Chương 1
LẠM PHÁT VÀ CÁC HÌNH THỨC CỦA LẠM PHÁT
1.1. KHÁI NIỆM LẠM PHÁT
Trong kinh tế học, lạm phát được hiểu là hiện tượng giảm mãi lực của đồng tiền.
Điều này cũng đồng nghĩa với “vật giá leo thang”, giá cả hàng hóa, dịch vụ tăng cao
khiến với cùng một số lượng tiền, người tiêu thụ mua được ít hàng hóa hơn hoặc
phải trả một giá cao hơn để hưởng cùng một dịch vụ.
Một khái niệm khác về lạm phát là khối lượng tiền được lưu hành trong dân
chúng tăng lên do nhà nước in và phát hành thêm tiền vì những nhu cầu cấp thiết
(chiến tranh, nội chiến, hao hụt ngân sách v.v...). Trong khi đó, số lượng hàng hoá
không tăng khiến dân chúng cầm trong tay nhiều tiền quá sẽ tranh mua khiến giá cả
tăng vọt có khi đưa đến siêu lạm phát.
Ta cũng có thể hiểu lạm phát là sự tăng lên mức giá chung liên tục của nền kinh
tế trong một giai đoạn nào đó. Trong mỗi giai đoạn có thể có giá mặt hàng này tăng,
mặt hàng kia giảm, nhưng nếu mức giá chung tăng, ta có lạm phát. Nếu mức giá
chung giảm, ta có giảm phát.
Ví dụ: quay lại với một vài năm trước đây một kg xoài có thể là
5000vnd=> 7000vnd. Nhưng đến với thời điểm hiện tại giá của một kg xoài đó có
thể là 20000vnd=>30000vnd. Đó là một hiện tượng của lạm phát.
Để thu hút nguồn nhân lực và để cải thiện hóa nền kinh tế, Nhà nước cho phát
hành nhiều tiền. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc tiền lương cũng sẽ được tăng
cao. Và với đồng tiền đã có trong tay bạn sẽ không ngại để bỏ tiền ra mua một sản
phẩm nào đó. Và bất kì ai cũng thế. Như vậy sức mua của từng sản phẩm sẽ tăng
lên. Vây với sức mua của sản phẩm như thế các nhà doanh nghiệp cũng từng bước
đưa giá sản phẩm leo thang. Và cứ như thế. lạm phát hoành hành.
Để đo lường lạm phát người ta đã dung hai chỉ số sau:
4
- Hệ số giảm phát GDP (GDP deflator) được tính trên cơ sở so sánh giá trị
GDP tính theo giá hiện hành, và GDP tính theo giá kỳ trước. Nghĩa là đo lường mức
tăng và giảm giá trên tất cả các loại hàng hoá dịch vụ tính trong GDP.
- Chỉ số giá tiêu dùng hay chỉ số giá cả CPI: được tính theo bình quân gia
quyền của một nhóm các hàng hoá thiết yếu, ở VN nhóm hàng lương thực, giá vàng,
đô la có lẽ có trọng số lớn. Chỉ số này khôngphản ánh sự biến động giá chung
nhưng phản ánh biến động giá cả ảnh hưởng nhiều nhất đến đời sống, tiêu dùng.
Khi nói tốc độ lạm phát, nguời ta cũng thường dùng chỉ số này. Khi nền kinh tế
có lạm phát, nếu không do nguyên nhân tác động từ nước ngoài, hay một thay đổi
lớn về cung sản phẩm, thì nó thể hiện cầu hàng hoá lớn hơn cung hàng hoá. Việc
duy trì cầu hàng hoá lớn hơn cung hàng hoá ở một mức độ vừa phải, do đó, lạm phát
ở mức vừa phải, là cần thiết để kích thích sản xuất, giúp cho việc tiêu thụ hàng hoá
tốt hơn, và tạo lợi nhuận cần thiết cho các doanh nghiệp đầu tư công nghệ cao.
1.2. CÁC HÌNH THỨC CỦA LẠM PHÁT
Lạm phát thường được phân loại theo tính chất hoặc theo mức độ của tỷ lệ lạm
phát. Nhưng thường thì các nhà kinh tế thường phân biệt thành 4 loại lạm phát:
thiểu phát, lạm phát thấp, lạm phát cao (lạm phát phi mã) và siêu lạm phát.
a) Thiểu phát:Thiểu phát trong kinh tế học là lạm phát ở tỷ lệ rất thấp. Đây là
một vấn nạn trong quản lý kinh tế vĩ mô. Ở Việt Nam, nhiều người thường nhầm lẫn
thiểu phát với giảm phát..
Không có tiêu chí chính xác tỷ lệ lạm phát bao nhiêu phần trăm một năm trở
xuống thì được coi là thiểu phát. Một số tài liệu kinh tế học cho rằng tỷ lệ lạm phát
ở mức 3-4 phần trăm một năm trở xuống được gọi là thiểu phát.
Có những đặc trưng không phải con số tỷ lệ giúp xác định thiểu phát, đó là:
khi giá giảm liên tục và tăng trưởng GDP ở mức âm, nền kinh tế mới rơi vào tình
trạng thiểu phát. Ngân hàng thương mại gặp khó khăn khi cho vay, đồng thời họ lại
đặt ra lãi suất huy động tiết kiệm thấp- một tình trạng được coi là thị trường tiền tệ
trì trệ. Tỷ lệ lạm phát thấp khiến cho lãi suất thực tế trở nên cao, khiến các nhà đầu
5
tư dè dặt đi vay ngân hàng. Ngân hàng ứ đọng tiền, nên giảm huy động tiết kiệm
bằng cách hạ lãi suất huy động tiết kiệm.
