Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Những nguyên nhân dẫn đến bạo lực gia đình và biện pháp nhằm hạn chế, xóa bỏ hiện tượng bạo lực trong gia đình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (237.54 KB, 22 trang )

MỤC LỤC
Trang

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong những năm gần đây bạo lực gia đình (BLGĐ) đã trở thành một trong
những vấn đề được quan tâm hàng đầu trong các nghiên cứu khoa học xã hội và nhân
văn. Các nghiên cứu khoa học cho thấy BLGĐ xảy ra khá phổ biến, hầu như ở đâu
cùng có, từ xã hội phương Tây đến xã hội phương Đông, từ thành thị đến nông thôn,
từ nhóm có trình độ văn hóa thấp đến nhóm có trình độ văn hóa cao, từ nhóm không
có việc làm đến nhóm có việc làm ổn định. Có thể nói BLGĐ đã trở thành một vấn đề
xã hội nghiêm trọng, phổ biến và có tính toàn cầu. BLGĐ, cho dù diễn ra dưới bất cứ
hình thức nào, thì hậu quả của nó cũng hết sức trầm trọng. Nạn nhân của BLGĐ chủ
yếu là phụ nữ và trẻ em, đặc biệt sự xói mòn, suy đồi về đạo đức, nhân cách của thành
viên nào đó trong gia đình khiến nạn nhân của BLGĐ có xu hướng gia tăng ở người
già hay những người mất khả năng lao động.
Bạo lực gia đình gây ra những hậu quả đặc biệt nghiêm trọng đối với phụ nữ. Nó
không những làm tổn thương về thể xác, tinh thần mà còn liên quan chặt chẽ đến sự
kiểm soát đời sống tình dục cũng như vị trí, vai trò của phụ nữ trong hoạt động chính
trị - kinh tế - văn hóa... Bạo lực gia đình gây ảnh hưởng sâu sắc về mặt tinh thần của
người phụ nữ khiến phụ nữ không yên tâm làm việc, hoặc luôn có cảm giác lo sợ,
buồn bã, muốn tự tử và là một trong những nguyên nhân lớn dẫn đến tan vỡ gia đình.
Theo thống kê chưa đầy đủ ở Mỹ, cứ 100 vụ ly hôn thì có trên 90% là nguyên nhân do
bạo hành, tỷ lệ này ở Thái Lan là 76%, Hà Nội là 51%, TP. Hồ Chí Minh là 56%.
Bạo lực gia đình làm cho quan hệ gia đình bị sứt mẻ, có thể dẫn tới ly hôn. Trẻ
em sống trong các gia đình có bạo lực bị ảnh hưởng tiêu cực như học hành sa sút, dễ
trở thành nạn nhân của bạo lực hoặc khi lớn lên dễ sử dụng bạo lực đối với người
khác. Bạo lực gia đình đã khiến cho các giá trị truyền thống của gia đình Việt Nam bị
lung lay và bị suy giảm. Bạo lực gia đình làm xói mòn đạo đức, mất tính dân chủ xã
hội và ảnh hưởng đến thế hệ tương lai. Ở nhiều gia đình, thế hệ con đã lặp lại hành vi
bạo lực gia đình mà khi còn nhỏ, chúng được chứng kiến. Bạo lực gia đình đang là
nguy cơ gây tan vỡ và suy giảm sự bền vững của gia đình Việt Nam.


BLGĐ là một trong những hành vi vi phạm pháp luật cần được loại trừ, nhất là
trong xã hội hiện đại văn minh. Để ngăn chặn, đẩy lùi hành vi BLGĐ, đòi hỏi phải có


những nghiên cứu toàn diện, sâu sắc làm cơ sở khoa học cho các cấp, các ngành, các
tổ chức, cá nhân và từng gia đình đưa ra những giải pháp tích cực phòng chống có hiệu
quả BLGĐ, tiến tới xóa bỏ hoàn toàn hiện tượng nghiêm trọng này.
Chính những lý do đó đã dẫn tôi tới việc chọn chủ đề: “Những nguyên nhân
dẫn đến bạo lực gia đình và biện pháp nhằm hạn chế, xóa bỏ hiện tượng bạo lực
trong gia đình” cho bài tiểu luận cuối kì của mình. Việc tìm hiểu chủ đề này không
nhằm ngoài mục đích vạch ra các nhóm nguyên nhân chủ yếu dẫn đến bạo lực gia
đình, từ đó có những biện pháp thiết thực nhằm hạn chế, xóa bỏ hiện tượng gây nhức
nhối cho các gia đình và toàn thể xã hội này.

B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẠO LỰC GIA ĐÌNH
1.1. Khái niệm bạo lực gia đình
Cũng giống như khái niệm gia đình, hiện có nhiều định nghĩa khác nhau về bạo
lực gia đình (BLGĐ). Tuy nhiên một định nghĩa có tính pháp lý về BLGĐ lại chưa
được ban hành. BLGĐ thông thường được hiểu là sự ứng xử bằng vũ lực hoặc không
bằng vũ lực do những người trong gia đình thực hiện chống lại những người khác cùng
trong gia đình đó.
Bộ luật của Bang Georgia (Mỹ) số 19-13-1 định nghĩa bạo lực trong gia đình là
một số hành vi tội phạm thực hiện giữa những người có quan hệ với nhau. Các hình
thức tội phạm bao gồm hành hung, doạ nạt, rình rập, phá hoại tài sản mang tính tội
phạm, câu thúc bất hợp pháp, xâm nhập mang tính tội phạm, và bất cứ tội hình sự nào
khác. Các hành vi diễn ra giữa những con người có liên hệ với nhau như vợ chồng
trong hiện tại hay quá khứ, là cha mẹ chung của cùng một đứa trẻ, cha mẹ và con cái,
cha mẹ kế và con kế hoặc ngay cả những người ngoài hiện đang hoặc đã sống chung
trong một gia đình.

BLGĐ là ngược đãi bằng tình cảm, thể xác hay tình dục của thành viên gia đình
bằng một thành viên khác. ( Jhon. Macionis, 2004)
BLGĐ là hành vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây
tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với thành viên khác trong gia đình. (Luật
phòng, chống BLGĐ của Việt Nam, 2007)
Định nghĩa BLGĐ của Liên hợp quốc thông qua năm 1993 được các tổ chức
cũng như nhà khoa học trên thế giới chấp nhận rộng rãi. Theo đó, BLGĐ là bất kỳ
hành động bạo lực nào dẫn đến hoặc có thể dẫn đến những tổn thất về thân thể, tâm lý
hay tình dục hay những đau khổ của người trong gia đình, bao gồm cả sự đe dọa có
những hành động như vậy, việc cưỡng bức hay tước đoạt sự tự do. (United nations,
1995)

2


Hình 1. Bạo lực gia đình (giữa chồng với vợ)
Qua một số định nghĩa về bạo lực gia đình, có thể hiểu hành vi bạo lực bao gồm:
+ Hành hạ, ngược đãi, đánh đập hoặc cố ý khác xâm hại đến sức khỏe, tính mạng.
+ Lăng mạ, hoặc có hành vi cố ý khác cố ý xúc phạm danh dự, nhân phẩm.
+ Cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thường xuyên về tâm lý gây hậu quả nghiêm
trọng.
+ Ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ gia đình giữa vợ và
chồng, cha mẹ và con.
+ Cưỡng ép quan hệ tình dục.
+ Chiếm đoạt, hủy hoại, đập phá hoặc có hành vi khác cố ý làm hư hỏng tài sản
riêng của thành viên khác trong gia đình hoặc tài sản chung của các thành viên trong
gia đình.
+ Cưỡng ép thành viên của gia đình lao động quá sức, đóng góp tài chính quá khả
năng của họ, kiểm soát thu nhập của thành viên nhằm tạo ra tình trạng về tài chính.
+ Có hành vi trái pháp luật buộc thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở.

1.2. Các hình thức của bạo lực gia đình
Phân loại các loại hình BLGĐ là một vấn đề phức tạp, tuy nhiên lại là vấn đề hết
sức quan trọng bởi nó cho phép mô tả đa diện thực trạng vấn đề để tìm ra phương cách
hữu hiệu cho phép khắc phục thực trạng vấn đề. Dựa theo kết quả các nghiên cứu về
thực trạng BLGĐ có thể nói đến các hình thức bạo lực cơ bản sau đây.
+ Theo phương thức ứng xử: Có sử dụng vũ lực hay không bằng vũ lực có thể
phân BLGĐ thành hai loại hình chính: bạo lực thể chất và bạo lực tinh thần.
Bạo lực thể chất: là những hành vi bạo lực mà người gây ra bạo lực thường sử
dụng súc mạnh cơ bắp( tay, chân) hoặc công cụ ( thậm chí vũ khí) đối với nạn nhân.
Những hình thức phổ biến của bạo lực thể chất thường là : đánh, đập, tát, đấm đá,
cưỡng bức tình dục…Những hành vi bạo lực này ngoài việc gây đau đớn về thể xác và
để lại dấu vết trên thân thể nạn nhân còn gây đau đớn về tinh thần, tình cảm.
Trong bạo lực thể chất có thể chia ra các cấp độ sau:
- Đối xử tồi tệ về thể chất: bất kỳ hành vi nào sử dụng sức mạnh thể lực đối với
nạn nhân cho dù có để lại thương tích hay không, bao gồm các hành động cấm đoán,
kiểm soát, xô đẩy thô bạo, đánh đập…Đối xử tồi tệ về thể chất còn bao gồm cả việc
ngăn cấm phụ nữ tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe cũng như ngăn họ tiếp cận
3


các nhu cầu vật chất của mình: ăn, uống, nghỉ ngơi..
- Bạo lực/ lạm dụng tình dục: là cưỡng bức, ép buộc một phụ nữ phải làm những
công việc liên quan đến tình dục trái với mong muốn của họ; bàn luận những bộ phận
trên cơ thể của nữ, đòi hỏi tình dục,cưỡng hiếp, giam cầm và sử dụng các công cụ tình
dục; xem phụ nữ như là một đối tượng của tình dục.
Bạo lực tinh thần/ tình cảm: là loại hình bạo lực không sử dụng vũ lực, tác động
lên tinh thần của nạn nhân như chì triết, lắm điều, mắng chửi, lăng mạ, tỏ thái độ lạnh
lùng, không quan tâm, bỏ rơi, không nói chuyện, … Trong loại hình bạo lực này đáng
chú ý là loại bạo hành ngôn ngữ. Nhưng hành vi bạo lực này không dễ phát hiện và
pháp luật khó can thiệp.

