dể
dàng và hiệu quả là rất khó khăn, vì vậy Quốc hội cần phải có những chương trình xây dựng
luật và pháp lệnh cho phù họp. Hiến pháp 1980 chưa quy định chương trình xây dựng luật,
pháp lệnh nhưng đến Hiến pháp 1992 đã được quy định cụ thể nhằm đảm bảo cho hoạt động
lập pháp của Quốc hội hiệu quả hơn. Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh là chương trình
quan họng hàng đầu của các quốc gia trên thế giới. Điều 12 Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ
sung 2001) quy định: “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường
pháp chế xã hội chủ nghĩa”, pháp luật có vai trò đặt biệt quan họng trong quản lý xã hội
nhằm đảm bảo sự ổn định và phát triển của đất nước. Sự tồn vong của một quốc gia phụ
thuộc vào hệ thống pháp luật của nước đó có phù hợp với hoàn cảnh hiện tại hay không. Do

CBHD: Nguyễn Nam Phương

7


SVTH: Nguyễn Trọng Hữu


2 Khoản 7 điều 84 Hiển pháp 1992 sửa đổi, bổ sung 2001
___________________________________________________Hoạt động giám sát của Quốc hội
đó, chương trình xây dựng luật, pháp lệnh đạt hiệu quả thì sẽ thúc đẩy quốc gia đi vào nề
nếp, ổn định và phát hiển.
Chức năng thứ hai của Quốc hội là Quốc hội quyết định những vấn đề quan họng của
đất nước thể hiện qua việc, Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối
ngoại, nhiệm vụ kinh tế xã hội, quốc phòng, an ninh của quốc gia, những nguyên tắc chủ yếu
về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân:
Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất nên chỉ có Quốc hội mới có đủ thẩm quyền quyết
định hướng phát hiển của đất nước, những vấn đề về đối nội, đối ngoại, an ninh và quốc
phòng. Vấn đề về đời sống của người dân, những tâm tư nguyện vọng mà người dân mong
muốn sẽ được Quốc hội xem xét và thực hiện.
Quốc hội không chỉ có quyền ban hành Hiến pháp và luật mà còn có thẩm quyền
thành lập các cơ quan nhà nước cao cấp ở trung ương bằng cách: “Bầu, bãi nhiệm, miễn
nhiệm Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Thủ tướng Chỉnh phủ, Chánh án Toà án nhân dân
tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng
Chỉnh phủ về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành
viên khác của chỉnh phủ; phê chuẩn đề nghị của Chủ tịch nước về danh sách thành viên của
Hội đồng quốc phòng và an ninh; bỏ phiếu tín nhiệm đổi với những người giữ các chức vụ
do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn ”.2 Ngoài ra, có những cơ quan nhà nước không do Quốc
hội thành lập nhưng theo quy định của luật thì vẫn do Quốc hội quy định nguyên tắc tổ chức
và hoạt động thông qua các văn bản luật về tổ chức hoạt động do Quốc hội ban hành.
Thứ ba, Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà
nước: Quốc hội giám sát tối cao việc thi hành Hiến pháp và Luật nhằm đảm bảo thi hành và
thực hiện hiệt để và thống nhất. Ngoài ra,Quốc hội còn thực hiện quyền giám sát tối cao đối
với các cơ quan nhà nước ở trung ương về việc tuân theo Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của

Quốc hội. Điều 83 Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001) quy định: ”Quốc hội thực hiện
quyền giám sát tối cao đổi với toàn bộ hoạt động của Nhà nước”, và điểm 2 Điều 84 Hiến
pháp quy định:”77ỉục hiện quyền giảm sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị
quyết của Quốc hội; xét báo cáo của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ quốc hội, Chỉnh phủ,

CBHD: Nguyễn Nam Phương

8

SVTH: Nguyễn Trọng Hữu


Hoạt động giám sát cửa Quốc hội
Toà ản nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân toi cao”. Quốc hội giám sát hoạt động của
các cơ quan nhà nuớc nhằm đảm bảo cho các cơ quan này hoàn thành tốt nhiệm vụ, quyền
hạn đã đuợc quy định, làm cho bộ máy nhà nuớc hoạt động có hiệu quả, đều đặn và nhịp
nhàng, không chồng chéo lẫn nhau, chống các biểu hiện tham nhũng, quan liêu, cửa quyền.
Quốc hội giám sát việt tuân thủ Hiến pháp, Luật nhằm phát hiện những hành vi, sai phạm
trái với nội dung và tinh thần của Hiến pháp, Luật của các cơ quan nhà nuớc để nhanh
chóng đua ra huớng giải quyết nhằm tránh những hậu quả do những vãn bản pháp luật trái
với Hiến pháp gây ra. Ngoài ra việc giám sát của Quốc hội cho Quốc hội thấy đuợc những
thiểu sót, hạn chế, những bất cập của các quy phạm pháp luật để nhanh chóng có huớng giải
quyết bằng các biện pháp thay đổi, bổ sung hoặc huỷ bỏ các văn bản quy phạm pháp luật đó.
Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các Uỷ ban của Quốc hội đã dành nhiều thời gian kiểm tra
tình hình thực tế nhằm có huớng giải quyết những vấn đề cấp bách của đời sống xã hội hiện
nay nhu: công ăn việc làm, tiền luơng, tham nhũng, buôn lậu, tội phạm và các tệ nạn xã hội
khác... đảm bảo quyền cơ bản của công dân. Hoạt động giám sát của Quốc hội sẽ đuợc tác
giả phân tích rõ hơn ở chuơng 2.
1.4 TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA QUỐC HỘI
1.4.1 Ctf cấu tồ chức của Quốc hội