Sản xuất trở nên thiếu sôi động. Lạm phát thấp khiến cho tiền công thực tế
cao hơn. Người lao động vì thế có thể giảm cung lao động và tăng thời gian nghỉ
ngơi. Mặt khác, giá cả sản phẩm thấp làm giảm động lực sản xuất. Thiểu phát đôi
khi được coi là tình trạng trước giảm phát (một tình trạng trái ngược với lạm phát
nhưng vẫn nguy hiểm đối với nền kinh tế).
b) Lạm phát thấp: Mức lạm phát tương ứng với tốc độ tăng giá từ 3.0 đến
dưới 10 phần trăm một năm.
c) Lạm phát cao (Lạm phát phi mã): Mức lạm phát tương ứng với tốc độ
tăng giá trong phạm vi hai hoặc ba chữ số một năm thường được gọi là lạm phát phi
mã, nhưng vẫn thấp hơn siêu lạm phát. Việt Nam và hầu hết các nước chuyển đổi từ
cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường đều phải đối mặt với lạm
phát phi mã trong những năm đầu thực hiện cải cách. Nhìn chung lạm phát phi mã
được duy trì trong thời gian dài sẽ gây ra những biến dạng kinh tế nghiêm trọng.
Trong bối cảnh đó, đồng tiền sẽ bị mất giá nhanh, cho nên mọi người chỉ giữ lượng
tiền tối thiểu vừa đủ cho các giao dịch hàng ngày. Mọi người có xu hướng tích trữ
hàng hóa, mua bất động sản và chuyển sang sử dụng vàng hoặc các ngoại tệ mạnh
để làm phương tiện thanh toán cho các giao dịch có giá trị lớn và tích lũy của cải.
d) Siêu lạm phát: Siêu lạm phát là lạm phát "mất kiểm soát", một tình trạng
giá cả tăng nhanh chóng khi tiền tệ mất giá trị. Không có định nghĩa chính xác về
siêu lạm phát được chấp nhận phổ quát. Một định nghĩa cổ điển về siêu lạm phát do
nhà kinh tế ngưười Mỹ Phillip Cagan đưa ra là mức lạm phát hàng tháng từ 50% trở
lên (nghĩa là cứ 31 ngày thì giá cả lại tăng gấp đôi). Theo định nghĩa này thì cho đến
nay thế giới mới trải qua 15 cuộc siêu lạm phát. Nhưng đến hiện tại thì Việt Nam
vẫn chưa ở mức siêu lạm phát.
6
Chương 2
ẢNH HƯỞNG CỦA LẠM PHÁT ĐẾN NỀN KINH TẾ NƯỚC TA GIAI ĐOẠN
2007- 2010
2.1. NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN LẠM PHÁT
2.1.1. Một số nguyên nhân cơ bản
Lạm phát tiền tệ: Đây là dạng thức lạm phát chủ yếu lộ diện khá rõ. Năm
2007, với việc tung một khối lượng lớn tiền đông để mua ngoại tệ từ các nguồn đổ
vào nước ta đã làm tăng lượng tiền trong lưu thông với mức tăng trên 30%, hạn mức
tín dụng cũng tăng cao, mức tăng 38%. Ấy là chưa kể sự tăng tín dụng trong các
năm trước đã tạo nên hiện tượng tích phát tác động đến năm 2007 và có thể cả
những năm sau.
Lạm phát cầu kéo: xảy ra do tổng cầu vượt trội đẩy mức giá chung lên cao.
Sự thúc đẩy của cầu có thể xuất phát từ những cú sốc bên.Do đầu tư bao gồm đầu tư
công và đầu tư của các doanh nghiệp tăng, làm nhu cầu về nguyên liệu, nhiên liệu
và thiết bị công nghệ tăng; thu nhập dân cư, kể cả thu nhập do xuất khẩu lao động
và người thân từ nước ngoài gửi về không được tính vào tổng sản phẩm quốc nội
(GDP) cũng tăng, làm xuất hiện trong một bộ phận dân cư những nhu cầu mới cao
hơn. Biểu hiện rõ nhất của lạm phát cầu kéo là nhu cầu nhập khẩu lương thực trên
thị trường thế giới tăng, làm giá xuất khẩu tăng (giá xuất khẩu gạo bình quân của
nước ta năm 2007 tăng trên 15% so với năm 2006) kéo theo cầu về lương thực trong
nước cho xuất khẩu tăng. Trong khi đó, nguồn cung trong nước do tác động của
thiên tai, dịch bệnh không thể tăng kịp. Tất cả các yếu tố nói trên gây ra lạm phát
cầu kéo, đẩy giá một số hàng hoá và dịch vụ, nhất là lương thực thực phẩm tăng
theo.
Lạm phát chi phí đẩy: Giá nguyên liệu, nhiên liệu ( đặc biệt là xăng dầu, các
sản phẩm hoá dầu, thép và phôi thép…) trên thế giới trong những năm gần đây tăng
mạnh. Trong điều kiện kinh tế nước ta phụ thuộc rất lớn vào nhập khẩu ( nhập khẩu
chiếm đến 90% GDP ) giá nguyên liệu nhập tăng làm tăng giá thị trường trong
7
nước. Xảy ra do tăng chi phí và có thể phát triển ngay cả khi thất nghiệp và việc sử
dụng nguồn lực còn thấp. Vì tiền lương ( tiền công) thường là chi phí sản xuất quan
trọng nhất, sự gia tăng tiền lương không phù hợp với tăng trưởng năng suất có thể
khơi mào cho quá trình lạm phát. Nhưng lạm phát do chi phí đẩy có thể không dai
dẳng nếu chính sách tiền tệ tác động vào, trong trường hợp đó, tiền lương tăng dẫn
tới thất nghiệp cao hơn thay vì lạm phát cao hơn.
