Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Áp dụng lý thuyết thông tin bất cân xứng đối với thị trường sữa bột tại trung quốc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (229.05 KB, 16 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
CƠ SỞ II TẠI TP. HỒ CHÍ MINH
------- -***- --- ----

TIỂU LUẬN GIỮA KỲ
Môn: Kinh tế vi mô 2
Chuyên ngành: Kinh tế đối ngoại
ÁP DỤNG LÝ THUYẾT THÔNG TIN
BẤT CÂN XỨNG ĐỐI VỚI THỊ TRƯỜNG SỮA
BỘT TẠI TRUNG QUỐC
Sinh viên thực hiện

Lớp: 51F – ML 45
Khóa: 51
Giảng viên hướng dẫn: ThS. Nguyễn Trần Sỹ

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 9 năm 2013


NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN

...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................


....................................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
....................................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
....................................................................................................................................
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày……tháng……năm 2013


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.........................................................................................................1
[2] Beijing Orient Agribusiness Consultant Ltd, China Milk Powder Market Research Report,
ngày truy cập 31/08/2013...................................................................13
[8] PR Newswire, 2013, China Infant Formula Milk Powder Market Report, 2013-2017,
ngày truy cập 31/08/2013.....................................................................13


1

Đ

LỜI MỞ ĐẦU

ời sống con người ngày càng phát triển, nhu cầu sử dụng các loại hàng
hoá cũng ngày một nâng cao. Trong đó, sữa bột là một mặt hàng cần
thiết và quan trọng cho chế độ dinh dưỡng hàng ngày của người tiêu


dùng. Nhu cầu sử dụng sữa bột của người dân ngày càng tăng về số lượng cũng như
những đòi hỏi về chất lượng cũng ngày càng tăng. Để đáp ứng những nhu cầu đó,
nhiều mặt hàng sữa bột đa dạng về nhãn hiệu, mẫu mã và chất lượng ra đời. Điều
này sẽ gây ra sự bối rối cho người tiêu dùng trong việc chọn lựa loại sữa bột thích
hợp cho gia đình. Không những thế, thị trường sữa bột còn tồn tại những mặt hàng
kém chất lượng, không đảm bảo về dinh dưỡng được che đậy kín đáo và khéo léo từ
phía nhà sản xuất. Các nhà sản xuất hiểu rất rõ sản phẩm của mình, trong khi đó
người tiêu dùng lại nắm giữ rất ít thông tin. Do đó, thông tin bất cân xứng xuất hiện
là một điều hiển nhiên trên thị trường sữa bột. Hiện tượng này làm cho người tiêu
dùng lựa chọn sản phẩm không thích hợp hay thậm chí là gây nguy hại đến sức
khoẻ của gia đình. Chính vì vậy, bằng phương pháp phân tích và tổng hợp, nhóm
chúng em tiến hành tìm hiểu, nghiên cứu về thực trạng thông tin bất cân xứng trong
thị trường sữa bột mà cụ thể là tại Trung Quốc. Từ đó, nhóm chúng em đề xuất các
giải pháp giúp cân xứng thông tin giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng, đảm bảo
quyền lợi của người tiêu dùng cũng như giúp cho sự phát triển bền vững và hiệu
quả của thị trường sữa bột hiện nay.
Trong quá trình nghiên cứu, những sai sót là điều khó tránh khỏi. Chúng em
rất mong có sự đóng góp của thầy cô và các bạn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn thầy Nguyễn Trần Sỹ đã hướng dẫn chúng
em hoàn thành đề tài này.


2

Chương 1 - CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1.