Trong bạo lực tinh thần người ta có thể chia ra:
- Đe dọa, hăm dọa: bằng cách nhìn chằm chằm hoặc bằng các hành động, lời nói
với tính chất đe dọa hoặc có tính chất khiêu khích.
- Gán nhãn: là hành vi gán cho phụ nữ những từ ngữ thiếu tôn trọng như ngu
ngốc, điên dồ, vô dụng, không có giá trị…hoặc quy gán cho phụ nữ không có khả năng
làm mẹ, làm người nội trợ.
Bạo lực tinh thần không để lại dấu vết, thương tích trên người nạn nhân, cộng
đồng không nhìn thấy và pháp luật khó can thiệp vì thiếu chứng cứ, nhưng nó gây ra
những vết thương tâm lý, tình cảm khó lành và hậu quả không thể lường trước được.
+ Theo quan hệ của các đối tượng: BLGĐ có thể phân chia thành một số hình
thức bạo lực sau: bạo lực giữa vợ chồng với nhau (bạo hành hôn nhân); bạo lực giữa
các thành viên lớn tuổi; bạo lực của người lớn đối với trẻ em; bạo lực ngược- người
nhỏ tuổi với người lướn tuổi.
Bạo lực giữa vợ chồng với nhau (bạo hành hôn nhân): là loại BLGĐ phổ biến,
được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Trong loại hình BLGĐ này người ta phân biệt
một số hình thức chính: cưỡng bức thân thể, cưỡng bức tình dục; cưỡng bức tâm lý,
tình cảm; cưỡng bức về xã hội; cưỡng bức về tài chính.
- Cưỡng bức thân thể: thượng cẳng chân, hạ cẳng tay nhằm gây thương tích cho
nạn nhân như đấm đạp,xô đẩy, tát, nắm tóc, kéo lê, vặn cổ tay, làm gãy xương, đâm
bằng dao; hạn chế các nhu cầu thiết yếu ( ăn, uống, ngủ) bằng cách giấu dược phẩm,
thực phẩm, nước uống; pha rối không cho ngủ hoặc ép dung rượu, cần sa, ma túy; bỏ
rơi nơi đường vắng vẻ nguy hiểm.
- Cưỡng bức tình dục: ép bạn đời làm tình và xem hình ảnh khiêu dâm; ép “chăn
gối” sau khi đánh đập; cố tình dày vò bộ phận sinh dục, không cho dung thuốc ngừa
thai, làm tình hậu môn ; cưỡng hiếp khi bạn đời ngủ, đau ốm; coi người phối ngẫu như
một thứ đồ chơi, chê bai cách làm tình…
- Cưỡng bức tâm lý, tình cảm: Bắt bạn đời sống trong bầu không khí sợ hãi;
khủng bố nạn nhân đến hoảng loạn tâm thần như nhục mạ trước công chúng; dùng lời
lẽ chỉ trích quá đán( so sánh với vợ, chồng người khác bằng những lời lẽ mạt sát, gọi
người phối ngẫu là “ vợ, chồng tồi”, “mẹ cha tồi”…); dùng lời đường mật hứa hẹn cho

hy vọng rồi nút lời; liên tục truy hỏi, nói nặng lời dể hạ nhân phẩm; làm mất tự trọng,
kể lại một cách giễu cợt những vụ tình ái riêng tư.
4


- Cưỡng bức về xã hội: cắt đứt mối quan hệ giữa vợ ( chồng) và người thân trong
gia đình, với bạn bè thân hữu, đe dọa họ; cô lập bạn đời bằng nhốt trong nhà , cắt điện
thoại, không cho đi đâu và giao tiếp với bất kỳ ai.
- Cưỡng bức tài chính: bao vây kinh tế; kiểm soát tiền bạc; bắt bạn đời lệ thuộc
về tiền nong, không cho giữ tiền và đi làm, bắt phải hỏi xin tiền và chứng minh mọi
mua sắm chi tiêu lớn nhỏ.
Bạo lực giữa các thành viên lớn tuổi trong gia đình: là bạo lực giữa các anh chị
em, mẹ chồng nàng dâu, em chồng chị dâu…
Bạo lực của người lớn đối với trẻ em: là loại bạo lực của cha mẹ đối với con cái;
ông bà với cháu; anh chị đối với em.
Bạo lực ngược- người nhỏ tuổi với người lớn tuổi hơn: con cái bạo lực cha mẹ,
cháu ngược đãi ông bà, em hành hạ anh chị…
+ Phân loại theo giới (trên cơ sở giới): là cách tiếp cận thường gặp trong các
nghiên cứu về BLGĐ. Theo cách này người ta nói đến bạo hành phụ nữ trong gia đình,
và ít thường xuyên hơn, nạn bạo hành ngược - phụ nữ bạo hành nam giới. Trong mỗi
tiểu loại này lại có thể thấy sự có mặt các loại hình BLGĐ đã nói ở trên. Theo Quỹ dân
số Liên Hợp Quốc (UNFPA): "Bạo lực trên cơ sở giới là bạo lực giữa nam giới và
phụ nữ, trong đó phụ nữ thường là nạn nhân và điều này bắt nguồn từ các mối quan
hệ quyền lực bất bình đẳng giữa nam giới và phụ nữ. Bạo lực thường nhằm vào phụ
nữ vì họ là phụ nữ, hoặc ảnh hưởng lớn đến phụ nữ. Bạo lực trên cơ sở giới bao gồm,
những tổn hại về thân thể, tình dục và tâm lý (bao gồm cả sự đe doạ, gây đau khổ,
cưỡng bức, và/ hoặc tước đoạt sự tự do xảy ra trong gia đình hoặc trong cộng đồng),
nhưng nó không hạn chế chỉ ở những dạng này. Bạo lực trên cơ sở giới bao gồm cả
bạo lực do Nhà nước gây ra hoặc bỏ qua”.
1.3. Chu kỳ bạo lực gia đình

Bạo lực gia đình có vẻ như không dự báo được, chỉ đơn giản là sự bộc phát đúng
lúc và đúng hoàn cảnh trong cuộc đời của những người liên quan. Tuy nhiên, trên thực
tế, bạo lực gia đình luôn có dạng tiêu biểu, bất kể xảy ra khi nào hoặc có ai liên quan.
Kiểu mẫu - hay chu kỳ - sẽ lập đi lập lại, và mỗi lần như vậy mức độ bạo lực lại có thể
tăng thêm. Ở mọi giai đoạn của chu kỳ, kẻ hành hung đều hoàn toàn tự chủ và cố gắng
điều khiển rồi làm suy yếu nạn nhân. Việc thấu hiểu chu kỳ bạo lực và ý nghĩ của kẻ
hành hung sẽ giúp người bị hành hung nhận thức được là họ không có lỗi đã gây ra
bạo hành mà mình phải chịu, và kẻ hành hung chính là người chịu trách nhiệm. Chu kỳ
bạo hành gồm sáu giai đoạn khác biệt: gài bẫy, bạo hành, kẻ hành hung cảm thấy "có
lỗi" và sợ bị trả thù, hắn giải thích duy lý, hắn chuyển sang không bạo hành hoặc có cả
hành vi rất tốt, hắn mộng tưởng và hoạch định cho lần bạo hành kế tiếp.

5


Hình 2. Mô hình chu kì BLGĐ
Bạo hành: Có thể là xúc phạm tình cảm, thể chất, tình dục và xã hội
Tội lỗi: Người không bạo hành cảm thấy có lỗi rất khác với kẻ hành hung. Người
không bạo hành cảm thấy có lỗi đối với nạn nhân (lỗi với nạn nhân). Còn kẻ hành
hung thấy có lỗi với chính mình. Hắn không cảm thấy có lỗi hay hối tiếc vì đã xúc
phạm nạn nhân. Hắn có thể xin lỗi vì hành vi của mình, nhưng sẽ biện bạch sao cho
không phải chịu hậu quả hay trách nhiệm. Mục đích giai đoạn này là hắn tự đoan chắc
rằng sẽ không bị bắt hay chịu hậu quả.
Giải thích duy lý: Kẻ hành hung xin lỗi và đổ tội cho nạn nhân về hành vi của
hắn. Lời bào chữa phổ biến thường xoay quanh việc hắn bị say sưa hay ngược đãi khi
còn nhỏ. Điều này rất có ý nghĩa với đa số mọi người. Tuy vậy, uống rượu và bị ngược
đãi hồi còn nhỏ không làm cho kẻ bạo hành trở nên hung hãn. Những phát biểu đổ lỗi
thường tập trung vào hành vi của nạn nhân. Thí dụ: "Nếu cô chịu lau sạch nhà cửa thì
tôi đánh cô để làm gì" hay "Nếu cô sửa soạn bữa tối đúng giờ thì tôi chẳng có gì để
đánh cô." Mục đích giai đoạn này là chối bỏ trách nhiệm đối với hành vi của hắn.