Lạm phát quán tính: có xu hướng dai dẳng ở cùng tỷ lệ cho đến khi những sự
kiện kinh tế gây ra nó thay đổi. Nếu lạm phát cứ đều đặn, tỷ lệ lạm phát thịnh hành
có thể được dự đoán và do đó được đưa vào các hợp đồng tiền lương và tài chính,
điều này lại tiếp tục duy trì nó. Tỷ lệ lạm phát quán tính đôi khi ngụ ý lạm phát cơ
bản hay cốt lõi.
Thông thường những cú sốc đối với nền kinh tế từ phía cung hay cầu làm cho
tỷ lệ lạm phát thực tế di chuyển lên trên hay xuống dưới tỷ lệ lạm phát cơ bản. Các
cú sốc chính về phía cầu bao gồm sự tăng nhanh của tổng cầu do dự đoán thu nhập
sẽ tăng.
Lạm phát do chính sách, lạm phát do cầu kéo được nhận thấy ở nhiều nền kinh
tế đang chuyển đổi, là kết quả của những chính sách thu chi ngân sách hạn chế
không đầy đủ và việc tài trợ bằng tiền cho thâm hụt ngân sách. Thông thường,
những cú sốc bên ngoài như những cú sốc xuất phát từ tăng giá năng lượng hay thu
hẹp thương mại với các bạn hàng truyền thống có xu hướng bổ sung cho áp lực lạm
phát.
2.1.2. Nguyên nhân bên ngoài
Cũng như những quốc gia châu á khác, do đồng USD suy yếu trong những
năm gần đây đã tạo ra những cú sốc về tăng giá xăng dầu, giá vàng, giá lương thực
thực phẩm… từ đó tác động xấu đến giá cả ở VN. Giá cả thị trường thế giới liên tục
tăng cao, xăng dầu tăng (giá dầu thô từ 60 USD/thùng đầu năm 2007 tăng lên trên
100 USD/thùng cuối năm 2007), sắt thép tăng 30%, phân bón tăng 20%, lúa mì tăng
60%, sợi, bông, chất dẻo, … Đồng thời những mặt hàng nước ta xuất khẩu (gạo, cà
8
phê, cao su, hạt tiêu, điều…) cũng xuất với giá tăng rất cao, đặc biệt là giá lương
thực phẩm tăng trên 30%, nên giá thu mua cũng tăng, từ đó làm ảnh hưởng lớn đến
giá cả chung trong nước, vả lại khi tính chỉ số CPI thì trọng số lương thực thực
phẩm ở ta chiếm tỷ lệ cao (42,85%), nhà ở vật liệu xây dựng chiếm 10%, giá xăng
dầu trong năm 2007 tăng nhanh, giá vàng thế giới và trong nước tăng rất cao, ảnh
hưởng gián tiếp là tác động tâm lý đến các loại giá khác, nên CPI tăng mạnh.
2.1.3. Nguyên nhân bên trong
Chính sách tài khóa không hiệu quả là nguyên nhân rất quan trọng của căn
bệnh lạm phát ở nước ta. Để hỗ trợ cho sự phát triển kinh tế, Chính phủ đã có những
kế hoạch chi tiêu nâng cấp cơ sở hạ tầng của đất nước và liên tục bội chi ngân sách
trong nhiều năm trn 5% GDP (năm 2007 bội chi khoảng trên 56.000 tỷ đồng). Đầu
tư cho tăng trưởng kinh tế là điều cần thiết, nhưng đầu tư kém hiệu quả, đầu tư dàn
trải, gây lãng phí lớn trong thời gian dài là nguy hiểm cho nền kinh tế nước nhà
- Trong năm 2007, và đầu năm 2008 Nhà nước chủ động thực hiện lộ
trình điều chỉnh theo giá thị trường đối với một số loại hàng hóa, vật tư cơ bản như:
điện, xăng dầu, than,… làm ảnh hưởng đến việc tăng giá các hàng hóa khác.
- Chính sách tiền tệ năm 2007 cũng có những vấn đề cần xem xét, cung
tiền (tổng phương tiện thanh toán) tăng nhanh năm 2005 là 23.4%, năm 2006 là
33.6%, năm 2007 là 53.8%, tổng cộng 3 năm cung tiền M2 tăng 134.2%, trong khi
3 năm GDP chỉ tăng 25.09%. Chênh lệch giữa cung tiền tăng trong 3 năm qua
(134.5%) với tăng trưởng kinh tế GDP (25.09%) là rất lớn, chắc chắn sẽ đè nặng lên
giá cả trong nước, và cuối năm 2007, đầu năm 2008 nó bộc phát mạnh là do có sự
cộng hưởng bởi lạm phát quốc tế (USD yếu) và thiên tai.
- Thiên tai, mưa bão, lũ lụt, những đợt rét đậm, rét hại ở các tỉnh phía
Bắc gây thiệt hại năng nề: con người, tài sản, đất trồng, lương thực thực phẩm và
dịch bệnh (SARS, cúm gia cầm) ảnh hưởng đến giá cả thực phẩm…ảnh hưởng đến
giảm tổng cung.
9
- Chi phí sản xuất hàng hóa dịch vụ chưa hợp lý, sức cạnh tranh các sản
phẩm trong nước không cao, hiệu quả kinh tế thấp.
- Thu nhập của dân cư tăng, việc tăng lương một phần gia tăng tổng cầu,
mặt khác tạo tâm lý làm tăng giá các hàng hóa tiêu dùng khác. Điều chỉnh tiền
lương cho người lao động là cần thiết trong giai đoạn lạm phát cao, nhưng cần điều
chỉnh tiền lương vào những thời điểm ít nhạy cảm (giữa năm).