Khái niệm về thông tin bất cân xứng:
Thông tin bất cân xứng là tình trạng trong một giao dịch, một bên có thông


tin đầy đủ hơn và tốt hơn so với bên còn lại. Nói cách khác, thông tin bất cân xứng
là trạng thái không có sự cân bằng trong việc nắm giữ thông tin giữa các bên tham
gia giao dịch. Khi đó giá cả không phải là giá cả cân bằng của thị trường mà nó có
thể thấp hơn hoặc cao hơn dẫn tới thị trường không đạt hiệu quả.
Tình trạng thông tin bất cân xứng xuất hiện ở nhiều lĩnh vực khác nhau của
kinh tế như tín dụng, ngân hàng, trong thị trường nhà đất, thị trường hàng hoá, thị
trường chứng khoán, bất động sản, lao động, bảo hiểm…
Ví dụ:
Thị trường bảo hiểm: Người mua bảo hiểm có nhiều thông tin hơn người bán
bảo hiểm bởi vì chính người mua bảo hiểm mới biết được thực sự tình trạng sức
khoẻ của mình.
Thị trường lao động: Người đi tuyển dụng biết nhiều thông tin hơn nhà tuyển
dụng vì người đi tuyển dụng mới là người biết chính xác trình độ, khả năng của bản
thân.
1.2. Nguyên nhân gây ra hiện tượng thông tin bất cân xứng:
Theo Joseph Stiglitz (nhà kinh tế học người Mĩ, đạt giải Nobel năm 2001),
có hai nguyên nhân gây ra thông tin bất cân xứng:
Thứ nhất là do những chủ thể kinh tế khác nhau quan tâm tới những đối
tượng khác nhau và lượng thông tin của họ về cùng một đối tượng là khác nhau.
Các chủ thể kinh tế thường hiểu rõ mình hơn là hiểu người khác. Mức độ chênh
lệch về thông tin tuỳ thuộc vào cơ cấu, đặc trưng của thị trường.
Thứ hai là do chủ thể kinh tế khi tham gia giao dịch có thể cố tình che giấu
thông tin để đạt được lợi thế trong đàm phán, giao dịch.

1.3.

Hậu quả của thông tin bất cân xứng:
1.3.1. Lựa chọn ngược



3

Lựa chọn ngược hay còn gọi là lựa chọn bất lợi (Adverse selection – AS): là
kết quả của thông tin bị che đậy, nó xảy ra trước khi thực hiện giao dịch hay nói
cách khác trước khi ký hợp đồng. Lựa chọn ngược làm cho bên có ưu thế về thông
tin có thể cung cấp những thông tin không trung thực về đối tượng được giao dịch
cho bên kém ưu thế thông tin. Kết quả là, bên kém ưu thế về thông tin đồng ý hoàn
thành giao dịch và nhận được thứ không như mình mong muốn. Tình trạng này gây
ra những tổn thất xã hội và nhiều vấn đề khác như sức khoẻ người tiêu dùng, sự mất
lòng tin vào những sản phẩm tương tự có chất lượng tốt trên thị trường…
1.3.2. Rủi ro đạo đức
Rủi ro đạo đức hay còn gọi là tâm lý ỷ lại (Moral hazard - MH): là tình trạng
cá nhân hay tổ chức không còn động cơ để cố gắng hay hành động một cách hợp lý
như trước khi giao dịch xảy ra. Tình trạng này xảy ra bên phía giao dịch nhiều
thông tin hơn và che giấu hành vi của mình. Rủi ro đạo đức nảy sinh khi bên có ưu
thế thông tin hiểu được tình thế thông tin phi đối xứng giữa các bên giao dịch và tự
nhiên hình thành động cơ hành động theo hướng làm lợi cho bản thân bất kể hành
động có thể làm hại cho bên kém ưu thế thông tin.
1.3.3. Vấn đề người uỷ quyền – người thừa hành
Trong một cơ cấu doanh nghiệp thông thường, chủ sở hữu (người ủy nhiệm)
thuê các nhà quản lí (người thừa hành) và trao cho họ một số quyền để điều hành
doanh nghiệp. Đây là một trường hợp đặc biệt vì nó bao gồm cả lựa chọn bất lợi và
rủi ro đạo đức.
Khi người ủy nhiệm giao quyền cho người thừa hành, họ sẽ không trực tiếp
điều hành công việc, do đó, họ biết được ít thông tin hơn người thừa hành. Bên cạnh
đó, người thừa hành và người ủy quyền có thể theo đuổi những mục tiêu không
giống nhau, dẫn tới người thừa hành có những hành động không phục vụ lợi ích của
người ủy quyền. Vì có ít thông tin hơn nên người ủy quyền khó cưỡng chế thi hành,
đánh giá hay khuyến khích công việc của người thừa hành. Điều này sẽ dẫn tới sự
lựa chọn bất lợi của người ủy quyền.



