CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do – Hạnh phúc
SƠ YẾU LÝ LỊCH
Họ và tên :
Nghiêm Thị Thu Hằng
Ngày tháng năm sinh: 07/4/1967
Năm vào ngành:
1988
Chức vụ :
Giáo viên
Đơn vị cơng tác:
Trường Tiểu học Xn La
Trình độ chuyên môn: Đại học Sư phạm
Khen thưởng:
- Chiến sĩ thi đua cấp cơ sở
- Lao động tiến tiến cấp Quận
- Đề tài SKKN đạt loại C cấp Thành phố
A. PHẦN MỞ ĐẦU:
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Thực hiện lời dạy của Bác Hồ kính u “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì
lợi ích mười năm trồng người”, mỗi giáo viên nói riêng và nền giáo dục ở
Việt Nam nói chung đều chú trọng đến việc giáo dục thế hệ trẻ, những chủ nhân
tương lai của đất nước. Tất cả chúng ta đều xác định việc giáo dục bồi dưỡng thế
hệ trẻ cách mạng cho đời sau là một việc vô cùng quan trọng và cần thiết. Bởi
muốn xây thành công chủ nghĩa xà hội đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa cộng sản
trước hết chúng ta phải có con người mới xã hội chủ nghĩa.
Con người mới xã hội chủ nghĩa là con người phát triển toàn diện hài hòa về
tri thức cũng như phẩm chất đạo đức nhân cách. Cho nên nhiệm vụ trong các
trường Tiểu học là phải giáo dục toàn diện, đào tạo những chủ nhân tương lai,
có trình độ văn hóa cho đất nước. Song chuyên sâu về văn hóa chưa đủ mà phải
song song kết hợp với giáo dục đạo đức cho các em như Bác Hồ nói “ Có tài mà
khơng có đức là người vơ dụng, có đức mà khơng có tài thì làm việc gì cũng
khó”. Do vậy là người học sinh - những chủ nhân tương lai của đất nước phải
ln rèn để có đạo đức, có tài mới mong làm chủ tương lai được. Muốn vậy nhà
trường Tiểu học không được coi nhẹ mặt đạo đức mà quên lãng giáo dục học
sinh về luân thường đạo lý, về đức tính của người Việt Nam biết uống nước nhớ
nguồn, biết tuân theo những chuẩn mực đạo đức của con người. Vấn đề đặt ra
cho các trường Tiểu học phải làm gì, làm như thế nào để thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ giáo dục toàn diện cho học sinh, nhất là trong thời kì đổi mới của đất
nước.Để đáp ứng được nhu cầu giáo dục trong thời kì hiện nay thì cần phải có
sự đổi mới về nội dung chương trình giáo dục nói chung, trong đó việc đổi mới
nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục đạo đức cần được coi trọng vì:
thơng qua giáo dục đạo đức, các nguyên tắc, các chuẩn mực đạo đức thông
thường trong cuộc sống như: biết yêu - ghét, biết đúng - sai, biết chia ngọt sẻ
bùi, biết kính trên nhường dưới, biết say mê tìm tịi sáng tạo, biết kiên trì nhẫn
nại, biết dũng cảm, biết phân biệt thiện - ác, phải - trái, người tốt - kẻ xấu… qua
2
đó người được giáo dục thể hiện thái độ đạo đức đúng đắn và làm theo những
chuẩn mực đạo đức đã được xã hội quy định.
Như chúng ta đã biết, Hồ Chủ Tịch - Một vị lãnh tụ thiên tài, một danh nhân
văn hóa kiệt xuất, Người cịn là tấm gương đạo đức sáng ngời và vĩ đại. Theo
quan điểm của người: đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát triển của con người
như gốc của cây, như ngọn nguồn của sông suối, đạo đức là chỗ dựa của con
người để mà : “thắng không kiêu, bại không lui”. Cả đời Người chiến đấu hy
sinh cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Bao nhiêu bài nói, bài viết của
Người, bao nhiêu câu chuyện kể về Người là những tài sản về văn hóa, về đạo
đức vơ cùng q giá mà Người đã để lại cho đồng bào ta, cho nhân dân ta, cho
đất nước ta trước khi Người nhắm mắt. Mà nay, mỗi khi ta lật lại từng trang,
từng dòng, từng chữ viết của Người hay những chuyện kể về Người, là một lần
ta được soi mình vào tấm gương đạo đức vĩ đại ấy, mà tự thấy rằng: học tập và
làm theo tấm gương đạo đức của Bác là một niềm vinh dự, tự hào và là nhiệm
vụ cao cả đối với mỗi người dân Việt Nam. Đặc biệt là việc giáo dục cho thế hệ
trẻ Việt Nam học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là nhiệm vụ
thiêng liêng đối với mỗi người thầy giáo, cô giáo.
Thực tế trong những năm gần đây, khi đất nước đang chuyển đổi từ nền kinh
tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường, có sự mở cửa giao lưu
văn hóa với các nước trong khu vực và trên toàn thế giới dẫn đến xã hội Việt
Nam phải chịu ảnh hưởng và những tác động không nhỏ của nền kinh tế thị
trường .Sự canh tranh của cơ chế thị trường có mặt tích cực là thúc đẩy sự phát
triển của nền kinh tế, song lại là mảnh đất tốt cho tư tưởng cơ hội, thực dụng vụ
lợi phát triển chủ nghĩa cá nhân ích kỉ, coi đồng tiền là trên hết dẫn đến sự
xuống cấp về đạo đức xã hội từ người lớn đến trẻ em, đến mọi mặt của đời sống
xã hội cụ thể là:
Trong gia đình: một số bố mẹ thiếu gương mẫu, ông bà cha mẹ, chửi mắng
lẫn nhau, một số gia đình cịn bỏ mặc cho nhà trường và xã hội, thậm chí cịn
nng chiều con, đáp ứng mọi nhu cầu của con, phó mặc con cái cho người giúp
việc,... Chính điều đó dẫn đến các em có lối sống ích kỷ hẹp hịi, chỉ biết cho
3
riêng mình và địi hỏi “mọi người vì mình” mà khơng biết “mình vì mọi người”,
các em sống thiếu ý chí, thiếu nghị lực, sống xa rời thực tế.