Tổ chức của Quốc hội là cơ cấu bên trong đuợc lập ra để giúp Quốc hội thực hiện
chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình. Theo Hiến pháp 1992(sửa đổi, bổ sung 2001),
từ Điều 90 đến Điều 95 và Luật tổ chức Quốc hội 2001(sửa đổi, bổ sung 2007) chuông II và
chuơng III quy định các cơ quan của Quốc hội bao gồm: Uỷ ban thuờng vụ Quốc hội, Hội
đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội.

1.4.1.1 Uỷ ban thường vụ Quốc hội
Uỷ ban thuờng vụ Quốc hội là cơ quan thuờng trục của Quốc hội, do Quốc hội bầu ra,
chịu hách nhiệm và báo cáo hoạt động truớc Quốc hội. Hiến pháp 1959 thì Uỷ ban thuờng
vụ Quốc hội là cơ quan thuờng trực của Quốc hội nhưng theo Hiến pháp 1980 thì Uỷ ban
thường vụ Quốc hội được thay bằng Hội đồng Nhà nước, Hội đồng Nhà nước vừa là cơ quan
thường trực của Quốc hội vừa là chủ tịch tập thể của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Tuy nhiên, theo hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001) thì Chủ tịch nước và Uỷ ban
CBHD: Nguyễn Nam Phương

9

SVTH: Nguyễn Trọng Hữu


___________________________________________________Hoạt động giám sát của Quốc hội
thường vụ quốc hội được phân định lại rõ ràng. Chủ tịch nước là Người đứng đầu Nhà nước,
thay mặt nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại. Uỷ ban thường
vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội.
Uỷ ban thường vụ Quốc hội gồm: Chủ tịch Quốc hội, các Phó chủ tịch Quốc hội và
các uỷ viên.
Nhiệm vụ và quyền hạn của Uỷ ban thường vụ Quốc hội được quy định cụ thể như
sau:
“Công bổ và chủ trì việc bầu cử đại biểu Quốc hội;
Tổ chức việc chẩn bị, triệu tập và chủ trì các kỳ họp Quốc hội;

Giải thích Hiển pháp, luật, pháp lệnh;
Ra pháp lệnh về những vẩn đề được Quốc hội giao;
Giám sát việc thỉ hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị
quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; giám sát hoạt động của Chỉnh phủ, Toà án nhân dân
tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao; đình chỉ việc thi hành các văn bản của Chỉnh phủ,
Thủ tướng Chỉnh phủ, Toà án nhân dân toi cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trải với Hiến
pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và trình Quốc hội quyết định việc huỷ bỏ các văn bản
đó; huỷ bỏ các văn bản của Chỉnh phủ, Thủ tướng chỉnh phủ, Toà án nhân dân toi cao, Viện
kiểm sát nhân dân toi cao trải với pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội;
Giám sát và hướng dẫn hoạt dộng của Hội đồng nhân dân; bãi bỏ các nghị quyết sai
trái của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phổ trực thuộc trung ương; giải tán Hội đồng nhân
dân tỉnh, thành phổ trực thuộc trung ương trong trường hợp Hội đồng nhân dân do làm thiệt
hại nghiêm trọng đến lợi ích của nhân dân;
Chỉ đạo, điều hoà, phổi hợp hoạt động của Hội đồng nhân dân và các Uỷ ban của
Quốc hội; hưởng dẫn và bảo đảm điều kiện hoạt động của các đại biểu Quốc hội;
Trong trường hợp Quốc hội không thể họp được, quyết định việc tuyên bố tình trạng
chiến tranh khi nước nhà bị xâm lượt và báo cáo Quốc hội xem xét, quyết định tại kỳ họp
gần nhẩt của Quốc hội;

CBHD: Nguyễn Nam Phương

10

SVTH: Nguyễn Trọng Hữu


3 Điều 91 Hiển pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001)
___________________________________________________Hoạt động giám sát của Quốc hội
Quyết định tổng động viên hoặc động viên cục bộ; ban bố tình trạng khẩn cấp trong
cả nước hoặc ở từng địa phưcmg;

Thực hiện quan hệ đổi ngoại của Quốc hội;
Tổ chức trưng cầu ỷ dân theo quyết định của Quốc hộf\3
Số thành viên của Uỷ ban thường vụ Quốc hội do Quốc hội quyết định và thành viên
của Uỷ ban thường vụ Quốc hội là đại biểu chuyên trách, không đồng thời là thành viên
Chính phủ.