4

Để đạt được mục tiêu của người ủy quyền, lương của người thừa hành thông
thường ít phụ thuộc vào những nỗ lực của họ. Do đó, người thừa hành ít có động cơ
để cố gắng đạt được mục đích này, xuất hiện rủi ro đạo đức của người thừa hành.
Thông tin bất cân xứng sẽ làm cho việc cung cấp hàng hoá trên thị trường
không đạt hiệu quả, dẫn tới tổn thất xã hội. Tổn thất này có thể là tổn thất do cung
cấp hàng hoá dưới mức hiệu quả hoặc trên mức hiệu quả của xã hội.
1.4. Các biện pháp khắc phục tình trạng thông tin bất cân xứng
1.4.1. Cơ chế phát tín hiệu
Bên có nhiều thông tin có thể phát tín hiệu đến những bên ít thông tin một
cách trung thực và tin cậy. Với việc phát tín hiệu này, người bán những sản phẩm
chất lượng cao phải sử dụng những biện pháp được coi là quá tốn kém với
người bán hàng hóa chất lượng thấp. Đối với thị trường hàng hoá, để giao dịch
được hiệu quả thì người bán cần đảm bảo sản phẩm tốt, khẳng định được uy tín,
chất lượng của mình. Còn người mua thì sử dụng các biện pháp để tăng cường
thông tin cho mình như tìm hiểu qua dịch vụ đánh giá và xếp hạng, hỏi những người
tiêu dùng trước hay dùng thử sản phẩm. Từ đó, giảm dần tình trạng thông tin bất
cân xứng gây thiệt hại cho cả hai bên.
1.4.2. Cơ chế sàng lọc
Bất cứ hàng hóa nào cũng đều có những đặc tính khác nhau như
chất lượng khác nhau, mẫu mã khác nhau nên cần phải phân loại chúng.
Đối với thị trường hàng hoá, cần phải phân loại kĩ các sản phẩm theo chất lượng,
mẫu mã, độ đáng tin cậy rõ ràng thông qua các cuộc kiểm định, kiểm chứng của các
cơ quan chức năng. Từ đó, có những mức giá hợp lý đối với các sản phẩm, củng cố
lòng tin cho người tiêu dùng và giúp bảo vệ những sản phẩm có chất lượng tốt trước
sự xâm nhập của sản phẩm có chất lượng kém.
1.4.3.


Cơ chế giám sát

Cơ chế giám sát được áp dụng nhằm mục đích kiểm soát tâm lý ỷ lại. Chính
phủ cần cho các cơ quan chức năng đi kiểm tra định kì để phát hiện ra những sản
phẩm kém chất lượng, ảnh hưởng tới sức khoẻ người tiêu dùng cũng như khuyến
cáo cho người tiêu dùng biết những sản phẩm chứa chất gây hại. Đồng thời, chính


5

phủ cần phải đưa ra những biện pháp xử phạt hợp lí đối với những sản phẩm có chất
lượng kém nhưng vẫn bán giá cao trên thị trường, gây ra hiện tượng lựa chọn
ngược. Về phía bản thân doanh nghiệp, người ủy quyền cần tạo ra động cơ khuyến
khích vật chất và phi vật chất để cho mục tiêu của người thừa hành phù hợp với
mục tiêu của mình như thiết kế hệ thống kiểm tra, lấy phiếu tín nhiệm định kì và có
chế độ lương thưởng phù hợp.
Chương 2 - TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG SỮA BỘT TẠI TRUNG QUỐC
Sữa bột là sản phẩm sữa quan trọng nhất trước nửa đầu thập niên 90. Tuy
nhiên trong thời đại hiện nay, sữa tươi tiệt trùng phát triển bền vững và nhanh chóng
hơn với tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm là 89.37% từ năm 1999 đến năm
2004. Do đó, nó đã thay đổi mô hình tiêu thụ chính của thị trường sữa ở Trung
Quốc từ sữa bột sang sữa nước. Ví dụ, lượng tiêu thụ sữa bình quân đầu người của
cư dân đô thị Trung Quốc là 22,54kg, trong đó sữa bột chỉ có 0,5 kg. Năm 2006,
tiêu thụ sữa bột chiếm 25% tổng lượng tiêu thụ sữa ở Trung Quốc.

