Tải bản đầy đủ (.doc) (414 trang)

TỔNG hợp bài tập LUẬT KHUYẾT tật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.87 MB, 414 trang )

Bài nhóm SỐ 5:
I, KHÁI NIỆM CHUNG
- Sức khỏe: Là trạng thái thoải mái, toàn diện về thể chất, tâm thần và xã hội chứ
không chỉ bao gồm tình trạng không có bệnh hay thương tật. Và chăm sóc sức khỏe bao gồm
chăm sóc y tế và chăm sóc ngoài y tế. Chăm sóc y tế do ngành y tế thực hiện như khám chữa
bệnh, phòng bệnh, phục hồi chức năng; còn chăm sóc ngoài y tế là chăm sóc về dinh dưỡng,
vệ sinh môi trường, nhà ở, giao thông, thể thao...
Có thể thấy sức khỏe là vấn đề rất được Nhà nước, cộng đồng xã hội chú trọng và quan
tâm. Đặc biệt là sức khỏe của những người khuyết tật.
- Sức khỏe người khuyết tật: Là tình trạng ổn định toàn diện về thể chất, tâm thần và
xã hội.
- Còn chăm sóc sức khỏe người khuyết tật: Không chỉ là hướng đến các yếu tố môi
trường bên ngoài (như thức ăn, nước uống, điều kiện vệa sinh,...) mà còn các yếu tố môi
trường bên trong (như di truyền, gen, tế bào,...), không chỉ là giữa các hoạt động đề phòng
phát sinh bệnh tật mà còn phát hiện sớm bệnh và điều trị phục hồi sức khỏe cho người
khuyết tật.
Người khuyết tật đã gặp nhiều khó khăn trong quá trình ban đầu để làm sao có thể thích
nghi với mọi thứ. Như anh Khúc Hải Vân là người khuyết tật, anh bị mù bẩm sinh nên anh
đã gặp khó khăn trong việc đi lại, cũng như xác định vị trí của mọi đồ vật trong nhà. Do đó,
để mình có thể nhận biết được hướng đi vào phòng ngủ, phòng vệ sinh thì anh đã treo ở gần
nơi vào phòng vệ sinh một chiếc giày; treo một chiếc quần gần hướng vào phòng ngủ để mỗi
lần anh sờ thấy đồ đó là anh biết hướng rẽ vào phòng. Hay như lúc nấu ăn nhất là rán trứng,
anh cũng không thể lật trưngd như người bình thường mà phải gạt trứng vào một chiếc đĩa
rồi sau đó úp đĩa trứng lại vào nồi để rán tiếp.
Đó chỉ mới là số ít khó khăn mà người khuyết tật gặp phải trong cuộc sống. Vì vậy, để
họ có động lực hơn trong cuộc sống và đảm bảo cho họ có thể hoạt động tốt hơn trong sinh
hoạt, trong lao động, học tập; đồng thời giúp người khuyết tật tự tin, được quyền bình đẳng
như những người bình thường khác trong các hoạt động giải trí, văn hóa, ... mà pháp luật
Việt Nam đã đưa ra những quy định về chế độ chăm sóc sức khỏe người khuyết tật. Vấn đề
này được quy định cụ thể trong Luật người khuyết tật năm 2010.
- Theo đó, chế độ chăm sóc sức khỏe người khuyết tật: Là tổng hợp các quy định về


quyền của người khuyết tật được Nhà nước, cộng đồng xã hội thực hiện trong các hoạt động


phòng bệnh, khám chữa bệnh, chỉnh hình, phục hồi chức năng nhằm giúp người khuyết tật
ổn định sức khỏe, vượt qua những khó khăn bệnh tật, vươn lên hòa nhập cộng đồng.
Người khuyết tật cũng giống như người bình thường khác đều có quyền được sống, được
học tập, vui chơi, cũng như quyền được bảo vệ cuộc sống, quyền con người... Hiểu được tầm
quan trọng của chế độ chăm sóc sức khỏe của người khuyết tật nên càng ngày vấn đề này
được quan tâm điều chỉnh. Ở Việt Nam, từ lúc Luật người khuyết tật được ban hành, người
khuyết tật đã được quan tâm hơn, quyền của người khuyết tật cũng đã được đảm bảo bình
đẳng hơn nhiều. Như Điều 1 Luật khuyết tật năm 2010 đã quy định về phạm vi điều chỉnh
của luật này là quy định về quyền và nghĩa vụ của người khuyết tật, cũng như trách nhiệm
của Nhà nước, gia đình và xã hội đối với người khuyết tật.
Từ đó, chế độ chăm sóc sức khỏe đối với người khuyết tật cũng được Nhà nước và các
cơ sở quan tâm hơn. Vấn đề này được quy định cụ thể tại chương III Luật người khuyết tật từ
Điều 21 đến Điều 26. Bên cạnh đó, chế độ chăm sóc sức khỏe người khuyết tật còn được quy
định tại Điều 12 Luật người cao tuổi; Điều 3 Luật khám bệnh, chữa bệnh; Điều 7 Luật hoạt
động chữ thập đỏ; Điều 2 và Điều 41 Luật bảo vệ sức khỏe nhân dân; Điều 12 đến Điều 15
Luật bảo hiểm y tế; Điều 41, Điều 42, Điều 48, Điều 52 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục
trẻ em,... Như vậy, tùy vào từng đối tượng và mức độ dạng tật hoặc nhu cầu của người
khuyết tật mà pháp luật quy định chế độ chăm sóc sức khỏe đối với người khuyết tật được
thực hiện khác nhau. Từ đó, người khuyết tật cũng được hưởng một hoặc nhiều chế độ trong
quá trình chăm sóc sức khỏe.
Những khiếm khuyết về thể chất, tinh thần hay trí tuệ đã làm cho người khuyết tật gặp
rất nhiều khó khăn trong việc chăm sóc sức khỏe. Do đó, nhu cầu chăm sóc và được chăm
sóc sức khỏe là nhu cầu thường xuyên của người khuyết tật. Ngoài ra, việc bị khuyết tật còn
làm cho người khuyết tật luôn cảm thấy tự ti, mặc cảm; đặc biệt là sự kỳ thị của cộng đồng.
Vì vậy, chăm sóc sức khỏe người khuyết tật là quan hệ về trách nhiệm của nhiều chủ thể liên
quan được pháp luật điều chỉnh. Đó là mối quan hệ giữa Nhà nước, cộng đồng xã hội và
người khuyết tật trong việc thực hiện các hoạt động phòng bệnh, khám chữa bệnh, chỉnh

hình, phục hồi chức năng nhằm giúp người khuyết tật vượt qua những khó khăn của bệnh tật,
vươn lên hòa nhập cộng đồng.
Bên cạnh đó, Nhà nước còn thể hiện trách nhiệm của mình thông qua việc khuyến khích
các tổ chức, cá nhân đầu tư, tài trợ, trợ giúp về tài chính, kĩ thuật, vật chất để thực hiện hoạt
động chăm sóc sức khỏe người khuyết tật. Nhà nước còn hỗ trợ kinh phí theo dự án cho cơ
quan, tổ chức nghiên cứu khoa học về người khuyết tật, đào tạo chuyên gia, kỹ thuật viên về


chỉnh hình, phục hồi chức năng. Ngoài ra, cơ sở sản xuất dụng cụ chỉnh hình, phương tiện,
thiết bị phục hồi chức năng, trợ giúp sinh hoạt, học tập và lao động cho người khuyết tật
được vay vốn với lãi suất ưu đãi, được miễn, giảm thuế theo quy định của pháp luật.
Như trong một giờ học giao lưu với người khuyết tật, anh Khúc Hải Vân đã chia sẻ về
chế độ chăm sóc sức khỏe mà Nhà nước đã dành cho người khuyết tật như: Nhà nước đã cấp
thẻ người khuyết tật cho những người bị khuyết tật nặng nhằm giúp họ được miễn giảm chi
phí khi đi tàu; tham gia giao thông cũng được miễn phí khi đi xe bus; được Nhà nước trợ cấp
hằng tháng 520 nghìn đồng. Tuy nhiên, việc để được cấp thẻ người khuyết tật thì phải thông
qua nhiều thủ tục phức tạp, mất nhiều thời gian, phải thông qua việc thẩm định mức độ
khuyết tật của từng người nên nhiều người khuyết tật không thẩm định đánh giá mức độ
khuyết tật đã không được cấp thẻ. Trong khi đó, nếu đi tàu người khuyết tật mà không có thẻ
người khuyết tật thì sẽ không được hưởng chế độ miễn giảm chi phí đi lại.
Hay như bác Nguyễn Trung cũng đã chia sẻ bác là người khuyết tật nhưng chưa biết
đến tiền trợ cấp là thế nào. Điều này cũng đã cho thấy ngân sách Nhà nước ở nước ta còn
khó khăn nên không đủ để trợ cấp cho tất cả mọi người bị khuyết tật, Nhà nước ưu tiên trợ
cấp cho những người bị khuyết tật nặng hơn.
Và em cũng đồng ý với quan điểm của bác Nguyễn Trung đó là để đánh giá sự quan tâm
của Nhà nước đối với người khuyết tật không phải dựa vào số tiền trợ cấp mà Nhà nước cấp
cho mình là bao nhiêu, mình có được trợ cấp hay không mà sự quan tâm của Nhà nước có
thể thể hiện qua những quy định về sự ưu tiên, miễn giảm chi phí khám chữa bệnh, thường
xuyên hỏi thăm động viện học, tạo điều kiện cho người khuyết tật được học tập và làm việc,
tạo điều kiện để người khuyết tật được khám chữa bệnh theo phương pháp phù hợp với sức

khỏe của từng người giúp họ hòa nhập hơn với cộng đồng, xóa bỏ sự kì thị của mọi người
đối với họ, ... Chỉ cần như thế thôi cũng đã giúp người khuyết tật cảm thấy tự tin, vui vẻ và
có động lực hơn trong cuộc sống.
Như vậy có thể thấy chế độ chăm sóc sức khỏe người khuyết tật đã được pháp luật Việt
Nam quan tâm và ra sức bảo đảm cho họ được thực hiện quyền của mình, cũng như giúp họ
hòa nhập hơn với cộng đồng, với mọi người xung quanh.
2, Ý nghĩa chế độ chăm sóc sức khỏe người khuyết tật:
Việc quy định về chế độ chăm sóc sức khỏe người khuyết tật có ý nghĩa vô cùng to lớn,
thể hiện qua các khía cạnh như:
- Thứ nhất, có ý nghĩa về mặt xã hội và nhân văn: Đó là sự chia sẻ, cảm thông của
cộng đồng xã hội với rủi ro của người khuyết tật. Chế độ này còn thể hiện lòng nhân đạo sâu