1.4.1.2 Hội đồng dân tộc
Việt Nam là một nước có nhiều dân tộc cùng sinh sống trên cùng một lãnh thổ (54 dân
tộc), nhiều dân tộc vì điều kiện sinh sống thiếu thốn lại ở những nơi hẻo lánh trình độ hiểu
biết thấp, nhận thức kém nên dể dàng bị các thế lực phản động bên ngoài sách động, dụ dỗ,
lôi kéo trở thành tay sai cho chúng để quay lại tấn công đồng bào ta. Vì vậy, vấn đề dân tộc
là vấn đề cấp bách và có ý nghĩa chiến lượt đối với nước ta. Hiến pháp 1980 đã nâng Uỷ ban
dân tộc thành Hội đồng dân tộc cho đúng với ý nghĩa và tầm quan họng của nó. Hội đồng
dân tộc nghiên cứu và kiến nghị với Quốc hội những vấn đề về dân tộc; thực hiện quyền
giám sát việc thi hành chính sách dân tộc, các chương trình, kế hoạch phát hiển kinh tế - xã
hội miền núi và vùng có đồng bào dân tộc thiểu số. vấn đề dân tộc là vấn đề khá nhạy cảm,
có thể ảnh hưởng đến chính trị, kinh tế... của một quốc gia, nhất là Quốc gia có nhiều dân tộc
cùng sinh sống như Việt Nam. Luật Tổ chức Quốc hội năm 2001 (sửa đổi, bổ sung 2007)
quy định vai trò, vị trí của Hội đồng dân tộc. Cụ thể;
Thẩm tra dự án luật, dự án pháp lệnh và dự án khác liên quan đến vấn đề dân tộc;
Giám sát việc thực hiện luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ
ban thường vụ Quốc hội thuộc lĩnh vực dân tộc; giám sát hoạt động của Chính phủ, các Bộ,
cơ quan ngang Bộ trong việc thực hiện chương trình, kế hoạch phát hiển kinh tế - xã hội
miền núi, vùng có đồng bào dân tộc thiểu số;
Tham gia ý kiến về dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Toà án nhân dân tối cao, Viện

CBHD: Nguyễn Nam Phương

11


SVTH: Nguyễn Trọng Hữu


4 Điều 95 Hiển pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001)
Hoạt động giám sát cửa Quốc hội
kiểm sát nhân dân tối cao, vãn bản quy phạm pháp luật liên tịch giữa các cơ quan nhà nuớc
có thẩm quyền ở trung uơng hoặc giữa cơ quan nhà nuớc có thẩm quyền với cơ quan trung
uơng của tổ chức chính trị - xã hội có liên quan đến vấn đề dân tộc và giám sát việc thực
hiện các vãn bản đó;
Kiến nghị với Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội các vấn đề về chính sách dân tộc
của nhà nước; các vấn đề liên quan đến tổ chức, hoạt động của các cơ quan hữu quan; kiến
nghị với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ và các
cơ quan khác của Nhà nước ở trung ương và địa phương về những vấn đề có liên quan đến
dân tộc thiểu số.

1.4.1.3 Các Uỷ ban của Quốc hội
Ngoài Hội đồng dân tộc giúp Quốc hội các vấn đề về chính sách dân tộc, tôn giáo của
đất nước. Quốc hội còn thành lập các Uỷ ban thường trực nhằm giúp Quốc hội thực hiện tốt
nhiệm vụ, chức năng của mình. Các Uỷ ban của Quốc hội hoạt động thường xuyên với
nhiệm vụ và quyền hạn:”C«c Uỷ ban của Quốc hội nghiên cứu, thẩm tra dự án luật, kiến
nghị về luật, dự án pháp lệnh và dự án khác, những báo cáo được Quốc hội hoặc Uỷ ban
thường vụ Quốc hội giao; trình Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội ỷ kiến về chương
trình xây dựng luật, pháp lệnh; thực hiện quyền giám sát trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn
do luật định; kiến nghị những vẩn đề thuộc phạm vi hoạt động của Uỷ ban”.4
Các Uỷ ban của Quốc hội do Quốc hội thành lập được quy định tại Điều 22 Luật Tổ
chức Quốc hội 2001(sửa đổi, bổ sung năm 2007). Gồm:
Uỷ ban pháp luật;
Uỷ ban tư pháp;
Uỷ ban kinh tế;

Uỷ ban tài chính, ngân sách;
Uỷ ban quốc phòng và an ninh;
Uỷ ban vãn hoá, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng;

CBHD: Nguyễn Nam Phương

12

SVTH: Nguyễn Trọng Hữu


Hoạt động giám sát cửa Quốc hội
Uỷ ban về các vấn đề xã hội;
Uỷ ban khoa học, công nghệ và môi trường;
Uỷ ban đối ngoại.
Mỗi Uỷ ban của Quốc hội hoạt động riêng biệt và độc lập nhau. Nhiệm vụ và quyền
hạn của các Uỷ ban được quy định từ Điều 27 đến Điều 33 Luật tổ chức Quốc hội 2001 (sửa
đổi, bổ sung 2007). Tuy nhiên, xét thấy cần thiết Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội
trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình tham gia với các Uỷ ban khác thẩm tra, giám
sát các vấn đề thuộc lĩnh vực mà các Uỷ ban phụ trách.
Uỷ ban của Quốc hội gồm có Chủ nhiệm, các Phó Chủ nhiệm và các Uỷ viên, số Phó
Chủ nhiệm và số Uỷ viên Uỷ ban do Quốc hội quyết định. Thành viên Uỷ ban của Quốc hội
do Quốc hội bầu trong số các đại biểu Quốc hội. số thành viên hoạt động chuyên trách do
Uỷ ban thường vụ quyết định. Đe việc giám sát các cơ quan Nhà nước được tiến hành khách
quan thì thành viên của các cơ quan giám sát phải là đại biểu Quốc hội và không đồng thời
là thành viên của Chính phủ.
Ngoài các Uỷ ban thường trực, khi xét thấy cần thiết, Quốc hội thành lập Uỷ ban lâm
thời để nghiên cứu, thẩm tra một dự án hoặc điều tra về một vấn đề nhất định.
1.4.2 Hoạt động của Quốc hội
Quốc hội tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ; làm việc theo chế