Hình 2.1: Biểu đồ tiêu dùng sữa ở Trung Quốc
Nguồn: Niên giám thông kê sữa ở Trung Quốc năm 2006, theo nghiên cứu của Lehman Brothers

Tại Trung Quốc, sữa bột được chia thành hai loại là sữa bột gói và sữa bột

nguyên liệu. Theo ước tính của BOABC (Building Officials' Association of British
Columbia), sữa bột gói chiếm 60%, còn sữa bột nguyên liệu chiếm 40% tổng lượng
sữa bột. Thị trường sữa bột cao cấp ở Trung Quốc đã được thống trị bởi các thương
hiệu nước ngoài, bao gồm Mead Johnson, Dumex, Wyeth, Nestle và Abbott. Trong


6

năm 2012, tổng số thị phần của năm thương hiệu sữa bột nước ngoài hàng đầu
chiếm gần 60% tổng thị phần của các hãng sữa bột ở Trung Quốc. Ở các thành phố
hạng nhất, sữa bột nước ngoài đã chiếm vị trí hàng đầu kể từ năm 2004 với thị phần
hơn 90%. Phần lớn doanh thu bán hàng từ các thương hiệu sữa bột trong nước là từ
thị trường của các thành phố hạng hai và ba.

Hình 2.2: Biểu đồ thị phần sữa bột Trung Quốc tháng 7 năm 2009.
Nguồn: Trung tâm thông tin thương mại của Trung Quốc (CIC)

Chương 3 – NHỮNG HẬU QUẢ CỦA THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG ĐỐI
VỚI THỊ TRƯỜNG SỮA TẠI TRUNG QUỐC
3.1.

Lựa chọn ngược:
Thông tin bất cân xứng đã tạo điều kiện cho sữa giả ra đời dẫn tới tình

trạng “lựa chọn ngược” cho người tiêu dùng. Khách hàng với vốn kiến thức ít ỏi về
thông tin sản phẩm dễ trở thành nạn nhân của kiểu làm ăn phi pháp này. Lợi dụng
sự tin tưởng của các khách hàng, các doanh nghiệp Trung Quốc đã làm giả sữa bằng
cách đóng gói các sản phẩm không rõ nguồn gốc và được gắn nhãn hiệu các thương
hiệu có tiếng. Theo thông tin đài truyền hình CCT thì tháng 3/2013, công ty sữa
Lier (Trung Quốc) đã có hành vi làm giả sữa của hãng Hero, một công ty sữa bột

lớn của Thụy Sỹ. Lier đã trộn sữa hết hạn với nguyên liệu của đối tác, thay đổi hạn