Trong nhà trường: Học sinh phần lớn là ngoan, biết vâng lời thầy cô giáo,
thực hiện tốt nội quy của nhà trường. Tuy nhiên đánh giá một cách khách quan
mà nói học sinh hiện nay rất nhạy cảm, rất dễ thích ứng với các hiện tượng tiêu
cực ngoài xã hội: hiện tượng nói tục, các hành vi thiếu văn hóa vẫn cịn. Đặc
biệt là học sinh không biết áp dụng kiến thức đã học vào thực tế. Chẳng hạn học
sinh vừa được học bài “ Lễ phép vâng lời thầy cô giáo” nhưng lại chỉ chào thầy
cơ giáo dạy mình.
Hiện tượng thanh thiếu niên hư hỏng, tệ nạn xã hội gia tăng đã và đang là
những điều gây nhức nhối trong xã hội, trong nhân dân và thực sự làm đau lòng
những người làm công tác giáo dục.
Bản thân tôi là một giáo viên trong trường Tiểu học , tôi băn khoăn suy nghĩ
rất nhiều:
Đối tượng học sinh ở đây, khi các em chuyển từ trường mầm non lên trường
tiểu học, tâm hồn trẻ thơ hồn nhiên ngây thơ trong sáng của các em có lẽ nào lại
dễ dàng bị hoen ố như vậy? Có phải chăng một phần nào đó, những người thầy,
người cô, người cha, người mẹ…hay các lực lượng giáo dục nói chung cịn sao
nhãng trong cơng việc giáo dục đạo đức cho trẻ? Một phần nào đó cịn thiếu sự
phối kết hợp chặt chẽ giữa các lực lượng giáo dục, cịn có sự đùn đẩy trách
nhiệm cho nhau, chưa thực sự tạo dựng một môi trường giáo dục trong sạch,
lành mạnh cho các em phát triển toàn diện nhân cách. Tâm hồn trẻ thơ như một
tờ giấy trắng, viết gì, vẽ gì trên trang giấy đó là trách nhiệm của mỗi người thầy,
người cô. Thiết nghĩ, mỗi người thầy cô giáo nếu thực sự yêu nghề mến trẻ, thực
sự hết lịng vì học sinh thân u thì họ sẽ góp phần to lớn vào việc hồn thiện
bức tranh nhân cách tồn diện và hồn mỹ cho trẻ.
Chính vì nhận thức đúng đắn, thấu đáo những điều đã trình bày ở trên. Tôi đã
đi sâu nghiên cứu đề tài “ Một số kinh nghiệm sử dụng các phương pháp giáo
dục đạo đức cho học sinh lớp Một ” góp phần vào công tác giáo dục đạo đức
4
cho học sinh Tiểu học; tạo ra lớp người làm chủ tương lai, những người vừa
hồng vừa chuyên, đáp ứng nhiệm vụ đổi mới của đất nước ta hiện nay.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI:
Với thực trạng hiện nay vấn đề giáo dục đạo đức cho học sinh là rất cần
thiết, là nhiệm vụ cấp bách. Ngoài việc tiếp thu tri thức khoa học, học sinh phải
rèn luyện cho bản thân mình về mặt đạo đức. Có rèn đạo đức cho bản thân tốt
mới có ý thức tiếp thu văn hóa khoa học được.
Vậy tơi nghiên cứu đề tài này nhằm giải quyết các mâu thuẫn và tìm ra
phương pháp giáo dục đạo đức phù hợp với học sinh Tiểu học. Từ đó đề xuất
một số biện pháp tích cực, góp phần rèn luyện đạo đức cho các em. Giúp các
em nâng cao ý thức, tầm hiểu biết của mình trong việc tiếp thu tri thức cũng như
góp phần nâng cao chất lượng giáo dục trong quá trình dạy học nói chung và
trong cơng tác giáo dục đạo đức ở trường Tiểu học nói riêng.
III. PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
Do điều kiện thời gian không cho phép tôi chỉ nghiên cứu trong khn
khổ của khối lớp 1. Trong đó tơi đi sâu tìm hiểu nghiên cứu tại lớp 1A6 trường
Tiểu học Xuân La - Tây Hồ - Hà Nội.
IV. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:
Trong đề tài tôi tập trung nghiên cứu những vấn đề sau :
1. Nghiên cứu cơ sở lý luận của vấn đề.
2. Nghiên cứu thực trạng việc sử dụng các phương pháp giáo dục đạo đức cho
học sinh trường Tiểu học như thế nào ?
3. Thử đề xuất một số phương hướng và biện pháp giáo dục tích cực trong
cơng tác giáo dục đạo đức cho học sinh.
V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Có rất nhiều phương pháp nghiên cứu đối với đề tài này tôi đã sử dụng
những phương pháp nghiên cứu sau:
1. Phương pháp quan sát đối tượng
5
Nhà trường, các giáo viên chủ nhiệm các lớp và các em học sinh trong
trường đã tạo điều kiện cho tôi thăm quan lớp dự giờ để quan sát đối tượng qua
cử chỉ, tư thế, thái độ ở trong lớp cũng như ở ngoài lớp.
2. Phương pháp đàm thoại
Đây là phương pháp rất quan trọng khi áp dụng việc giáo dục đạo đức cho
học sinh. Đó là q trình tiếp xúc giữa người giáo dục với giáo viên chủ nhiệm,
giáo viên bộ môn, cán bộ lớp, học sinh các lớp. Từ đó người giáo dục xúc tiến
tìm ra những giải pháp để hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu giáo dục đạo đức
cho học sinh một cách hiệu quả cao nhất.