độ hội nghị và quyết định theo đa số. Khi quyết định vấn đề gì phải nghĩ đến lợi ích của
nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân về vấn đề đó. Ngoài ra, để thông qua một vấn đề
nào đó phải được đa số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành, Luật, nghị quyết của Quốc
hội phải được quá nửa tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành. Đối với các nghị
quyết về việc bãi nhiệm đại biểu Quốc hội, rút ngắn hoặc kéo dài nhiệm kỳ của Quốc hội,
sửa đổi Hiến pháp thì phải được ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán
thành.
Đe Quốc hội hoạt động tốt và đạt hiệu quả thì các kỳ họp của Quốc hội rất quan trọng.
Thường lệ Quốc hội họp một năm hai kỳ, kỳ họp giữa năm và kỳ họp cuối năm do Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội triệu tập. Trong trường hợp Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ hoặc

CBHD: Nguyễn Nam Phương

13

SVTH: Nguyễn Trọng Hữu


___________________________________________________Hoạt động giám sát của Quốc hội
ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội yêu cầu hoặc theo quyết định của mình, Uỷ
ban thuờng vụ Quốc hội triệu tập kỳ hợp bất thường.
Các phiên hợp của Quốc hội điều diễn ra công khai, Trong trường họp cần thiết, theo
đề nghị của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội,Thủ tướng Chính phủ hoặc của ít
nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội, Quốc hội quyết định họp kín. Mọi công dân
điều có thể đến dự phiên họp công khai của Quốc hội theo giấy mời của Vãn phòng Quốc
hội. Ngoài ra, hoạt động của Quốc hội còn được thực hiện thông qua hoạt động của ủy ban
thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội
và đại biểu Quốc hội.
1.4.3 Nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội
Nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội được quy định tại Điều 84 Hiến pháp 1992(sửa

đổi, bổ sung 2001) và Điều 2 Luật tổ chức Quốc hội 2001(sửa đổi, bổ sung 2007). Cụ thể:
Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp; làm luật và sửa đổi luật; quyết định chương
trình xây dựng luật và pháp lệnh;
Thực hiện quyền giám sát toi cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của
Quốc hội; xét bảo cáo hoạt động của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chỉnh
phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
Quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước;
Quyết định chính sách tài chỉnh, tiền tệ quốc gia; quyết định dự toán ngân sách nhà
nước và phân bổ ngân sách trung ương, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước; quy
định sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế;
Quyết định chỉnh sách dân tộc, chỉnh sách tôn giảo của nhà nước;
Quy định tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chỉnh phủ, Toà án nhân
dân, Viện kiểm sát nhân dân và chính quyền địa phương;
Bầu, bãi nhiệm, miễn nhiên Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, các
Phó Chủ tịch Quốc hội và các Uỷ viên ban thường vụ Quốc hội, Thủ tưóng Chỉnh phủ,
Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; phê chuẩn

CBHD: Nguyễn Nam Phương

14

SVTH: Nguyễn Trọng Hữu


___________________________________________________Hoạt động giám sát của Quốc hội
đề nghị của thủ tướng Chỉnh phủ về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng,
Bộ trưởng và các thành viên khác của Chỉnh phủ; phê chuẩn đề nghị của Chủ tịch nước về
danh sách thành viên Hội đồng quốc phòng và an ninh; bỏ phiếu tín nhiệm đổi với những
người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn;
Quyết định thành lập, bãi bỏ các Bộ và các cơ quan ngang Bộ của Chỉnh phủ; thành

lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính, thành phố trực thuộc trung ương; thành
lập hoặc giải thể đơn vị hành chinh - kinh tể đặc biệt;
Bãi bỏ các văn bản của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chinh phủ, Thủ
tưởng Chính phủ, Toà ản nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao trải với Hiển
pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội;
Quyết định đại xá;
Quy định hàm, cấp trong các lực lượng vũ trang nhân dân, hàm, cấp ngoại giao và
những hàm cấp nhà nước khác; quy định huy chương, huân chương và danh hiệu vinh dự
nhà nước;
Quyết định vẩn đề chiến tranh và hoà bình; quy định về tình trạng khẩn cẩp, các biện
pháp đặc biệt khác bảo đảm quốc phòng và an ninh quốc gia;
Quyết định chỉnh sách cơ bản về đổi ngoại; phê chuẩn hoặc bãi bỏ điều ước quốc tể
do Chủ tịch nước trực tiếp ký; phê chuẩn hoặc bãi bỏ các điều ước quốc tể khác đã được ký
hoặc gia nhập theo đề nghị của Chủ tịch nước;
Quyết định việc trưng cầu ỷ dân.
1.5 MỐI LIÊN HỆ GIỮA GIÁM SÁT TỐI CAO VỚI KIÊM SÁT TỐI CAO VỚI
KIỂM SÁT, GIÁM ĐỐC XÉT xử VÀ THANH TRA, KIÊM TRA
Nhà nước ta là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Quốc hội là cơ quan
quyền lực nhà nước cao nhất được nhân dân bầu ra nhằm phục vụ lợi ích cho nhân dân. Theo
Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001), Quốc hội được giao thẩm quyền giám sát tối cao
việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật của các cơ quan nhà nước ở trung ương. Tuy nhiên,
nếu duy nhất chỉ có Quốc hội có quyền giám sát tối cao các cơ quan nhà nước ở trung ương,
thì các cơ quan nhà nước khác ở địa phương sẽ không phải chịu sự giám sát của Quốc hội.