7

sử dụng sản phẩm, thay đổi công thức sản xuất để người tiêu dùng tưởng rằng đó là
sản phẩm cho trẻ sơ sinh nhằm bán với giá cao hơn.
Ngoài ra, đối với một số sản phẩm sữa của Trung Quốc, khách hàng không
một chút nghi ngờ về tính xác thực của sản phẩm, không yêu cầu hóa đơn mua
hàng. Tuy nhiên, theo các chuyên gia của phòng giám sát thức ăn tại Phụ Dương
cho biết: dấu niêm phong, hướng dẫn sử dụng trên bao bì là hoàn toàn không chính
xác. Các điều tra viên đã đi vào hoạt động và theo thông tin đài truyền hình CCTV
cho biết: hiện có 4 loại cây ở Đông Bắc, Trung Quốc và Nội Mông là những nguồn
nguyên liệu làm ra sữa bột kém chất lượng. Các sản phẩm sữa này có ít hơn 1gram
chất đạm trong 100gram sữa, các yếu tố vi lượng như sắt và kẽm là hoàn toàn
không có.
Các hành vi của các nhà sản xuất sữa nêu trên đã ảnh hưởng nghiêm trọng
đến sức khỏe người tiêu dùng. Một số trẻ em sử dụng nhầm sữa giả có triệu chứng
lạ như môi sưng phồng, đầu phình to như quả dưa, tay chân teo lại…Một số ca còn
dẫn đến tử vong. Ở đây, ta có thể hiểu “giao dịch” xảy ra khi người tiêu dùng mua
sản phẩm sữa và “lựa chọn ngược” chính là việc người tiêu dùng mong muốn mua
được sản phẩm tốt giờ đây lại mua nhầm sữa giả, sữa kém chất lượng.
Tóm lại, bên bán sản phẩm hiểu rõ sản phẩm của mình trong khi bên mua chỉ
biết thông tin một cách chủ quan dựa vào những gì được ghi trên bao bì sản phẩm.
Về phía người tiêu dùng, họ không thể thường xuyên cập nhật đúng, đủ thông tin về
tình trạng sản xuất của sản phẩm nên không biết các hành vi gian lận của các doanh
nghiệp. Họ vẫn mua sản phẩm dẫn tới tình trạng lựa chọn ngược, mua hàng hóa với
giá cao mà chất lượng không đảm bảo tương thích với giá cả thật sự phải trả.

3.2.


Rủi ro đạo đức:
Để hiểu rõ hơn về hậu quả này, chúng ta cùng phân tích những hoạt động của

công ty sữa Sanlu. Sanlu là công ty cung cấp sữa lớn và khá nổi tiếng ở thành phố


8

Thạch Gia Trang, Trung Quốc. Fonterra là một tập đoàn sữa khổng lồ của New
Zealand và cũng là nhà cung cấp các thành phần sữa lớn thứ tư trên thế giới. Tháng
12/2005, Fonterra và Sanlu liên doanh để sản xuất và cung cấp sữa tại Trung Quốc,
Fonterra nắm giữ đến 43% cổ phần của Sanlu. Sự kiện này đã góp phần tăng cường
niềm tin của người tiêu dùng, đặc biệt là người tiêu dùng Trung Quốc đối với sản
phẩm sữa của hãng Sanlu. Họ sẵn sàng chi trả ở mọi mức giá để có thể tiêu dùng
những sản phẩm chất lượng cao lại đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm này. Tuy
nhiên, kỳ vọng của người tiêu dùng không được đáp ứng khi công ty Sanlu đã âm
thầm sử dụng chất melanine trong các sản phẩm của họ. Ngay sau khi Sanlu được
mua cổ phần bởi tập đoàn Fonterra, công ty này đã được Tổng cục Kiểm tra chất
lượng Nhà nước Trung Quốc cấp giấy chứng nhận “miễn kiểm” đối với sản phẩm
sữa bột cho trẻ em trong thời hạn ba năm, tức là đến tháng 12 năm 2008 mới hết
hạn. Việc Sanlu được nhận giấy “miễn kiểm” cũng chính là Sanlu đang cam kết với
Nhà nước và những người tiêu dùng sẽ thực hiện quá trình sản xuất một cách
nghiêm túc về vệ sinh an toàn thực phẩm cũng như hàm lượng các chất dinh dưỡng
có trong sữa. Hơn thế nữa, một số sản phẩm của tập đoàn này được miễn kiểm tra
của chính phủ vì đã thông qua ba lần thanh tra liên tiếp.
Con đường đi lên của Sanlu sẽ vẫn còn rộng mở nếu Sanlu thực hiện đúng
như những gì đã cam kết với nhà nước và nếu Sanlu không rẻ rúng lòng tin của
người tiêu dùng dành cho mình. Tháng 3 năm 2008 tập đoàn Sanlu nhận được khiếu
nại của người tiêu dùng vì trẻ bị sạn thận khi uống sữa của Sanlu. Qua quá trình