3. Phương pháp điều tra nghiên cứu sản phẩm:
Chuẩn bị trước khi tiếp cận đối tượng nghiên cứu, tôi đã tiến hành làm việc
với giáo viên chủ nhiệm các lớp được các đồng chí cho biết tình hình của các em
học sinh trong lớp đều ngoan, có ý thức tu dưỡng đạo đức. Nhưng bên cạnh đó
cịn một số em ở rải rác các lớp chưa ý thức được hành vi đạo đức của mình vẫn
cịn nói tục, chửi bậy, khơng làm bài tập trước khi đến lớp, đi học muộn, khơng
đi dép có quai hậu. Đặc biệt một số em gia đình có hồn cảnh éo le (bố mẹ bỏ
nhau, bố mất chỉ sống với mẹ, gia đình nghèo đơng con) chưa quan tâm đến con,
chưa áp dụng các phương pháp giáo dục đạo đức cho con, phó mặc cho cơ giáo
chủ nhiệm và nhà trường. Qua đó tơi đã nắm bắt được các phương pháp giáo
dục cũng như quá trình tu dưỡng rèn luyện đạo đức của các em khối lớp 1 thông
qua hồ sơ, thông qua giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ mơn để từ đó đưa ra các
phương pháp, hướng điều tra nghiên cứu.
4. Phương pháp tổng kết đối chiếu kinh nghiệm:
Phương pháp này rút ra những bài học kinh nghiệm sau khi tổng hợp,
nghiên cứu thực nghiệm. Trên cơ sở đó đề xuất những ý kiến cần thiết trong
giáo dục đối với giáo viên, học sinh, nhà trường và các cấp quản lý giáo dục.
b. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI:
6
Trong thực tế hiện nay nền kinh tế xã hội có nhiều chuyển biến sâu sắc
tới việc giáo dục đào tạo. Những nhân tố trong quá trình dạy học chịu sự chi
phối của môi trường kinh tế xã hội. Mà ngược lại sản phẩm của giáo dục đạt
được đó chính là những con người có tri thức và có nhân cách phát triển tồn
diện. Đó là những con người có đạo đức, tri thức, kỹ năng, kỹ sảo, có trình độ
khoa học kỹ thuật, năng lực nghề nghiệp. Chính vì vậy giáo dục là một yêu cầu
không thể thiếu trong quá trình giáo dục nhân cách cho học sinh ở mọi cấp học.
Thông qua các hoạt động giáo dục, học sinh được kiểm nghiệm những tri thức
đã học trong sách vở và trên lớp. Giáo dục cịn là mơi trường, là điều kiện để các
em giao lưu, tiếp xúc với nhau trong cuộc sống, với tự nhiên và dần dần hình
thành nên các mối quan hệ xã hội. Qua đó các em tự khẳng định mình với tư
cách là chủ thể tích cực của một xã hội đang phát triển. Đồng thời các em cũng
biết tự đánh giá, tự điều chỉnh hành vi đạo đức của mình theo mục tiêu giáo dục
của nhà trường và của xã hội.
1. Tầm quan trọng của việc giáo dục đạo đức trong trường Tiểu học.
Đạo đức là một lĩnh vực của ý thức xã hội, là một mặt không thể thiếu
của xã hội của con người và là một hình thái chuyên biệt của quan hệ xã hội.
Bởi vì đạo đức là một nội dung cốt yếu của tư cách con người, có vai trị rất
quan trọng trong đời sống xã hội khơng thể có sự tồn tại xã hội mà khơng có đạo
đức. Nhất là trong điều kiện hiện nay, nó đã trở thành vấn đề “ Mang tính tồn
cầu của thời đại là điều kiện quan trọng để bảo vệ sự sống cịn, là tương lai của
lồi người”. Vì thế giáo dục đạo đức cho học sinh là một nhiệm vụ quan trọng,
cấp thiết của quá trình sư phạm của các nhà giáo dục. Đặc biệt ở học sinh Tiểu
học, việc giáo dục ý thức đạo đức nhằm cung cấp cho học sinh những tri thức cơ
bản về các phẩm chất đạo đức, về các chuẩn mực đạo đức. Học sinh phải hiểu và
nhận thấy rằng cần phải làm cho các hành vi của mình phù hợp với tư tưởng
nguyên tắc và chuẩn mực đạo đức của xã hội phù hợp với lợi ích của xã hội.
Niềm tin đạo đức được hình thành vững chắc ở các em sẽ có vai trị định hướng
cho tình cảm hành vi đạo đức. Do vậy việc giáo dục đạo đức có nhiệm vụ hết
7
sức quan trọng nhưng cũng rất khó khăn và tinh tế, bởi vì nó phải tác động đến
thế giới nội tâm, thế giới của những suy tư, cảm xúc bên trong các em.
Giáo dục thái độ tình cảm, đạo đức cho học sinh Tiểu học là bồi dưỡng cho
các em những tình cảm đạo đức, tích cực và bền vững, các phẩm chất ý trí ( thật
thà, dũng cảm, kỷ luật ). Giáo dục đạo đức cho học sinh phải làm sao khơi dậy
cho học sinh những rung động, những cảm xúc đối với hiện thực xung quanh,
phải biết yêu biết ghét rõ ràng và có thái độ đúng đắn đối với các hiện tượng
phức tạp trong đời sống xã hội và tập thể.
Giáo dục đạo đức cho học sinh Tiểu học có quan hệ chặt chẽ với những
yêu cầu đạo đức xã hội được đề ra cho những người công dân trong xã hội nhất
định. Việc giáo dục đạo đức có liên quan chặt chẽ với đặc điểm lứa tuổi học
sinh, Sự phát triển đạo đức của học sinh phụ thuộc vào lứa tuổi tức là phụ thuộc
vào vốn sống và khả năng ý thức được những cơ sở đạo đức của hành động. Cho
nên khi tiến hành công tác giáo dục đạo đức cho học sinh cần chú ý đến hồn
cảnh và đặc điểm cụ thể. Có như vậy việc giáo dục đạo đức mới mong có kết
quả.