Hành vi "bình thường": Đây là giai đoạn phức tạp. Sau khi hành hung, hắn có
thể trở lại là người ân cần, duyên dáng, có nghĩa và tử tế mà nạn nhân từng yêu
thương. Hắn có thể đưa cô ra quán ăn tối, mua hoa tặng và thuyết phục là hắn sẽ sửa
đổi. Nếu nạn nhân bị thương tích dễ thấy thì cô ấy sẽ phải giải thích tại sao lại có. Điều
này nhằm duy trì quan hệ bình thường. Mục đích giai đoạn này là giữ vững quan hệ
với nạn nhân và tỏ vẻ như là bình thường.
Hoặc kẻ hành hung có thể xử sự như không có gì xảy ra cả - mọi thứ đều bình
thường. Điều này làm nạn nhân tức điên lên.
Mộng tưởng và hoạch định: Việc đánh đập đã được định trước. Trong những
giai đoạn đầu tiên, kẻ bạo hành tưởng tượng hoặc có hình ảnh trong đầu về lần hành
hung kế tiếp đối với nạn nhân. Trong giai đoạn mộng tưởng và hoạch định, hắn là tài
tử, đạo diễn, chỉ đạo lẫn thủ vai chánh. Kẻ bạo hành thử nghiệm quyền lực của mình
khi thực hiện mộng tưởng. Giai đoạn hoạch định mô tả tỉ mỉ những gì mà hắn cần có
và làm để hành hung bạn tình.
Gài bẫy: Đó là khi kẻ bạo hành thực hiện kế hoạch của mình. Hắn cho nạn nhân
vào tròng.
1.4. Tình trạng bạo lực gia đình trên thế giới và ở Việt nam
Trên thế giới
6


Bạo lực gia đình, đặc biệt là bạo lực chống lại phụ nữ đang xảy ra ở khắp nơi trên
thế giới với nhiều dạng thức tinh vi không phân biệt dân tộc, màu da, tầng lớp, lứa
tuổi, trình độ văn hóa, địa vị xã hội. Ngay ở những nước được coi là phát triển và văn
minh ở châu Âu, châu Mỹ vẫn có không ít người phải chịu đựng nạn này.
Theo số liệu điều tra năm 2001, hơn 1/2 triệu phụ nữ Mỹ (588.490 phụ nữ) chết
do BLGĐ bởi người chồng của họ. Có khoảng 85% nạn nhân của bạo lực gia đình (n =
588.490) là nữ, chỉ có xấp xỉ 15% (n = 103.220) nạn nhân là nam. Trong năm 2001,
bạo lực gây tội nghiêm trọng của chồng đối với vợ tăng 20%, số vụ bạo lực của vợ đối
với chồng tăng 3% trong tổng số những vụ nghiêm trọng đối với đàn ông. Trung bình

mỗi ngày có hơn 3 phụ nữ bị giết bởi người chồng hoặc bạn trai của họ. Năm 2000, có
1.247 phụ nữ bị giết bởi chồng mình. [Family Violence Prevention Fund, 2004 (trích
theo Thân Trung Dũng: Bạo lực gia đình – vấn đề xã hội nghiêm trọng và phổ biến,
VNAD, ngày 25/6/2007)]
Ở Pháp, điều tra mới đây cũng cho thấy tỷ lệ phụ nữ bị chồng ngược đãi là 2,5%
tức là khoảng 1,5 triệu người. Theo “Liên đoàn đoàn kết phụ nữ quốc gia Pháp” nhận
định: “Chỉ riêng tại Paris, kinh đô ánh sáng của văn minh nhân loại, 60 phụ nữ bị
chồng hay người tình đánh giết mỗi năm”. Trên cả nước Pháp có 450 phụ nữ chết do
bạo hành thể xác hay bạo hành tinh thần trong gia đình.
Trong tài liệu được công bố tại Hội nghị châu Âu lần thứ nhất về Phòng chống
thương tích và Nâng cao an toàn, tại Viên, Áo từ ngày 25 đến 27 tháng 6 năm 2006
cũng đưa ra những số liệu đáng quan tâm về nạn BLGĐ - bạo lực giữa các đôi lứa
chiếm 40-70% các vụ án mạng ở phụ nữ; cứ 4 phụ nữ thì có 1 người (tỷ lệ này ở nam
là 1 trên 20) đã từng bị bạo lực tình dục trong cuộc đời; 4-6% người già sống trong gia
đình đã từng bị đối xử tệ.
Các số liệu cho thấy BLGĐ thực sự là một vấn đề có tính toàn cầu và đòi hỏi một
cách tiếp cận đa ngành để giải quyết triệt để.
Ở Việt Nam
Ở Việt Nam, cho đến thời điểm hiện tại chưa có các cuộc khảo sát trên toàn quốc
về tình trạng BLGĐ. Tuy nhiên, các số liệu thống kê của một số ban ngành liên quan
và kết quả của các nghiên cứu điểm cũng cho phép phác họa bức tranh chung của vấn
đề BLGĐ.
Theo báo cáo của Viện khoa học xét xử (Toà án nhân dân tối cao) tại 42 tỉnh
trong 5 năm (2000-2005), các tỉnh đã xét xử 10.608 vụ án hôn nhân và gia đình, trong
đó 42% vụ án ly hôn có nguyên nhân từ bạo lực gia đình. Tình trạng bạo lực gia đình
những năm gần đây đang diễn ra với tính chất ngày càng nghiêm trọng, đối tượng vi
phạm cùng số nạn nhân gia tăng ở khắp các vùng, miền trong cả nước. Do nhiều
nguyên nhân nhạy cảm, công tác phòng chống BLGĐ đang gặp nhiều trở ngại.
Cũng theo báo cáo của Tòa án Nhân dân tối cao, từ ngày 1- 1-2000 đến ngày 3112-2005 các tòa án địa phương trong cả nước đã thụ lý và giải quyết sơ thẩm 352.047
vụ việc về lĩnh vực hôn nhân gia đình. Trong đó có tới 39.730 vụ ly hôn do bạo lực gia

đình chiếm tới 53,1% tổng số vụ ly hôn.

7


Riêng năm 2005, có tới 39.730 vụ ly hôn trong tổng số 65.929 vụ án về hôn nhân
gia đình chiếm tỷ lệ là 60,3%. Trên địa bàn Hà Nội từ tháng 1-2000 đến tháng 9-2002,
Trung tâm Cảnh sát 113 Hà Nội đã nhận được 517 tin tố cáo, cầu cứu của các nạn
nhân bị bạo lực gia đình. (Thân Trung Dũng, tài liệu đã trích dẫn)
Trong 8 năm gần đây có tới 11.630 vụ bạo lực gia đình được chính quyền can
thiệp giải quyết. Cao nhất là các tỉnh Hà Tây 1.484 vụ, Kiên Giang 2.005 vụ... Trên
báo chí hàng ngày đã đăng tải nhiều vụ bạo lực rất dã man trong gia đình như: Bài
“Khống chế, đổ thuốc diệt cỏ vào miệng vợ!?” Báo Thanh niên - số 186 ra ngày 5-72003; “Kẻ giết vợ dã man”, “Hình phạt chung thân vì hành xử vợ bằng... búa” - Báo
Phụ nữ Việt Nam ra ngày 8-9-2003; “Đổ xăng đốt vợ” - Báo Công an nhân dân ra
ngày 7-12-2002... Những bài báo đã mô tả những hành động tội ác dã man, vô nhân
tính của người chồng đối với vợ mình và rút ra những bài học sau những vụ bạo lực
đó.
Bên cạnh những hành động bạo lực dã man và thô bạo, một loại bạo lực gia đình
khá phổ biến đang phát triển ở Việt Nam hiện nay là sự ép buộc vợ quan hệ tình dục.
Dạng bạo lực này ngày càng gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với phụ nữ. Tuy
nhiên, dạng bạo lực này không mấy ai biết và chú ý đến bởi vì nó được ngụy trang một
cách kín đáo dưới vỏ bọc là “quan hệ tình cảm” giữa hai vợ chồng. Mặt khác, đây là
vấn đề tế nhị cho nên chị em thường giấu giếm vì không muốn “vạch áo cho người
xem lưng”. Những điều này góp phần làm cho bạo lực về tình dục ngày một phát triển
và gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với phụ nữ.
Ngoài ra, còn rất nhiều dạng bạo lực khác làm tổn thương lớn đến phụ nữ như
không quan tâm, bỏ rơi, không nói chuyện theo kiểu “chiến tranh lạnh”, chửi bới thậm
chí còn là những hành vi quản lý tiền nong chi tiêu trong gia đình... Theo số liệu thống
kê, những năm gần đây, nạn BLGĐ ở nước ta đang diễn ra phức tạp, tính chất nghiêm
trọng, đối tượng thực hiện hành vi bạo lực rất đa dạng. Trong 5 năm (2001-2005) tại

29 tỉnh, thành phố có 775 vụ án liên quan đến bạo lực gia đình đã được xét xử, trong
đó số vụ án “ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cháu, người có
công nuôi dưỡng” chiếm 43%, số vụ án vi phạm chế độ một vợ, một chồng chiếm
46%. Cũng theo con số thống kê cho thấy, phần lớn các vụ tranh chấp dân sự đều có
nguyên nhân sâu xa từ bạo lực gia đình. Các vụ án tranh chấp tài sản có giá trị lớn
chiếm phần lớn trong tổng số vụ án dân sự có liên quan đến BLGĐ. Còn theo Tổ chức
Y tế thế giới, trong năm 2005 cho thấy, 66% các trường hợp ly hôn ở nước ta có liên
quan đến bạo lực.
Các số liệu điều tra mới đây cũng cho thấy tình trạng bạo lực gia đình ở Việt
Nam khá phổ biến. Có 7,4% số người được hỏi cho biết từng chứng kiến bạo lực thể
chất tại cộng đồng, 25% số gia đình từng xảy ra tình trạng bạo lực tinh thần; gần 30%
số gia đình được hỏi cho biết có tình trạng bạo lực tình dục. Tuy nhiên, theo đánh giá
của nhóm nghiên cứu về bạo lực gia đình của Vụ các vấn đề xã hội thuộc Ủy ban về
các vấn đề xã hội của Quốc hội, những con số này còn có thể cao hơn nếu người dân
hiểu biết hơn về các khái niệm bạo lực gia đình.