sắc giữa con người với con người. Sự giúp đỡ về các điều kiện vật chất hay tinh thần trong
quá trình chăm sóc sức khỏe ban đầu, khám bệnh, chữa bệnh, phục hồi chức năng... nhằm
đáp ứng nhu cầu và nguyện vọng chính đáng của mọi người khuyết tật. Từ đó giúp họ khắc
phục các bất lợi, khó khăn từ khuyết tật, vượt qua những mặc cảm, tự ti về ngại hình, về
khiếm khuyết để vươn lên khẳng định bản thân, hòa nhập với cộng đồng.
- Thứ hai, có ý nghĩa về pháp lý: Thể hiện quyền được chăm sóc sức khỏe của con
người nói chung, đặc biệt là người khuyết tật và trách nhiệm của cộng đồng. Quyền của
người khuyết tật đã được quy định trong Tuyên ngôn chung về quyền con người của Liên
hợp quốc. Đồng thời, được quy định trong Hiến pháp và luật chuyên ngành, pháp luật người
khuyết tật đã tạo cơ sở để người khuyết tật thực hiện quyền được chăm sóc sức khỏe. Vấn đề
này hiện nay được quy định cụ thể hơn trong Luật người khuyết tật năm 2010. Luật này
được ban hành đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho người khuyết tật được thực hiện các
quyền của họ, đặc biệt là quyền được chăm sóc sức khỏe trên thực tế. Bên cạnh đó, pháp luật
quy định trách nhiệm của Nhà nước, các ban ngành y tế, cộng đồng xã hội trong việc chăm
sóc sức khỏe người khuyết tật nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả và cong bằng xã hội
trong các hoạt động này.
- Thứ ba, có ý nghĩa về kinh tế: Tạo điều kiện cho người khuyết tật có điều kiện tham

gia vào các hoạt động lao động, hoạt động việc làm để sống độc lập, đảm bảo thực hiện các
quyền của công dân. Khi sức khỏe được đảm bảo, người khuyết tật sẽ tìm kiếm việc làm,
tham gia lao động để có thu nhập nhằm nuôi sống bản thân và gia đình. Người khuyết tật nếu
được chăm sóc sức khỏe phù hợp, hiệu quả, đúng phương pháp thì người khuyết tật cũng là
một trong những nguồn nhân lực tiềm tàng cho nhân loại và đất nước như những người bình
thường khác. Những người khuyết tật có lòng tận tụy, trung thành và ý chí vươn lên trong
cuộc sống, trong công việc. Sự phấn đấu, nỗ lực của họ là động lực mạnh mẽ để giúp các
thành viên khác trong xã hội cũng cố gắng vươn lên. Khi có sức khỏe, người khuyết tật sẽ có
cơ hội để nghiên cứu chế tạo ra nhiều đồ dùng cần thiết, tạo công ăn việc làm cho những
người khuyết tật khác. Qua đó góp phần xây dựng và phát triển đất nước.
Ví dụ như: Bác Nguyễn Trung với niềm đam mê và sự hi vọng tạo ra được những chiếc
xe lăn với giá thành rẻ để có thể giúp người khuyết tật khiếm khuyết về chân nhưng không
có đủ điều kiện để mua những chiếc xe lăn bán ngoài thị trường vì nó đắt thì có thể tìm đến
với bác để mua chiếc xe lăn với giá thành thấp. Hay như cô bé Nguyễn Phương Anh bị
bệnh xương thủy tinh từ nhỏ đã làm em không thể đi lại bằng đoi chân của mình mà phải
ngồi xe lăn. Nhưng nhờ vào sự chăm sóc về sức khỏe của gia đình cũng như của y bác sĩ đã


giúp em tự ti hơn, cố gắng vượt qua sự mặc cảm để theo đuổi ước mơ ca hát của mình khi
em tham gia cuộc thi Tìm kiếm tài năng Việt.
II, GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG:
Xét tình huống trên thì:
- Em Như Ý bị dị dạng 4 đốt sống lưng:
Điều này làm cho khả năng vận động, di chuyển của em gặp khó khăn. Do đó, căn cứ
vào Điều 2 Nghị định 28/2012/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều
của luật người khuyết tật thì em Như Ý mắc dạng tật là Khuyết tật vận động.
Khuyết tật vận động là tình trạng giảm hoặc mất chức năng cử động đầu, cổ, chân, tay,
than mình dẫn đến hạn chế trong vận động, di chuyển (theo khoản 1 Điều 2 Nghị định
28/2012/NĐ-CP). Do đó, người khuyết tật vận động gặp rất nhiều khó khăn trong sinh hoạt
cá nhân, vui chơi, học tập và lao động. Tuy nhiên, đa số người khuyết tật vận động có bộ não

phát triển bình thường nên họ tiếp thu được chương trình học tập, làm được việc có ích cho
gia đình, bản thân và xã hội. Người khuyết tật về vận động cần được sự hỗ trợ về phương
tiện đi lại (xe lăn, gậy chống…) và đặc biệt là không gian cần thiết, thuận tiện, phù hợp để di
chuyển khi làm việc, đảm bảo các nhu cầu cuộc sống bình thường của con người và tham gia
các hoạt động xã hội.
- Ngoài ra, em Như Ý còn bị bệnh tim bẩm sinh, mắt bị cận thị nặng, sức khỏe yếu:
Những dấu hiệu này là của bệnh lý thông thường chứ không phải là một dạng tật. Tuy nhiên,
những bệnh này cũng làm cho em gặp khó khăn trong cuộc sống.
Pháp luật Việt Nam đã quy định về chế độ chăm sóc sức khỏe đối với người khuyết tật
được quy định tại Luật người khuyết tật năm 2010. Theo Luật này, em Như Ý có thể được
hưởng những chế độ chăm sóc sức khỏe sau:
 Chăm sóc sức khỏe ban đầu tại nơi cư trú:
Chăm sóc sức khỏe ban đầu có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với sức khỏe người khuyết tật.
Chế độ này thể hiện quan điểm y học hiện đại, coi phòng bệnh hơn chữa bệnh. Nếu hoạt
động chăm sóc sức khỏe ban đầu thực hiện tốt sẽ giúp ngăn ngừa khuyết tật xảy ra do loại bỏ
hoặc hạn chế được các yếu tố có hại cho sức khỏe từ thức ăn, nước uống, môi trường…
Ngoài ra, việc phát hiện sớm khuyết tật sẽ giúp cơ quan chuyên môn có biện pháp điều trị
kịp thời để khắc phục khuyết tật, hạn chế các hậu quả do khuyết tật gây ra.
Chế độ này được quy định cụ thể tại Điều 21 Luật người khuyết tật 2010, đó là:
“1. Trạm y tế cấp xã có trách nhiệm sau đây:


a, Triển khai các hình thức tuyên truyền, giáo dục, phổ biến kiến thức phổ thông về
chăm sóc sức khỏe, phòng ngừa, giảm thiểu khuyết tật; hướng dẫn người khuyết tật phương
pháp phòng bệnh, tự chăm sóc sức khỏe và phục hồi chức năng;
b, Lập hồ sơ theo dõi, quản lý sức khỏe người khuyết tật;
c, Khám bệnh, chữa bệnh phù hợp với phạm vi chuyên môn cho người khuyết tật;
2. Kinh phí để thực hiện quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều này do ngân sách
nhà nước đảm bảo.”.
Như vậy, em Như Ý được hưởng chế độ chăm sóc sức khỏe ban đầu tại nơi cư trú là bởi

vì em là trẻ khuyết tật. Em bị dị dạng 4 đốt sống lưng đã làm cho hoạt động sinh hoạt của em
cũng gặp nhiều khó khăn. Vì thế, em cần được quản lý, theo dõi chăm sóc sức khỏe kịp thời
để giúp em phục hồi lại sức khỏe một cách nhanh nhất và có thể hoạt động dễ dàng hơn.
Ngoài ra, em Như Ý cần được giáo dục sức khỏe về các biện pháp phòng ngừa, cách tự chăm
sóc bản thân bởi em là người hiểu rõ nhất về sức khỏe của mình và nhu cầu chăm sóc sức
khỏe cho bản thân. Hơn nữa, em Như Ý còn bị bệnh tim bẩm sinh, mắt bị cận thị nặng, sức
khỏe yếu nên rất cần sự quan tâm, chăm sóc và theo dõi của Trạm y tế, của gia đình để giúp
đỡ em tìm ra phương pháp quản lý đặc biệt, chú ý đến điều kiện dinh dưỡng, vệ sinh môi
trường xung quanh cho em để giúp em nhanh chóng phục hồi chức năng.
Chính vì thế mà Trạm y tế Phường 4 thành phố Vĩnh Long cần nghiêm chỉnh thực hiện
trách nhiệm của mình trong việc:
- Tổ chức các hoạt động tuyên truyền, giáo dục, phổ biến kiến thức về chăm sóc sức
khỏe cho gia đình em Như Ý để gia đình em giúp đỡ em trong việc chăm sóc sức khỏe như
cải thiện điều kiện dinh dưỡng và ăn uống phù hợp cho em Như Ý; cung cấp nước sạch; vệ
sinh môi trường; giúp em hòa nhập với mọi người xung quanh.
- Thực hiện các biện pháp phòng ngừa để ngăn ngừa những tái phát gây hậu quả nặng
hơn, làm cho tình trạng sức khỏe của em bị suy giảm.
- Trạm y tế Phường 4 thành phố Vĩnh Long còn có trách nhiệm lập hồ sơ theo dõi và
quản lý tình trạng sức khỏe của em Như Ý nhằm giúp cơ quan chức năng đưa ra các giải
pháp hợp lý để chăm sóc sức khỏe cho em được hiệu quả hơn.
 Khám bệnh, chữa bệnh:
Chế độ chăm sóc sức khỏe này thể hiện rõ tính nhân đạo truyền thống của ngành y tế, thể
hiện sự quan tâm đặc biệt của Nhà nước, cộng đồng đến những người khuyết tật. Chế độ này
được quy định cụ thể tại Điều 22 Luật người khuyết tật 2010.