2. Phương pháp giáo dục là gì?
Phương pháp giáo dục là cách thức hoạt động gắn bó với nhau giữa người
giáo dục và người được giáo dục nhằm giải quyết các nhiệm vụ giáo dục do xã
hội đặt ra đối với nhà trường.
Phương pháp giáo dục được thể hiện thông qua các biện pháp giáo dục
khác nhau. Chúng gắn bó chặt chẽ với nhau, chuyển hóa và trao đổi lẫn nhau
trong từng tình huống sư phạm cụ thể. Trong một số trường hợp thì phương
pháp giáo dục đóng vai trị là con đường độc lập để giải quyết các nhiệm vụ sư
phạm, nhưng trong một số trường hợp khác thì nó có thể chỉ là biện pháp có
dụng hỗ trợ.
Phương pháp đàm thoại là một trong những phương pháp cơ bản trong
việc giáo dục hình thành ý thức cá nhân. Nhưng nó có thể trở thành biện pháp
được vận dụng trong các phương pháp tập luyện.
8
Đồng thời phương pháp giáo dục có liên quan đến phương tiện giáo dục
đó chính là các hoạt động vui chơi, lao động, công tác xã hội.
3. Phân loại các phương pháp giáo dục:
- Nhóm phương pháp hình thành ý thức cá nhân
- Nhóm các phương pháp tổ chức hoạt động và hình thành những kinh
nghiệm ứng xử xã hội.
- Nhóm các phương pháp kích thích và điều chỉnh hành vi ứng xử xã hội.
a. Nhóm phương pháp hình thành ý thức cá nhân
- Phương pháp đàm thoại
Là phương pháp trao đổi giữa người giáo dục và người được giáo dục về
các chủ thể có liên quan đến chuẩn mực đạo đức, qua đó để giáo dục học sinh
(người được giáo dục). Yêu cầu khi thực hiện các phương pháp đàm thoại là
trong quá trình chuẩn bị đàm thoại; xây dựng hệ thống câu hỏi để kích thích tính
tích cực của người được giáo dục và thông báo cho người được giáo dục chuẩn
bị. Trong quá trình tổ chức đàm thoại, nhà giáo dục cần nêu được chủ đề, mục
tiêu, nội dung và câu hỏi đàm thoại kích thích người được giáo dục rút ra kết
luận và tiến hành tổng kết đánh giá chung. Đối với học sinh tiểu học, khi dùng
phương pháp này nên chú ý chứng minh sự kiện, hiện tượng một cách lý lẽ logic
tức là tại sao nên ứng xử như thế này mà không phải như thế kia. Điều đó sẽ
thuyết phục được học sinh làm theo ý của mình.
- Phương pháp giảng giải:
Là một phương pháp mà trong đó nhà giáo dục dùng lời nói để giải thích,
chứng minh các chuẩn mức xã hội quy định. Phương pháp này nhằm giúp đỡ
cho người được giáo dục hiểu và nằm được ý nghĩa, nội dung và các quy tắc
thực hiện chuẩn mực này. Khi sử dụng phương pháp này phải dùng lời nói rõ
ràng và có lập luận một cách chính xác logic, có thể minh hoạt bằng các tranh
ảnh.
- Phương pháp kể chuyện:
9
Là phương pháp giáo dục trong đó nhà giáo dục dùng lời nói, điệu bộ để
thuật lại một cách sinh động một câu chuyện có ý nghĩa giáo dục. Qua đó hình
thành và phát triển xúc cảm tích cực và niềm tin đúng đắn ở người được giáo
dục. Thành công của phương pháp này là sự phản ánh qua sự sẵn sàng tiếp xúc
và phản ánh tích cực của học sinh đối với nội dung cốt chuyện. Sau khi kể xong
cần tổ chức cho học sinh phân tích đánh giá để rút ra kết luận cần thiết.
- Phương pháp nêu gương
Là phương pháp xây dựng ý thức cho trẻ ( về giáo dục). Thông qua
phương pháp dùng tấm gương sáng, mẫu mực cụ thể cá nhân hoặc tập thể để
kích thích họ học tập làm kèm theo. Đồng thời đưa ra các gương xấu cần phê
phán cho các em thấy được cần nên tránh. Các em luôn coi giáo viên là người có
tư cách đạo đức mẫu mực.Vì vậy người giáo viên cần phải có cử chỉ, giao tiếp
hàng ngày đúng mực để các em noi theo
b. Nhóm các phương pháp tổ chức hoạt động và hình thành kinh
nghiệm ứng xử xã hội
Nhóm phương pháp này nhằm tạo cơ hội cho người được giáo dục chuyển
hóa các kiến thức thành hành vi và thói quen cần thiết và phù hợp chuẩn mực xã
hội.
- Phương pháp giao công việc:
Đây là một phương pháp lôi cuốn người được giáo dục vào các hoạt động
đa dạng với các nhiệm vụ có ý nghĩa xã hội nhất định nhằm giúp họ thể hiện
được kinh nghiệm ứng xử và hình thành các hành vi ứng xử phù hợp với yêu cầu
xã hội. Về hình thức chia làm hai loại:
Yêu cầu trực tiếp và yêu cầu gián tiếp đưa ra công việc và giúp họ tự giác
hoàn thành. Người giáo dục phải kiểm tra đánh giá công khai kết quả của công
việc mà người được giáo dục đã hoàn thành.