8


Nhân Ngày Gia đình Việt Nam (28-6), Hội Liên hiệp Phụ nữ TPHCM phối hợp
với Công ty Ứng dụng Khoa học Tâm lý Hồn Việt tổ chức hội thảo “Vì một gia đình
không bạo lực”. Tại hội thảo, các đại biểu đã được nghe 8 tham luận của các cơ quan
ban ngành, cá nhân xoay quanh vấn đề bạo hành và cả những nhân chứng sống, đã
khái quát thực trạng đáng báo động của vấn nạn này. Trong xã hội công nghiệp đang
phát triển, với những thay đổi xã hội về mọi mặt, nạn bạo hành không những không
giảm mà chuyển biến dưới nhiều hình thức phức tạp và nguy hiểm hơn. Theo một số
công trình nghiên cứu về tình trạng bạo lực gia đình Việt Nam, có ít nhất từ 20% 30% phụ nữ đã trở thành nạn nhân của bạo hành gia đình suốt cả cuộc đời; có 66% vụ
ly hôn liên quan đến bạo lực gia đình.
1.5. Hậu quả của bạo lực gia đình
Kết quả khảo sát của Uỷ ban Các vấn đề xã hội của QH tại 8 tỉnh, thành phố cho

thấy, năm 2005 hơn 60% vụ ly hôn là do BLGĐ; hàng năm có 2,3% gia đình có các
hành vi bạo lực về thể chất (đánh đập), 25% gia đình có hành vi bạo lực tinh thần và
30% cặp vợ chồng xảy ra hiện tượng ép buộc quan hệ tình dục. (Bị truy cứu trách
nhiệm hình sự nếu bạo hành gia đình, VietNamNet, 29/9/2006)
Về đặc điểm của BLGĐ, qua khảo sát cho thấy nhóm gia đình có trình độ văn hoá
thấp, việc làm không ổn định thì bạo lực gia đình thường diễn ra dưới hình thức bạo
lực thể chất; nhóm gia đình có trình độ văn hoá cao, việc làm ổn định, bạo lực gia đình
thường diễn ra dưới hình thức bạo lực tinh thần. Dù bất cứ hình thức nào thì BLGĐ
phần lớn cũng do người đàn ông (chồng) gây ra cho phụ nữ (vợ) và các thành viên
khác trong gia đình. Bạo lực gia đình xảy ra ở tất cả các nhóm xã hội cơ bản như nông
thôn, thành thị, trong các gia đình khá giả cũng như gia đình nghèo, trong các gia đình
của các cặp vợ chồng có học vấn cao cũng như có học vấn thấp. Người gây ra bạo lực
trong gia đình thường là đàn ông, còn trẻ em và phụ nữ là nạn nhân. Tuy nhiêm cũng
tồn tại những trường hợp mà nạn nhân là nam giới (bạo hành ngôn ngữ, lắm điều…).
Hậu quả của BLGĐ hết sức đa dạng, từ bị nhục mạ, thương tật, tổn thương tinh
thần dẫn đến li hôn, li thân, thậm chí thiệt hại đến tín mạng, tài sản trong đó trẻ em
chịu thiệt thòi, nhiều em phải sống xa cha hoặc mẹ, hoặc cả hai, các em phải bỏ học,
lang thang, rơi vào tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật. (Bạo lực – Nỗi đau của mỗi gia
đình, Ủy ban dân số, Gia đình và Trẻ em Long An, 30/7/2007)
Bạo lực gia đình gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng, làm tổn thương đến sức
khoẻ và thể xác, gây rối loạn trật tự an toàn xã hội và tổn thương tâm lý, tinh thần cho
nạn nhân và những người xung quanh. Nghiêm trọng hơn, bạo lực gia đình đã vi phạm
đến quyền con người, danh dự, nhân phẩm và tính mạng của mỗi cá nhân, đặc biệt là
phụ nữ và trẻ em. Thậm chí, nó còn làm xói mòn đạo đức, mất tính dân chủ xã hội và
ảnh hưởng xấu đến thế hệ tương lai. Đây cũng là nguy cơ gây tan vỡ và suy giảm sự
bền vững của gia đình Việt Nam.
1.5.1. Tác động tới sức khỏe và nhân phẩm của người phụ nữ
Bạo lực gia đình gây ra những hậu quả rất nghiêm trọng đối với phụ nữ. Nó
không những làm tổn thương về thể xác, tinh thần mà còn liên quan chặt chẽ đến sự
9



kiểm soát đời sống tình dục cũng như vị trí, vai trò của phụ nữ trong hoạt động chính
trị - kinh tế - văn hóa... Bạo lực gia đình gây ảnh hưởng sâu sắc về mặt tinh thần của
người phụ nữ khiến phụ nữ không yên tâm làm việc, hoặc luôn có cảm giác lo sợ,
buồn bã, muốn tự tử và là một trong những nguyên nhân lớn dẫn đến tan vỡ gia. Theo
thống kê chưa đầy đủ ở Mỹ, cứ 100 vụ ly hôn thì có trên 90% là nguyên nhân do bạo
hành, tỷ lệ này ở Thái Lan là 76%, Hà Nội là 51%, TP. Hồ Chí Minh là 56%.
Những hậu quả trực tiếp của BLGĐ –đối với sức khỏe sinh sản và sức khỏe tình
dục của phụ nữ là rất lớn,dẫn tới bệnh tật và đôi khi dẫn đến cái chết. Bạo lực thân thể,
lạm dụng tình dục và quấy rối tình cảm làm cho phụ nữ có nguy cơ mang thai ngoài ý
muốn, mang thai bị những rủi ro cao, nguy cơ lây nhiễm HIV/AIDS, các bệnh lây
truyền qua đường tình dục, nạo phá thai không an toàn và nạo phá thai nhiều lần.
Bạo hành gia đình hiện nay không đơn thuần là bạo hành về thể xác, người phụ
nữ phải chịu những trận đòn roi oan nghiệt của chồng, để lại những vết thương trên da
thịt. Đó là cách của kẻ “phàm phu tục tử”. Đối với những ông chồng “học rộng tài
cao” thì lại có cách “dạy vợ” văn minh hơn, kín tiếng nhưng lại vô cùng thâm thuý. Đó
là bạo hành về tinh thần, chửi bới, lăng mạ, xỉ nhục, gây ức chế…nó không để lại vết
thương trên cơ thể, nhưng lại làm cho người phụ nữ tê liệt về tinh thần, bị trầm cảm
kéo dài, tổn hại nghiêm trọng đến thần kinh và thể xác.
Không ít phụ nữ sau đó đã phải điều trị lâu dài tại các bệnh viện tâm thần, tốn
kém thời gian, tiền bạc mà khả năng hoàn toàn bình phục là rất khó, khả năng tái phát
bệnh là rất cao. Nhưng có lẽ nặng nề nhất và phổ biến hiện nay là bạo hành toàn diện,
tức là người phụ nữ vừa bị tổn thương về mặt thể chất, vừa bị tổn thương về mặt tinh
thần
1.5.2. Tác động tới nhân cách trẻ em
Bạo lực gia đình đối với trẻ em dẫn đến nhiều hậu quả khác nhau. Theo số liệu
của Tổ chức Cứu trợ trẻ em Thụy Điển, 43,6% trẻ sợ hãi hốt hoảng khi bị đánh,
24,9% trẻ bị đánh cảm thấy bình thường như không có gì xảy ra, 19,1% trẻ khi bị đánh
tỏ ra lầm lì không phản ứng. Bạo lực gia đình với trẻ em còn có thể dẫn đến tử vong

hoặc tự sát. Hành vi tự sát là một trong những giải pháp (giải pháp tiêu cực) của nạn
nhân bạo lực gia đình. Nghiên cứu của Tiến sỹ Hoàng Bá Thịnh, trường
ĐHKHXH&NV về bạo lực gia đình tại 6 tỉnh, thành phố năm 2007 cho thấy, ở địa bàn
nào cũng có những trường hợp tự tử liên quan đến bạo lực gia đình, có địa phương số
trường hợp tự tử lên đến hàng trăm ca mỗi năm như trường hợp huyện Lấp Vò tỉnh
Đồng Tháp. Có trường hợp cha chửi mắng con, nguyền rủa con khiến con mình tự vẫn
chỉ vì nghi con lấy 5.000đ.
Bạo lực gia đình tác động xấu tới trẻ em. Những tác động này bao gồm: sự gây
hấn, sợ hãi, mất ngủ, thiếu tự tin, thất vọng, rối nhiễu tâm lý và trầm cảm. Bạo lực gia
đình có thể ảnh hưởng xấu tới kết quả học tập, kỹ năng giải quyết vấn đề của trẻ em.
Bạo lực gia đình nghiêm trọng và xảy ra thường xuyên thường dẫn tới các hiện tượng
bất ổn tinh thần sau chấn thương như: tê liệt cảm giác hoặc bị ám ảnh bởi những hành
vi bạo lực mà trẻ em là nạn nhân.
Trẻ em khi nhỏ thường xuyên hoặc thỉnh thoảng chứng kiến cảnh cha đánh chửi
10


mẹ thì với bé trai dần dần sẽ hình thành nhận thức rằng làm đàn ông có quyền đánh
đập phụ nữ và rồi khi trở thành chồng thì chàng trai cũng có cách ứng xử như vậy đối
với vợ. Với các bé gái, chứng kiến cảnh mẹ bị cha mắng chửi, đánh đập thì có thể sau
này cô gái cũng sẽ cam chịu cảnh bạo lực nếu có hoặc sẽ có ác cảm với đàn ông. Theo
các chuyên gia tâm lý, những người chứng kiến cảnh bạo lực hoặc chính họ là nạn
nhân của bạo lực sẽ ít nhiều tiếp nhận hành vi bạo lực đó trong tâm trí. Với trẻ em
sống trong gia đình có hành vi bạo lực, lớn lên ra ngoài xã hội có thể sẽ rụt rè, sợ hãi
người khác, không dám bày tỏ suy nghĩ của mình nhưng cũng có thể sử dụng bạo lực
để giải quyết những mâu thuẫn nảy sinh trong cuộc sống.Trong nhiều nước các nhà
khoa học nghiên cứu tâm lý trẻ em đã kết luận nếu cha mẹ hay xung đột thì con cái có
nguy cơ dẫn đến hành vi bạo lực sau này là 60%.trưòng hợp trẻ em chứng kiến cảnh
tượng cha mẹ đánh đập, chửi mắng, nguyền rủa. Những cảnh tượng ấy để lại cho trẻ
những hậu quả cực kỳ nghiêm trọng về sau, trong tâm lý học người ta thường gọi là