CBHD: Nguyễn Nam Phương

15

SVTH: Nguyễn Trọng Hữu



___________________________________________________Hoạt động giám sát của Quốc hội
Vì vậy, ngoài hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội, trong các vãn bản luật còn quy định
các hình thức giám sát khác thuộc thẩm quyền của các cơ quan nhà nước khác nhau. Cụ thể:
hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, giám đốc việc xét xử của Tòa án
nhân dân tối cao, thanh ứa, kiểm tra của cơ quan thanh tra.
Hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân tối cao: Theo quy định tại Điều 137
của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001), và Điều 2 của Luật tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân tối cao có thẩm quyền kiểm sát các hoạt động tư
pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất. Đối
tượng chịu sự giám sát của Viện kiểm sát nhân dân tối cao là hoạt động của các cơ quan tư
pháp bao gồm các cơ quan: điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án và các cơ quan thực hiện các
hoạt động hỗ trợ tư pháp. Viện kiểm sát nhân tối cao khi tiến hành hoạt động kiểm sát hoạt
động của các cơ quan tư pháp phải tuân thủ các quy định của Luật tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân và các quy định của pháp luật tố tụng có liên quan. Khi phát hiện có dấu hiệu vi
phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân có quyền ra kháng nghị đối
với cơ quan, tổ chức, cá nhân có vi phạm. Nếu có dấu hiệu tội phạm thì khởi tố về hình sự.
Giám đốc việc xét xử của Tòa án nhân dân tối cao: theo điều 134 Hiến pháp 1992 (sửa
đổi, bổ sung 2001) quy định “Tòa án nhân dân toi cao giám đốc việc xét xử của Tòa án nhân
dân địa phương và các Tòa án quân sự”. Như vậy, đối tượng giám đốc xét xử là các hoạt
động xét xử của Tòa án nhân dân địa phương và Tòa án quân sự. về phương thức thực hiện
giám đốc xét xử là kháng nghị và xét xử theo trình tự giám đốc thẩm. Hậu quả pháp lý là cho
thi hành, sửa hoặc hủy các bản án đã có hiệu lực pháp luật. Như vậy, giám đốc xét xử của
Tòa án nhân dân tối cao hoàn toàn khác với giám sát tối cao của Quốc hội.
Kiểm tra, thanh tra của cơ quan thanh tra: là một chức năng quan họng của cơ quan
quản lý nhà nước, là phương thức bảo đảm pháp chế, tăng cường kỷ luật trong quản lý nhà
nước, thực hiện quyền dân chủ xã hội chủ nghĩa. “Cơ quan thanh tra nhà nước tiến hành
thanh tra việc thực hiện chỉnh sách, pháp luật, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân
thuộc thẩm quyền quản lý của cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp. Ban thanh tra nhân dân
giám sát việc thực hiện chỉnh sách, pháp luật, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, việc thực

hiện quy chế dân chủ ở cơ sở của cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm ở xã, phường,

CBHD: Nguyễn Nam Phương

16

SVTH: Nguyễn Trọng Hữu


5 Điều 2 và điều 3 Luật Thanh ừa 2004
___________________________________________________Hoạt động giám sát của Quốc hội
thị tran, cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước ” và “Hoạt động thanh
tra nhằm phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật; phát hiện những sơ
hở trong cơ chế quản lý, chỉnh sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm
quyền các biện pháp khắc phục; phát huy nhân tổ tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực,
hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cả nhân”.5 Quyền thanh tra thuộc về Chính phủ. Thanh tra
là hoạt động tự kiểm tra, giám sát của cơ quan quản lý nhả nước trong việc thi hành Hiến
pháp, pháp luật trong quá trình điều hành và quản lý của Chính phủ. Thanh tra là hoạt động
quản lý của cơ quan nhà nước từ cấp Bộ trở xuống. Trong đó, có cả thanh tra hành chính là
thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của các cơ quan, tổ chức, cá nhân
thuộc quyền quản lý trực tiếp của cơ quan quản lý nhà nước và thanh tra chuyên ngành là
hoạt động thanh tra việc chấp hành pháp luật, những quy định về chuyên môn - kỹ thuật,
quy tắc quản lý của ngành, lĩnh vực thuộc thẩm quyền quản lý của cơ quan quản lý nhà nước
Phương thức thực hiện hoạt động thanh tra chủ yếu là thành lập các đoàn thanh tra. Khi phát
hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật trong hoạt động quản lý của các cơ quan nhà nước thi
tiến hành xử lý những vi phạm đó (trong lĩnh vực hành chính). Khi pháp hiện có dấu hiệu vi
phạm pháp luật hình sự thì chuyển cho cơ quan có thẩm quyền để xử lý mà không tự mình
giải quyết.
Hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội, kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân tối cao,