- Phương pháp tập luyện:
10
Là phương pháp tổ chức cho người giáo dục thực hiện một cách đều đặn
và có kế hoạch những hành động nhất định biến thành động cơ, thành thói quen
ứng xử của cá nhân. Đây là một trong những phương pháp quan trọng để tập
luyện thói quen hành vi và chế độ giờ giấc nghiêm ngặt để giúp học sinh củng
cố các hoạt động tích cực điều khiển ước muốn của mình tạo ra hệ thống thói
quen tích cực.
- Phương pháp rèn luyện
Là phương pháp tổ chức các hoạt động và cuộc sống cho người được giáo
dục thể hiện ý thức và tình cảm của mình về các chuẩn mực xã hội trong tình
huống khác nhau của cuộc sống. Qua đó củng cố các hành vi ứng xử của họ một
cách phù hợp với các chuẩn mực xã hội.
c. Nhóm phương pháp kích thích hoạt động và điều chỉnh hành vi của học
sinh
Đây là phương pháp nhằm khuyến khích động viên các hành động, hành
vi phù hợp với chuẩn mực xã hội và điều chỉnh uốn nắn các hành vi sai trái đi
ngược với các chuẩn mực xã hội. Nhóm phương pháp này bao gồm hai phương
pháp cơ bản:
- Phương pháp khen thưởng:
Đây là sự hiện thị sự đánh giá tích cực của nhà giáo dục đối với hành vi
ứng xử đúng chuẩn mực của người được giáo dục. Họ tự khẳng định mình, củng
cố niềm tin, từ đó tiếp tục duy trì và phát triển các hành vi tích cực, tránh hành
vi tiêu cực không phù hợp với các chuẩn mực. Khi thực hiện phương pháp này
cần đảm bảo khen thưởng trên cơ sở những hành vi thực tế của người được giáo
dục. Khen thưởng phải đảm bảo tính khách quan, khen thưởng phải đúng lúc
đúng chỗ. Khen thưởng phải đảm bảo thường xuyên, kết hợp với khen thưởng
quá trình. Đảm bảo sự đồng tình của dư luận tập thể và xã hội.
- Phương pháp trách phạt:
11
Trách phạt là phương pháp biểu thị sự phản đối và khơng đồng tình những
hành vi sai trái của người được giáo dục với các chuẩn mực xã hội. Giúp họ từ
bỏ các hành vi đó, nâng cao ý thức tự kiềm chế và không tái phạm trong tương
lai. Đồng thời nhắc nhở những người xung quanh không xâm phạm những hành
vi sai trái. Thực hiện phương pháp này cần đảm bảo tính khách quan, đảm bảo
tính cơng bằng. Việc trách phạt phải làm cho người được giáo dục nhận rõ sai
lầm của mình và chấp nhận hình thức, mức độ trách phạt. Việc trách phạt bảo
đảm tính tơn trọng nhân cách của người bị trách phạt và tin tưởng vào sự tiến bộ
của họ. Việc trách phạt phải được sự đồng tình của dư luận xã hội.
d. Việc lựa chọn và vận dụng các phương pháp giáo dục
Các phương pháp giáo dục rất phong phúc và đa dạng. Mỗi phương pháp
giáo dục nói chung đều có những ưu điểm những mặt mạnh của nó, nhưng đồng
thời nó cũng có các nhược điểm nhất định trong việc hình thành tính chất thái độ
hành vi thói quen ở mỗi cá nhân. Khơng có một phương pháp nào là căn bản mà
chúng ta vẫn phải lựa chọn nội dung phối hợp với các phương pháp khác một
cách hợp lý.
Việc lựa chọn và vận dụng đó cần phải dựa vào mục tiêu, nhiệm vụ và nội
dung giáo dục cụ thể; dựa vào đặc điểm của đối tượng giáo dục và dựa vào đặc
điểm hồn cảnh điều kiện thực tế.
Trong q trình vận dụng các phương pháp giáo dục cần đảm bảo sự
thống nhất giữa hoạt động giáo dục và tự giáo dục; giữa vai trò tổ chức điều
khiển của nhà giáo với vai trị chủ động tích cực, tự giác của người được giáo
dục. Cần phải tránh hai khuynh hướng hoặc quá đề cao vai trò của nhà giáo dục,
coi thường xem nhẹ hoặc phủ nhận vai trò của nhà giáo dục.
II. THỰC TRẠNG VIỆC SỬ DỤNG CÁC PHƯƠNG PHÁP GIÁO
DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH LỚP 1
1. Khái quát tình hình thực tế của trường Tiểu học Xuân La- quận
Tây Hồ - Hà Nội
12
a. Thuận lợi
Trường Tiểu học Xuân La được xây trên một khn viên rộng rãi, đẹp,với
đầy đủ các phịng học trang thiết bị đầy đủ. Nhà trường đã đạt chuẩn Quốc gia
mức độ I và đang phấn đấu đã đạt chuẩn Quốc gia mức độ II. Nhà trường đã đạt
được rất nhiều thành tích xuất sắc trong cơng tác dạy và học. Bởi vậy các bậc
cha mẹ học sinh rất tin tưởng khi gửi gắm con em mình vào nhà trường.
Nhà trường có đội ngũ giáo viên trẻ, năng động và sáng tạo đầy nhiệt
huyết, ham học hỏi. Trong đó có rất nhiều đồng chí đạt giáo viên dạy giỏi cấp
Thành phố, cấp Quốc gia.
Thành phần lãnh đạo nhà trường gồm có: 1 đ/c Hiệu trường, 2 đ/c Hiệu
phó, 1 đ/c Tổng phụ trách. Ngồi ra nhà trường cịn có chi bộ Đảng, cơng đồn,
chi đồn tạo thành một bộ máy hoạt động rất hiệu quả.