Theo đó, em Như Ý sẽ được Nhà nước đảm bảo để em được khám bệnh, chữa bệnh như
những người bình thường khác và sử dụng các dịch vụ y tế phù hợp. Việc em được hưởng
các dịch vụ y tế là thiết yếu nhằm phục hồi chức năng, sức khoẻ và khả năng học tập.
Bên cạnh đó, em còn được hưởng chính sách bảo hiểm y tế theo quy định của pháp luật

về bảo hiểm y tế; được ưu tiên ở chế độ miễn giảm viện phí, hỗ trợ sinh hoạt phí, chi phí đi
lại, chuyển viện, điều trị khi bệnh của em tái phát cần phải đưa tới bệnh viện. Em Như Ý còn
bị cận thị nặng nên sẽ được cắt kính hoặc được cấp kính tròng nhằm giúp em nhìn mọi vật rõ
hơn, vận động dễ dàng hơn.
 Phục hồi chức năng:
Chế độ này được quy định cụ thể tại Điều 24 và Điều 25 Luật người khuyết tật 2010.
Theo đó, phục hồi chức năng đối với người khuyết tật là quy định về các biện pháp y học,
giáo dục, xã hội nhằm hạn chế tối đa việc suy giảm chức năng của bộ phận cơ thể đảm bảo
người khuyết tật có cơ hội bình đẳng để hòa nhập với cộng đồng.
Em Như Ý bị dị dạng 4 đốt sống lưng làm cho việc vận động, di chuyển của em trở nên
khó khăn. Do đó, em cần được áp dụng các biện pháp phục hồi chức năng thông qua các cơ
sở chỉnh hình hoặc em sẽ được phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng bằng dịch vụ y tế
thích hợp như trị liệu bằng thuốc, xoa bóp,... để giúp em giảm bớt đau đớn khi bệnh tái phát,
cũng đồng thời giúp em mau chóng phục hồi sức khỏe. Nếu bệnh của em không thể chữa trị
được dứt điểm để em có thể đi lại bình thường thì em sẽ được hỗ trợ cấp xe lăn giúp việc di
chuyển của em dễ dàng hơn.
Tuy em gặp nhiều khó khăn do bệnh tật gây ra nhưng em Như Ý vẫn lạc quan, cố gắng
vươn lên trong học tập, em luôn đạt học sinh xuất xắc. Như vậy, để em Như Ý có thêm nghị
lực, tiếp tục phát huy khả năng học tập của mình thì nhà nước cần thúc đẩy các cơ hội bình
đẳng cho em cũng như những người khuyết tật khác về giáo dục đào tạo, dạy nghề và việc
làm; bảo đảm có một hệ thống giáo dục hoà nhập ở mọi cấp và chương trình học tập suốt
đời; đồng thời tạo điều kiện tốt nhất cho em để em có thể học lên cao hơn như miễn giảm
học phí, có các quỹ học bổng, thực hiện các hoạt động giáo dục phù hợp với tình trạng sức
khỏe của em. Bên cạnh đó, em còn được Nhà nước, gia đình, cộng đồng tạo điều kiện để
tham gia vào các hoạt động văn nghệ tại trường, tại phường.
**************************************************************************
*********************
Các phương thức giáo dục cho người khuyết tật - ưu, nhược điểm của từng phương
thức và Quy định về việc đi bộ của người khuyết tật.



NỘI DUNG
I. Các phương thức giáo dục cho người khuyết tật và ưu, nhược điểm của từng phương
thức?
1. Khái niệm, ý nghĩa và nguyên tắc cơ bản của giáo dục đối với người khuyết tật
1.1 Khái niệm
Theo từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học, Nhà xuất bản Đà Nẵng thì giáo dục
là hoạt động nhằm tác động một cách có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của
một đối tượng nào đó, làm cho đối tượng đó dần dần có được những phẩm chất và năng lực
như yêu cầu đề ra. Hoạt động giáo dục chủ yếu được thực hiện thông qua hoạt động giảng
dạy của giáo viên và hoạt động học tập của học viên.
Học viên tham gia học tập có thể là người bình thường hoặc cũng có thể là người
khuyết tật, tức là những người "bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy
giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp
khó khăn". Giáo dục đối với người khuyết tật được hiểu là những hoạt động nhằm tác động
một cách có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của người khuyết tật nhằm trang bị
cho họ kiến thức, tri thức, phẩm chất đạo đức, hình thành và phát triển nhân cách đồng thời
giúp người khuyết tật vươn lên hòa nhập cộng đồng, thể hiện sự bình đẳng và không phân
biệt đối xử đối với người khuyết tật.
1.2 Ý nghĩa của giáo dục đối với người khuyết tật
Có thể nói giáo dục đối với người khuyết tật có ý nghĩa vô cùng quan trọng, đảm bảo
cho họ có được quyền học tập như những người khác, điều này được thể hiện ở nhiều khía
cạnh như:
Thứ nhất, giáo dục sẽ giúp người khuyết tật có được những tri thức, kiến thức, sự
hiểu biết về tự nhiên, về xã hội và giúp họ trở thành người có ích cho xã hội. Đối với từng
dạng tật cụ thể, giáo dục còn giúp cho người khuyết có thể phục hồi chức năng, phát triển về
trí tuệ, phát triển về nhận thức,...
Thứ hai, giáo dục cũng giúp cho người khuyết tật có được những kiến thức cơ bản và
nó sẽ trở thành nền tảng cần thiết và quan trọng để họ có thể tham gia học nghề và tìm kiếm
việc làm. Có nhiều người khuyết tật vận động nhưng đã say mê tìm tòi và học tập, nhờ

những kiến thức tích lũy được mà họ có thể tìm kiếm việc làm và tự nuôi sống bản thân
mình, không cần sự hỗ trợ từ phía gia đình và xã hội.
Thứ ba, giáo dục giúp người khuyết tật tái hòa nhập vào cộng đồng. Trong môi
trường học tập, người khuyết tật sẽ có điều kiện để giao tiếp với thầy cô cũng như bạn bè và


những người khác. Đây môi trường tốt nhất và nhanh nhất để người khuyết tật phát triển
nhận thức và trí tuệ của mình, để họ cảm thấy luôn được quan tâm, hòa đồng, không bị phân
biệt đối xử hay xa lánh, kì thị.
Thứ tư, giáo dục giúp người khuyết tật có được những kiến thức, kỹ năng, sự hiểu,
những nhận thức mới mẻ và đúng đắn để họ tự tin và có nghị lực vươn lên những khó khăn
trong cuộc sống.
1.3 Nguyên tắc cơ bản của giáo dục đối với người khuyết tật
Thứ nhất, hỗ trợ và tạo điều kiện cần thiết để người khuyết tật có thể tham gia học
tập: Học tập là quyền cơ bản của mỗi công dân nói chung và mỗi người khuyết tật nói riêng.
Tuy nhiên, do bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng
nên việc học tập đối với người khuyết tật gặp nhiều khó khăn. Chính vì vậy, cần phải có sự
hỗ trợ và tạo điều kiện cần thiết để người khuyết tật có thể tham gia học tập và thực hiện
được quyền học tập của mình.
Thứ hai, đề cao và khuyến khích giáo dục hòa nhập cộng đồng: Để xóa bỏ rào cản
giữa những người khuyết tật và người không khuyết tật cần phải thực hiện nguyên tắc giáo
dục hòa nhập cộng đồng. Phương thức giáo dục chuyên biệt chỉ nên áp dụng đối với những
trường hợp đặc biệt, không thể áp dụng phương thức giáo dục hòa nhập.
2. Các phương thức giáo dục cho người khuyết tật và ưu, nhược điểm của từng phương
thức
Trên thực tế, các dạng tật của người khuyết tật thường rất đa dạng. Có khuyết tật vận
động; khuyết tật nghe, nói; khuyết tật nhìn; khuyết tật thần kinh, tâm thần; khuyết tật trí tuệ
và các khuyết tật khác. Trên cơ sở sự đa dạng của các dạng tật, Điều 28 Luật Người khuyết
tật quy định 3 phương thức được áp dụng trong giáo dục đối với người khuyết tật, bao gồm:
giáo dục hòa nhập, giáo dục bán hòa nhập và giáo dục chuyên biệt.

2.1 Giáo dục hòa nhập
"Giáo dục hòa nhập là phương thức giáo dục chung người khuyết tật với người không
khuyết tật trong cơ sở giáo dục" (Khoản 4 Điều 2 Luật NKT năm 2010). Phương thức này
thường được áp dụng đối với người khuyết tật có khả năng học tập được cùng với người
không khuyết tật.
Giáo dục hòa nhập nhằm mục tiêu giúp người khuyết tật được hưởng quyền học tập
bình đẳng như những người học khác đồng thời tạo điều kiện và cơ hội cho người khuyết tật
học văn hóa, học nghề, phục hồi chức năng và phát triển khả năng của bản thân để hòa nhập
cộng đồng.