- Một trong những nguyên nhân cũng góp phần vào mức lạm phát gia
tăng tại VN hiện nay là yếu tố tâm lý của người dân (cần kiểm soát thông tin). Đặc
biệt là yếu tố đầu cơ, găm hàng, làm giá rất “kinh nghiệm” (vì ta đã nhiều lần bị lạm
phát) của các đơn vị cung cấp hàng hóa dịch vụ, các đại lý bán lẻ tại VN.
2.2. ẢNH HƯỞNG CỦA LẠM PHÁT ĐẾN NỀN KINH TẾ NƯỚC TA
2.2.1. Tình hình hiện tại
Nhìn chung, kinh tế Việt Nam được đánh giá khái quát lạm phát cao, tăng
trưởng thấp. Chỉ số tăng trưởng GDP hiện nay giảm xuống rất thấp chỉ còn 6,7% và
lạm phát ở mức rất cao (trên 20%). Mặc dù tốc độ tăng trưởng của Việt Nam năm
2007 cao nhất trong 10 năm qua.. Mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2008 do Quốc
hội đề ra từ kỳ họp cuối năm trước là 8,5- 9%, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo phấn
đấu đạt trên 9%. Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế quý 1/2008 đã chậm lại so với tốc
độ của quý 1/2007.
Lạm phát vượt qua mức tối đa cho phép 9% và lạm phát năm 2008 tình đến
nay là 22,3%. Lạm phát năm 2007 đã ở mức hai chữ số (12,63%), 3 tháng 2008 tiếp
tục lồng lên đến mức 9,19%, cao gấp ba lần cùng kỳ và bằng gần ba phần tư mức cả
năm 2007, đã vượt qua mức theo mục tiêu đã đề ra cho cả năm 2008; nhập siêu gia
tăng cả về kim ngạch tuyệt đối (3.366 triệu USD so với 1.933 triệu USD), cả về tỷ lệ
nhập siêu so với xuất khẩu (56,5% so với 18,2%)...
10
2.2.2. Ảnh hưởng của lạm phát đến nền kinh tế nước ta
Ngoài trường hợp lạm phát nhỏ, lạm phát vừa phải (lạm phát một con số) có
tác dụng tích cực đến sự phát triển của nền kinh tế xã hội, còn lại nói chung lạm
phát đều gây ảnh hưởng xấu đến quá trình phát triển đi lên của nền kinh tế xã hội.
-Một là làm cho tiền tệ không còn giữ được chức năng thước đo giá trị
hay nói đúng hơn là thước đo này co dãn thất thường, do đó xã hội không thể tính
toán hiệu quả, điều chỉnh các hoạt động kinh doanh của mình.
- Hai là tiền tệ và thuế là 2 công cụ quan trọng nhất để nhà nước điều tiết
nền kinh tế đã bị vô hiệu hóa, vì tiền tệ bị mất giá nên không ai tin vào đồng tiền
nữa, các biểu thuế không thể điều chỉnh kịp với mức độ tăng bất ngờ của lạm phát
và do vậy tác dụng điều chỉnh của thuế bị hạn chế, ngay cả trong trường hợp nhà
nước có thể chỉ số hóa luật thuế thích hợp với mức lạm phát, thì tác dụng điều chỉnh
của thuế cũng vẫn bị hạn chế.
- Ba là phân phối lại thu nhập, làm cho một số người nắm giữ các hàng
hóa có giá trị tăng đột biến giàu lên nhanh chóng và những người có các hàng hóa
mà giá cả của chúng không tăng hoặc tăng chậm và người giữ tiền bị nghèo đi.
-Bốn là kích thích tâm lý đầu cơ tích trữ hàng hóa, bất động sản, vàng
bạc…gây ra tình trạng khan hiếm hàng hóa không bình thường và lãng phí.
- Năm là xuyên tạc bóp méo các yếu tố của thị trường làm cho các điều
kiện của thị trường bị biến dạng. Hầu hết các thông tin kinh tế đều thể hiện trên giá
cả hàng hóa, giá cả tiền tệ, giá cả lao động…Một khi những giá cả này tăng hay
giảm đột biến và liên tục thì các yếu tố của thị trường không thể tránh khỏi bị thổi
phồng hoặc bóp méo.
- Sáu là sản xuất phát triển không đều, vốn chạy vào những ngành nào có
lợi nhuận cao.
- Bảy là ngân sách bội chi ngày càng tăng trong khi các khoản thu ngày
càng giảm về mặt giá trị.
11
- Tám là đối với ngân hàng, lạm phát làm cho hoạt động bình thường của
ngân hàng bị phá vỡ, ngân hàng không thu hút được các khoản tiền nhàn rỗi trong
xã hội.
- Chín là đối với tiêu dùng: làm giảm sức mua thực tế của nhân dân về
hàng tiêu dùng và buộc nhân dân phải giảm khối lượng hàng tiêu dùng, đặc biệt là
đời sống cán bộ công nhân viên ngày càng khó khăn. Mặt khác lạm phát cũng làm
thay đổi nhu cầu tiêu dùng, khi lạm phát gay gắt sẽ gây nên hiện tượng là tìm cách
tháo chạy ra khỏi đồng tiền và tìm mua bất cứ hàng hóa dù không có nhu cầu. Từ đó
làm giàu cho những người đầu cơ tích trữ.
Tóm lại, hậu quả của lạm phát rất nặng nề và nghiêm trọng. Lạm phát gây ra
hậu quả đến toàn bộ đời sống kinh tế xã hội của môi nước. Lạm phát làm cho việc
phân phối lại sản phẩm xã hội và thu nhập trong nền kinh tế qua giá cả đều khiến
quá trình phân hóa giàu nghèo nghiêm trọng hơn. Lạm phát làm cho một nhóm này
nhiều lợi nhuận trong khi nhóm khác bị thiệt hại nặng nề. Nhưng suy cho cùng,
gánh nặng của lạm phát lại đè lên vai của người lao động, chính người lao động là
người gánh chịu mọi hậu quả của lạm phát.