Trường ở vị trí thuận lợi về nhiều mặt như vậy cùng với cơ sở vật chất
đầy đủ và đội ngũ giáo viên có trình độ chun mơn, nhiệt tình với nghề nên đã
thu hút được số học sinh đến trường ngày càng đông. Năm học 2004 -2005 nhà
trường mới có 18 lớp thì đến năm 2011 -2012 nhà trường đã có 29 lớp với tổng
số học sinh là 1235 em, được chia thành 5 khối lớp từ khối 1 đến khối 5. Với
đặc điểm học sinh ngoan và sơi nổi, chất lượng duy trì học sinh luôn đạt 100%.
Ban giám hiệu đặc biệt quan tâm, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các hoạt động
của đội. Đồng chí Tổng phụ trách nhiệt tình, sáng tạo trong hoạt động đội. Giáo
viên chủ nhiệm ủng hộ nhiệt tình, các em học sinh hăng hái tham gia.
b.Khó khăn
Song bên cạnh đó cịn rất nhiều khó khăn vì một bộ phận khơng nhỏ là
con em gia đình làm nông nghiệp, buôn bán. Một số phụ huynh học sinh có tầm
hiểu biết hạn chế về chính trị, xã hội, nhiều gia đình phó mặc con em cho nhà
trường. Sân trường cây xanh cịn nhỏ, ít bóng mát, ảnh hưởng đến một số hoạt
động tập thể của nhà trường. Còn thiếu phòng học chức năng cho học sinh.
2. Vài nét về đặc điểm tình hình nhân cách của học sinh tiểu học
13
Đến tuổi thứ sáu các em bước vào lớp 1- đây là bước ngoặt “ vĩ đại” đầu
tiên trong cuộc đời các em. Trước tuổi đi học, các em có thể làm quen với các
thao tác như học tập một cách tự giác hoặc không tự giác ở những mức độ nhất
định nhưng không cơ bản. Nhưng đến trường học các em phải làm quen với một
hoạt động mới – hoạt động học tập. Từ đây các em phải đến trường đúng giờ,
phải tuân thủ theo với tiết học, phải tập trung nghe, chép những điều thầy cô
giảng, ghi nhớ những điều cô dạy..
Học sinh lớp 1 , hệ thần kinh đang phát triện mạnh, bộ óc các em phát
triển về khối lượng, trọng lượng và cấu tạo. Vì thế khả năng kìm hãm ( khả năng
ức chế) của hệ thần kinh cịn yếu, các em rất dễ bị kích thích, dễ bị xúc động, ở
lứa tuổi này, hầu hết các em có tính hưng phấn cao về mặt cảm xúc.
Do hoạt động của hệ thống tín hiệu thứ nhất ở trẻ em lớp 1 tương đối
chiếm ưu thế nên trí nhớ “ trực quan – hình tượng” được phát triển nhanh hơn trí
nhớ “ từ ngữ - logic”. Các trí nhớ và giữ gìn chính xác những sự vật, hiện tượng
cụ thể nhanh hơn và tốt hơn những định nghĩa, những lời giải thích dài dịng. Ở
lớp 1, tri giác của các em thường gắn chặt với hành động, với hoạt động thực
tiễn. Tính cảm xúc thể hiện rõ khi các em tri giác. Vì thế cái trực quan, rực rỡ,
sinh động được các em tri giác tốt hơn, dễ gây ấn tượng tích cực hơn. Những bài
giảng khơ khan, khó hiểu và nặng nề về lý luận khơng những khơng tạo dựng
cho học sinh những cảm xúc tích cực mà còn làm cho các em mệt mỏi, chán
nản, căng thẳng.
Do đặc điểm tâm lý, nhận thức của sinh lớp 1 có những đặc trưng riêng
nên cơng tác giáo dục trẻ, giáo viên Tiểu học cần thiết phải nắm được đặc điểm
tâm lý của các em, giúp các em bước vào “ bước ngoặt ” đầu tiên nhẹ nhàng.
3.Thực trạng về việc sử dụng các phương pháp giáo dục đạo đức cho
học sinh lớp 1 ở trường Tiểu học Xuân La - Tây Hồ - Hà Nội
Qua thực tế tìm hiểu ở nhà trường cho thấy, tình hình các em học sinh
trong trường Xuân La đa số là các em ngoan, chịu khó học tập. Nhưng bên cạnh
đó vẫn còn một số em mắc khuyết điểm nhỏ, vi phạm các nội quy của nhà
14
trường như : đi học muộn, đến lớp không học bài, làm bài tập, vô lễ với các giáo
viên bộ mơn, khơng đeo khăn qng đỏ, đánh nhau, nói tục, ...Trong các năm
học trước, nhà trường đã dùng biện pháp giáo dục như lôi kéo các em vào các
phong trào, các hoạt động tập thể của trường như sinh hoạt đội hàng tuần, thể
dục, thể thao, văn hóa văn nghệ, lao động cơng ích...
Qua quan sát tìm hiểu đối tượng tơi được biết các đồng chí giáo viên chủ
nhiệm cũng như giáo viên bộ môn đã thực hiện một số phương pháp giáo dục
đạo đức khác nhau. Có khi là khuyên bảo, nhắc nhở nhưng chủ yếu bằng hình
thức trách phạt như phê bình trước lớp, hình thức kỷ luật viết bản kiểm điểm cá
nhân, hạ hạnh kiểm, viết giấy gửi về gia đình cho bố mẹ biết. Nhưng nhìn chung
sự chuyển biến rất ít, đơi khi số lần tái phạm vẫn tăng lên, tiếp diễn. Thậm chí có
em cịn tiếp tục vi phạm, và những vi phạm của các em học sinh này đều có ảnh
hưởng rất lớn tới phong trào thi đua của lớp và các phong trào khác. Đồng thời
gây ra nhiều những khó khăn cho việc hoàn thành nhiệm vụ của giáo viên.