Thuật ngữ giáo dục hòa nhập được xuất phát từ Canada và được hiểu là những trẻ
ngoại lệ được hòa nhập, quy thuộc vào trường hòa nhập. Giáo dục hòa nhập dựa trên quan
điểm xã hội trong việc nhìn nhận, đánh giá đúng về người khuyết tật. Nguyên nhân gây ra
khuyết tật không phải chỉ do khiếm khuyết của bản thân cá thể mà còn do môi trường xã hội,
do đó, môi trường xã hội đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của người khuyết tật.
Mặt khác, giáo dục hòa nhập còn dựa trên quan điểm tích cực về người khuyết tật. Mỗi
người khuyết tật đều có những năng lực nhất định, chính từ sự đánh giá đó mà người khuyết
tật được coi là chủ thể chứ không phải là đối tượng thụ động trong quá trình tiếp nhận các tác
động giáo dục. Vì vậy, trong giáo dục, gia đình, cộng đồng, xã hội cần tạo ra sự hơp tác và
hòa nhập với người khuyết tật trong mọi hoạt động.
2.1.1 Ưu điểm của giáo dục hòa nhập đối với người khuyết tật
Thứ nhất, giáo dục hòa nhập là phương thức giáo dục hiệu quả: Trong giáo dục hòa
nhập, người khuyết tật được học tập trong môi trường bình thường, học ở trường học gần
nhà nhất. Điều này tạo cho họ không bị tách biệt với bố, mẹ, anh, chị, em, bạn bè. Do đó,
người khuyết tật sẽ có tâm lí ổn định, phát triển cân đối, hài hòa như những người bình
thường khác. Trong điều kiện đó, họ sẽ yên tâm phấn đấu, học tập và phát triển.
Người khuyết tật được học cùng một chương trình với những người khác. Chương
trình và phương pháp học có thể được điều chỉnh cho phù hợp với nhu cầu, năng lực của
người khuyết tật. Việc giáo dục như vậy sẽ đưa đến hiệu quả cao, người khuyết tật sẽ phát

triển hết khả năng của mình.
Giáo dục hòa nhập coi trọng sự cân đối giữa kiến thức và kĩ năng xã hội. Môi trường
giáo dục thay đổi, người khuyết tật được tự do giao lưu, giúp đỡ lẫn nhau, từ đó giúp họ phát
triển toàn diện hơn và thích ứng tốt hơn với môi trường xã hội.
Mặt khác, giáo dục hòa nhập cũng tạo ra cơ hội, môi trường để các lực lượng tham gia
giáo dục có điều kiện hợp tác với nhau vì mục tiêu chung. Đây là môi trường mà mọi người
trong cộng đồng có dịp tiếp cận với người khuyết tật nhiều hơn, thấy rõ những nhu cầu, tiềm
năng cũng như những mặt mạnh cũng như điểm yếu của họ để có các hoạt động trợ giúp họ
nhiều hơn.
Thứ hai, phương thức giáo dục hòa nhập là phương thức giáo dục người khuyết tật có
hiệu quả kinh tế nhất: Chi phí giáo dục cho một người khuyết tật có thể bao gồm: chi phí cho
đào tạo giáo viên, cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy và học,... Đối với giáo dục hòa nhập,
những chi phí này được tiết kiệm một cách đáng kể so với các phương thức giáo dục khác


dành cho người khuyết tật (giáo dục chuyên biệt, giáo dục bán hòa nhập). Mặt khác, nhiều
người khuyết tật được tiếp cận với phương thức giáo dục này hơn.
Thứ ba, giáo dục hòa nhập là phương thức hoàn thiện nhất trong các phương thức
giáo dục người khuyết tật: Giáo dục hòa nhập có cơ sở lý luận vững chắc về đánh giá con
người, về mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng và các giải pháp thích hợp trong tổ chức
cũng như trong tiến hành giáo dục. Giáo dục hòa nhập người khuyết tật được áp dụng những
lý luận dạy học hiện đại - lấy người học làm trung tâm. Chương trình được điều chỉnh,
phương pháp được đổi mới thích hợp cho mọi học sinh.
Thứ tư, so với các phương thức giáo dục khác, giáo dục hòa nhập về cơ bản đáp ứng
được các mục tiêu giáo dục là: Học để làm người, Học để biết, Học để làm, Học để cùng
chung sống (theo quan điểm của UNESCO).
Thứ năm, phương thức giáo dục hòa nhập đáp ứng được sự gia tăng số lượng người
khuyết tật.
2.1.2 Nhược điểm của giáo dục hòa nhập
Thứ nhất, người khuyết tật học tập trong môi trường giáo dục hòa nhập dễ nảy sinh

tâm lí tự ti, mặc cảm. Học tập trong một môi trường mà xung quanh là những người không
khuyết tật trong khi bản thân mình lại bị khiếm khuyết một hoặc thậm chí là nhiều bộ phận
cơ thể, bị suy giảm chức năng biểu hiện dưới dạng tật dễ khiến người khuyết tật rơi vào trạng
thái tự ti, mặc cảm. Theo phản ánh của nhiều giáo viên ở các lớp học có trẻ em khuyết tật, có
rất ít trẻ khuyết tật thể hiện sự sôi nổi, vui tươi trên lớp học. Phần lớn các em thường ít nói,
rụt rè, nhút nhát. Hiệu quả của phương thức giáo dục hòa nhập cũng vì vậy mà bị hạn chế
nhiều.
Thứ hai, những người khác (phụ huynh, bạn bè,...) trong môi trường giáo dục hòa
nhập thường có tâm lí e ngại, xa lánh, thậm chí là kì thị đối với người khuyết tật. Theo cô Đỗ
Thị Kim Chi, Phó Hiệu trưởng Tiểu học Phạm Văn Hai (TP Hồ Chí Minh), trở ngại lớn nhất
từ công tác giáo dục hòa nhập hiện nay là nhiều phụ huynh thẳng thừng yêu cầu nhà trường
thay chỗ ngồi hoặc tách các trẻ mắc bệnh ra để tránh ảnh hưởng đến con của họ, khiến nhà
trường “khó xử”. Bên cạnh đó là thái độ xa lánh, chế giễu của bạn bè khiến nhiều trẻ khuyết
tật trở nên mặc cảm, tự ti và kết quả là không ít em phải nghỉ học vì không thể vượt qua
được những rào cản tâm lí.
Thứ ba, người khuyết tật học tập trong môi trường giáo dục hòa nhập gặp không ít
khó khăn khi tiếp cận với chương trình học, phương tiện, dụng cụ học tập so với những
người khác. Trong môi trường giáo dục hòa nhập, chương trình học được thiết kế phù hợp


đối với nhận thức và năng lực của những trẻ không khuyết tật, vì vậy, nó trở nên nặng nề đối
với những trẻ khuyết tật. Do đó, có không ít trẻ khuyết tật đã phải bỏ học vì không theo kịp
chương trình, đặc biệt là những trẻ khuyết tật trí tuệ. Mặt khác, tình trạng thiếu thốn trang
thiết bị, đồ dùng dạy học đặc thù như sách, giấy chữ nổi cho người khiếm thị; máy trợ tính
và tài liệu ngôn ngữ cho người khiếm thính, xe lăn và các dụng cụ trợ giúp khác cho người
khuyết tật vận động cũng là một trở ngại không nhỏ đối với người khuyết tạt khi tiếp cận với
phương thức giáo dục hòa nhập.
2.2 Giáo dục chuyên biệt
Khác với giáo dục hòa nhập, giáo dục chuyên biệt là "phương thức giáo dục dành
riêng cho người khuyết tật trong cơ sở giáo dục" (Khoản 5 Điều 2 Luật Người khuyết tật

năm 2010). Phương thức này thường được áp dụng cho người khuyết tật chưa đủ điều kiện
để học tập theo phương thức hòa nhập.
2.2.1 Ưu điểm của giáo dục chuyên biệt
Thứ nhất, chương trình học cũng như phương tiện, dụng cụ học tập trong môi trường
giáo dục chuyên biệt thường được thiết kế phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý, trình độ nhận
thức, khả năng tiếp thu của người khuyết tật. Nhờ đó, việc học tập của người khuyết tật trong
các cơ sở giáo dục chuyên biệt trở nên dễ dàng hơn.
Thứ hai, cùng với việc giảng dạy các kiến thức văn hóa, các cơ sở giáo dục chuyên
biệt còn giáo dục kĩ năng sống như kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tự phục vụ, kỹ năng phòng
chống thương tích, và các kỹ năng đặc trưng của từng dạng tật. Mặt khác, công tác hướng
nghiệp dạy nghề cho người khuyết tật ở các trung tâm giáo dục chuyên biệt cũng được coi
trọng. Đó là những nghề đơn giản nhưng thiết thực như chế biến cà phê, làm bánh, thủ công
mỹ nghệ và làm xà bông. Mỗi lớp học sẽ áp dụng những phương pháp khác nhau để phù hợp
cho từng đối tượng học sinh khuyết tật. Ví dụ, lớp dạy làm bánh và làm xà bông thì dùng
phương pháp trực quan, đàm thoại, luyện tập - thực hành để giúp học sinh khuyết tật bước
đầu làm quen, biết cách sử dụng các trang thiết bị, tên các nguyên liệu, dụng cụ làm bánh
hay hương liệu làm xà bông. Lớp dạy thủ công mỹ nghệ với phương pháp giảng giải lý
thuyết, hướng dẫn trực quan cầm tay chỉ việc đối với từng học sinh, bước đầu dạy cho các
em phát huy kỹ năng khéo léo của đôi bàn tay, khâu được những sản phẩm đơn giản, làm
thành những sản phẩm nhỏ, dễ tiêu thụ trên thị trường như chiếc móc khóa, giỏ xách hay
chiếc ví xinh xắn.
Thứ ba, phương thức giáo dục chuyên biệt tạo điều kiện thuận lợi đối với giáo viên
trong việc soạn giáo án giảng dạy. Thầy Đặng Thanh Tùng, Phó Hiệu trưởng Trường phổ


thông chuyên biệt Nguyễn Đình Chiểu, cho biết: “Khi áp dụng chương trình này (chương
trình giáo dục chuyên biệt), giáo viên sẽ không còn lúng túng trong soạn giáo án, chọn bài
để dạy như khi còn sử dụng giáo trình giáo dục phổ thông. Chương trình không chỉ là
phương tiện giúp giáo viên triển khai hoạt động giảng dạy thuận lợi, mà còn là cơ sở để
giáo viên điều chỉnh nội dung chương trình dạy học phù hợp với khả năng của học sinh".