kiểm tra, Trung Quốc đã phát hiện ra toàn bộ các loại sữa được sản xuất từ công ty
Sanlu đều nhiễm chất độc melamine và việc này đã làm dấy lên chuỗi sự việc bê bối
sữa ở Trung Quốc năm 2008. Tập đoàn Sanlu đã thêm chất này vào trong sữa là để
tăng hàm lượng protein. Lượng protein trong sữa càng nhiều, công ty càng có lí do
để nâng giá sữa, thu lợi nhuận cho mình. Nhiều loại sữa bột không đạt yêu cầu về
chất lượng dành cho trẻ em đã được Sanlu tung ra thị trường. Tính đến thời điểm
tháng 11 năm 2008, Trung Quốc báo cáo ước tính khoảng 300.000 nạn nhân, 6 trẻ
sơ sinh chết vì sỏi thận và 54.000 trẻ em phải nhập viện vì uống phải sữa nhiễm


9

chất độc hại melamine. Ở đây, rủi ro đạo đức chính là việc tập đoàn Sanlu đã cam
kết với Nhà nước Trung Quốc nhưng đã không thực hiện đúng lời cam kết đó sau
khi được Nhà nước cấp giấy chứng nhận “miễn kiểm”, và việc này đã gây thiệt hại
không nhỏ cho nhân dân Trung Quốc.
Dù biết rằng thương trường là chiến trường nhưng Sanlu không thể bỏ qua
vấn đề đạo đức và trách nhiệm xã hội để đạt được mục đích mong muốn. Việc kinh
doanh vô đạo đức đó không chỉ ảnh hưởng đến người tiêu dùng mà còn ảnh hưởng
đến chính công ty Sanlu. Kết quả của việc làm sai trái đó là Sanlu đã bị tòa án thành
phố Thạch Gia Trang (tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc) tuyên bố phá sản.
3.3.

Vấn đề người uỷ quyền – người thừa hành:
Lấy ví dụ trong thị trường sữa Trung Quốc có A là một công ty sản xuất sữa

bột, B là một chi nhánh của A. Mỗi tháng, Công ty A yêu cầu chi nhánh B bán
10.000 sản phẩm và cuối tháng sẽ kết chuyển doanh thu. Mức lương mà giám đốc
chi nhánh nhận được là cố định. Trong trường hợp này, sẽ xảy ra hiện tượng thông
tin bất cân xứng giữa người ủy quyền, ở đây là công ty A, với người thừa hành là

chi nhánh B. Công ty A sẽ có ít thông tin về việc bán hàng hơn so với chi nhánh B
vì họ không trực tiếp tham gia điều hành quá trình bán hàng hóa và họ cũng không
quản lý việc bán hàng của B, điều này sẽ làm cho B không tích cực trong kinh
doanh, ảnh hưởng đến lợi nhuận của công ty A. Có hai lý do chính trong việc chi
nhánh B sẽ không tích cực trong việc kinh doanh:
Lý do đầu tiên là đại lý duy trì doanh số bán hàng ở mức 10.000 sản phẩm mỗi
tháng mà không cố gắng để gia tăng doanh số. Vì nếu muốn doanh số tăng thì họ
cần phải thực hiện nhiều việc hơn trong khi đó mức lương họ nhận được lại không
hề thay đổi.
Lý do tiếp theo là công ty A không quản lý chi nhánh B khiến cho họ mang
tâm lý ỷ lại, hoạt động kinh doanh trì trệ, lợi nhuận duy trì ở một mức cố định chứ


10

không tăng thêm.Vì lý do đó mà công ty A sẽ mất một khoản doanh thu lớn do chi
nhánh B không muốn bán hàng hóa ra thị trường vượt mức doanh số mà họ được
giao dù nhu cầu thị trường còn rất lớn.
Chương 4 - ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG
THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG ĐỐI VỚI THỊ TRƯỜNG TRUNG QUỐC
4.1. Cơ chế phát tín hiệu
Theo cơ chế phát tín hiệu, Hiệp hội người tiêu dùng Trung Quốc cần có
những biện pháp bảo vệ người tiêu dùng sữa bột tránh khỏi tình trạng thông tin bất
cân xứng như đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền các loại sữa giả, sữa kém chất
lượng cũng như cung cấp thông tin cho người tiêu dùng về các nhãn hiệu sữa tốt,
đáng tin cậy. Người tiêu dùng cần sử dụng các biện pháp để tăng cường thông tin
cho mình như tìm hiểu qua dịch vụ đánh giá và xếp hạng, theo dõi trên báo đài,
internet để biết được những loại sữa an toàn, tham khảo những người tiêu dùng
trước hay dùng thử sản phẩm. Nhà sản xuất sữa cần phải phát tín hiệu cho người
tiêu dùng bằng cách khẳng định uy tín, chất lượng của mình, có nhãn hiệu và chế độ