giám đốc xét xử của Tòa án nhân dân tối cao, thanh tra của cơ quan thanh tra nhằm đảm bảo
pháp chế và kỷ luật trong quản lý nhà nước. Đặc biệt, tất cả các hoạt động trên đều được
thực hiện bằng quyền lực nhà nước.
Như vậy, các hoạt động giám sát, kiểm sát, kiểm tra, thanh tra đều là những hoạt động
kiểm soát việc tuân theo Hiến pháp, pháp luật của các cơ quan nhà nước. Sự khác nhau của
hoạt động giám sát, kiểm tra giữa các cơ quan chính là ở thẩm quyền, đối tượng, phạm vi,
nội dung, phương thức thực hiện và hậu quả pháp lý của nó. Đe hiểu đúng chức năng giám
sát của Quốc hội cần phải thống nhất về mặt quan điểm là hoạt động giám sát, kiểm tra

CBHD: Nguyễn Nam Phương

17

SVTH: Nguyễn Trọng Hữu


Hoạt động giám sát cửa Quốc hội
không chỉ do Quốc hội mà còn do nhiều cơ quan nhả nuớc khác thực hiện, tuỳ theo vị trí,
chức năng, thẩm quyền của các cơ quan này do pháp luật quy định.
Trên cơ sở tìm hiểu các vấn đề liên quan đến Quốc hội từ cơ cấu, tổ chức, hoạt động,
vai trò và chức năng của Quốc hội thì chức năng của Quốc hội rất quan họng. Quốc hội
muốn hoạt động tốt thì các chức năng của Quốc hội phải đảm bảo thực hiện tốt. Trong các
chức năng của Quốc hội, hoạt động giám sát tối cao là một trong những chức năng quan
trọng giám sát các cơ quan nhà nuớc trong việc thực hiện và thi hành Hiến pháp, pháp luật
do Quốc hội ban hành.

CBHD: Nguyễn Nam Phương

18


SVTH: Nguyễn Trọng Hữu


Hoạt động giám sát của Quốc hội
CHƯƠNG 2
HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA QUỐC HỘI
2.1 KHẮT NIỆM GIÁM SÁT, MỐI LIÊN HỆ GIỮA CHỨC NĂNG GIÁM SÁT VÀ
CÁC CHỨC NĂNG KHÁC CỦA QUỐC HỘI VÀ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA
QUỐC HỘI
2.1.1 Khái niệm giám sát
Theo Từ điển tiếng Việt, “giám sát” được hiểu là “theo dõi và kiểm tra xem có thực
hiện đúng những điều quỵ định không”.6
Đi sâu vào khái niệm “giám sát” thì “giám sát” là việc theo dõi, kiểm tra các hoạt
động của các chủ thể chịu sự giám sát. Hoạt động giám sát là hoạt động có ý thức, có tổ
chức và có mục đích, luôn gắn liền với một chủ thể nhất định, xác định được đối tượng chịu
sự giám sát nhất định, quyền và trách nhiệm của hai bên chủ thể trong hoạt động giám sát
phải tuân thủ theo quy định của pháp luật. Hoạt động giám sát được tiến hành trên cơ sở quy
định của pháp luật, tuân theo những nguyên tắc, thủ tục nhất định và cũng phải được bảo
đảm thực hiện bằng những biện pháp cần thiết.
Trong Luật hoạt động giám sát của Quốc hội 2003, thì “giám sát” được hiểu là việc
Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội, Đoàn đại
biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ
chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội,
pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Theo quy định các chủ thể trên có
quyền giám sát việc tuân theo Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị
quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Tuy nhiên, chủ thể duy nhất có quyền giám sát tối
cao là Quốc hội: “Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của
Nhà nước”(Điềxi 83 Hiến pháp 1992, sửa đổi, bổ sung 2002). Cùng với chức năng lập hiến,
lập pháp và quyết định những vấn đề quan họng của đất nước, giám sát là một trong những
chức năng chủ yếu của Quốc hội đã được xác định xuyên suốt trong tất cả các bản Hiến pháp

của nước ta (Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992(sửa đổi, bổ

6
Nguyễn Minh Hoàng: Từ điển Tiếng Việt, NXB Thống Kê, năm 2005, ừ. 193
SVTH: Nguyễn Trọng Hữu
CBHD: Nguyễn Nam Phương
19


Hoạt động giám sát cửa Quốc hội
sung năm 2001)). Đồng thời, chức năng giám sát đã được cụ thể hoá trong các vãn bản pháp
luật khác: Luật Tổ chức Quốc hội 2002 (Điều 1), Luật hoạt động giám sát của Quốc hội
2003 (Điều 1). Để cụ thể hoá quy định của Điều 83 Hiến pháp 1992, tại Điều 84 quy định
nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội “Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân
theo Hiển pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội; xét báo cáo hoạt động của Chủ tịch nước,
Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chỉnh phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân
tối cao". Như vậy Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao hoạt động của các cơ quan
quyền lực Nhà nước cao nhất ở Trung ương: Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội,
Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao. về việc thực hiện và thi
hành Hiển pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ
Quốc hội không trái với những quy định trong những vãn bản trên. Theo Điều 2 Hiến pháp
1992 (sửa đổi, bổ sung 2001) quy định: ”Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa hai giai cẩp công
nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quyền lực nhà nước là thong nhất, có sự
phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp. Từ quy định trên cho thấy Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao
nhất do nhân dân tín nhiệm bầu ra nhằm phục vụ lợi ích cho nhân dân. Tuy nhiên chỉ Quốc
hội thì không thể nào làm được tất cả mọi việc cùng một lúc vì các lí do chủ quan và khách
quan của xã hội và đời sống nhân dân. Vì vậy Quốc hội phải phân công quyền lực cho các