2.2.2 Nhược điểm của giáo dục chuyên biệt
Thứ nhất, số lượng cũng như cơ sở vật chất ở các cơ sở giáo dục chuyên biệt chưa
đáp ứng được nhu cầu đặt ra. Theo thống kê của Trung tâm Hỗ trợ phát triển giáo dục hòa
nhập người khuyết tật TP Hồ Chí Minh, trong năm học 2014 - 2015 vừa qua, toàn thành phố
có 27 trường chuyên biệt tiếp nhận gần 3.000 học sinh khuyết tật. Tuy nhiên, đến nay, vẫn
còn bảy quận, huyện chưa có trường chuyên biệt công lập. Các trường chuyên biệt dân lập
thì còn gặp nhiều khó khăn về kinh phí và dụng cụ giảng dạy. Cơ sở vật chất của các trường
chuyên biệt còn nhỏ hẹp, thiếu sân chơi, thiếu đồ chơi vận động ngoài trời. Ở những quận,
huyện chưa có trường chuyên biệt, phụ huynh có con khuyết tật đành để con ở nhà hoặc phải
đưa đến những quận xa để xin học nhờ…
Thứ hai, giáo viên dạy ở cơ sở giáo dục chuyên biệt hầu hết do không được đào tạo
chuyên sâu về lĩnh vực giáo dục trẻ khuyết tật. Chính vì vậy, chương trình do giáo viên biên
soạn thiếu cơ sở khoa học, khi xây dựng chương trình ít chú trọng vào đặc điểm, khả năng,
nhu cầu của người khuyết tật mà chủ yếu lựa chọn nội dung trong chương trình phổ thông
bằng cách lược bỏ nội dung khó, trừu tượng theo cảm tính của mình sau đó sắp xếp, phân bổ
cho hợp lí theo thời gian quy định của một năm học.
Thứ ba, vai trò của những người thân (cha mẹ, anh chị, em,...) trong việc chăm sóc,
giáo dục người khuyết tật trong phương thức giáo dục chuyên biệt không được phát huy tối
đa. Hầu hết những người thân của người khuyết tật chưa được tiếp cận với chương trình giáo
dục chuyên biệt dành cho người khuyết tật. Những người thân có thể có nhiều thời gian gần
gũi, hiểu tâm sinh lí người khuyết tật nhất nhưng do thiếu kiến thức, kĩ năng và không nắm
bắt được nội dung, tiến trình giảng dạy đối với người khuyết tật nên sự hỗ trợ của họ trong
việc giáo dục người khuyết tật ở phương thức giáo dục chuyên biệt rất hạn chế.
2.3 Giáo dục bán hòa nhập
Đây là phương thức giáo dục kết hợp giữa giáo dục hòa nhập và giáo dục chuyên biệt
cho người khuyết tật trong cơ sở giáo dục (Khoản 6 Điều 2 Luật Người khuyết tật năm
2010). Cũng như phương thức giáo dục chuyên biệt, giáo dục bán hòa nhập thường được áp
dụng cho người khuyết tật chưa đủ điều kiện để học tập theo phương thức hòa nhập.



2.3.1 Ưu điểm của giáo dục bán hòa nhập
Thứ nhất, giáo dục bán hòa nhập giúp người khuyết tật từng bước hòa nhập với cộng
đồng và xã hội. Tuy chỉ một hoặc một số hoạt động học sinh khuyết tật mới tham gia cùng
học sinh bình thường nhưng đây cũng là bước khởi đầu để họ được tiếp xúc, học tập, vui
chơi với những người bình thường khác. Từ đó góp phần thay đổi những suy nghĩ tiêu cực
của những người xung quanh đối với người khuyết tật cũng như thay đổi chính tâm lý mặc
cảm, tự ti của người khuyết tật.
Thứ hai, phương thức giáo dục bán hòa nhập tạo điều kiện cho người khuyết tật tiếp
cận với chương trình học phù hợp với bản thân hơn cả, không vượt quá khả năng cũng
không bị hạn chế khả năng và cơ hội học tập.
2.3.2 Nhược điểm của giáo dục bán hòa nhập
Thứ nhất, ở phương thức giáo dục bán hòa nhập, mặc dù có sự tiếp xúc và cùng học
tập giữa những học viên thường với những học viên là người khuyết tật nhưng còn hạn chế.
Vì vậy cần nhiều thời gian (hơn phương thức giáo dục hòa nhập) để người khuyết tật có thể
hòa nhập với cộng đồng.
Thứ hai, giống như phương thức giáo dục hòa nhập, sự kì thị của những người bình
thường đối với người khuyết tật là điều không thể tránh khỏi. Điều này có thể khiến người
khuyết tật tự ti, mặc cảm về bản thân mình, không muốn giao tiếp, hòa nhập với cộng đồng.
3. Một số đề xuất, kiến nghị
Về phía người khuyết tật, gia đình người khuyết tật: Người khuyết tật, cha, mẹ hoặc
người giám hộ của người khuyết tật cần lựa chọn phương thức giáo dục phù hợp với đặc
điểm tâm sinh lý, khả năng cũng như nguyện vọng của cá nhân người khuyết tật.
Gia đình người khuyết tật cần tạo điều kiện thuận lợi để người khuyết tật được học tập
và phát triển, tránh trường hợp vì tâm lý e ngại, xấu hổ với cộng đồng mà không cho người
khuyết tật đến với các trường giáo dục hòa nhập. Mặt khác, cũng không nên vì tâm lý lo sợ,
thương xót quá lớn mà từ chối việc đưa người khuyết tật vào các cơ sở giáo dục chuyên biệt.
Về phía các cơ quan có thẩm quyền: Các cơ quan có thẩm quyền cần biên soạn
khung chương trình giáo dục chuyên biệt dành cho trẻ khuyết tật tiểu học, làm cơ sở để các
trường xây dựng chương trình chi tiết phù hợp với khả năng trẻ khuyết tật và điều kiện thực
hiện của mỗi trường. Không nên để giáo viên mất thời gian biên soạn chương trình mà dành

thời gian đầu tư vào việc nghiên cứu thiết kế bài học, sưu tầm, làm đồ dùng dạy học để phục
vụ cho giảng dạy đạt hiệu quả hơn.


Nên đưa thêm vào chương trình giáo dục một số môn đặc thù nhằm phát huy thế
mạnh của trẻ khuyết tật để học tập và giao lưu hiệu quả hơn.
Đẩy mạnh công tác phối hợp giữa nhà trường và phụ huynh trong việc chăm sóc và
giáo dục trẻ bằng các việc làm cụ thể như sau: cung cấp chương trình, tài liệu cho phụ huynh
nghiên cứu; tổ chức tập huấn, nâng cao nhận thức, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng hỗ trợ trẻ ở nhà;
thường xuyên trao đổi thông tin về trẻ với phụ huynh thông qua hình thức gặp gỡ trực tiếp,
sổ liên lạc, thư, email, điện thoại...
Tạo điều kiện cho trẻ thường xuyên được giao lưu giữa các trường chuyên biệt với
nhau và giao lưu với các trường phổ thông khác. Thông qua các hoạt động học tập, vui chơi
sinh động, hấp dẫn trong các buổi giao lưu nhằm tăng cường sự hiểu biết, nâng cao kĩ năng
sống, kĩ năng xã hội, khả năng hoà nhập ở trẻ khuyết tật.
Về phía Nhà nước:
Chủ trương của Nhà nước là khuyến khích người khuyết tật học tập theo phương thức
giáo dục hòa nhập.
Tuy nhiên, đối với bất cứ phương thức giáo dục nào, Nhà nước cũng cần có sự quan
tâm, khuyến khích thông qua việc: Đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị và ngân sách cho các
trường lớp dành cho người khuyết tật; có chính sách ưu đãi, trợ cấp hợp lí dành cho giáo
viên, cán bộ, nhân viên làm công tác giáo dục cho người khuyết tật;...
II. Quy định về việc đi bộ của người khuyết tật và nhận xét
1. Cơ sở pháp lí của các quy định về việc đi bộ của người khuyết tật
Đối với người khuyết tật, nhu cầu đi lại và tham gia giao thông là hết sức bức thiết,
bởi đó là một trong những phương tiện để họ tiếp cận với các cơ hội thông tin, việc làm, vui
chơi giải trỉ, đáp ứng nhu cầu hòa hập xã hội và phục hồi chức năng. Cũng như người bình
thường khác, người khuyết tật có thể tham gia giao thông dưới nhiều hình thức khác nhau
như: đi bộ, sử dụng phương tiện giao thông cá nhân hay sử dụng phương tiện giao thông
công cộng.

Về việc đi bộ của người khuyết tật, hiện nay, có một số văn bản pháp luật điều chỉnh
như:


Luật Giao thông đường bộ năm 2008;



Luật Xây dựng năm 2014;



Tiêu chuẩn xây dựng Việt Nam TCXDVN 265:2002;



Quy chuẩn kĩ thuật quốc gia về xây dựng công trình đảm bảo người khuyết tật tiếp

cận sử dụng QCVN 10:2014/BXD;


2. Nội dung các quy định về việc đi bộ của người khuyết tật
2.1 Quy định về thiết kế cơ sở hạ tầng
Khoản 1 Điều 44 Luật Giao thông đường bộ về vấn đề bảo đảm yêu cầu kĩ thuật và an
toàn giao thông của công trình đường bộ quy định rõ: "Công trình đường bộ xây dựng mới,
nâng cấp và cải tạo phải bảo đảm tiêu chuẩn kỹ thuật và điều kiện an toàn giao thông cho
người, phương tiện tham gia giao thông đường bộ, trong đó có người đi bộ và người khuyết
tật. Đường đô thị xây dựng phải có hè phố, phần đường, cầu vượt, hầm và tổ chức giao
thông cho người đi bộ, người khuyết tật đi lại an toàn, thuận tiện". Khoản 4 Điều 79 Luật
Xây dựng cũng đặt ra yêu cầu đối với thiết kế xây dựng là phải: "Có giải pháp thiết kế phù