Khi trao đổi GVCN các lớp tôi đã nắm bắt được các thầy cô chủ yếu áp
dụng các phương pháp như: Khuyên bảo nhắc nhở, trách phạt và cao hơn là hình
thức kỉ luật. Một số GV chưa tâm huyết với nghề, một số khác cịn trẻ, mới ra
trường. Họ chưa có kinh nghiệm, chưa dành nhiều thời gian quan tâm đến học
sinh. Và việc áp dụng các phương pháp giáo dục đạo đức chủ yếu là phương
pháp thuần túy. Những em học sinh đó gây khó khăn, cản trở và ức chế bực
mình đối với thầy cô giáo, ảnh hưởng rất nhiều đến phong trào đi lên lớp.
Một số gia đình chưa ý thức được việc giáo dục đạo đức cho con em
mình. Họ phó mặc cho nhà trường, cơ giáo, khơng hề có ý thức quan tâm tới
việc giáo dục các em. Nhiều gia đình chỉ lo làm ra kinh tế, khơng hề để ý đến
việc học của con. Họ giao phó cho người giúp việc. Họ chỉ mong làm ra được
nhiều tiền, chăm lo đời sống vật chất của con mà lãng quên đi một điều cũng rất
quan trọng là việc giáo dục đạo đức cho lứa tuổi Tiểu học
Các em thiếu thốn về mọi mặt cả về vật chất lẫn tình cảm, khơng được sự
quan tâm sát sao của cha mẹ mình, hoặc chu cấp về vật chất quá sức nên các em
15
dễ sa đà vào các tệ nạn xã hội. Cha mẹ không quan tâm đến con cái, thái độ thờ
ơ, nhu nhược trước mọi hành vi quậy phá của con, thiếu đi sự chăm lo đến con
cái về tinh thần cũng như vật chất, thiếu kiểm tra đôn đốc việc học tập của trẻ
cũng như không quan tâm đến việc rèn luyện đạo đức cho con trẻ. Gia đình
khơng dùng biện pháp giáo dục, phó thác cho nhà trường, thậm chí biết con cái
hư hỏng mà bất lực khơng định hướng được cho trẻ khi chúng ngồi trên ghế nhà
trường, khơng quản lí trẻ học hành để trẻ tự do lêu lổng giao du với các phần tử
xấu và bản thân bố mẹ cũng không là tấm gương sáng cho con cái. Khi khơng
bằng lịng, họ thường dùng cách đánh, chửi. Như vậy làm trẻ lì lợm bất cần.
Ngày nay trong việc đổi mới của một nền kinh tế theo cơ chế thị trường còn bề
bộn nhiều tệ nạn xã hội phát triển lan tràn tác động đến mọi lứa tuổi. Giáo dục
gia đình cũng khơng tránh khỏi những ảnh hưởng cực kì nguy hiểm đó. Nếu các
bậc cha mẹ lơ là không quan tâm đến việc nuôi dạy con, không biết cách giáo
dục con, lao vào con đường làm ăn kinh tế phi pháp thiếu gương mẫu trong cách
sống, lối sống đem lại những hậu quả khôn lường đối với con cái trong gia đình.
Qua tiếp xúc gần gũi với các em học sinh này, tôi nhận thấy bản chất của
các em khơng xấu. Nhưng do điều kiện hồn cành, hoàn cảnh xã hội đã tạo ra
cho các em bản chất tính khí lì lợm, bất cần, có thái độ coi thường mọi người,
chọc tức giáo viên khi bị nhắc nhở, phê bình. Do từ nhỏ cá em bị bỏ mặc, thiếu
quan tâm giáo dục không được sự quan tâm của bố mẹ, tự do chơi bời với phần
tử xấu. Nên khi đến trường học, các em không bỏ được tính chất đó và khi vi
phạm mắc khuyết điểm, giáo viên nhắc nhở nhiều và có ý thức giáo dục khác
như: trách phạt, kỉ luật, các em vẫn tuân theo và chỉ làm qua loa chống đối cho
xong trách nhiệm chứ khơng có chuyển biến. Nhiều lần như vậy giáo viên cảm
thấy chán nản muốn buông xuôi kệ các em. Điều đó làm ảnh hưởng rất lớn và
khó làm thay đổi phương pháp giáo dục đối với các học sinh này
III .BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
Qua thực tế tiếp xúc với đối tượng học sinh vi phạm đạo đức và qua
nghiên cứu ở nhà trường Tiểu học, chúng ta thấy được việc giáo dục đạo đức
16
cho học sinh là một vấn đề lớn trong chiến lược con người của Đảng. Nó được
tồn xã hội quan tâm và trở thành một vấn đề nóng bỏng bức thiết, rất quan
trọng trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vì mục tiêu dân
giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.
Như vậy việc giáo dục đạo đức cho con người, đặc biệt là lứa tuổi học
sinh Tiểu học là một vấn đề hết sức quan trọng. Nhưng việc giáo dục và tu
dưỡng như thế nào cho phù hợp, sử dụng như thế nào các phương pháp cho đạt
kết quả cao là một vấn đề cần quan tâm. Như Bác Hồ của chúng ta vẫn thường
nói : “ Nhân cách cũng như đạo đức của con người khơng phải tự nhiên mà có.
Mà nó phải trải qua thời gian tu dưỡng và rèn luyện lâu dài . Nó như một q
trình leo núi và người leo núi bao giờ chẳng lâu và vất vả, mất thời gian”. Bác
cũng ví : “ Người đánh mất đạo đức như trượt chân xuống núi... dễ xa ngã và hư
hỏng khơng thể làm những việc lớn”.
Vì vậy việc hồn thành nhân cách cho con người ngay ở những giai đoạn
đầu là rất cần thiết. Muốn giáo dục có hiệu quả cần phải có sự kết hợp giữa gia
đình, nhà trường và xã hội. Nhưng giáo dục là con đường cơ bản nhất ảnh hưởng
đến sự hình thành và phát triển nhân cách, đúng như Bác Hồ nói:
“ Hiền dữ đâu phải là tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên.”