hậu mãi tốt. Việc áp dụng các biện pháp dựa theo cơ chế này sẽ giảm thiểu tình
trạng lựa chọn ngược và rủi ro đạo đức.
4.2. Cơ chế sàng lọc
Chính phủ Trung Quốc cần phải có những quy định theo tiêu chuẩn của các
nước trong khu vực và trên thế giới để về chất lượng sữa để tránh việc các sản phẩm
sữa kém chất lượng bị tung ra thị trường. Đồng thời, Tổng cục Giám sát Chất lượng
Trung Quốc cần phối hợp với các ngành liên quan rà soát các tiêu chuẩn về vệ sinh
an toàn thực phẩm, nguồn gốc của nguyên liệu và hàm lượng dinh dưỡng trong sữa.
Từ đó, các sản phẩm sữa không đảm bảo chất lượng sẽ bị sàng lọc ra khỏi thị
trường, tạo điều kiện cho các sản phẩm chất lượng tốt phát triển, nâng cao sự tin
tưởng của người tiêu dùng trên thị trường sữa. Tình trạng lựa chọn ngược và rủi ro
đạo đức cũng sẽ được hạn chế khi áp dụng cơ chế này.


11

4.3. Cơ chế giám sát
Dựa theo cơ chế giám sát, tổng giám đốc công ty mẹ nên quyết định mức
lương trả cho giám đốc chi nhánh dựa trên kết quả hoạt động kinh doanh tức là
doanh số bán sữa định kì chứ không phải chỉ dựa trên năng lực và thời gian làm
việc cho công ty. Đồng thời, cũng nên đưa ra những hứa hẹn về việc sẽ thăng cấp,
chế độ lương thưởng thích hợp cho giám đốc chi nhánh để họ làm việc hiệu quả
hơn.
Thêm vào đó, chính phủ Trung Quốc cần tổ chức kiểm tra định kì hay đột
xuất để phát hiện ra những loại sữa kém chất lượng, ảnh hưởng tới sức khoẻ người
tiêu dùng cũng như khuyến cáo cho người tiêu dùng biết những loại sữa chứa chất
gây hại. Đồng thời, chính phủ cần phải đưa ra những biện pháp xử phạt hợp lí đối
với những sản phẩm sữa có chất lượng kém nhưng vẫn bán giá cao trên thị trường,
gây ra hiện tượng lựa chọn ngược của người tiêu dùng. Không những vậy, vấn đề
người ủy quyền – người thừa hành cũng được giảm thiểu khi áp dụng cơ chế giám

sát này.
Qua quá trình nghiên cứu về thực trạng thông tin bất cân xứng đối với thị
trường sữa bột Trung Quốc, nhóm chúng em đưa ra thêm một đề xuất sau: Khi vụ
bê bối sữa nhiễm chất Melamine đang dấy lên, truyền thông Trung Quốc được chỉ
đạo làm giảm bớt tác động thực của vụ bê bối nhằm phòng những phản ứng thái quá
đến từ dân chúng. Tất cả các bản tin về vụ việc hầu như chỉ đăng trích từ báo
"Xinhua" - cơ quan phát ngôn chính thức của Đảng cộng sản Trung Quốc. Tin tức
về tiến độ điều tra của Tổng cục kiểm dịch, thanh tra và giám sát chất lượng Trung
Quốc chỉ được đề cập đến trong các bản tin cuối cùng trong ngày. Vào thời điểm đó
cũng sẽ có nhiều người đang còn phải làm việc hoặc bận một số việc khác, nhất là
đối với những người ít xem thời sự, họ thường biết rất ít và thậm chí là không biết
được tin tức. Vì vậy, nhóm chúng em đề xuất rằng truyền thông Trung Quốc nên
phát bản tin này thường xuyên trong ngày thay vì đề cập đến trong bản tin cuối