hợp và chi phí xây dựng hợp lý; bảo đảm đồng bộ trong từng công trình và với các công
trình liên quan; bảo đảm điều kiện về tiện nghi, vệ sinh, sức khỏe cho người sử dụng; tạo
điều kiện cho người khuyết tật, người cao tuổi, trẻ em sử dụng công trình”. Như vậy, theo
các quy định của pháp luật hiện hành, mọi công trình xây dựng nói chung và công trình giao
thông đường bộ nói riêng đều phải đảm bảo điều kiện an toàn, thuận tiện cho người khuyết
tật khi sử dụng.
Đối với các loại đường phải đảm bảo người khuyết tật tiếp cận sử dụng bao gồm:
đường đi bộ, đường dạo trong công viên, đường vào khu du lịch, quảng trường, lối lên xuống
hè phố tại các nút giao thông, lối vào công trình và phần đường dành cho người đi bộ trên
đường dành cho xe cơ giới, đường dành cho xe không có động cơ, cầu vượt, đường hầm; các
điều kiện này được quy định cụ thể tại QCVN 10:2014/BXD và TCXDVN 265:2002. Đó là:
- Tại các nơi giao cắt khác cao độ như các lối sang đường, lối lên xuống hè phố phải
làm đường dốc, vệt dốc.
- Tại nút giao thông giữa lối đi bộ và đường dành cho các phương tiện giao thông, lối
sang đường dành cho người đi bộ hoặc tại lối vào công trình nếu có sự chênh lệch cao độ lớn
hơn 150 mm phải bố trí vệt dốc và tấm lát cảnh báo giao cắt. Độ dốc của mặt dốc không lớn
hơn 1/12.
- Mép ngoài của đường đi bộ và đường đi xung quanh ao, hồ trong công viên phải có
dấu hiệu cảnh báo hoặc gờ chắn cao tối thiểu 150 mm để đảm bảo an toàn cho người khuyết
tật nhìn.
- Các tiện nghi trên đường phố như điểm chờ xe buýt, ghế nghỉ, cột điện, đèn đường,
cọc tiêu, biển báo, trạm điện thoại công cộng, hòm thư, trạm rút tiền tự động, bồn hoa, cây
xanh, thùng rác công cộng, v.v… không được gây cản trở cho người khuyết tật và được cảnh


báo bằng các tấm lát nổi hoặc đánh dấu bằng các màu sắc tương phản để người khuyết tật
nhìn có thể nhận biết.
- Các vật thể đứng độc lập trên lối đi bộ như cọc, bồn hoa và các dạng khác phải có
chiều cao tối thiểu 100 mm và không có góc cạnh sắc nhọn.
- Đối với cây xanh nằm trên lối đi, phải có giải pháp cảnh báo cho người khuyết tật

nhìn bằng các biện pháp thay đổi bề mặt vật liệu lát nền xung quanh khu vực trồng cây hoặc
có gờ nổi cao tối thiểu 100 mm xung quanh ô trồng cây. Cắt tỉa các cành cây thấp hơn 2 000
mm.
- Các chướng ngại vật đứng độc lập như biển quảng cáo, thùng thư, điện thoại công
cộng, v.v... phải được bố trí bên ngoài phần đường dành cho người đi bộ. Cạnh dưới cách
mặt đất không lớn hơn 600 mm, độ nhô ra tối đa là 100 mm và chiều cao thông thủy trên lối
đi là 2 000 mm để người khuyết tật nhìn tránh bị va đập.
- Đối với công trình xây mới, cải tạo, sửa chữa nằm kề cận với đường dành cho người
đi bộ phải có rào chắn bảo vệ cao từ 1 000 mm đến 1 200 mm, được dựng chắc chắn để
không bị đổ khi va vào và phải được chiếu sáng đầy đủ vào ban đêm. Giàn giáo và các biện
pháp bảo vệ phải không gây nguy hiểm cho người khuyết tật nhìn.
- Đối với cầu vượt và đường hầm có phần đường dành cho người đi bộ nếu có từ 3
bậc trở lên phải tuân theo các quy định: Chiều cao bậc không lớn hơn 150 mm, chiều rộng
mặt bậc không nhỏ hơn 300 mm; Mỗi đoạn có tối đa 18 bậc. Nếu có nhiều hơn 18 bậc phải
bố trí chiếu nghỉ. Chiều rộng chiếu nghỉ không nhỏ hơn 1 400 mm. Bề mặt phần đường dành
cho người đi bộ trên cầu vượt và trong đường hầm không được trơn trượt. Tại điểm bắt đầu
và kết thúc cầu vượt và đường dốc trong đường hầm phải có biện pháp để cảnh báo người
khuyết tật nhìn bằng các tấm lát nổi cảnh báo giới hạn hoặc đánh dấu bằng các màu sắc
tương phản.
- Tại các nút giao thông, lối vào đường hầm và vị trí lên xuống cầu vượt cần phải có
tín hiệu đèn giao thông, biển báo, biển chỉ dẫn và có thêm các tín hiệu bằng âm thanh hoặc
chữ nổi Braille để chỉ dẫn người khuyết tật nhìn khi qua đường.
...
2.2 Quy định về trách nhiệm của những người cùng tham gia giao thông
Bên cạnh quy định về mặt thiết kế của cơ sở hạ tầng, pháp luật cũng quy định trách
nhiệm của những người khác khi cùng tham gia giao thông với người khuyết tật.
Mọi người có trách nhiệm giúp đỡ người khuyết tật khi đi qua đường (Điều 33 Luật
Giao thông đường bộ). Tại nơi có vạch kẻ đường dành cho người đi bộ, người điều khiển



phương tiện phải quan sát, giảm tốc độ và nhường đường cho người đi bộ, xe lăn của người
khuyết tật qua đường. Những nơi không có vạch kẻ đường cho người đi bộ, người điều khiển
phương tiện phải quan sát, nếu thấy người đi bộ, xe lăn của người khuyết tật đang qua đường
thì phải giảm tốc độ, nhường đường cho người đi bộ, xe lăn của người khuyết tật qua đường
bảo đảm an toàn (Khoản 4 Điều 11 Luật Giao thông đường bộ).
3. Nhận xét và kiến nghị
3.1 Nhận xét về các quy định về việc đi bộ của người khuyết tật và thực tiễn triển khai các
quy định này trên thực tế
*Ưu điểm
Pháp luật hiện hành đã có những quy định tương đối đầy đủ về việc đi bộ của NKT.
Các quy định về mặt thiết kế của cơ sở hạ tầng cũng như quy định về trách nhiệm của những
người khác khi cùng tham gia giao thông với NKT về cơ bản đã đảm bảo được sự thuận tiện
và an toàn cho NKT khi họ đi bộ trên đường, hè phố, cầu vượt,...
Việc thực hiện các quy định này trên thực tế cũng đạt được một số kết quả nhất định.
Một trong những thành tựu phải kể đến là việc xây dựng và đưa vào vận hành Phố đi bộ
Nguyễn Huệ tại TP Hồ Chí Minh. Phố đi bộ Nguyễn Huệ được đánh giá là "thân thiện" với
NKT bởi các tiêu chí như: Vỉa hè không quá cao so với mặt đường, lại có dốc thoải nên NKT
dễ dàng lăn xe mà không cần nhiều sự trợ giúp. Toàn bộ đá granite lát từ vỉa hè, phần đường
cho đến quảng trường lõi ở giữa được mài nhám trên mặt để tạo độ bám cho bàn chân/bánh
xe của người khuyết tật đi bộ hoặc đi xe lăn. Phần bó vỉa ngăn cách giữa vỉa hè với phần
đường hoặc tiếp cận với khu quảng trường chênh nhau không quá 5 cm và được lát đá
nghiêng cạnh dài 25-30 cm; giúp người khuyết tật (người đi nạng, đi xe hoặc người khiếm
thị) dễ dàng di chuyển, chuyển tiếp, tiếp cận từng khu vực chức năng của phố. Cầu thang đi
xuống nhà vệ sinh công cộng nằm ngầm dưới đất có độ dốc thoai thoải hơn so với cầu thang
nhà bình thường và ở giữa có chiếu nghỉ, hai bên cầu thang có tay vịn bằng inox chắc chắn...
*Hạn chế
Các quy định về việc đi bộ của người khuyết tật còn nằm rải rác nhiều văn bản pháp
luật khác nhau, dẫn đến việc áp dụng gặp khó khăn, thiếu đồng bộ. Mặt khác, hầu hết các
quy định này chỉ mang tính hình thức, kết quả thực hiện trong thực tế còn rất hạn chế. Cụ thể
là:

Mặc dù các quy định của quy chuẩn đã cụ thể, tuy nhiên hiện nay rất nhiều công trình
xây dựng đã “quên” thiết kế, lẫn thi công các phần công trình dành cho người khuyết tật.
Một số đường đã xây dựng nhưng xây sai kỹ thuật, nhiều đường dẫn không trùng vào vạch


cho người khuyết tật đi bộ qua đường, nhiều đường đã đâm thẳng vào hộp kỹ thuật điện,
hoặc chỗ đậu xe ô tô.
Tình trạng hố ga, biển quảng cáo và xe cộ đỗ lộn xộn trên vỉa hè diễn ra phổ biến, gây
trở ngại rất lớn cho người khuyết tật, đặc biết là người khiếm thị mỗi khi di chuyển. Bởi
ngay cả khi đi trên vỉa hè, gậy của người khiếm thị cũng chỉ định hướng được bên dưới, còn
những biển quảng cáo treo thấp và vô số chướng ngại vật trên không, người khiếm thị chỉ
biết chấp nhận "bươu đầu".
Trên hầu hết các tuyến giao thông hiện nay đều không có tín hiệu âm thanh hoặc chữ
nổi để chỉ dẫn cho người khuyết tật khi muốn sang đường, chuyển hướng,...
Rất ít tuyến đường, khu đô thị hiện nay có phần đường dành riêng cho người đi bộ.
Một số ít có đường dành cho người khuyết tật nhưng lại bị chiếm dụng làm nơi đỗ xe, bị lấn
chiếm làm cửa hàng, nơi buôn bán,...
Phố đi bộ Nguyễn Huệ, một công trình được đánh giá là "thân thiện" với người
khuyết tật nhưng theo đánh giá của chính những người khuyết tật thì vẫn còn một số hạn chế
như: thời gian ưu tiên qua đường quá ngắn (chưa tới 20 giây) khiến người khuyết tật phải "đi
như chạy", với những người khuyết tật phải đi xe lăn, đây quả thực là một "thách thức" mỗi
khi muốn sang đường. Các nút bấm qua đường chưa có kí hiệu chữ nổi để người khiếm thị
nhận biết thuận tiện.
Mặt khác, ý thức người dân về việc giúp đỡ người khuyết tật chưa cao. Nhiều người
tham gia giao thông gặp người khuyết tật qua đường không những thờ ơ mà còn tỏ thái độ kì
thị, khó chịu đối với họ.
3.2 Kiến nghị
Thứ nhất, cần đẩy mạnh việc thực hiện các quy định về mặt thiết kế cơ sở hạ tầng để
đảm bảo cho người khuyết tật tiếp cận sử dụng, để những quy định này không còn là những
quy định "hình thức", "lý thuyết".