cơ quan khác ở Trung ương nhằm thực hiện quyền lực nhà nước thay Quốc hội: Chủ tịch
nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân
dân tối cao. Những cơ quan này thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn theo quy định của Hiến
pháp và pháp luật và phải chịu sự giám sát tối cao của Quốc hội.
Theo quy định của Điều 84 Khoản 2 Hiến pháp 1992 thì giám sát tối cao của Quốc hội
có những nội dung chủ yếu sau:
Giám sát việc tuân theo Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và hoạt động của
Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm
sát nhân dân tối cao.

CBHD: Nguyễn Nam Phương

20

SVTH: Nguyễn Trọng Hữu


7
Trần Ngọc Đường, Quyền giám sát tối cao và một số suy nghĩ về việc năng cao hiệu lực và hiệu quả quyền
giảm sát ___________________________________________________Hoạt động giám sát của Quốc hội tối
cao của
Quốc
hội, in
ừong
Giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Chủ tịch nuớc, Uỷ ban thuờng vụ Quốc hội,
Kỷ yếu
hội
thảo về Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Neu trái với Hiến pháp, hoạt
động
giám

sát của luật, nghị quyết của Quốc hội thì Quốc hội bãi bỏ.
Quốc
hội, Văn
phòng
Quốc hội,
Xem xét, đánh giá khả năng, hách nhiệm của các cá nhân trong cơ quan nhà nuớc do Hà
Nội, năm
1999
Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn.
Từ những nội dung cơ bản trên về quyền giám sát của Quốc hội có thể rút ra các đặc
trung sau đây:
Giám sát tối cao của Quốc hội mang tính quyền lực nhà nước, Quốc hội là cơ quan
dân biểu cao nhất của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là cơ quan đại diện cho ý
chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân.
Vì thế, thực hiện quyền giám sát tối cao chính là Quốc hội thay mặt nhân dân sử dụng quyền
lực nhà nước do nhân dân giao.
Giám sát của Quốc hội là quyền giám sát tối cao, Quốc hội là cơ quan nhà nước cao
nhất và duy nhất được nhân dân giao thực hiện quyền giám sát tối cao. Quốc hội có quyền
giám sát tối cao bắt nguồn từ vị trí pháp lý tối cao của Quốc hội trong bộ máy nhà nước
“Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất
của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam” (Điều 83 Hiến pháp 1992). Vì do nhân dân
bầu ra nên Quốc hội phải chịu trách nhiệm trước nhân dân về vai trò và hoạt động của chính
bản thân Quốc hội. Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao các cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất về việc thi hành Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội. “Quyền giảm sát
tối cao là quyền giám sát mang tỉnh quyền lực nhà nước cao nhất do Quốc hội thực hiện
quyền công bằng việc theo dõi, xem xét, kiểm tra tỉnh hợp hiển, hợp pháp đổi với việc ban
hành các văn bản và các hoạt động của Chủ tịch nước, Thủ tướng Chỉnh phủ, Toà án nhân
dân toi cao, Viện kiểm sát nhân dân toi cao; xử lý những vi phạm Hiến pháp, luật, nghị
quyết của Quốc hội do các cơ quan nói trên gây ra nhằm bảo đảm cho Hiển pháp, luật, nghị
quyết của Quốc hội được nghiêm chỉnh chấp hành”.1 7


CBHD: Nguyễn Nam Phương

21

SVTH: Nguyễn Trọng Hữu


Hoạt động giám sát cửa Quốc hội
Quyền lực nhà nước là thống nhất không thể phân chia và quyền giám sát là một trong
những bộ phận cấu thành quyền lực nhà nước của Quốc hội. Do đó quyền giám sát tối cao có
quan hệ qua lại với các quyền khác của Quốc hội và không thể tách rời. Quyền giám sát là
một trong ba nhóm quyền cơ bản của Quốc hội là lập pháp, giám sát tối cao và quyết định
những vấn đề họng đại của đất nước. Quyền giám sát có quan hệ qua lại rất chặt chẽ với các
quyền khác. Qua giám sát mới phát hiện những vấn đề của hoạt động lập pháp có phù hợp
với thực tiễn hay không để bổ sung hoàn thiện quyền lập pháp, làm tốt hơn quyền lập pháp.
Qua giám sát cũng xem xét lại chính mình, xem những quyết định của Quốc hội thông qua
có phù hợp với thực tiễn hay không, có đi vào cuộc sống hay không. Giám sát bổ sung trở lại
cho quyền lập pháp và những vấn đề trọng đại của đất nước. Nếu quyền lập pháp và quyết
định những vấn đề họng đại thực hiện tốt sẽ bổ sung, tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện
quyền giám sát. Quyền giám sát có tác động tích cực đến quyền hành pháp, qua đó nó phát
hiện những sai sót trong khi tổ chức và thực hiện quyền hành pháp để kiến nghị với Chính
phủ sửa đổi những văn bản pháp quy và tổ chức hoạt động thực tiễn. Đồng thời, quyền giám
sát này còn tác động đến hoạt động tư pháp, bởi quyền của Quốc hội bao gồm giám sát hoạt
động của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, làm cho hoạt động của
Toà án và Viện kiểm sát tốt hơn. Giám sát là để khắc phục những tồn tại, thiếu sót trong tổ
chức và hoạt động của các nhánh quyền lực, làm cho quyền hành pháp và tư pháp thực hiện
tốt.
2.1.2 Mối liên hệ giữa chức năng giám sát và các chức năng khác của Quốc hội
Quyền giám sát tối cao có quan hệ chặt chẽ với các quyền khác của Quốc hội. Trước