Chính vì các tác hại trên, việc kiểm soát lạm phát, giữ lạm phát ở mức độ
hợp lý và tỷ lệ lạm phát thấp (Tỷ lệ lạm phát phù hợp với nhịp độ tăng trưởng kinh
tế) trở thành một trong những mục tiêu lớn của kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, mục tiêu
kiềm chế lạm phát không đồng nghĩa với việc đưa tỷ lệ lạm phát bằng không. Bởi lẽ,
lạm phát không hoàn toàn tiêu cực, nếu duy trì lạm phát ở một mức độ vừa phải,
kiềm chế điều tiết được mức lạm phát đó thì có lợi cho sự phát triển kinh tế, lạm
phát đó không còn là một căn bệnh nguy hiểm nữa mà nó lại trở thành một công cụ
điều tiết kinh tế.
2.2.3. Ảnh hưởng của lạm phát đến hoạt động ngân hàng
Đối với hoạt động huy động vốn: do lạm phát tăng cao, việc huy động vốn
của các ngân hàng gặp nhiều khó khăn. Để huy động được vốn, hoặc không muốn
vốn từ ngân hàng mình chạy sang các ngân hàng khác, thì phải nâng lãi suất huy
12
động sát với diễn biến của thị trường vốn. Nhưng nâng lên bao nhiêu là hợp lý, luôn
là bài toán khó đối với mỗi ngân hàng. Một cuộc chạy đua lãi suất huy động ngoài
mong đợi tại hầu hết các ngân hàng (17% – 18%/năm cho kỳ hạn tuần hoặc tháng),
luôn tạo ra mặt bằng lãi suất huy động mới, rồi lại tiếp tục cạnh tranh đẩy lãi suất
huy động lên, có ngân hàng đưa lãi suất huy động gần sát lãi suất tín dụng, kinh
doanh ngân hàng lỗ lớn nhưng vẫn thực hiện, gây ảnh hưởng bất ổn cho cả hệ thống
Ngân hàng Thương mại (NHTM)
Lạm phát tăng cao, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) phải thực hiện thắt chặt
tiền tệ để giảm khối lượng tiền trong lưu thông, nhưng nhu cầu vay vốn của các
doanh nghiệp và cá nhân kinh doanh vẫn rất lớn, các ngân hàng chỉ có thể đáp ứng
cho một số ít khách hàng với những hợp đồng đã ký hoặc những dự án thực sự có
hiệu quả, với mức độ rủi ro cho phép. Mặt khác, do lãi suất huy động tăng cao, thì
lãi suất cho vay cũng cao, điều này đã làm xấu đi về môi trường đầu tư của ngân
hàng, rủi ro đạo đức sẽ xuất hiện. Do sức mua của đồng Việt Nam giảm, giá vàng và
ngoại tệ tăng cao, việc huy động vốn có kỳ hạn từ 6 tháng trở lên thật sự khó khăn
đối với mỗi ngân hàng, trong khi nhu cầu vay vốn trung và dài hạn đối với các
khách hàng rất lớn, vì vậy việc dùng vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn trong
thời gian qua tại mỗi ngân hàng là không nhỏ. Điều này đã ảnh hưởng đến tính
thanh khoản của các ngân hàng, nên rủi ro kỳ hạn và rủi ro tỷ giá xảy ra là điều khó
tránh khỏi.
Lạm phát cao, không ít doanh nghiệp cũng như người dân giao dịch hàng
hóa, thanh toán trực tiếp cho nhau bằng tiền mặt, đặc biệt trong điều kiện lạm phát,
nhưng lại khan hiếm tiền mặt. Theo điều tra của Ngân hàng thế giới (WB), ở Việt
Nam có khoảng 35% lượng tiền lưu thông ngoài ngân hàng, trên 50% giao dịch
không qua ngân hàng, trong đó trên 90% dân cư không thanh toán qua ngân hàng.
Khối lượng tiền lưu thông ngoài ngân hàng lớn, NHNN thực sự khó khăn trong việc
kiểm soát chu chuyển của luồng tiền này, các NHTM cũng khó khăn trong việc phát
triển các dịch vụ phi tín dụng, đặc biệt là dịch vụ thanh toán qua ngân hàng. Vốn
13
tiền thiếu, nhiều doanh nghiệp thực hiện mua chịu, bán chịu, công nợ thanh toán
tăng, thoát ly ngoài hoạt động.
Như vậy lạm phát tăng cao đã làm suy yếu, thậm chí phá vỡ thị trường vốn,
ảnh hưởng lớn đến hoạt động của các NHTM. Sự không ổn định của giá cả, bao
gồm cả giá vốn, đã làm suy giảm lòng tin của các nhà đầu tư và dân chúng, gây khó
khăn cho sự lựa chọn các quyết định của khách hàng cũng như các thể chế tài chính
– tín dụng. Vì vậy xét ở góc độ các NHTM cần có những biện pháp kiềm chế lạm
phát.
2.3. GIẢI PHÁP CHỐNG ẢNH HƯỞNG CỦA LẠM PHÁT ĐẾN NỀN KINH TẾ
NƯỚC TA
2.3.1. Kiềm chế lạm phát cho cả nước
Để kiềm chế lạm phát ở mức nhất định, Chính phủ đã thống nhất chỉ đạo thực
hiện quyết liệt và đồng bộ các giải pháp chủ yếu sau đây:
Một là, thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt. Cho dù do nhiều nguyên nhân,
nhưng lạm phát luôn có nguyên nhân tiền tệ. Mức cung tiền trong lưu thông và dư
nợ tín dụng tăng liên tục từ năm 2004 qua các năm và tăng cao trong năm 2007 là
nguyên nhân quan trọng gây lạm phát. Nhận thức được tình hình đó, Chính phủ chủ
trương kiểm soát chặt chẽ tổng phương tiện thanh toán và tổng dư nợ tín dụng ngay
từ đầu năm. Ngân hàng Nhà nước, thông qua việc chủ động, linh hoạt sử dụng hợp
lý các công cụ chính sách tiền tệ theo nguyên tắc thị trường để thực hiện bằng được
yêu cầu này.