"hiệu ứng ám ảnh”
Mỗi khi cha mẹ xung đột và có thể là dùng bạo lực đều để lại cho các em những
sang chấn tâm lý nhất định, đó là những "vết hằn". Những lời quát tháo và thái độ
hung hãn của cha mẹ đều để lại dấu ấn trên vỏ não, có những vết thương chẳng bao
giờ có thể phai mờ. Đặc biệt khi nảy sinh bạo lực càng dễ làm trẻ hình thành những
dấu vết, nếu càng nhiều dấu vết thì mức độ hằn sâu trong trẻ càng lớn, dấu vết đó sẽ
trở nên "quen thuộc" và khi có điều kiện sẽ bộc lộ ngay.
Rồi còn những trẻ em bị chính cha mẹ ngược đãi, có thể bị đánh đập, nguyền rủa
từ phía gia đình. Hằng năm trên thế giới có hàng triệu trẻ em bị khủng hoảng trầm
trọng, rối loạn tâm thần hoặc các bệnh tâm căn khác, nhiều trường hợp rơi vào trạng
thái stress quá mức, lo âu, trầm cảm dẫn đến tự tử hoặc dẫn đến trạng thái trơ lì.
Các chuyên gia tâm lý cho rằng nếu như cha mẹ xung đột, đối xử với con mình
theo kiểu "thương cho roi cho vọt" thì trẻ càng có nguy cơ theo khuynh hướng bạo lực
sau này. Mỗi lời nói, thái độ, hành vi của người lớn đều ảnh hưởng nhất định đến đời
sống tâm lý trong suốt cuộc đời con người, khi có điều kiện nó sẽ được đánh thức và
thực hiện các hành vi tương tự như người lớn.
1.5.3. Hậu quả đối với cộng đồng
Chi phí cho các dịch vụ hỗ trợ của luật pháp, công an, toà án và xã hội, kể cả các
dịch vụ bảo vệ trẻ em và xử phạt những kẻ phạm tội. Chi phí cho việc thực thi Luật
phòng chống bạolực gia đình như tuyên truyền và các chi phí khác như y tế, giáo
dục…rất tốn kém. Sự đóng góp cho xã hội của những phụ nữ là nạn nhân của bạo lực
đã giảm đi do bị ảnh hưởng về năng suất lao động, khả năng tạo thu nhập và việc làm.
CHƯƠNG 2. NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN BẠO LỰC GIA ĐÌNH
Tổng hợp các bài viết, các số liệu thống kê hiện có cho phép chỉ ra một số nhóm
nguyên nhân chính của tình trạng BLGĐ. Đó là: 1) nhóm nguyên nhân về tâm lý và
nhận thức; 2) nhóm nguyên nhân xuất phát từ lối sống và hoàn cảnh sống; và 3) nhóm
nguyên nhân từ môi trường quản lý xã hội.
11



2.1. Nhóm nguyên nhân về tâm lý và nhận thức
Bao gồm các nguyên nhân: quan niệm trọng nam khinh nữ, tư tưởng gia trưởng;
bất bình đẳng giới; tâm lý che dấu, cam chịu; học vấn thấp, nhận thức kém, không biết
quyền, thiếu hiểu biết pháp luật, không biết cách ứng xử phù hợp.
Liên quan đến nhóm nguyên nhân này có thể thấy rõ trên thực tế vấn đề bạo lực
gia đình đã xảy ra từ rất nhiều năm nay, bởi đất nước ta là đất nước khá phong kiến,
cảnh chồng chúa vợ tôi, trọng nam khinh nữ vẫn còn đè nặng. Hiện nay trong mọi tầng
lớp nhân nhân không kể người giàu, người nghèo, không kể là người tri thức hay
người bình dân đều xảy ra bạo lực gia đình.Theo ủy ban về các vấn đề xã hội của
Quốc hội, nguyên nhân sâu xã của bạo lực gia đình do tư tưởng bất bình đẳng giới, cụ
thể là “ trọng nam, khinh nữ”, lối xử sự gia trưởng tồn tại giai dẳng. Từ xua đến nay,
trong gia đình, quyền uy của người đàn ông luôn cao hơn người phụ nữ. Dựa vào
quyền ấy, nhiều ông chồng tự cho mình cái quyền được đánh vợ, coi đánh vợ như là
“một sự giáo dục” và “thể hiện quyền lực” của bề trên đối với kẻ dưới. Trong nhiều
trường hợp ở các gia đình mọi việc đổ hết cho người phụ nữ, người chồng có quyền
phán quyết, hành hạ, đánh đập vợ, con..
Cũng trong nhóm nguyên nhân này phải kể đến tâm lý của chị em phụ nữ vì
thương chồng nên cũng muốn giấu diếm, đôi khi bị chồng đánh gãy răng, sưng mặt,
sưng mặt thì vẫn nói tôi bị té chứ không dám nói tôi bị chồng đánh. Quan niệm phụ nữ
là phải cam chịu, với những dằng buộc về gia đình, con cái, nhiều người sẵn sang bỏ
mặc dù bị hành hạ rất rã man. Sự cam chịu của họ cũng tiếp tay cho sự tái phạm của
chồng. Nhiều chị em là nạn nhân của BHGĐ đã không được đã không được ủng hộ,
giúp đỡ của người thân và những người xung quanh cũng chính từ quan niệm cam chịu
này.
Cách suy nghĩ thiếu tự tin, cam chịu khiến người phụ nữ càng khó thoát ra khỏi
những trói buộc trong một gia đình không còn tình yêu và sự bình đẳng.Nhiều người
trong số họ nghĩ rằng, bị đánh đập là bình thường, là lỗi tại mình và không bao giờ cho
người khác biết. Đôi khi bị chồng miệt thị, chê bai quá nhiều, họ lại nghĩ mình là một
kẻ rất tệ hại, không đáng coi trọng.
Đằng sau những tệ nạn BHGĐ còn có những lý do sâu xa khác. Đó là trình độ

văn hóa thấp, tình trạng kém hiểu biết về pháp luật, về quyền của mình mà bản thân
những người trong cuộc cũng chưa nhận thức được. Có địa phương mỗi năm có hang
trăm người tự tử vì BLGĐ nhưng chưa có ai lên tiếng về vấn đề này. Trong số những
người bị BHGĐ rất nhiều người thậm chí không biết mình là nạn nhân của một dạng
tội phạm đặc biệt. Nhiều người trong số họ chỉ mong được giải thoát khỏi người
chồng/ cha/ anh bạo hành của mình, không cần biết người gây ra những đau đớn cho
mình bị xử lý như thế nào.
Một nguyên nhân khác thuộc nhóm này là sự thiếu kỹ năng ứng xử. Điều quan
trọng nhất để thoát khỏi bạo hành gia đình là nạn nhân phải biết tự bảo vệ mình. Họ
cũng phải ý thức được mình đang sống trong nạn bạo hành thì mới có thể lên tiếng,
tìm sự trợ giúp và đấu tranh chống lại nó. Trước khi đợi một ai đó cứu giúp, phải biết
tự giải thoát cho mình. Kỹ năng ứng xử trong gia đình- giữa các cặp vợ chồng, giữa
12


người lớn, giữa người lướn và trẻ em …- là một phần quan trọng góp phần giữa gìn sự
bền vững cho gia đình.
2.2. Nhóm nguyên nhân xuất phát từ lối sống và hoàn cảnh sống
Có rất nhiều lý do để giải thích sự tồn tại và mức độ của BLGĐ. Một số trường
hợp do người chồng hoặc vợ/ con/ cháu rơi vào tệ nạn xã hội, nghiện rượu, hút, đánh
đề, cờ bạc, nghiện hút đánh đập vợ/ con… đòi tiền để thỏa mãn cơn nghiện. Một số
trường hợp khác là do căng thẳng, thần kinh không ổn định, thất vọng trong cuộc sống.
Nguyên nhân trực tiếp dẫn đến BLGĐ, theo rất nhiều nghiên cứu, chủ yếu là do say
rượu và mượn rượu (60 - 70%), khó khăn về kinh tế, do vợ hoặc chồng ngoại tình. Một
số ông chồng đánh vợ với những lý do rất vô lý như vợ không đẻ được con trai, vợ nói
nhiều, thậm chí nói ít; đánh vợ để trả thù vì ngày xưa “cưa” khó…Trong trường hợp
người chồng/ cha đánh vợ/ con vô cớ hoặc không hợp lý thì được giải thích là do
chồng/ cha say rượu, ham mê cờ bạc, nghiện hút hay chỉ đơn giản là quá nóng tính.
Khi say rượu, ham mê cờ bạc, nhiều ông chồng/ cha mất tự chủ và thường giải quyết
bất đồng với vợ con bằng những hành vi bạo lực. Đó cũng là lý do của nhiều trường