12

ngày để người tiêu dùng cập nhật thông tin thường xuyên hơn, tránh lựa chọn nhầm
sản phẩm không tốt.
]

KẾT LUẬN
Mãi cho đến nay, thực trạng sữa bột giả và có nhiều chất độc hại vẫn còn tiếp
diễn trên thị trường sữa nói chung và thị trường sữa bột nói riêng. Vì lợi ích cá
nhân, các nhà sản xuất Trung Quốc đã không mảy may quan tâm đến sức khoẻ của
người tiêu dùng, gây ra những sai phạm nặng nề. Đối với các doanh nghiệp sản
xuất, đặc biệt là về thực phẩm, đạo đức trong kinh doanh cũng là một yêu cầu quan
trọng. Liên hệ đến Việt Nam, thị trường sữa bột ở Việt Nam trong những năm gần
đây có nhiều sự biến chuyển. Một số loại sữa bột nước ngoài vướng phải tai tiếng
trong các vụ nhiễm khuẩn, trong sữa có chất melamine làm giảm sút lòng tin của

người tiêu dùng đối với sữa bột nhập khẩu. Do đó, sữa bột trong nước ngày càng
được chú ý nhiều hơn. Lượng tiêu thụ sữa bột trong khẩu phần dinh dưỡng hàng
ngày của người tiêu dùng Việt Nam ngày càng tăng thúc đẩy sự phát triển của các
ngành sản xuất sữa bột đồng thời gây ra những vấn đề trong thông tin bất cân xứng
ở thị trường này. Nói tóm lại, dù ở thị trường Trung Quốc, Việt Nam hay thị trường
thế giới, mỗi cá nhân, doanh nghiệp và chính phủ cần nghiêm túc thực hiện các biện
pháp phòng tránh, khắc phục hậu quả do thông tin bất cân xứng gây ra nhằm bảo vệ
sức khoẻ người tiêu dùng. Thêm vào đó, các doanh nghiệp và chính phủ phải tạo sự
công khai, minh bạch cho thị trường sữa bột, thúc đẩy ngành sản xuất sữa bột phát
triển một cách hiệu quả nhất.


13

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bảo An, 2013, Sữa bột Thuỵ Sỹ bị đối tác Trung Quốc làm giả,
ngày truy cập 31/08/2013.
[2] Beijing Orient Agribusiness Consultant Ltd, China Milk Powder Market Research
Report, ngày truy cập 31/08/2013.
[3] Cao Thuý Xiêm, 2008, Kinh tế học vi mô phần 2, NXB Đại học Kinh tế Quốc
dân.
[4] L. Nguyễn, 2008, Trung Quốc: Hãng sữa Sanlu bị tòa tuyên phá sản,
ngày truy cập 28/08/2013.
[5] M.P. Kim, 2008, Sanlu: kết cục của kinh doanh vô đạo đức, />
ngày

truy

cập


28/08/2013.
[6] Nguyễn Cao, 2008, Đạo đức kinh doanh suy đồi, ngày truy
cập 28/08/2013.
[7] Nguyễn Thành Tuệ – Thanh Trúc, 2008, Con đường của Sanlu,
/>
ngày

truy

cập

28/08/2013.
[8] PR Newswire, 2013, China Infant Formula Milk Powder Market Report, 20132017, ngày truy cập 31/08/2013.
[9] Vietbao.vn, 2004,Bi kịch sữa giả tại Trung Quốc, truy cập 29/08/2013.
[10] Wikipedia, 2013, Tập đoàn Tam Lộc, ngày truy cập
28/08/2013.
[11] Wikipedia, 2013, Vụ bê bối sữa năm 2008, ngày truy
cập 28/08/2013.



×