Để thực hiện được điều này, theo quan điểm của người viết, Nhà nước cần đưa ra các
chính sách đầu tư, khuyến khích các tổ chức, cá nhân thiết kế, xây dựng và đưa vào vận hành
các hạng mục công trình giao thông đường bộ "thân thiện" với người khuyết tật như: Phát
động các cuộc thi thiết kế công trình, thiết bị giao thông đường bộ (đèn tín hiệu, vạch kẻ
đường, nút bấm ưu tiên,...) dành cho người khuyết tật; Xem xét việc miễn, giảm thuế, phí đối
với chủ đầu tư các tuyến đường, khu đô thị,... có thiết kế đảm bảo cho người khuyết tật đi bộ
thuận tiện, an toàn.


Mặt khác, các nhà làm luật cũng cần nghiên cứu xây dựng và ban hành các quy định
về những biện pháp chế tài áp dụng đối với hành vi không tuân thủ hoặc tuân thủ không
đúng, không đầy đủ các quy định về tiêu chuẩn thiết kế, xây dựng các phần công trình dành
cho người khuyết tật đi bộ. Hành vi lấn chiếm, chiếm dụng,...các phần công trình dành cho
người khuyết tật đi bộ cũng cần được xử lí kịp thời, nghiêm minh.
Thứ hai, các phần công trình dành cho người khuyết tật đi bộ khi thiết kế phải tính
toán kĩ càng về mức độ an toàn và thuận tiện cho người khuyết tật khi tiếp cận sử dụng, tránh
tình trạng của phố đi bộ Nguyễn Huệ, mặc dù được đánh giá là "thân thiện" với người
khuyết tật nhưng vẫn còn một số vướng mắc, bất cập với người khuyết tật khi sử dụng.
Về mặt thiết kế của cơ sở hạ tầng dành cho người khuyết tật đi bộ, chúng ta có thể
tham khảo và học tập kinh nghiệm của Nhật Bản. Ở Nhật Bản, trên tất cả các con đường đều
có một vệt sơn đường màu vàng rực và có kí hiệu nổi, những người khiếm thị có thể phân
biệt đâu là đường dành cho mình. Ngoài ra, ở một số ngã tư, ngã ba đường hay có hộp nút ấn
giao thông, người khuyết tật khi muốn qua đường chỉ cần ấn nút để được nhường quyền ưu
tiên qua đường. Và trong khoảng thời gian qua đường thì sẽ có những tiếng kêu bíp bíp báo
hiệu rằng đèn tín hiệu qua đường đang ở màu xanh.
Thứ ba, cần tuyên truyền, giáo dục để nâng cao ý thức của mỗi người dân khi tham gia
giao thông nói chung và trong việc giúp đỡ người khuyết tật đi bộ nói riêng. Sở dĩ Nhật
Bản được mệnh danh là quốc gia có hệ thống giao thông an toàn nhất trên thế giới và
người dân có ý thức cao khi tham gia giao thông, một trong những giải pháp được Nhật
Bản chú trọng đó là giáo dục an toàn giao thông cho trẻ em để xây dựng cho các em ý

thức ngay từ nhỏ. Giáo dục trong trường học, gia đình, các tổ chức xã hội, thông qua
đài phát thanh, truyền hình, báo chí với nội dung phù hợp với từng lứa tuổi.
**************************************************************************
**************
Bài 9
1.

Quyền của người khuyết tật khi tham gia các chương trình giáo dục phổ thông?

2.

Bình luận về quy trình xác nhận mức độ khuyết tật do Hội đồng giám định mức

độ khuyết tật cấp xã thực hiện
B, GẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I, Khái quát chung về người khuyết tật
1.

Định nghĩa NKT


Hiện nay, có rất nhiều quan điểm về NKT, trong đó có hai quan điểm chính: quan điểm
khuyết tật cá nhân và quan điểm khuyết tật xã hội. Với các quốc gia, khái niệm người khuyết
tật cũng khó có sự thống nhất do quy định pháp luật còn phụ thuộc rất nhiều vào mục tiêu
mà luật hoặc chính sách cụ thể theo đuổi. Do vậy, không có khái niệm chung về người NKT
áp dụng chung cho tất cả các nước. Với quan điểm của Việt Nam được thể hiện ở quy định
tại khoản 1 Điều 2 Luật NKT thì NKT được hiểu là: “ Người bị khiếm khuyết một hay nhiều
bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng dẫn đến những hạn chế đáng kể và lâu dài trong
việc tham gia của người khuyết tật vào hoạt động xã hội trên cơ sở bình đẳng với những chủ
thể khác”.

2. Đặc điểm người khuyết tật.
Thứ nhất, NKT là con người nên mang đầy đủ đặc điểm chung về Kinh tế- Xã hội tâm
sinh lý như người bình thường khác, đầy đủ các quyền trên các lĩnh vực đời sống xã hội.
Thứ hai, đặc điểm của NKT dưới góc độ kinh tế - xã hội:
Từ góc độ kinh tế, khuyết tật là nguyên nhân làm giảm cơ hội việc làm, phát triển kinh tế;
khả năng sống độc lập khó hơn đối tượng khác (phụ thuộc vào gia đình, người thân,..),không
chỉ bản thân người khuyết tật gặp khóc khăn về kinh tế mà còn gặp khó khăn cho gia đình,
cộng đồng.Từ góc độ xã hội, NKT gặp khó khăn trong sinh hoạt, học tập, văn hóa, thể thao
tiếp cận các dịch vụ y tế, kết hôn…, gặp rào cản trong hòa nhập (gia đình, cộng đồng, học
tập,…), có xu hướng thu hẹp, tách biệt cộng đồng. Những khó khăn càng trở lên trầm trọng
hơn do thái độ tiêu cực của cộng đồng đối với NKT.
Thứ ba, đặc điểm người khuyết tật dưới góc độ dạng tật và mức khuyết tật:
Các dạng tật và mức độ khuyết tật cũng như việc xác định mức độ khuyết tật được quy
định chi tiết trong Luật NKT Việt Nam và Nghị định 28/2012/NĐ-CP ngày 10 tháng 04 năm
2012 của Chính phủ về việc quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật
NKT năm 2010.. Các dạng khuyết tật bao gồm: khuyết tật vận động; khuyết tật nghe, nói,
khuyết tật nhìn; khuyết tật thần kinh, tâm thần; khuyết tật trí tuệ; khuyết tật khác. Mỗi dạng
lại có những đặc điểm riêng, chung về tâm, sinh lý, về khả năng qua đó tác động đến nhu cầu
của bản thân và ảnh hưởng đáng kể đến quá trình hội nhập cộng đồng.
II, Quyền của người khuyết tật khi tham gia các chương trình giáo dục phổ thông
1, Khái niệm, ý nghĩa, các nguyên tắc cơ bản của giáo dục đối với người khuyết tật
1.1

Khái niệm


Giáo dục đối với người khuyết tật được hiểu là những hoạt động nhằm tác động một cách có
hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của người khuyết tật giúp họ có được kiến thức,
tri thức, phẩm chất đạo đức đồng thời hình thành và phát triển nhân cách.
Giáo dục đối với người khuyết tật có thể được thực hiện ở nhiều hoạt động, dưới nhiều hình

thức và phương thức khác nhau song hoạt động chủ yếu vẫn là hoạt động học tập. Vì vậy,
nói đến giáo dục người khuyết tật dưới góc độ pháp lý là đề cập đến vấn đề học tập của
người khuyết tật như quyền được tham gia học tập của người khuyết tật, các phương thức
giáo dục đối với người khuyết tật, các cơ sở giáo dục người khuyết tật…
1.2

Ý nghĩa của giáo dục đối với người khuyết tật

Giáo dục có ý nghĩa với bất kì cá nhân nào, đặc biệt đối với người khuyết tật. Quyền giáo
dục của người khuyết tật sẽ đảm bảo cho họ có được tri thức, kiến thức, trang bị cho họ
những hành trang về tự nhiên, xã hội, giúp họ hòa nhập với cuộc sống, có nhận thức tốt trở
thành công dân có ích cho xã hội.
Bên cạnh đó, việc giáo dục sẽ trang bị cho người khuyết tật kiến thức cơ bản, để họ có thể
phát triển hơn nữa, tạo cơ hội tìm kiếm việc làm tạo cho họ động lực, niềm tin là mình là
người có ích, giúp họ có thể nuôi sống bản thân.
Môi trường giáo dục tốt sẽ giúp người khuyết tật có nhiều mối quan hệ như bạn bè, thầy cô,
khiến họ cảm thấy được quan tâm, không mặc cảm tự ti, giúp hòa đồng với xã hội.
Giáo dục giúp người khuyết tật có kiến thức kĩ năng, sự hiểu biết sẽ giúp họ tự tin, chủ động
hơn trong cuộc sống, giúp họ nhận thức được vấn đề cà có nghị lực vượt lên trên mọi khó
khăn của cuộc sống.
1.3

Các nguyên tắc cơ bản đối với giáo dục của người khuyết tật

Nguyên tắc thứ nhất: Hỗ trợ và tạo điều kiện cần thiết để người khuyết tật có thể tham gia
học tập
Bởi lẽ, ngay từ đầu bản thân người khuyết tật đã có thiếu sót hơn so với người bình thường
nên khi tham gia vào học tập sẽ có những khó khăn nhất định. Chính vì lí do đó, cần có sự hỗ
trợ và tạo điều kiện cần thiết để người khuyết tật có thể tham gia học tập. Sự hỗ trợ này cần
xuất phát từ nhiều phía như từ người thân, gia đình của người khuyết tật, từ xã hội, cộng