hợp chồng/ cha đánh vợ/ con một cách nghiêm trọng đã từng xảy ra trong thực tế.
Những bất đồng về kinh tế, nuôi dạy con cái, tình dục…cũng là nguyên nhân dẫn
đến bạo lực. Tuy nhiên, các nghiên cứu lại cho thấy đây thường không phải là nguyên
nhân trực tiếp( hoặc không được thừa nhận ) và người chồng/ cha phải tìm những lý do
hợp lý khác như làm trái ý chồng/ cha để có thể đánh đập, mắng chửi vợ/ con.
Hoàn cảnh sống khó khăn cũng là một nguyên nhân dẫn đến gia tăng tình trạng
BLGĐ. Trong số các nạn nhân của BLGĐ rất ít người có đủ tiền, thời gian và thông tin
để gọi điện đến tận nơi nhờ tư vấn và giúp đỡ.
Tuy nhiên trên thực tế bạo hành vẫn diễn ra ở tất cả các nhóm gia đình, không
phân biệt trình độ, mức sống. Trước đây, người ta cứ cho rằng bạo hành gia đình đi
liền với trình độ nhận thức thấp, đời sống đói nghèo và lạc hậu. Nhưng thực tế, nhiều
nạn nhân là những người có trình độ cao và mức sống khá giả. Do đó, cần nhấn mạnh
ở đây nhóm nguyên nhân về lối sống của các gia đình và từng cá nhân trong gia đình.
2.3. Nhóm nguyên nhân từ môi trường quản lý xã hội
Việc phòng chống BLGĐ chưa được quan tâm đúng mức; chính quyền địa
phương chưa xử lý triệt để những vụ việc về bạo hành gia đình; thiều những quy định
cụ thể về luật pháp để giáo dục, xử lý có hiệu quả đối với người gây bạo lực để họ thay
đổi hành vi theo hướng tích cực.
Việc điều chỉnh các mối quan hệ có liên quan đến BHGĐ được quy định tại nhiều
văn bản pháp luật như hiến pháp năm 1992, luật hôn nhân và gia đình , luật bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục trẻ em, Bộ luật dân sự, Bộ luật tố tụng dân sự, Bộ luật hình sự,
Bộ luật tố tụng hình sự, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, Pháp lệnh về người cao
tuổi. Tuy nhiên các điều luật còn chung chung, thiếu những quy định cụ thể như: chưa
có định nghĩa pháp lý về bạo lực gia đình; chưa xác định trách nhiệm của cơ quan
quản lý nhà nước về phòng, chống bạo lực gia đình; chưa có quy định pháp lý về biện
pháp nghăn ngừa BLGĐ; biện pháp hỗ trợ, bảo vệ nạn nhân BLGĐ. Thiếu các quy
định pháp lý mang tính đặc thù để giáo dục, xử lý có hiệu quả đối với người gây bạo
13



lực để họ thay đổi theo hướng tích cực.
Mới đây, Ủy ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội đã điều tra tại 8 tỉnh thành
(Nam Định, Thanh Hóa, Quảng Ngãi, Trà Vinh, Đồng Tháp, Hà Nội, Lào Cai, Sơn La)
về tình trạng bạo lực trong gia đình. Kết quả cho thấy, việc phòng chống bạo hành gia
đình hiện chưa được quan tâm đúng mức. Ngay cả những nạn nhân của tệ nạn này khi
phỏng vấn vẫn cho rằng họ không phải chịu bạo lực, nhưng khi kể ví dụ cụ thể thì nêu
ra vô số các trường hợp là hậu quả của hành vi này. Ở nhiều nơi, chính quyền địa
phương chưa xử lý triệt để những vụ việc về bạo hành gia đình. Họ nghĩ rằng đó là
chuyện riêng của mỗi gia đình, không thuộc chức năng, nhiệm vụ giải quyết của chính
quyền. Ngay chính bản thân người phụ nữ là nạn nhân cũng không lên tiếng đấu tranh
và sẵn sang bỏ qua.
CHƯƠNG 3. BIỆN PHÁP NHẰM HẠN CHẾ, XÓA BỎ HIỆN TƯỢNG
BẠO LỰC TRONG GIA ĐÌNH
BLGĐ là một trong những hành vi vi phạm pháp luật cần được loại trừ, nhất là
trong xã hội hiện đại văn minh ngày nay. Để ngăn chặn và đẩy lùi hành vi BLGĐ, đòi
hỏi các cấp các nghành, các tổ chức,cá nhân và từng gia đình phải có nhiều giải pháp
tích cực phòng chống có hiệu quả BLGĐ. Xuất phát từ những phân tích thực trạng vấn
đề nêu trên có thể đề xuất một hệ thống các giải pháp sau: 1) nhóm giải pháp tác động
thay đổi nhận thức của các gia đình và cá nhân; 2) nhóm giải pháp tác động thay đổi
lối sống, hoàn cảnh sống của các gia đình và cá nhân; và 3) nhóm giải pháp về quản lý
môi trường xã hội.
3.1. Nhóm giải pháp thay đổi nhận thức của các gia đình và cá nhân
Nhóm giải pháp này bao gồm việc tuyên truyền, tư vấn, giáo dục để chuyển đổi
nhận thức, thái độ, hành vi của cộng đồng, gia đình và từng cá nhân về bản chất của
BLGĐ và việc phòng chống BLGĐ. Để can thiệp và phòng chống tình trạng bạo lực,
thay đổi nhận thức trong cộng đồng về vấn đề này được đặt lên hàng đầu. “Có người
thường xuyên tát vợ, nhưng họ không cho đấy là hành vi bạo lực” - bà Lê Thị Quý,
chuyên gia của Trung tâm Nghiên cứu giới và phát triển thuộc Trường ĐH Khoa học
xã hội và nhân văn Hà Nội, nhận xét.
Cần nâng cao nhận thức về giới, bình đẳng giới cho người dân để cả nam và nữ

đều nhận thức được vị trí, vai trò và trách nhiệm của mình trong xã hội. Cũng qua đó
nâng cao nhận thức của người dân để họ không coi BLGĐ là chuyện vặt, chuyện nội
bộ của các gia đình, hay là vấn đề cá nhân mà phải nhận thức đố là vấn đề xã hội và
cần giải quyết nó bằng các chính sách, pháp luật thích hợp.
Để thực hiện nhóm giải pháp này, trước hết cần tăng cường các hoạt động truyền
thông, đẩy mạnh tuyên truyền, vận động, góp phần nâng cao nhận thức của cộng đồng
về bình đẳng giới, đặc biệt là giới nữ để biết cách tự bảo vệ mình trước hành vi BLGĐ.
Cần lưu ý đưa nội dung giáo dục đời sống gia đình, xây dựng các mối quan hệ thân
thiện, đoàn kết các thành viên trong gia đình vào các bài tuyên truyền, tư vấn và giáo
dục cộng đồng, vào nội dung sinh họat tại các tổ dân phố và các hoạt động cộng đồng
khác.
14


Sự thay đổi nhận thức ở mỗi cá nhân, gia đình là tiền đề cho việc thay đổi thái độ
và hành vi ứng xử của họ. Nó đồng thời là tiền đề cho việc thực hiện thành công các
giải pháp khác.
3.2. Nhóm giải pháp thay đổi lối sống, hoàn cảnh sống của các gia đình và cá
nhân
Nhóm giải pháp này tập trung vào việc thay đổi lối sống, nâng cao đời sống vật
chất tinh thần, thỏa mãn các nhu cầu tình cảm và tạo không khí hạnh phúc cho mỗi
gia đình.
Trang bị cho các cá nhân và gia đình những kỹ năng ứng xử cần thiết trong đời
sống gia đình: kỹ năng ứng xử giữa vợ chồng, anh chị em,giữa các thế hệ…Một phần
quan trọng góp phần giữ gìn sự bền vững cho gia đình chính là kỹ năng ứng xử giữa
những người trong gia đình, tuy nhiên vấn đề này chưa được quan tâm đúng mức trong
những năm qua.
Kỹ năng ững xử trong trong đời sống gia đình cũng cho phép các nạn nhân tương
lai tránh được những vụ bạo lực không đáng có khi họ thách thức sự kiên nhẫn của
chồng/ cha, đẩy họ đến tình trạng giận mất khôn.

Hình thành lối sống có ý thức và bản lĩnh ở các thành viên gia đình. Trước khi
chờ sự can thiệp của pháp luật, các chị em đặc biệt là các nạn nhân hãy tự cứu mình
bằng giải pháp không chấp nhận chung sống với kẻ vũ phu. Trong trường hợp đó, ly
hôn là giải thoát chị em khỏi kẻ thường xuyên đánh đập mình, đòi lại quyền con người
của chị em. Người phụ nữ ( và các thành viên gia đình nói chung) phải biết tự bảo vệ
hạnh phúc của mình.
Phát huy tối đa vai trò của các tổ chức xã hội trong việc phòng, chống BLGĐ,
bênh vực và bảo vệ hội viên các tổ chức mình, tạo ra dư luận lên án và xử lý nghiêm
các hành vi BLGĐ, đặc biệt đối với giới nữ và trẻ em. Gắn chặt phòng chống BLGĐ
với phòng chống các tệ nạn xã hội xâm nhập vào gia đình.
Cần có sự giúp đỡ từ phía cộng động làng xóm, bởi lẽ rất nhiều phụ nữ khi bị
chống đánh thường im lặng, nín chịu. Bị chồng đánh tím mặt thì nói với hang xóm,
bạn bè là bị vấp ngã. Chồng nói vài câu xin lỗi là nguôi ngoai, chịu làm lành. Họ
không thấy rằng nếu bị chồng đánh lần thứ nhất mà không phản ứng mạnh thì chuyện
bị đánh lần thứ hai, thứ ba chăc chắn sẽ xảy ra.
3.3. Nhóm giải pháp về quản lý môi trường xã hội
Nhóm giải pháp này tập trung vào việc: xây dựng các mô hình bảo vệ phụ nữ, trẻ
em trước những hành vi bạo lực gia đình; ban hành luật phòng chống BLGĐ, xây
dựng và hoàn thiện chính sách pháp luật về gia đình, phụ nữ và bình đẳng giới; tăng
cường sự tham gia của các cấp đẳng ủy, chính quyền, các tổ chức chính trị xã hội, ban
ngành của các địa phương vào công tác phòng chống BLGĐ; xây dựng thiết chế gia
đình bền vững…
Giải pháp quan trọng trong nhóm này là xây dựng các mô hình phòng chống bạo
lực gia đình ở cơ sở, đảm bảo hoạt động các mô hình hoạt động có chất lượng, có hiệu
quả trong việc ngăn chặn, can thiệp các vụ bạo lực gia đình. Ngành dân số, gia đình và
trẻ em cần tổ chức ngay các đội xung kích, các nhóm, các câu lạc bộ phòng chống
15