.
Điều cần nhấn mạnh là trong khi kiên quyết thắt chặt tiền tệ, cần bảo đảm tính
thanh khoản của nền kinh tế và hoạt động của các ngân hàng, tổ chức tín dụng, tạo
điều kiện cho sản xuất hàng hoá và xuất khẩu phát triển.
Hai là, cắt giảm đầu tư công và chi phí thường xuyên của các cơ quan sử
dụng ngân sách, kiểm soát chặt chẽ đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước, cố gắng
14
giảm tỷ lệ thâm hụt ngân sách. Đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước và đầu tư của
doanh nghiệp nhà nước hiện chiếm khoảng 45% tổng đầu tư xã hội. Cắt giảm nguồn
đầu tư này sẽ làm giảm áp lực về cầu, giảm nhập siêu, góp phần nâng cao hiệu quả
của nền kinh tế.
Chính phủ sẽ quy định cụ thể tỷ lệ vốn đầu tư và chi phí hành chính phải cắt
giảm và yêu cầu các bộ, địa phương xác định các công trình kém hiệu quả, các công
trình chưa thực sự cần thiết để có sự điều chỉnh thích hợp. Điều này sẽ được thực
hiện một cách kiên quyết ngay trong việc phân bổ lại và cân đối nguồn vốn. Chính
phủ đã chủ trương mở rộng các chính sách về an sinh xã hội.
Ba là, tập trung sức phát triển sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, khắc
phục nhanh hậu quả của thời tiết và dịch bệnh để tăng sản lượng lương thực, thực
phẩm. Hiện nay, tiềm năng tăng trưởng của nước ta còn rất lớn, nhất là khi Việt
Nam đã là thành viên đầy đủ của Tổ chức Thương mại thế giới, đầu tư nước ngoài
và đầu tư tư nhân tăng mạnh, thị trường xuất khẩu được mở rộng, vì vậy, phát triển
sản xuất là giải pháp gốc, tạo hiệu quả nhiều mặt, vừa tăng nguồn cung cho thị
trường trong nước và xuất khẩu, góp phần kiềm chế lạm phát, giảm nhập siêu, vừa
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, lại không gây phản ứng phụ.
Để thực hiện yêu cầu này, Chính phủ đã giao nhiệm vụ cho các bộ trưởng, chủ
tịch UBND các tỉnh và thành phố chỉ đạo quyết liệt, kịp thời tháo gỡ các khó khăn,
vướng mắc về vốn, về thị trường, về thủ tục hành chính, thúc đẩy sản xuất phát
triển.
Bốn là, bảo đảm cân đối cung cầu về hàng hoá, đẩy mạnh xuất khẩu, giảm
nhập siêu. Cân đối cung cầu về hàng hoá, nhất là các mặt hàng thiết yếu cho sản
xuất và đời sống nhân dân là tiền đề quyết định để không gây ra đột biến về giá,
ngăn chặn đầu cơ.
Thủ tướng Chính phủ, các bộ trưởng đã và sẽ tiếp tục làm việc với các hiệp hội
ngành hàng, các doanh nghiệp kinh doanh các mặt hàng thiết yếu, như: lương thực,
thực phẩm, thuốc chữa bệnh, xăng dầu, sắt thép, vật liệu xây dựng, phân bón... giao
15
nhiệm vụ cho các đơn vị này phải bảo đảm nguồn hàng, đồng thời có trách nhiệm
cùng Chính phủ kiềm giữ giá cả.
Năm là, triệt để tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng. Hiện nay, tình trạng
lãng phí trong sản xuất và tiêu dùng diễn ra khá phổ biến ở các cơ quan, đơn vị.
Tiềm năng tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng là rất lớn. Vì vậy, Chính phủ yêu
cầu các cơ quan nhà nước cắt giảm 10% chi tiêu hành chính, các doanh nghiệp phải
rà soát tất cả các khoản chi nhằm hạ giá thành và phí lưu thông. Chính phủ kêu gọi
mọi người, mọi nhà triệt để tiết kiệm tiêu dùng, nhất là nhiên liệu, năng lượng. Đây
là giải pháp vừa có tác dụng giảm sức ép về cầu, giảm nhập siêu, vừa góp phần nâng
cao hiệu quả của cả nền sản xuất xã hội.
Sáu là, tăng cường công tác quản lý thị trường, kiểm soát việc chấp hành
pháp luật nhà nước về giá. Kiên quyết không để xảy ra tình trạng lạm dụng các biến
động trên thị trường để đầu cơ, nâng giá, nhất là các mặt hàng thiết yếu cho sản xuất
và tiêu dùng, như: xăng dầu, sắt thép, xi măng, thuốc chữa bệnh, lương thực, thực
phẩm…; ngăn chặn tình trạng buôn lậu qua biên giới, đặc biệt là buôn lậu xăng dầu,
khoáng sản.
Các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phải thường xuyên kiểm tra giá
bán tại các mạng lưới bán lẻ và các đại lý bán lẻ của doanh nghiệp mình. Chính phủ
đã chỉ đạo các tổng công ty nhà nước phải gương mẫu đi đầu trong việc thực hiện
yêu cầu này và chịu trách nhiệm trước Chính phủ về hoạt động của hệ thống bán lẻ
và đại lý bán lẻ của doanh nghiệp. Chính phủ cũng yêu cầu các hiệp hội ngành hàng
tham gia tích cực, ủng hộ các chủ trương và giải pháp bình ổn thị trường, giá cả.
