Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

câu hỏi về hiệp định SPS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.05 KB, 14 trang )

LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ_

CÂU HỎI về SPS
Câu 1: Để xác định một biện pháp thuộc phạm vi điều chỉnh của Hiệp định SPS cần
thỏa mãn những điều kiện gì?
Để xác định một biện pháp thuộc phạm vi điêu chỉnh của Hiệp định SPS cần thỏa
mãn 2 điều kiện:
-

Phải là một biện pháp SPS:
Theo phụ lục A, hiệp định SPS, các biện pháp kiểm dịch động – thực vật có nghĩa

là bất kỳ biện pháp nào được áp dụng để:


Bảo vệ đời sống hoặc sức khỏe động vật hay thực vật trước những nguy cơ
phát sinh từ sự xâm nhập, hình thành hay phát tán của sâu bệnh, dịch bệnh,

sinh vật mang bệnh hoặc gây bệnh;
• Bảo vệ cuộc sống hay sức khỏe của con người hoặc động vật khỏi các nguy cơ
phát sinh từ các chất phụ gia, chất gây ô nhiễm, chất độc hoặc các sinh vật gây
bệnh có trong thực phẩm, đồ uống hoặc thức ăn chăn nuôi;
• Bảo vệ cuộc sống hoặc sức khỏe của con người khỏi các bệnh mang từ động
vật, thực vật hoặc sản phẩm của chúng hoặc từ sự xâm nhập, hình thành hoặc
phát tán của sâu bệnh;
• Ngăn chặn hoặc hạn chế các thiệt hại khác phát sinh do xâm nhập, hình thành
-

và phát tán của sâu bệnh.
Làm ảnh hưởng đến thương mại quốc tế.
Hiệp định SPS cho phép các thành viên thông qua và thực thi các biện pháp cần



thiết để bảo vệ cuộc sống và sức khỏe con người, động vật và thực vật. Với điều kiện các
biện pháp này không được áp dụng để tạo ra sự phân biệt đối xử tùy tiện hoặc vô căn cứ
giữa các thành viên có cùng điều kiện như nhau hoặc để dẫn đến dự hạn chế thương mại
quốc tế.
Câu 2: Một lệnh cấm sử dụng chì trong đồ chơi trẻ em có phải là một biện pháp
SPS?
SPS chỉ đề cập đến rủi ro đối với sức khỏe con người, động thực vật chứ không đề
cập đến sản phẩm đó là loại gì. Do đó, biện pháp cấm sử dụng chì trong đồ chơi trẻ em là
một biện pháp SPS nếu biện pháp đó dẫn đến rủi ro đối với sức khỏe con người, là mối
nguy phát sinh bệnh tật.
Trang 1


LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ_

Câu 3: Các quốc gia thành viên của WTO có phải chịu trách nhiệm cho các tiêu
chuẩn liên quan đến vệ sinh kiểm dịch động thực vật ban hành bởi các chủ thể tư
trái với các quy định WTO?
Tại Điều 13 Hiệp định SPS quy định các thành viên WTO phải chịu trách nhiệm
đảm bảo rằng chính quyền cấp địa phương phải tôn trọng triệt để các điều khoản của
Hiệp định SPS. Các thành viên WTO phải có các biện pháp thích hợp để đảm bảo rằng
các cơ quan phi chính phủ cũng phải tuân theo những điều khoản tương đương Hiệp định
SPS. Tương tự, các thành viên WTO có nghĩa vụ không được đưa ra các biện pháp
khuyến khích chính quyền địa phương à tổ chức phi chính phủ không tuân thủ quy định.
Câu 4: Hiệp định TBT và Hiệp định SPS có thể cùng điều chỉnh cho một biện pháp
được không ?
WTO thừa nhận quyền của các quốc gia thành viên được ban hành các biện pháp
nhằm bảo vệ sức khỏe của con người, động thực vật. Tuy nhiên, quyền đó phải được thực
hiện dựa trên các điều kiện luật định nhằm tránh sự phân biệt đối xử và tránh việc áp

dụng thái quá – không cần thiết với mục đích trục lợi thương mại cho quốc gia ban hành
– chủ thể thực hiện quyền. Trên góc độ Luật WTO, có hai văn bản pháp quy điều chỉnh
về vấn đề bảo vệ sức khỏe con người, động thực vật (xin tạm gọi là “vấn đề sức khỏe”),
đó là TBT và SPS. Bản thân các Biện pháp SPS cũng được thể hiện dưới dạng “quy định
kỹ thuật”, “tiêu chuẩn” và “thủ tục đánh giá sự phù hợp”
Tuy nhiên, hai hiệp định này có những khác biệt nhất định. Trong khi TBT hướng
tới nhiều mục tiêu chính sách khác nhau như an ninh quốc gia, môi trường, cạnh tranh …,
SPS chỉ duy nhất điều chỉnh vấn đề về sức khỏe. Bên cạnh đó, đối tượng áp dụng của
TBT là các biện pháp kĩ thuật, trong khi SPS điều chỉnh các biện pháp vệ sinh dịch tễ.
Trên thực tế, một biện pháp bảo vệ sức khỏe chỉ có thể được định hình bởi một trong hai
biện pháp kể trên; hoặc biện pháp kĩ thuật, hoặc biện pháp vệ sinh dịch tễ.
Ví dụ: [1]
Qui định về các thuốc trừ sâu:
- Qui định về lượng (dư lượng) thuốc sâu trong thực phẩm hoặc trong thức ăn gia
súc nhằm bảo vệ sức khỏe con người hoặc đông vật: Biện pháp SPS;
[1][1] />
Trang 2


LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ_

- Qui định liên quan đến chất lượng, công năng của sản phẩm hoặc những rủi ro về
sức khỏe có thể xẩy ra với người sử dụng: Biện pháp TBT.
Các qui định về bao bì sản phẩm:
- Qui định về hun khử trùng hoặc các biện pháp xử lý khác đối với bao bì sản
phẩm (tẩy uế nhằm tránh lây lan dịch bệnh): Biện pháp SPS;
- Qui định về kích thước, kiểu chữ in, các loại thông tin về thành phần, loại hàng
hóa trên bao bì: Biện pháp TBT.
Một khi một biện pháp được xác định là Biện pháp SPS thì sẽ được điều chỉnh
riêng biệt bởi Hiệp định SPS (Điều 1.5 của TBT). Như vậy, một cách rõ ràng, chúng ta có

thể kết luận, hiệp định TBT và hiệp định SPS không thể cùng điều chỉnh cho một biện
pháp.
Câu 5: Nếu một bên khiếu nại trong vụ kiện cho rằng biện pháp nghi vấn không
phù hợp với cả Hiệp định SPS và GATT 1994 thì Ban hội thẩm phải giải quyết như
thế nào?
Bảo vệ sức khỏe con người là một trong những nhiệm vụ cấp thiết mà cộng đồng
thế giới đã và đang ra sức thực hiện bên cạnh sự thúc đẩy tự do thương mại toàn cầu.
Chính vì vậy, GATT 1994 đã dành hẳn một điều khoản (Điều XX.b,g). Tuy nhiên, ước
vọng tối đa hóa lợi ích đạt được của các quốc gia trong quan hệ quốc tế nói chung và
thương mại quốc tế nói riêng tiềm tàng những nguy cơ đáng kể đối với sức khỏe của con
người và các sinh vật khác. Thế nên, để bảo vệ môi trường, sức khỏe con người, động vật
và thực vật tốt hơn, WTO đã ký kết hiệp định SPS, điều chỉnh một cách đặc thù về vệ
sinh dịch tễ.
Về địa vị pháp lý, SPS là sự cụ thể hóa tinh thần của GATT 1994. Vậy thì, trong
trường hợp, một biện pháp bị khởi kiện vì vi phạm GATT và SPS mà căn cứ để khởi kiện
thuộc phạm vi điều chỉnh của cả GATT và SPS thì SPS được ưu tiên áp dụng để giải
quyết tranh chấp.

Trang 3


LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ_

ÁN LỆ
EC - Các biện pháp liên quan đến thịt và sản phẩm thịt (Hormones)
1. Facts



Nguyên đơn: Hoa Kỳ

Bị đơn: EC
Diễn biến chính:

-

Hội đồng Cộng đồng Châu Âu đã thông qua Chỉ thị 96/22 / EC (bãi bỏ và thay thế Chỉ thị
81/602 / EEC, 88/146 / EEC và 88/299 / EEC) trong đó khẳng định và mở rộng các lệnh
cấm nhập khẩu từ các nước thứ ba của động vật và thịt từ động vật mà các chất có
oestradiol-17β, testosterone, progesterone, zeranol, trenbolone và melengestrol acetate đã

-

được quản lý.
Hoa Kỳ tuyên bố rằng các cộng đồng châu Âu, bằng cách cấm nhập khẩu thịt và các sản
phẩm thịt từ động vật mà bất kỳ sáu hormone cụ thể đã được dùng cho các mục đích của
việc thúc đẩy sự phát triển của các loài động vật, đã vi phạm Hiệp định về việc áp dụng
vệ sinh và kiểm dịch thực vật ("Hiệp định SPS"), đặc biệt là Điều 2, 3 và 5; Hiệp định về
hàng rào kỹ thuật trong thương mại ("Hiệp định TBT"); và Hiệp định chung về Thuế

-

quan và Thương mại 1994 ("GATT"), đặc biệt là Điều I và III.
Sáu hormone: oestradiol-17β, testosterone, progesterone, zeranol và trenbolone (năm
hormone nói trên đã được đưa trong vòng cấm nói chung yêu cầu của Chỉ thị 81/602 /
EEC của Chỉ thị 88/146 / EEC) và melengestrol acetate (" MGA "; một hormone thứ sáu
thuộc cấm chung của Chỉ thị 81/602 / EEC). Oestradiol-17β là một hormone tự nhiên với
hành động oestrogen (tức là, chịu trách nhiệm về tính nữ); là một hormone testosterone tự
nhiên với androgenic (tức là, chịu trách nhiệm về các đặc tính nam); progesterone là một
hormone tự nhiên với gestagenic (tức là, chịu trách nhiệm duy trì thai kỳ); zeranol là một
hormone tổng hợp với oestrogen (tức là bắt chước các hành động của oestradiol-17β);

trenbolone là một hormone tổng hợp với androgenic (tức là bắt chước các hành động của
testosterone); và MGA là một hormone tổng hợp với gestagenic (tức là bắt chước các
hành động của progesterone). Kích thích tố tự nhiên là hormon được sản xuất nội sinh ở
động vật và con người. Kích thích tố tổng hợp là hormone được sản xuất nhân tạo.
Trang 4


LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ_

Oestradiol-17β, testosterone và progesterone được sau đây cũng được gọi là ba kích thích
tố tự nhiên; zeranol, trenbolone và MGA được sau đây cũng được gọi là ba kích thích tố
tổng hợp.
2. Issues

Trong vụ việc này, cơ quan Phúc thẩm xem xét giải quyết các vấn đề sau:
(a) HĐXX có phân bổ đúng các nghĩa vụ chứng minh trong trường hợp này;
- Không đồng ý với Ban Hội Thẩm về gánh nặng cụ thể chứng minh theo Điều 3.3
được đáp ứng, để biện minh cho một biện pháp vệ sinh mà lệch khỏi tiêu chuẩn quốc tế,
thuộc về các thành viên áp đặt biện pháp đó.
(b) HĐXX có áp dụng các tiêu chuẩn thích hợp xem xét dưới Hiệp định SPS;
- Ban Hội Thẩm, trong việc đưa ra những kết quả được đề cập đến và có kháng
nghị của Cộng đồng Châu Âu, đã thực hiện một “đánh giá khách quan vấn đề trước đó,
bao gồm cả việc đánh giá khách quan thực tế.”
(c) Nguyên tắc phòng ngừa là có liên quan trong việc giải thích của Hiệp định SPS;
- Đồng ý với Ban Hội thẩm về các nguyên tắc phòng ngừa không ghi đè lên các
quy định tại Điều 5.1 và 5.2 của Hiệp định SPS.
(g) HĐXX có cách chính xác giải thích Điều 3.1 và 3.3 của Hiệp định SPS;
- Không thể chấp nhận cách giải thích của Ban hội thẩm rằng Điều 3.2 "tương
đương" biện pháp "dựa trên" tiêu chuẩn quốc tế với các biện pháp mà "phù hợp với" tiêu
chuẩn

- Toàn bộ phân tích của Ban Hội thẩm dựa trên tiền đề thiếu sót của mình rằng
"dựa trên", như được sử dụng trong Điều 3.1 và 3.3, có nghĩa là cùng một điều như là
"phù hợp" như được sử dụng trong Điều 3.2
-Đồng ý với Ban Hội thẩm rằng Cộng đồng Châu Âu là yêu cầu của Điều 3.3 để
thực hiện theo các yêu cầu của Điều 5.1 là đúng.
(h) Các biện pháp EC có "dựa trên" một đánh giá rủi ro trong phạm vi ý nghĩa của
Điều 5.1 của Hiệp định SPS;
- Ban Hội thẩm đã phát hiện thuật ngữ "rủi ro được xác định một cách khoa học"
để quy định ngầm rằng một cường độ hoặc ngưỡng mức độ rủi ro nhất định được chứng
minh trong một đánh giá rủi ro nếu một bản biện pháp SPS dựa là để được coi là phù hợp
với Điều 5.1. Đến mức mà Hội đồng có ý định đòi hỏi một đánh giá rủi ro để thành lập

Trang 5


LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ_

một cường độ tối thiểu rủi ro, việc áp đặt một yêu cầu định lượng như thấy không có cơ
sở trong Hiệp định SPS.
- Xem xét kết luận cuối cùng của Ban Hội thẩm rằng việc nhập khẩu cấm EC
không dựa trên đánh giá rủi ro trong ý nghĩa của điều 5.1 và 5.2 của Hiệp định SPS và,
do đó, không phù hợp với các yêu cầu của Điều 5.1.
(i) HĐXX có giải thích một cách chính xác và áp dụng Điều 5.5 của Hiệp định SPS;
- Đồng ý với các Ban Hội thẩm rằng sự khác biệt về mức độ bảo vệ của EC đối
với các kích thích tố trong vụ tranh chấp khi được sử dụng để thúc đẩy tăng trưởng, một
mặt, và carbadox và olaquindox, mặt khác, là không chính đáng trong tinh thần của Điều
5.5.
- Đồng ý với quan điểm của Ban Hội thẩm rằng "tất cả ba yếu tố [Điều 5.5] cần
phải được phân biệt và giải quyết một cách riêng biệt".
- Không đồng ý với Ban Hội thẩm Thứ nhất, theo quan điểm của các cấu trúc khác

biệt giữa các tiêu chuẩn của Chapeau của Điều XX của GATT 1994 và các yếu tố của
Điều 5.5 của Hiệp định SPS, các lý luận trong Báo cáo của chúng tôi tại Hoa Kỳ - Xăng,
trích dẫn bởi Panel, có thể không phải là tình cờ nhập khẩu vào một trường hợp liên quan
đến Điều 5.5 của Hiệp định SPS. Thứ hai, theo quan điểm của chúng tôi, nó là phi lý
tương tự như giả định áp dụng các lý luận của Cơ quan Phúc thẩm tại Nhật Bản - Thức
uống có cồn về suy luận có thể được rút ra từ quy mô của một khác biệt về thuế đối với
các ứng dụng của Điều III: 2, thứ hai câu, của GATT 1994, cho câu hỏi khá khác nhau về
việc liệu sự khác biệt tuỳ tiện trong mức độ bảo vệ chống lại những rủi ro cho cuộc sống
của con người hoặc sức khỏe ", kết quả trong phân biệt đối xử hoặc hạn chế trá hình đối
với thương mại quốc tế".
3. Law
- Điều 2, 3 và 5 Hiệp định SPS
- Điều I và III GATT 1994
- Điều 1.5 Hiệp định TBT.
4. Holdings
Thông qua những lí do đưa ra trong báo cáo của mình, Cơ quan phúc thẩm quyết
định:
(a) HĐXX có phân bổ đúng các nghĩa vụ chứng minh trong trường hợp này: Đảo
ngược phán quyết giải thích chung của Ban hội thẩm rằng Hiệp định SPS phân bổ gánh
nặng chứng cứ để các thành viên áp đặt một biện pháp SPS, và cũng đảo ngược kết luận
Trang 6


LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ_

của Ban hội thẩm rằng khi biện pháp của một Thành viên không dựa trên một tiêu chuẩn
quốc tế phù hợp với Điều 3.1, Gánh nặng về thành viên đó để cho thấy rằng biện pháp
SPS của nó là phù hợp với Điều 3.3 của Hiệp định SPS;
(b) HĐXX có áp dụng các tiêu chuẩn thích hợp xem xét dưới Hiệp định SPS: kết
luận rằng Ban Hội thẩm áp dụng các tiêu chuẩn thích hợp xem xét theo Hiệp định SPS;

(c) Nguyên tắc phòng ngừa là có liên quan trong việc giải thích của Hiệp định SPS:
Duy trì kết luận của Ban hội thẩm rằng các nguyên tắc phòng ngừa sẽ không ghi đè lên
các từ ngữ rõ ràng điều 5.1 và 5.2, và rằng các nguyên tắc phòng ngừa đã được đưa vào,
ngoài những điều khác, Điều 5.7 của Hiệp định SPS;
(g) HĐXX có cách chính xác giải thích Điều 3.1 và 3.3 của Hiệp định SPS:
- Đảo ngược kết luận của Ban hội thẩm rằng thuật ngữ "dựa trên" như được sử
dụng trong Điều 3.1 và 3.3 có ý nghĩa tương tự như thuật ngữ "phù hợp" như được sử
dụng trong Điều 3.2 của Hiệp định SPS;
- Đổi lại cách giải thích của Ban hội thẩm của mối quan hệ giữa các Điều 3.1, 3.2
và 3.3 của Hiệp định SPS, và đảo ngược kết luận của Ban hội thẩm rằng các cộng đồng
châu Âu bằng cách duy trì, mà không có sự biện minh theo Điều 3.3, các biện pháp SPS
mà không dựa trên các tiêu chuẩn quốc tế hiện hành , vi phạm Điều 3.1 của Hiệp định
SPS; duy trì kết luận của Ban Hội thẩm rằng một biện pháp, để phù hợp với các yêu cầu
của Điều 3.3, phải tuân thủ các yêu cầu nêu tại Điều 5 của Hiệp định SPS;
(h) Các biện pháp EC có "dựa trên" một đánh giá rủi ro trong phạm vi ý nghĩa của
Điều 5.1 của Hiệp định SPS:
- Sẽ thay đổi cách giải thích của Ban hội thẩm của khái niệm "đánh giá rủi ro"
bằng cách giữ mà không phải Điều 5.1 và 5.2 Phụ lục cũng không A.4 của Hiệp định SPS
yêu cầu một đánh giá rủi ro để thành lập một cường độ định lượng tối thiểu rủi ro, cũng
không làm những điều khoản loại trừ một ưu tiên, từ phạm vi của một đánh giá rủi ro, các
yếu tố mà không dễ bị phân tích định lượng bằng các phương pháp phòng thí nghiệm
thực nghiệm hoặc thử nghiệm thường liên kết với các ngành khoa học vật lý;
- Đảo ngược kết luận của Ban Hội thẩm rằng thuật ngữ "dựa trên" như được sử
dụng trong Điều 5.1 của Hiệp định SPS đòi hỏi một "yêu cầu thủ tục tối thiểu" mà một
Thành viên áp đặt một biện pháp SPS phải nộp bằng chứng cho thấy nó thực sự đã vào tài
khoản của một đánh giá rủi ro khi nó được ban hành hoặc duy trì các biện pháp
Trang 7


LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ_


- Duy trì kết luận của Ban Hội thẩm rằng các biện pháp EC tại vấn đề không phù
hợp với các yêu cầu của Điều 5.1 của Hiệp định SPS, nhưng đổi lại cách giải thích của
Panel bằng cách giữ rằng Điều 5.1, đọc kết hợp với Điều 2.2, đòi hỏi rằng các kết quả của
các đánh giá rủi ro đầy đủ phải bảo đảm các biện pháp SPS bị đe dọa
(i) HĐXX có giải thích một cách chính xác và áp dụng Điều 5.5 của Hiệp định SPS:
Đảo ngược kết quả và kết luận của Ban hội thẩm về Điều 5.5 của Hiệp định SPS
5. Reasonings
(a) HĐXX có phân bổ đúng các nghĩa vụ chứng minh trong trường hợp này:
- Điều 5.8 của Hiệp định SPS không nhằm mục đích để giải quyết gánh nặng của
các vấn đề bằng chứng. Ngược lại, một thành viên tìm kiếm để thực hiện quyền của mình
để nhận được thông tin theo Điều 5.8 sẽ, rất có thể, ở trong một tình trạng trước tranh
chấp.
- Điều 3.3 cung cấp một ngoại lệ đối với các nghĩa vụ chung nêu tại Điều 3.1.
Điều 3.2, lần lượt, xác định rằng các bên khiếu nại có trách nhiệm chứng khắc phục một
giả định về tính nhất quán với Hiệp định SPS trong trường hợp của một biện pháp dựa
trên các tiêu chuẩn quốc tế. Do đó nó cho thấy hàm ý rằng khi một biện pháp là không
nên dựa, gánh nặng là người trả lời cho rằng biện pháp này là hợp lý theo ngoại lệ được
quy định tại Điều 3.3.
- Điều 3.1 của Hiệp định SPS chỉ đơn giản là không bao gồm từ phạm vi của ứng
dụng các loại tình huống nêu tại Điều 3.3 của Hiệp định đó, có nghĩa là, khi một thành
viên đã dự cho mình một mức độ bảo hộ vệ sinh hơn sẽ được thực hiện bằng một biện
pháp dựa trên một quốc tế Tiêu chuẩn. Điều 3.3 thừa nhận quyền tự trị của một Thành
viên thiết lập mức cao hơn như bảo vệ, với điều kiện là thành viên tuân thủ các yêu cầu
nhất định trong việc ban hành các biện pháp SPS để đạt được mức đó.
- Trách nhiệm chứng minh rằng các yêu cầu áp đặt bởi Điều 3.3 nhất quán với
Điều 5, được đáp ứng, để biện minh cho một biện pháp vệ sinh mà lệch khỏi tiêu chuẩn
quốc tế, thuộc về các thành viên áp đặt biện pháp đó. Kể từ khi các biện pháp EC xem
xét, ) không dựa trên hiện các tiêu chuẩn quốc tế và cần phải được biện minh dưới sự
ngoại lệ được quy định tại Điều 3.3, Cộng đồng châu Âu chịu trách nhiệm chứng minh

rằng xác định và áp dụng các mức độ bảo hộ phù hợp với các Điều 5,4-5,6.
(b) HĐXX có áp dụng các tiêu chuẩn thích hợp xem xét dưới Hiệp định SPS:
Trang 8


LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ_

- Điều 11 của DSU mang trực tiếp về vấn đề này và có hiệu lực, nhưng với sự rõ
ràng các tiêu chuẩn thích hợp xem xét cho các tấm đối với cả sự chứng minh về sự kiện
và các đặc tính pháp lý của các sự kiện đó theo các hiệp định có liên quan. Các hoạt động
của họ luôn bị hạn chế bởi sự ủy nhiệm của Điều 11 của DSU: các tiêu chuẩn được áp
dụng không phải là de novo xét như vậy, cũng không phải "tổng nể", mà là "mục tiêu
đánh giá các sự kiện ".
- Cộng đồng châu Âu tự chế không cho rằng Điều 17.6 của Hiệp định Chống bán
phá giá trong toàn bộ của nó đã được áp dụng đối với các trường hợp hiện tại.
(c) Nguyên tắc phòng ngừa là có liên quan trong việc giải thích của Hiệp định SPS:
- nguyên tắc không được viết vào Hiệp định SPS là căn cứ để biện minh cho biện
pháp SPS được nếu không trái với các nghĩa vụ của thành viên đặt ra trong quy định cụ
thể của Hiệp định đó. Thứ hai, nguyên tắc phòng ngừa thực sự tìm thấy sự phản ánh trong
Điều 5.7 của Hiệp định SPS. Thứ ba, một bảng tính với việc xác định tồn tại để đảm bảo
việc duy trì bởi một thành viên của một biện pháp SPS đặc biệt có thể, tất nhiên, và nên
nhớ rằng có trách nhiệm, chính quyền đại diện thường hành động từ những quan điểm
cẩn trọng và đề phòng những rủi ro mà các thể đảo ngược tồn tại để đảm bảo việc duy trì
bởi một thành viên của một biện pháp SPS đặc biệt có thể, tất nhiên, và nên nhớ rằng có
trách nhiệm, chính quyền đại diện thường hành động từ những quan điểm cẩn trọng và đề
phòng những rủi ro mà các thể đảo ngược không có một chỉ thị văn bản rõ ràng về việc
đó, làm giảm một bảng từ các nhiệm vụ của việc áp dụng bình thường
(g) HĐXX có cách chính xác giải thích Điều 3.1 và 3.3 của Hiệp định SPS:
Không thể chấp nhận cách giải thích của Ban hội thẩm rằng Điều 3.2 "tương
đương" biện pháp "dựa trên" tiêu chuẩn quốc tế với các biện pháp mà "phù hợp với" tiêu

chuẩn:
- Ý nghĩa của "Dựa trên" được sử dụng trong Điều 3.1 của Hiệp định SPS:
ý nghĩa thông thường của "dựa trên" là khá khác nhau từ việc nhập khẩu đồng bằng hoặc
tự nhiên của "phù hợp". Một biện pháp mà "phù hợp" và kết hợp một tiêu chuẩn Codex
là, tất nhiên, "dựa trên" tiêu chuẩn đó. Một biện pháp, tuy nhiên, dựa trên cùng một tiêu
chuẩn có thể không phù hợp với tiêu chuẩn, như nơi mà chỉ có một số, không phải tất cả,
các yếu tố của tiêu chuẩn được tích hợp vào các biện pháp. Điều 2.2 sử dụng "dựa trên",
trong khi Điều 2.4 sử dụng "phù hợp". Điều 3.1 đòi hỏi các thành viên phải "cơ sở" các
Trang 9


LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ_

biện pháp SPS của họ trên các tiêu chuẩn quốc tế; Tuy nhiên, Điều 3.2 nói về các biện
pháp mà "phù hợp với" tiêu chuẩn quốc tế. Điều 3.3 một lần nữa đề cập đến các biện
pháp "dựa trên" tiêu chuẩn quốc tế. Hàm ý phát sinh mà việc lựa chọn và sử dụng các từ
khác nhau ở những nơi khác nhau trong Hiệp định SPS là có chủ ý, và rằng các từ khác
nhau được thiết kế để truyền đạt ý nghĩa khác nhau.
- Mối quan hệ giữa các Điều 3.1, 3.2 và 3.3 của Hiệp định SPS: Theo Điều 3.2 của
Hiệp định SPS, một thành viên có thể quyết định ban hành một biện pháp SPS mà phù
hợp với tiêu chuẩn quốc tế. Theo Điều 3.1 của Hiệp định SPS, một thành viên có thể
chọn để thiết lập một biện pháp SPS đó là dựa trên các tiêu chuẩn quốc tế liên quan,
hướng dẫn hay khuyến nghị hiện có. Theo Điều 3.3 của Hiệp định SPS, một thành viên
có thể quyết định thành lập cho mình một mức độ bảo vệ khác nhau từ đó tiềm ẩn trong
các tiêu chuẩn quốc tế, và để thực hiện hay thể hiện rằng mức độ bảo vệ trong một biện
pháp không "dựa trên" sự quốc tế Tiêu chuẩn. Như vậy, , quyền này của một thành viên
để thiết lập mức độ của riêng của nó bảo vệ vệ sinh theo Điều 3.3 của Hiệp định SPS là
một quyền tự trị và không phải là một "ngoại lệ" từ một "nghĩa vụ chung" theo Điều 3.1.
- Yêu cầu của Điều 3.3 của Hiệp định SPS: các biện pháp SPS mà kết quả trong
một mức độ cao hơn của bảo vệ: (a) "nếu có chứng minh khoa học"; hoặc là (b) "như là

một hệ quả của mức độ ... bảo vệ một thành viên xác định là thích hợp phù hợp với các
quy định có liên quan của khoản 1 đến khoản 8 Điều 5". Các yêu cầu của một đánh giá
rủi ro theo Điều 5.1, cũng như các "bằng chứng khoa học đủ" theo Điều 2.2, rất cần thiết
cho việc duy trì sự cân bằng tinh tế và đàm phán một cách cẩn thận trong Hiệp định SPS
giữa chia sẻ, nhưng đôi khi cạnh tranh, lợi ích của việc thúc đẩy thương mại quốc tế và
bảo vệ cuộc sống và sức khỏe của con người.
(h) Các biện pháp EC có "dựa trên" một đánh giá rủi ro trong phạm vi ý nghĩa của
Điều 5.1 của Hiệp định SPS:
- Giải thích từ “đánh giá rủi ro”:
Điều 2.2 thông Điều 5.1: các yếu tố để xác định nghĩa vụ cơ bản được quy định
trong Điều 2.2 ý nghĩa và các Điều 5.1. Thuật ngữ "đánh giá rủi ro" và rằng thuật ngữ
"quản lý rủi ro" không phải là để được tìm thấy hoặc tại Điều 5 hoặc trong bất kỳ điều
khoản khác của Hiệp định SPS Hiệp định. Khoản 4 của Phụ lục A của Hiệp định SPS đưa
Trang 10


LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ_

ra các định nghĩa hiệp ước đánh giá rủi ro, theo đó, Ban Hội thẩm khẳng định đánh giá
rủi ro là một quá trình hai bước "cần (i) xác định các tác động xấu đến sức khỏe con
người (nếu có) phát sinh từ sự hiện diện của các kích thích tố ở vấn đề khi sử dụng như
chất kích thích tăng trưởng trong thịt ..., và (ii) nếu bất kỳ tác dụng phụ như vậy tồn tại,
đánh giá tiềm năng hoặc xác suất xảy ra các hiệu ứng như vậy "; việc sử dụng thuật ngữ
"rủi ro được xác định một cách khoa học" để quy định ngầm rằng một cường độ hoặc
ngưỡng mức độ rủi ro nhất định được chứng minh trong một đánh giá rủi ro nếu một bản
biện pháp SPS dựa là để được coi là phù hợp với Điều 5.1. Đến mức mà Hội đồng có ý
định đòi hỏi một đánh giá rủi ro để thành lập một cường độ tối thiểu rủi ro, chúng ta phải
lưu ý rằng việc áp đặt một yêu cầu định lượng như thấy không có cơ sở trong Hiệp định
SPS.
- Điều 5.2 của Hiệp định SPS cung cấp một dấu hiệu của các yếu tố cần được xem