tiên là quyền giám sát tối cao có quan hệ trực tiếp với quyền lập hiến, lập pháp đây là quyền
quan họng của Quốc hội, thông qua hoạt động này, ý chí và nguyện vọng của nhân dân,
đường lối chính sách của Đảng được thể chế hoá thành luật và là công cụ để nhà nước quản
lý xã hội hiệu quả hơn. Đây là hai vấn đề có quan hệ chặt chẽ với nhau và có mối quan hệ tất
yếu khách quan do bản chất của quyền lực nhà nước quyết định và do quyền lực nhà nước
thống nhất tập trung vào tay nhân dân. Không thể tách rời nhau do việc xây dựng Hiến pháp
và luật chính là cơ sở, căn cứ để Quốc hội thực hiện quyền giám sát là điều kiện để hoạt
động giám sát của Quốc hội thực hiện có hiệu quả và đảm bảo tính mục đích của hoạt động
giám sát. Đổ bảo đảm quyền lập hiến và lập pháp được thực hiện thì hoạt động giám sát là
CBHD: Nguyễn Nam Phương

22

SVTH: Nguyễn Trọng Hữu


___________________________________________________Hoạt động giám sát của Quốc hội
điều kiện không thể thiếu. Để có căn cứ trong quá trình xem xét, thẩm tra các dự án luật
Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội phải dựa vào kết quả giám sát của
chính mình về những vấn đề mà văn bản dự thảo đề cập đến. Nếu hoạt động giám sát của
Quốc hội thực hiện tốt việc thi hành Hiến pháp và pháp luật thì đó là điều kiện để Quốc hội,
các Uỷ ban của Quốc hội thẩm tra các dự án luật có căn cứ thực tế vững chắc, tính thuyết
phục cao không phải lý luận chung do đó có tính thuyết phục cao và áp dụng dể dàng hơn.
Giám sát nằm ngay trong quá trình lập hiến và lập pháp, là khâu không thể thiếu trong quá
trình lập pháp. Trong quá trình lập hiến và lập pháp khi một vãn bản luật ra đời để áp dụng
đuợc vào đời sống càn phải có hàng loạt các văn bản pháp quy khác của cơ quan nhà nuớc
ban hành nhằm huớng dẫn luật của Quốc hội. Vì thể, càn phải giám sát, kiểm tra tính họp
hiến, hợp pháp của các vãn bản pháp quy đó, xem có thể hiện đúng tinh thần của luật mới
ban hành quy định hay không? Giám sát quá trình thực hiện và áp dụng luật chặt chẽ để kịp
thời phát hiện những thiếu sót, mâu thuẫn trong vãn bản luật để kịp thời sửa đổi bổ sung luật

cho phù hợp. Vì đời sống kinh tế xã hội luôn luôn vận động và phát hiển không ngừng,
nhiều quan hệ xã hội mới phát sinh cần quy định trong luật nhưng chưa được quy định hoặc
các quy định của luật trước đây đã lạc hậu không còn phù hợp với thực tế yêu cầu. Vì vậy,
tăng cường hoạt động giám sát để kịp thời huỷ bỏ, sửa đổi, bổ sung những văn bản luật
không còn phù hợp với thực tế.
Hoạt động giám sát có tác động mạnh mẽ tới việc xây dựng pháp luật từ khi lên kế
hoạch soạn thảo và khi sửa đổi, bổ sung luật. Một khi quyền giám sát tối cao của Quốc hội
không được thực hiện đầy đủ sẽ ảnh hưởng sâu sắc tới việc xây dựng luật. Có thể khẳng
định, việc xây dựng văn bản luật là khó khăn nhưng giám sát việc xây dựng vãn bản luật đó
càng khó khăn hơn và tác dụng xã hội của văn bản luật cũng chỉ xác định khi nó đã đi vào
đời sống xã hội. Thông qua giám sát hoạt động hành pháp, Quốc hội thấy được những thiếu
sót trong việc ban hành vãn bản luật, vì cơ quan hành pháp là nơi ban hành rất nhiều văn bản
pháp quy dưới luật khi có một vãn bản pháp luật mới ra đời. Việc giám sát tối cao của Quốc
hội đối với cơ quan hành pháp trong việc thực thi văn bản luật mới ra đời giúp Quốc hội thấy
được những ưu điểm trong việc ban hành pháp luật để phát huy, bên cạnh đó không thể tránh
được những thiếu sót để Quốc hội kịp thời huỷ bỏ, sửa đổi, bổ sung vãn bản luật hoặc các
vãn bản dưới luật khác của các cơ quan nhà nước. Thông qua hoạt động hành pháp để Quốc
CBHD: Nguyễn Nam Phương

23

SVTtì: Nguyễn Trọng Hữu


×