Bảy là, mở rộng việc thực hiện các chính sách về an sinh xã hội. Trước tình
hình giá cả tăng cao, ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân, nhất là vùng nghèo, hộ
nghèo, vùng bị thiên tai, người lao động có thu nhập.
2.3.2. Kiềm chế lạm phát trong hoạt động ngân hàng
Kiềm chế lạm phát đến nay đã có tác dụng bước đầu, NHNN đã từng bước ổn
định được thị trường tiền tệ, kiểm soát tăng trưởng tín dụng của từng NHTM. Song
16
một điều nhận thấy rõ là những dấu hiệu của bất ổn vĩ mô chưa thuyên giảm, nhập
siêu vẫn rất lớn, thâm hụt thương mại cao, trong khi một số doanh nghiệp lại thiếu
vốn để sản xuất, xuất khẩu. Vì vậy, những tháng còn lại của năm 2008, tín dụng và
lãi suất của các NHTM cần được điều chỉnh hợp lý hơn để vừa kiểm soát được tăng
trưởng tín dụng, đáp ứng vốn cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả
cao, tạo điều kiện cho kinh tế phát triển, vừa kiểm soát được lạm phát, vừa góp phần
ổn định vi mô. Cụ thể:
Thứ nhất, kiểm soát tăng trưởng tín dụng: Mỗi NHTM tự điều chỉnh cơ
cấu tín dụng theo hướng giảm dư nợ và tỷ trọng tín dụng trung, dài hạn để phù hợp
với quy mô và thời hạn huy động vốn. Tăng vòng quay vốn tín dụng, sẽ giảm bớt
khó khăn do thiếu vốn. Trước mắt chỉ nên dành vốn vào những dự án nhanh tạo ra
khối lượng hàng hoá đáp ứng nhu cầu thiết yếu của xã hội.
Thứ hai, điều hành giá mua và bán vốn (lãi suất) ổn định và theo xu hướng
giảm dần. Tăng lãi suất là giảm cung tiền, kiềm chế tăng trưởng tín dụng nóng. Tuy
nhiên, lãi suất liên tục tăng cao không chỉ có khó khăn rất lớn cho doanh nghiệp
trong việc tiếp cận vốn vay, mà còn khó khăn cho NHTM trong việc huy động vốn
trung và dài hạn, nhưng nó chỉ là biện pháp trong ngắn hạn. Khi gói giải pháp tài
chính – tiền tệ đã được triển khai một cách đồng bộ, lạm phát được kiểm soát ở mức
độ nhất định, thì một trong những công cụ cần điều chỉnh ngay – đó là lãi suất kinh
doanh của các NHTM.
Thứ ba, phát triển các dịch vụ phi tín dụng, đặc biệt là dịch vụ thanh toán
không dùng tiền mặt. Phát triển các dịch vụ phi tín dụng vừa có điều kiện tăng thu
nhập cho ngân hàng, vừa thu hút khách hàng đến với ngân hàng để tăng khả năng
huy động vốn với chi phí thấp. Để tăng tỉ lệ dịch vụ phi tín dụng, về phía các ngân
hàng cần: Nâng cao chất lượng và tính tiện ích của dịch vụ theo hướng: (i) Đối với
dịch vụ truyền thống: đây là yếu tố nền tảng không chỉ có ý nghĩa duy trì khách
hàng truyền thống, tạo nguồn thu nhập lớn nhất cho ngân hàng, mà còn phát triển
các dịch vụ mới trên nền tảng của dịch vụ truyền thống để thu hút các khách hàng
tiềm năng. (ii) Đối với các dịch vụ hiện đại, cần thực hiện chiến lược Marketing sâu
17
rộng, có chính sách khuyến khích khách hàng (chính sách phí, khuyễn mãi…) sử
dụng các dịch vụ ngân hàng điện tử như dịch vụ mở tài khoản cá nhân, thanh toán,
chi trả thu nhập theo hướng không dùng tiền mặt qua thẻ ATM.
Thứ tư, nâng cao hiệu quả quản trị tài sản nợ –có, đặc biệt là quản trị thanh
khoản. Các ngân hàng phải xây dựng qui trình kiểm soát và quản lý thanh khoản
nhằm đáp ứng kịp thời các nghĩa vụ thanh toán đến hạn, đảm bảo an toàn trong hoạt
động, giảm thiểu rủi ro thanh khoản.
Thứ năm, nâng cao vị thế, chất lượng hoạt động, phục vụ của ngân hàng để
tạo niềm tin cho dân chúng gửi tiền vào ngân hàng bằng những hành động thiết thực
Niềm tin phải được xây dựng trên cơ sở thông tin minh bạch và kịp thời. Mọi sự tù
mù sẽ là “đất” cho tin đồn lộng hành. Vì vậy mỗi ngân hàng cần phải minh bạch hoá
thông (chính sách lãi suất, chính sách đầu tư, chính sách khách hàng, tình hình nợ
xấu…). Xây dựng hệ thống thông tin để hình thành cơ sở dữ liệu phục vụ cho việc
nghiên cứu, phân tích để đưa ra những quyết sách điều hành nhanh nhạy và khoa
học. Chú ý đến quyền lợi của khách hàng, bao gồm cả khách hàng gửi tiền và khách
hàng vay cũng như khách hàng sử dụng những dịch vụ của ngân hàng.
Thứ sáu, các NHTM cần tăng cường liên kết, hợp tác, trao đổi chia sẻ kinh
nghiệm hoạt động ngân hàng trên các lĩnh vực; kết nối các nghiệp vụ, sản phẩm dịch
vụ, tạo ra hệ thống phục vụ khách hàng rộng lớn, hiệu quả, tiết giảm chi phí.