xét trong việc đánh giá rủi ro. Ban Hội thẩm cho rằng, mục đích của các biện pháp EC
trong tranh chấp, đánh giá rủi ro theo yêu cầu của Điều 5.1 là "một quy trình khoa học
nhằm thiết lập cơ sở khoa học cho các biện pháp vệ sinh một thành viên có ý định làm".
Tuy nhiên, đến mức mà Hội đồng có mục đích để loại trừ khỏi phạm vi của một đánh giá
rủi ro trong tinh thần của Điều 5.1, tất cả các vấn đề không dễ bị phân tích định lượng.
- Giải thích từ "Dựa Trên”
"Yêu cầu về thủ tục tối thiểu" tại Điều 5.1: Cộng đồng châu Âu đã không gặp gánh
nặng của nó chứng minh rằng nó đã thỏa mãn các "yêu cầu thủ tục tối thiểu" nó đã được
tìm thấy trong Điều 5.1, Ban Hội thẩm giữ biện pháp EC như không phù hợp với các yêu
cầu của Điều 5.1. Ở Điều này đã không nhấn mạnh rằng một thành viên đó áp dụng một
biện pháp vệ sinh thì đã thực hiện đánh giá rủi ro của riêng mình. Nó chỉ đòi hỏi rằng các
biện pháp SPS được "dựa trên đánh giá, cho phù hợp với hoàn cảnh ...".
Yêu cầu về nội dung Điều 5.1: phương pháp tiếp cận của Ban hội thẩm xem xét
các kết luận khoa học tiềm ẩn trong các biện pháp SPS được xem xét và kết luận khoa
học được từ một đánh giá rủi ro là một phương pháp hữu ích. Điều 5.1, khi ngữ cảnh đọc
như nó phải được, kết hợp với và như thông báo theo Điều 2.2 của Hiệp định SPS, đòi
hỏi rằng các kết quả của việc đánh giá rủi ro phải đảm bảo đầy đủ - đó là để nói, hỗ trợ
hợp lý - các biện pháp SPS đe dọa. Điều 5.1 không yêu cầu đánh giá rủi ro nhất thiết phải
Trang 11


LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ_

thể hiện chỉ là quan điểm của đa số cộng đồng khoa học có liên quan. quan điểm này của
Tiến sĩ Lucier làm không nhằm mục đích là kết quả của các nghiên cứu khoa học được
thực hiện bởi anh ta hoặc dưới sự giám sát của ông tập trung đặc biệt về dư hormone
trong thịt bò vỗ béo với kích thích tố. Theo đó, có vẻ như các quan điểm khác nhau duy
nhất thể hiện bởi Tiến sĩ Lucier là không hợp lý đủ để lật đổ các kết luận trái đạt được
trong nghiên cứu khoa học quy định của Cộng đồng Châu Âu mà cụ thể liên quan đến dư
lượng hormone trong thịt từ gia súc mà hormon có được dùng để thúc đẩy tăng trưởng.

- Điều 5.2 bang trong việc đánh giá rủi ro, các Thành viên sẽ đưa vào tài khoản,
ngoài "bằng chứng khoa học sẵn có", "quy trình liên quan và phương pháp sản xuất; Hầu
hết, các nghiên cứu khoa học quy định của Cộng đồng Châu Âu, trong sự tôn trọng của
năm hormone liên quan ở đây, kết luận rằng việc sử dụng chúng cho các mục đích thúc
đẩy tăng trưởng là "an toàn", nếu các kích thích tố được quản lý theo các yêu cầu của
thực hành thú y tốt. Trường hợp điều kiện thực hiện các thực hành thú y tốt (mà là nhiều
cùng một điều kiện gắn liền với các tiêu chuẩn, hướng dẫn và khuyến nghị của Codex đối
với việc sử dụng trong năm hormone để thúc đẩy tăng trưởng với) không tuân theo, suy
luận logic là việc sử dụng của kích thích tố đó nhằm mục đích thúc đẩy tăng trưởng có
thể hoặc không thể được "an toàn". cộng đồng châu Âu đã không thực sự tiến hành để
đánh giá, theo nghĩa của Điều 5.1 và 5.2, các rủi ro phát sinh từ sự thất bại của chấp hành
nghề thú y tốt kết hợp với vấn đề kiểm soát việc sử dụng hormone cho mục đích thúc đẩy
tăng trưởng. kết luận cuối cùng của Hội thẩm rằng việc nhập khẩu cấm EC không dựa
trên đánh giá rủi ro trong ý nghĩa của điều 5.1 và 5.2 của Hiệp định SPS và, do đó, không
phù hợp với các yêu cầu của Điều 5.1.
(i) HĐXX có giải thích một cách chính xác và áp dụng Điều 5.5 của Hiệp định SPS:
- Các yếu tố của Điều 5: Điều 5.5 chỉ ra rằng một đơn khiếu nại vi phạm Điều này
phải có sự hiện diện của ba yếu tố khác biệt. Yếu tố đầu tiên là các thành viên áp đặt các
biện pháp khiếu nại đã thông qua mức độ thích hợp riêng của mình bảo vệ vệ sinh chống
lại những rủi ro đến tính mạng hoặc sức khỏe con người trong những tình huống khác
nhau. Yếu tố thứ hai được chỉ ra là những cấp độ bảo vệ hiện sự khác biệt tuỳ tiện ("phân
biệt" trong ngôn ngữ của Điều 5.5) trong điều trị các tình huống khác nhau. Yếu tố cuối

Trang 12


LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ_

cùng đòi hỏi rằng sự khác biệt tuỳ tiện dẫn đến phân biệt đối xử hoặc hạn chế trá hình của
thương mại quốc tế.