BLGĐ, phối hợp với nghành tư pháp lồng ghép nội dung BLGĐ vào nội dung của các

tổ hòa giải ở cơ sở, giải quyết trước các mối bất hòa, xung đột ngăn chặn kịp thời hậu
quả có thể xảy ra từ bạo lực gia đình. Thông qua mô hình này thu thập thêm thông tin
đầy đủ về BLGĐ để có kiến nghị, đề xuất kịp thời.
Tạo khuôn khổ pháp lý để giải quyết vấn đề BLGĐ.Tạo khuôn khổ pháp lý cho
việc phòng chống BLGĐ bao gồm ban hành luật phòng chống BLGĐ, xây dựng và
hoàn thiện chính sách, pháp luật về gia đình, phụ nữ và bình đẳng giới. Ở Việt Nam
việc điều chỉnh các mối quan hệ có liên quan đến BLGĐ được quy định tại nhiều văn
bản pháp luật, tuy nhiên, các điều luật còn chung chung, còn thiếu những quy định cụ
thể. Luật riêng về phòng chống BLGĐ chưa được ban hành. Trên thế giới hiện có 90
quốc gia có luật riêng về phòng chống bạo lực gia đình. Sự ra đời của một đạo luật
mới - Luật phòng, chống bạo lực gia đình ở nước ta, chính là cơ sở để đảm bảo quyền
con người, sự bền vững của nền tảng đạo đức, phong hoá gia đình, công bằng xã hội.
Điều đáng nói là Việt Nam đang trong tiến trình soạn thảo và banh hành điều luật này.
Song song với Luật phòng chống bạo lực gia đình (có hiệu lực từ ngày 1-7-2008), các
nhà hoạt động xã hội cũng hy vọng Luật bình đẳng giới (có hiệu lực từ ngày 1-7-2007)
sẽ đưa luật pháp vào các hoạt động can thiệp và phòng chống bạo lực gia đình.
Tăng cường sự tham gia của các cấp ủy Đảng, chính quyền, các tổ chức chính trị
xã hội, ban nghành của các địa phương vào công tác phòng chống BLGĐ, xây dựng
thiết chế gia đình phát triển bền vững là những giải pháp không thể thiếu trong việc
quản lý xã hội nhằm phòng chống BLGĐ.Vấn đề BLGĐ chỉ giảm khi ý thức cộng
đồng được nâng lên. Chính vì vậy nhà nước cần có chính sách cụ thể để bảo vệ phụ
nữ, trẻ em. Bên cạnh đó, cần có hình thức trừng trị nghiêm khắc đối với những người
gây ra bạo lực trong gia đình. Chỉ có như vậy chúng ta mới có thể xây dựng được
những gia đình thực sự theo đúng nghĩa và mang giá trị truyền thống. Cụ thể là cần
tập trung làm tốt những vấn đề sau: kiên quyế xử lý nghiêm những người có hành vi
BLGĐ; xây dựng các biện pháp phòng ngừa hành vi BLGĐ và xây dựng gia đình văn
hóa, ấm no hạnh phúc, phát triển bền vững; nâng cao trách nhiệm của các thành viên
trong gia đình trong phòng ngừa, giải quyết mâu thuẫn gia đình; nâng cao trách nhiệm
của xã hội, chính quyền, đoàn thể trong phòng, chống BLGĐ.
Ba nhóm giải pháp trên liên quan chặt chẽ với nhau, hỗ trợ lẫn nhau. Việc thay

đổi nhận thức là nền tảng của thay đổi lối sống. Việc ban hành các đạo luật, quy định
có tính pháp lý là khung chiếu cho sự thay đổi nhận thức và lối sống của các gia đình,
đồng thời là khung pháp lý cho hoạt động của các tổ chức xã hội, chính quyền trong
ngăn chặn và đẩy lùi tệ nạn BLGĐ. Ngược lại pháp luật khó có thể được thực thi nếu
nhận thức của người dân không được nâng cao, hoàn cacnhr sống của họ không được
cải thiện. Chính vì vậy các giải pháp phải được thực hiện một cách đồng bộ, liên tục và
nhất quán.

16


C. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
Gia đình là môi trường đầu tiên trong quá trình xã hôi hóa của mỗi con người.
Thông qua gia đình, các thành viên lĩnh hội được các giá trị cơ bản của cuộc sống,
chuẩn bị những hành trang để hòa nhập vào cuộc sống cộng đồng, qua gia đình, mỗi
người học hỏi được các chuẩn mực, giá trị xã hội đã thống nhất, có thể nói mỗi con
người đều tự trưởng thành lên từ chính trong gia đình của mình. Tuy nhiên, trong bối
cảnh nền kinh tế thi trường nảy sinh những mặt trái tiêu cực đặc biệt nhiều tệ nạn xã
hội len lỏi vào từng góc cạnh của đời sống gia đình khiến nhiều giá trị đạo đức truyền
thống bị băng hoại, chuẩn mực gia đình bị phá vỡ. Chính điều đó, đã và đang làm
nhiều gia đình lâm vào khủng hoảng, tổ ấm gia đình của nhiều trẻ em, những phụ nữ
yếu đuối, những người già hết sức lao động hay những thành viên phụ thuộc có nguy
cơ tan vỡ.
Một trong những hiện tượng đáng lo ngại nhất của tình trạng khủng hoảng trong
các gia đình hiện nay là tình trạng bạo lực gia đình. Bước sang thế kỷ 21, bạo lực gia
đình vẫn lan rộng và trở thành vấn đề xã hội nghiêm trọng và phổ biến ở nhiều nước
trên thế giới và ở Việt Nam. Điều này đặt ra cho xã hội văn minh nhiệm vụ cấp bách –
tìm ra những giải pháp hữu hiệu khắc phục và đi đến xóa bỏ hoàn toàn hiện tượng này.
BLGĐ diễn ra với những hình thức muôn màu muôn vẻ. Đó có thể là bạo lực vật

chất hay tinh thần; bạo lực bằng vũ lực hay ngôn từ; bạo lực của người lớn đối với
người nhỏ hơn hay ngược lại… Đằng sau những tệ nạn xã hội đó có thể là những lý do
sâu xa như trình độ văn hóa thấp, tình trạng kém hiểu biết về pháp luật hay tư tưởng
trọng nam kinh nữ còn quá nặng nề... mà bản thân những người trong cuộc cũng chưa
nhận thức được.
Bạo lực gia đình đã và đang gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng, trước hết là vi
phạm nghiêm trọng đến quyền con người, đến danh dự, nhân phẩm và tính mạng của
mỗi cá nhân. Bạo lực gia đình làm xói mòn đạo đức, mất tính dân chủ xã hội và ảnh
hưởng đến thế hệ tương lai. Ở nhiều gia đình, thế hệ con đã lặp lại hành vi bạo lực gia
17


đình mà khi còn nhỏ, chúng được chứng kiến. Bạo lực gia đình đang là nguy cơ gây
tan vỡ và suy giảm sự bền vững của gia đình Việt Nam.
Thực trạng bạo lực gia đình ở Việt Nam đặt ra yêu cầu cấp thiết phải có những
giải pháp đồng bộ và nhất quán, được thực hiện một cách kiên trì, liên tục để khắc
phục. Những giải pháp đó có thể là: 1) các giải pháp tác động thay đổi nhận thức của
các gia đình và cá nhân; 2) các giải pháp tác động thay đổi lối sống, hoàn cảnh sống
của các gia đình và cá nhân; và 3) các giải pháp về quản lý môi trường xã hội. Để thực
hiện những giải pháp này đòi hỏi các cấp, các ngành, các tổ chức, cá nhân và từng gia
đình phải cùng tham gia một cách tích cực. Chỉ có như vậy tệ bạo lực gia đình mới có
thể bị khống chế và dần bị xóa bỏ.
2. Khuyến nghị
* Về việc nâng cao nhận thức về trách nhiệm về việc phòng chống nạn BLGĐ:
Trước hết phải nâng cao trách nhiệm của mỗi người, bởi từ trước tới nay, mọi
người vẫn có quan niệm “đèn nhà ai nhà ấy rạng”, chuyện chồng đánh vợ chỉ là
chuyện bình thường trong lúc nóng giận, hay đơn giản là họ đang “dạy vợ”, người
ngoài không nên can thiệp. Tai hại hơn họ sợ đụng chạm, sợ bị liên luỵ, sợ rây vào rồi
“không phải đầu cũng phải tai”…
Trách nhiệm của mọi người là phải hành động tích cực, coi bạo hành gia đình là