- Sử dụng tổng hợp các biện pháp ngắn hạn mang tính cấp bách (chặng
sốt) và dài hạn (giảm sốt và đi đến hết sốt)
+ Giải pháp ngắn hạn: thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, tăng dự
trữ bắt buộc, giảm số nhân tiền tệ, tăng lãi suất chiết khấu- tái chiết khấu, tái cấp
vốn, giảm cung tiền, kiểm soát dư nợ tín dụng, giảm giá USD theo tín hiệu thị
trường quốc tế để hạn chế một phần tác động của lạm phát quốc tế (nhiều nước đã
làm từ tháng 9/2007), cắt giảm và kiểm soát chi tiêu công một cach hiệu quả, chính
phủ phải thắt lưng buộc bụng, cắt giảm chi tiêu thường xuyên, giảm chi phí đi lại,
kiểm soát dòng vốn quốc tế, kiểm soát nợ ngắn hạn, trợ cấp những hộ nghèo khó
khăn, trợ cấp hộ chăn nuôi, đảm bảo an ninh lương thực, kiểm soát nhập khẩu bằng
18
nhiều giải pháp sắc với sự phối hợp với hệ thống NHTM với cơ quan thuế và Bộ
Công thương, giảm thuế nhập khẩu các mặt hàng chiến lược và những mặt hàng
thực phẩm trong nước đang thiếu, tăng thuế tiêu thụ đặc biệt các mặt hàng chưa cần
thiết (kiểm soát tín dụng thương mại quốc tế, mua hàng trả chậm), Chính phủ ban
hành những Sắc lệnh mang tính cấp bách trong giai đoạn khó khăn (không tăng giá
điện, giá than, giá xăng dầu, dịch vụ giao thông đi lại…cho đến khi tình hình được
kiểm soát), chống đến cùng các nhóm đầu cơ găm hàng làm giá, buôn lậu (tội phá
hoại kinh tế). Trong điều hành kinh tế vĩ mô, Chính phủ cần lưu ý đến bộ ba không
thể có (Trinity Impossible): tỷ giá ổn định, tự do di chuyển vốn, chính sách tiền tệ
độc lập.
+ Giải pháp dài hạn, là việc làm thường xuyên (như tập thể dục mỗi
ngày): kiểm soát chi tiêu công một cách hiệu quả, cải cách thủ tục hành chính,
chống tham nhũng thường xuyên và tích cực, chính sách tiền tệ theo hướng hỗ trợ
vốn cho tăng trưởng trên cơ sở kiểm soát tín dụng lành mạnh, điều hành tỷ giá linh
hoạt theo hướng mở rộng biên độ và theo tín hiệu thị trường, tiến tới hạn chế tối đa
tình trạng đô la hóa tại VN, sử dụng có hiệu quả các công cụ chính sách tiền tệ theo
tín hiệu thị trường trong nước và quốc tế (dự trữ bắt buộc, công cụ tái chiết khấu,
nghiệp vụ thị trường mở..), kiểm soát nhập siêu, đầu tư cho các lĩnh vực sản xuất có
chất lượng hàng thay thế hàng nhập khẩu: nhà máy lọc dầu, xi măng, phôi thép,
phân bón, chất dẻo, thức ăn gia súc, vải, giấy,.. (đầu tư dài hạn và có chính sách hỗ
trợ đặc biệt để đẩy nhanh tiến độ), hỗ trợ xuất khẩu thông qua nhiều giải pháp đồng
bộ chứ không phải duy nhất như chính sách tỷ giá (chất lượng sản phẩm, mẫu mã,
chủng loại hàng, hạ giá thành xuất khẩu, tài trợ tín dụng, hỗ trợ xúc tiến thương mại,
chiến lược marketing quốc tế, chất lượng chế biến, uy tín đơn vị xuất khẩu..), cải
tiến kỹ thuật tăng năng suất lao động, nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh
nghiệp trong nước, đảm bảo an ninh lương thực, khuyến khích và hỗ trợ tích cực
cho việc phát triển nông nghiệp- nông thôn, phòng trừ dịch họa và thiên tai, tăng
cường công tác dự báo để có chính sách kịp thời, tăng dự trữ ngoại hối quốc gia…
19
KẾT LUẬN
Tiếp tục hoàn thiện mục tiêu chống lạm phát và kìm chế lạm phát là mục tiêu
cơ bản để tăng trưởng và phát triển kinh tế, ổn định xã hội, thực hiện công nghiệp
hoá và hiện đại hoá trong thời gian tới. Phát huy hết kết quả đạt được trong những
năm vừa qua, trong thời gian tới cần tổ chức th ực hiện các nhiệm v chủ yếu là:
nghiên cứu đề xuất tổ chức thực hiện các chính sách, các biệnpháp bình ổn giá cả thị
trường, kiềm chế và đẩy lùi lạm phát. Tiếp tục nghiên cứu điều chỉnh mặt bằng giá,
quan hệ giá cho phù hợp với tình hình sản xuất và chi phí sản xuất, giữ quan hệ
công nông hợp lí, cũng như quan hệ cung cầu và sự biến động của giá cả thị trường
thế giới. Hoàn thiện cơ chế quản lý giá và kiểm soát giá độc quyền như cạnh tranh
không lành mạnh, thúc đẩy tăng năng suất lao động và hiệu quả kinh tế. Đẩy mạnh
công tác nghiên cứu khoa học, mở rộng hợp tác quốc tế.
20
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tình hình lạm phát ở Việt Nam:
/>2. Tin tức về giá cả thị trường trên:
3. Lạm phát ở việt Nam trong thời kì hội nhập
/>4. Thông tin về lạm phát
/> Báo điện tử - Thời báo Kinh tế Việt
Nam Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
21