đồng và của Nhà nước để người khuyết tật có thể tham gia học tập.
Nguyên tắc thứ hai: Đề cao và khuyến khích giáo dục hòa nhập cộng đồng.
Bản thân người khuyết tật đã có những thiếu sót ngay từ đầu nên họ luôn mặc cảm, tự ti và
nhận thức của xã hội về NKT còn nhiều hạn chết thì đảm bảo giáo dục hòa nhập cộng đồng


cho họ là một điều hết sức cần thiết. Giáo dục giành cho NKT cần luôn quan tâm và đề cao
nguyên tắc này để tạo điều kiện tốt nhất cho NKT hòa nhập với xã hội.
2, Quy định của pháp luật về quyền của người khuyết tật khi tham gia vào chường
trình giáo dục phổ thông.
Hiến pháp nước CHXHCNVN năm 2013 có qui định “1. Trẻ em được Nhà nước, gia
đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia vào các vấn đề về trẻ em.
Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những
hành vi khác vi phạm quyền trẻ em.” (Điều 37) và “Công dân có quyền và nghĩa vụ học
tập” (Điều 39). Điều 61 trong hiến pháp qui định “Nhà nước ưu tiên đầu tư và thu hút các
nguồn đầu tư khác cho giáo dục; … bảo đảm giáo dục tiểu học là bắt buộc, Nhà nước không
thu học phí; từng bước phổ cập giáo dục trung họ”.
Theo nguyên tắc thì học sinh phổ thông Việt Nam phải thực hiện chương trình giáo dục đúng
độ tuổi. Tuy nhiên, các nhóm học sinh nêu trong điều 26 của Luật Giáo dục2005 có thể đi
học không đúng tuổi. Cụ thể khoản 2 Điều 26 của luật này qui định: “Bộ trưởng Bộ Giáo
dục và Đào tạo quy định những trường hợp có thể…học ở tuổi cao hơn tuổi quy định đối với
học sinh ở những vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, học sinh người dân tộc thiểu
số, học sinh bị tàn tật, khuyết tật, học sinh kém phát triển về thể lực và trí tuệ, học sinh mồ
côi không nơi nương tựa, học sinh trong diện hộ đói nghèo theo quy định của Nhà nước”.
Điều này còn được khẳng định và cụ thể hóa hơn trong Luật Người khuyết tật. Điều 27 của
Luật Người khuyết tật có qui định: “Nhà nước tạo điều kiện để người khuyết tật được học
tập phù hợp với nhu cầu và khả năng của người khuyết tật. Người khuyết tật được nhập học
ở độ tuổi cao hơn so với độ tuổi quy định đối với giáo dục phổ thông; được ưu tiên trong
tuyển sinh; được miễn, giảm một số môn học hoặc nội dung và hoạt động giáo dục mà khả
năng của cá nhân không thể đáp ứng”.Bên cạnh đó, Nhà nước tạo điều kiện để NKT được

học tập phù hợp với nhu cầu và khả năng của NKT, được cung cấp phương tiện, tài liệu hỗ
trợ học tập dành riêng trong trường hợp cần thiết; NKT nghe, nói được học bằng ngôn ngữ
ký hiệu; NKT nhìn được học bằng chữ nổi Braille theo chuẩn quốc gia.
Theo Điều 63 Luật giáo dục 2005 thì Quyền giáo dục của NKT còn được thể hiện:
“ Nhà nước thành lập và khuyến khích tổ chức, cá nhân thành lập trường, lớp dành cho
người tàn tật, khuyết tật nhằm giúp các đối tượng này phục hồi chức năng, học văn hóa, học
nghề, hòa nhập với cộng đồng.


Nhà nước ưu tiên bố trí giáo viên, cơ sở vật chất, thiết bị và ngân sách cho các trường, lớp
dành cho người tàn tật, khuyết tật do Nhà nước thành lập; có chính sách ưu đãi đối với các
trường, lớp dành cho người tàn tật, khuyết tật do tổ chức, cá nhân thành lập.”
Luật NKT 2010 cũng qui định các cơ sở giáo dục có trách nhiệm và bắt buộc phải tạo điều
kiện để trẻ khuyết tật có thể theo học hòa nhập. Điều 30, Luật Người khuyết tật quy định các
cơ sở giáo dục phải “Bảo đảm các điều kiện dạy và học phù hợp đối với người khuyết tật,
không được từ chối tiếp nhận người khuyết tật nhập học trái với quy định của pháp luật.
Thực hiện việc cải tạo, nâng cấp cơ sở vật chất dạy và học chưa bảo đảm điều kiện tiếp cận
đối với người khuyết tật”.
Luật người khuyết tật cũng xem xét đến khó khăn riêng của từng đối tượng người học có
khuyết tật và đưa ra các qui định với Trung tâm hỗ trợ phát triển giáo dục hòa nhập tại điều
31: “Trung tâm hỗ trợ phát triển giáo dục hòa nhập là cơ sở cung cấp nội dung chương trình,
thiết bị, tài liệu dạy và học, các dịch vụ tư vấn, hỗ trợ giáo dục, tổ chức giáo dục phù hợp với
đặc điểm và hoàn cảnh của người khuyết tật”.
Theo Điều 52 Luật bảo vệ và chăm sóc trẻ em 2004, trẻ em khuyết tật được nhận vào các lớp
học hòa nhập, lớp học dành cho trẻ em khuyết tật, được giúp đỡ học văn hóa..
Theo khoản 3 Điều 4 và khoản 2 Điều 6 Nghị định 49/2010/ NĐ-CP nghị định quy định về
miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập và cơ chế thu, sử dụng học phí đối với cơ sở giáo
dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân từ 2010-2011 đến năm học 2014-2015 thì NKT được
miễn học phí và hỗ trợ chi phí học tập.
Từ những phân tích ở trên, ta đã thấy được Nhà nước luôn tạo điều kiện để đảm bảo quyền

của người khuyết tật trong chương trình giáo dục phổ thông.
III, Bình luận quy trình xác nhận mức độ khuyết tật do Hội đồng giám định cấp xã
thực hiện
1, Quy trình xác nhận mức độ khuyết tật do Hội đồng giám định cấp xã thực hiện
Bước 1: Để được xác nhận là mức độ khuyết tật thì người khuyết tật hoặc người đại diện hợp
pháp của người khuyết tật gửi đơn đề nghị được xác nhận đến Ủy ban nhân dân xã nơi người
khuyết tật cư trú( khoản 1 Điều 18 Luật người khuyết tật 2010).
Bước 2: Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận đơn đề nghị xác định mức độ khuyết tật,
Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm triệu tập Hội đồng xác định mức độ khuyết
tật, gửi thông báo về thời gian xác định mức độ khuyết tật cho người khuyết tật hoặc người
đại diện hợp pháp của họ. Theo khoản 2 Điều 16 Luật người khuyết tật Hội đồng xác định
mức độ khuyết tật cấp xã gồm : Chủ tịch UBND cấp xã là Chủ tịch Hội đồng, Trạm trưởng


trạm y tế cấp xã, công chức cấp xã phụ trách công tác lao động, thương binh và xã hội, người
đứng đầu hoặc cấp phó của UB mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên,
Hội cựu chiến bình cấp xã, Người đứng đầu tổ chức của người khuyết tật cấp xã( nếu có).
Hội đồng xác định mức độ khuyết tật làm việc theo nguyên tắc tập thể, và quyết định theo đa
số.
Theo điều 17 Luật người khuyết tật thì phương pháp xác định mức độ khuyết tật do Hội
đồng xác định mức độ khuyết tật thực hiện bằng phương pháp quan sát trực tiếp người
khuyết tật, thông quan thực hiện hoạt động giản đơn phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng
ngày, sử dụng bộ câu hỏi theo các tiêu chí về ý tế, xã hội và các phương pháp đơn giản khác
để kết luận mức độ khuyết tật đối với từng người khuyết tật. Cụ thể tại điều 3 Thông tư liên
tịch 37/2012/TTLT-BLĐTBXH-BYT-BTC-BGDĐT Ngày 28/12/2012 Thông tư liên tịch
quy định về việc xác định mức độ khuyết tật do hội đồng xác định mức độ khuyết tật thực
hiện quy định về phương pháp xác định dạng tật và mức độ khuyết tật. Đối với việc xác định
dạng và mức độ khuyết tật cho trẻ dưới 6 tuổi sẽ được Hội đồng quan sát trực tiếp các dấu
hiệu cụ thể và phỏng vấn người đại diện hợp pháp của trẻ và sử dụng “ Phiếu xác định dạng
khuyết tật cho trẻ dưới 6 tuổi” theo Mẫu số 02 và “ Phiếu đánh giá mức độ khuyết tật dành

cho trẻ dưới 6 tuổi” theo mẫu số 04. Đối với việc xác định dạng tật và mức độ khuyết tật cho
người khuyết tật từ đủ 6 tuổi trở lên sẽ được Thành viên Hội đồng quan sát trực tiếp các dấu
hiệu của đối tượng, phỏng vấn người khuyết tật hoặc người đại diện hợp pháp của người
khuyết tật và sử dụng “ Phiếu xác định dạng khuyết tật cho người tư đủ 6 tuổi trở lên” theo
Mẫu số 03
Và “ Phiếu đánh giá mức độ khuyết tật dành cho người đủ 6 tuổi trở lên” theo Mẫu số 05.
Địa điểm thực hiện căn cứ khoản 3 Điều 5 Thông tư liên tịch 37/2012 thì địa điểm thực hiện
xác định sẽ được thực hiện tại Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc Trạm y tế. Trường hợp người
khuyết tật không thể đến được địa điểm quy định trên đây thì Hội đồng tiến hành xác định
mức độ khuyết tật tại nơi cư trú của người khuyết tật.
Bước 03: Lập hồ sơ, biên bản kết luận xác định mức độ khuyết tật của người được đánh giá
(Mẫu số 06, Thông tư liên tịch số 37/2012/TTLT-BLĐTBXH-BYT-BTC-BGDĐT).
Bước 04: Căn cứ khoản 4 Điều 18 Luật người khuyết tật 2010 và khoản 1 Điều 6 thông tư
liên tịch 37/2012 thì trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày có biên bản kết luận của
Hội đồng về mức độ khuyết tật của người khuyết tật, Chủ tịch Ủy ban nhân cấp xã niêm yết
và thông báo công khai kết luận của Hội đồng tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã và cấp Giấy
xác nhận khuyết tật. Trường hợp có khiếu nại, tố cáo hoặc có ý kiến thắc mắc không đồng ý


×