- Mức khác nhau của bảo vệ trong các tình huống khác nhau: so sánh của nhiều
cấp độ bảo vệ vệ sinh coi là thích hợp bởi một thành viên là cần thiết nếu cuộc điều tra
của Ban Hội thẩm theo Điều 5.5 là để tiến hành ở tất cả. Các tình huống đó mức độ bảo
vệ khác nhau có thể không, tất nhiên, được so sánh, trừ khi họ có thể so sánh, đó là, trừ
khi họ trình bày một số nguyên tố phổ biến hoặc các yếu tố đủ để khiến chúng có thể so
sánh được. Nếu tình huống được đề nghị kiểm tra là hoàn toàn khác nhau từ người khác,
họ sẽ không hợp lý so sánh và sự khác biệt về mức độ bảo vệ không thể được kiểm tra
cho sự tùy tiện. Mức độ khác nhau của bảo vệ được dự của Cộng đồng Châu Âu:
(i) mức độ bảo vệ đối với các kích thích tố tự nhiên khi sử dụng để thúc đẩy tăng
trưởng;
(ii) mức độ bảo vệ đối với các kích thích tố tự nhiên xảy ra nội sinh trong thịt và
các thực phẩm khác;
(iii) mức độ bảo vệ đối với các kích thích tố tự nhiên khi được sử dụng cho mục
đích điều trị hoặc zootechnical;
(iv) mức độ bảo vệ đối với các kích thích tố tổng hợp (zeranol và trenbolone) khi
được sử dụng để thúc đẩy tăng trưởng; và
(v) mức độ bảo vệ đối với các carbadox và olaquindox.
- Áp đặt hoặc khác biệt vô lý Mức độ bảo vệ: tiến hành để so sánh mức độ bảo vệ,
tuy nhiên Ban Hội thẩm không thực hiện để so sánh mức độ bảo vệ (iii) với mức độ bảo
vệ (i). Các xét thấy sự khác biệt giữa các mức độ bảo vệ "tùy ý" và "vô lý" về cơ bản bởi
vì, theo quan điểm của mình, Cộng đồng châu Âu đã không cung cấp bất kỳ lý do nào
khác hơn sự khác biệt giữa các kích thích tố tăng và kích thích tố tự nhiên trong thịt và
các loại thực phẩm khác có hình thành một phần của chế độ ăn uống của con người trong
nhiều thế kỷ, và đã không gửi bất kỳ bằng chứng cho thấy các nguy cơ liên quan đến nội
tiết tố tự nhiên được sử dụng như chất kích thích tăng trưởng cao hơn so với các nguy cơ
liên quan đến hormone nội sinh. sự phân biệt cơ bản giữa hormone tăng (tổng hợp tự
nhiên hoặc) và kích thích tố tự nhiên xảy ra trong thịt và các thực phẩm khác. Trong sự
tôn trọng của sau này, Cộng đồng châu Âu đơn giản chỉ cần không có hành động pháp lý;
để yêu cầu nó để cấm hoàn toàn việc sản xuất và tiêu thụ các loại thực phẩm như vậy hay
Trang 13



LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ_

để hạn chế dư lượng trong tự nhiên kích thích tố trong thực phẩm, đòi hỏi một sự can
thiệp của chính phủ toàn diện và to lớn đó trong thiên nhiên và trong đời sống bình
thường của người dân để giảm so bản thân để một điều ngớ ngẩn. về sự cân bằng, sự
khác biệt về mức độ bảo vệ liên quan đến nội tiết tố được sử dụng cho các mục đích thúc
đẩy tăng trưởng, một mặt, và hormone liên quan đến sử dụng cho mục đích điều trị và
zootechnical , mặt khác, không phải là, trong chính nó, "tuỳ tiện". Theo một báo cáo của
JECFA, nộp cho Ban hội thẩm của Hoa Kỳ, carbadox là một chất phụ gia thức ăn đó là
chất gây ung thư genotoxic biết đến, đó là, gây ra carbadox và không chỉ đơn thuần là
thúc đẩy ung thư. Các chuyên gia tư vấn cho Hội đồng xác nhận rằng carbadox là
genotoxic trong nhân vật.
- Kết quả là phân biệt đối xử hoặc hạn chế thương mại quốc tế: Điều 5.5, tất cả ba
yếu tố phân biệt ý nghĩa với nhau. Tuy nhiên, để có hiệu lực cho tất cả ba yếu tố nêu tại
Điều 5.5 và đưa ra đầy đủ ý nghĩa để các văn bản và bối cảnh của phần này, chúng tôi
cho rằng cả ba yếu tố cần được phân biệt và giải quyết một cách riêng biệt. Đồng ý với
quan điểm của Ban Hội thẩm rằng "tất cả ba yếu tố [Điều 5.5] cần phải được phân biệt và
giải quyết một cách riêng biệt". Tuy nhiên, mức độ khác nhau, hoặc mức độ của sự khác
biệt, ở các cấp độ bảo vệ, chỉ có một loại yếu tố đó, cùng với những người khác, tích lũy
có thể dẫn đến kết luận rằng phân biệt đối xử hoặc hạn chế trá hình quốc tế thương mại
trong các kết quả thực tế từ việc áp dụng các biện pháp hoặc các biện pháp thể hiện một
hoặc nhiều hơn những mức độ khác nhau

Trang 14




×