vấn đề chung của toàn xã hội, đem đến cho những nạn nhân bị bạo hành thông điệp:
“Phòng chống bạo lực giới, họ không đơn độc” để tạo dựng niềm tin cho họ - những
nạn nhân của bạo hành gia đình đang rất cần sự chung tay giúp sức của tất cả mọi
người.
Đối với hội phụ nữ cấp cơ sở:
- Hội cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền để nâng cao nhận thức cho người dân
về Luật phòng, chống bạo lực gia đình, hôn nhân và gia đình, bình đẳng giới, phòng
chống ma túy, mại dâm, các tệ nạn xã hội thông qua các buổi hội thảo, các buổi tọa
đàm nói chuyện tiếp dân, các chương trình lồng ghép như tổ chức các cuộc thi tìm
hiểu, trò chơi cho mọi người tham gia hoạt động.
- Thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn, bổ túc kiến thức pháp luật cho cán bộ
cấp cơ sở, chi hội, nhất là phụ nữ phường xã, đoàn thanh niên và các tổ chức xã hội
khác.
- Hội cũng thường xuyên cập nhật thông tin, mua sách báo và tài liệu liên quan
cho cán bộ tuyên truyền. Đồng thời cho đi tìm hiểu, học tập kinh nghiệm từ các tỉnh
huyện lân cận từ đó xây dựng nên các hoạt động cho địa phương mình.
- Tham gia hòa giải và can thiệp ngay khi thấy có hiện tượng hoặc được phản ảnh
là tình trạng bạo lực xảy ra, nhưng thật khôn khéo và đúng biện pháp để không bị xem
là xâm phạm vào cuộc sống riêng của dân.
- Giáo dục kỹ năng và nghiệp vụ hòa giải cho cán bộ phụ nữ cấp cơ sở, những
cán bộ gần dân, có uy tín, được mọi người nể trọng để giúp cho việc hòa giải có hiệu
quả. Từng bước khuyên giải để sớm ngăn chặn những hậu quả nặng nề của bạo hành
có thể xảy ra.
Đối với trường học:
18


- Có trách nhiệm chỉ đạo việc lồng ghép kiến thức phòng, chống bạo lực gia đình
vào các chương trình giáo dục, đào tạo phù hợp với yêu cầu của từng ngành học, cấp
học.

- Các trường học tổ chức các hoạt động, các buổi học ngoại khóa để học sinh hiểu
rõ hơn vấn đề.
Với các tổ chức khác:
- Sự kết hợp của các cơ quan ban ngành trong việc đưa luật phòng chống BLGĐ,
bình đẳng giới vào thực tiến cuộc sống một cách sâu rộng hơn.
- Chú trọng phát triển kinh tế cho các hộ gia đình nhằm nâng cao mức sống cho
người dân, nhất là những gia đình có hoàn cảnh khó khăn, những người có công việc
không ổn định
- Lập thêm các trung tâm tư vấn về hôn nhân và gia đình, cơ sở tư vấn về phòng,
chống BLGĐ với những điều kiện theo quy định của Nhà nước.
- Các tổ chức cần hỗ trợ và giúp đỡ cho nạn nhân của BLGĐ như: chăm sóc sức
khỏe, y tế, tư vấn luật, tư vấn tâm lý, cung cấp nơi tạm lánh trong trường hợp nạn nhân
không có chỗ ở khác. Hỗ trợ một số nhu cầu thiết yếu cho nạn nhân BLGĐ trong
trường hợp nạn nhân không tự lo được hoặc không có sự hỗ trợ từ phía người thân,
bạn bè.
- Phối hợp với chương trình xây dựng gia đình văn hóa mới và phòng chống tệ
nạn xã hội ở địa phương.
* Việc hỗ trợ thanh thiếu niên thay đổi nhận thức về BLGĐ:
Bên cạnh việc tuyên truyền giáo dục kiến thức phòng, chống BLGĐ, bình đẳng
giới trong lồng ghép nội dung học tập tại nhà trường thì hiệu quả tác động quan trọng
hơn cả lại từ phía những người thân bên cạnh các em. Người lớn cần cho các em biết
việc bạo hành không phải do lỗi ở các em hay người mẹ. Cho phép các em nói về bạo
lực. Giúp các em phát biểu thành lời trong các chương trình an toàn. Hãy cho biết các
em không hề đơn độc. Nên ủng hộ những chương trình giúp đỡ thanh thiếu niên trong
cộng đồng.
Nên thành thật cho các em biết điều gì xảy ra trong quan hệ. Thực ra, các em hiểu
về bạo lực nhiều hơn chúng ta nghĩ. Một nghiên cứu nọ cho thấy 90% trẻ em biết là
mẹ mình bị bạo hành. Tôn trọng hiểu biết của các em sẽ làm trẻ tin tưởng chúng ta
hơn. Hãy để con mình chia xẻ cảm nhận của các em về kẻ bạo hành. Nên lắng nghe và
khuyến khích trẻ bày tỏ những lo ngại, thắc mắc, và sợ hãi. Nên cho trẻ biết những lựa

chọn khác có thể có. Hãy nhắc nhở bản thân và con mình là không phải lỗi của chúng
ta.
* Về việc xây dựng các trung tâm lánh nạn cho nạn nhân và cung cấp cho nạn
nhân những địa chỉ hỗ trợ:
Xây dựng những trung tâm lánh nạn cho nạn nhân BLGĐ là một trong những giải
pháp về quản lý môi trường xã hội mà nhiều nước trên thế giới đã thực hiện. Theo đó
người ta xây dựng những trung tâm lánh nạn, hỗ trợ y tế và tâm lý để các nạn nhân khi
phải hứng chịu BLGĐ có thể chạy đến trú thân. Để hỗ trợ cho trung tâm này về mặt
pháp lý người ta còn đưa ra cả các điều luật hỗ trợ. Chẳng hạn ở Mỹ có Lệnh bảo vệ
19


tạm thời (LBVTT). Đây là án lệnh của toà án nhằm giúp bảo vệ một người không bị
người khác ngược đãi, đe doạ, hoặc quấy nhiễu. Án lệnh sẽ buộc kẻ ngược đãi phải
tránh xa nạn nhân, nơi ở và nơi làm việc của nạn nhân. Kẻ ngược đãi không đuợc phép
liên lạc với nạn nhân dưới bất cứ hình thức nào. Toà án cũng có thể ra lệnh cho kẻ
ngược đãi phải tránh xa con cái của nạn nhân nếu toà cảm thấy chúng có thể bị nguy
hại. Toà cũng có thể ra đưa ra những biện pháp cứu tế khác trong LBVTT, thí dụ như
quyền trông nom con tạm thời, cấp dưỡng, và sở hữu xe cộ.
Tại Việt Nam, một trong những mô hình phòng chống BLGĐ đã được nghiên
cứu và thử nghiệm thành công là mô hình hoạt động của Trung tâm nghiên cứu và ứng
dụng khoa học về giới - gia đình – phụ nữ và vị thành niên (CSAGA). Trung tâm đang
duy trì 2 hình thức hỗ trợ nạn nhân của nạn bạo lực gia đình rất hiệu quả là tư vấn qua
điện thoại và xây dựng câu lạc bộ nạn nhân. Cần nhân rộng hơn những mô hình phòng
chống BLGĐ như CSAGA nhằm nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền về nạn
BLGĐ và hỗ trợ tích cực nạn nhân của BLGĐ trong cả nước.
Một việc làm đơn giản mang tính tức thì có thể ngăn chặn, hạn chế hành vi
BLGĐ diễn ra hay hạn chế, khắc phục hậu quả sau đó, nhưng lại dễ bị bỏ qua đó là
việc cung cấp cho nạn nhân những địa chỉ hỗ trợ. Những địa chỉ hỗ trợ cần thiết như:
Địa chỉ, số điện thoại của trung tâm y tế huyện, trạm xá xã, bác sĩ có uy tín ở địa

phương; Địa chỉ, số điện thoại của những thành viên trong mạn lưới phòng chống bạo
lực gia đình ở địa phương (Chủ tịch hội phụ nữ, Công an xã, cán bộ tư pháp, chính
quyền, mặt trận Tổ quốc, đoàn thanh niên…); Điện thoại cấp cứu, điện thoại cảnh sát
113; Nhắc nhở ghi nhớ số điện thoại của một số người thân. Khi đi mang theo chứng
minh thư, giấy tờ tuỳ thân, bảo hiểm y tế, tiền bạc ( nếu có).

20


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Nguyễn Quang Uẩn (2003), Tâm lý học đại cương, NXB ĐHQG Hà nội.
[2] Nguyễn Khắc Viện (1999), Tâm lý học gia đình, NXB Thanh niên.
[3] Nguyễn Đình Xuân (1997), Giáo dục đời sống gia đình, NXB ĐHQG Hà nội.
[4] Ngô Công Hoàn (1993), Tâm lý học gia đình, NXB Đại học Sư phạm Hà Nội I.
[5] Lê Thị Quý – Đặng Vũ Linh (2007), Bạo lực gia đình – Một sự sai lệch giá
trị, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
[6] Lê Quang Sơn (2007), chuyên đề khoa học BLGĐ thực trạng và giải pháp,
Đại học Đà Nẵng.
[7] Phạm Thị Mơ (2012), đề cương bài giảng Tâm lý học gia đình, Đại học sư
phạm - ĐHĐN.
[8] Trần Hiệp (1996), Tâm lý học xã hội – những vấn đề lý luận, NXB Khoa học
xã hội, Hà Nội.
[9] Luật bình đẳng giới và văn bản hướng dẫn, NXB Lao động - xã hội, Hà Nội.
[10] Luật phòng chống bạo lực gia đình (2008), NXB Lao động - xã hội, Hà Nội.
[11] />[12] />[13] CSAGA.
[14] -7Bao-luc-gia-dinh-Nguyen-nhan-va-giai-phap.
[15] />[16] />
NHỮNG NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN BẠO LỰC GIA ĐÌNH
VÀ BIỆN PHÁP NHẰM HẠN CHẾ, XÓA BỎ HIỆN TƯỢNG
BẠO LỰC TRONG GIA ĐÌNH

21


22



×