Song việc giáo dục thế nào và sử dụng biện pháp nào để đạt được kết quả
tốt đó là một vấn đề địi hỏi sự nhiệt tình và năng động, sáng tạo của những
người giáo dục ở mức độ cao. Phẩm chất đạo đức là nhân tố quyết định tới sự
phát triển các mặt và thành đạt của mỗi con người. Do vậy căn cứ vào lý luận
và thực tế ở trường Tiểu học Xuân La, tôi mạnh dạn đề xuất một số biện pháp
giáo dục sau:
1. Phân loại đối tượng học sinh
Ngay từ đầu năm học , qua trình theo dõi tơi đã phân lớp thành 3 nhóm đối
tượng
17
− Nhóm 1: Gồm những học sinh tích cực , thực hiện nghiêm túc các nội
quy của nhà trường
− Nhóm 2: Gồm những học sinh khơng có biểu hiện gì xấu, nhưng khơng
thể hiện rõ tính tích cực của mình trong tập thể lớp.
− Nhóm 3: Đó là những học sinh có biểu hiện yếu kém về học tập, tư cách
đạo đức cần phải được quan tâm nhiều nhất.
Sau đây là bảng thống kê số liệu đầu năm:
Sĩ số
49
Nam
27
Nữ
22
Nhóm 1
Nhóm 2
Nhóm 3
SL
%
SL
%
SL
%
20
41
20
41
9
18
2. Phối kết hợp với các lực lượng trong nhà trường
a) Nâng cao chất lượng giảng dạy môn Đạo đức
- Thực hiện nghiêm túc thời gian cho một tiết dạy môn đạo đức từ 30 – 35
phút, phải phân bố thời gian tiết dạy một cách hợp lý, ưu tiên cho phần thực
hành.
- Cần phải quan tâm đến tính thực tế của bài đạo đức, cụ thể : Dạy học đạo
đức phải gắn với thực tế cuộc sống hết sức gần gũi của học sinh nơi cộng đồng,
trong gia đình hay ngay thực tế trong trường, trong lớp.
Sự chuẩn bị chu đáo và triển khai có hiệu quả, đúng lúc, kịp thời các
phương tiện dạy học như sưu tầm tranh ảnh, các bài thơ, bài hát, câu ca dao, tục
ngữ …… cũng đã góp phần rất lớn trong sự thành cơng của tiết học.
Ví dụ: Khi dạy bài “Gọn gàng, sạch sẽ” trước khi vào tiết học giáo
viên có thể hát cho học sinh nghe bài hát: “Rửa mặt như mèo” hoặc bài “Mèo
con ra vại nước”.Sau khi giáo viên cho các em nhận biết “Thế nào là gọn gàng
sạch sẽ” qua các hình ảnh trong bài tập 1. Giáo viên sẽ phải liên hệ thực tế bằng
18
câu hỏi “Em cảm thấy như thế nào khi được mặc bộ quần áo sạch sẽ, gọn gàng,
vì sao?” Trả lời được câu hỏi này học sinh sẽ thấy thật là hạnh phúc khi được
mọi người ngắm nhìn mình và khen ngợi (các em đã hiểu được ích lợi của việc
ăn mặc gọn gàng, sạch sẽ). Từ đó các em sẽ có ý thức ăn mặc sạch sẽ gọn gàng
để làm đẹp cho bản thân và cho xã hội.
Cuối cùng giáo viên có thể khuyến khích học sinh ghi nhớ bằng bài
đồng dao “Xỉa cá mè” ( xỉa cá mè, đè cá chép, chân ai đẹp, đi bán men, chân ai
đen, thì đi rửa” với bài đồng dao này các em sẽ hiểu được khi chưa sạch sẽ ta
có thể tắm, rửa, quần áo chưa sạch ta có thể giặt cho sạch. Bài đồng dao có thể
ghi nhớ để sử dụng thành trò chơi hằng ngày.
b) Phối kết hợp với các giáo viên bộ môn
Tôi đã kết hợp với giáo viên bộ môn, giáo dục đạo đức cho học sinh bằng
các phương pháp lồng ghép vào trong các môn học như : Nhạc, Họa, Mĩ thuật để
bồi dưỡng và phát huy năng khiếu cho học sinh, tạo cho các em có cơ hội hình
thành được ý thức đạo đức. Từ đó giúp được các em có hứng thú học tập và có
được tâm hồn trong sáng, óc sáng tạo. Bước đầu các em đã hình thành tình cảm
đạo đức và định hướng đúng đắn cho hành vi của mình trong cuộc sống. Bên
cạnh đó tơi cịn áp dụng phương pháp giáo dục đạo đức thông qua các hoạt
động: hoạt động văn nghệ, các hoạt động thể dục thể thao, chăm sóc các bồn hoa
, cây cảnh ở trường, các buổi tham quan dã ngoại,…Khi các em được tham gia
vào các hoạt động này các em không những được thực hiện cơng việc, các hành
vi khác nhau mà chính các em được tìm hiểu, được học hỏi thêm, giao lưu với
người khác , mở rộng mối quan hệ với bạn bè , với thầy cô, với mọi người trong
xã hội. Tầm nhìn các em được mở rộng, bản thân các em mạnh bạo hơn, sơi nổi
nhiệt tình hơn.
c) Thường xun chú ý rèn luyện các chuẩn mực đạo đức.
Bên cạnh những biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học
sinh thì biện pháp nâng cao tấm gương đạo đức người thầy là một trong những
biện pháp hữu hiệu nhất. Như bác Phạm Văn Đồng đã từng nói: “ Hơn ai hết,
19
mỗi thầy giáo cô giáo là những tấm gương sáng cho học sinh noi theo”. Thật
đúng vậy, ta nhận thấy rằng mỗi cử chỉ, mỗi hành vi, mỗi phẩm chất đạo đức
của người thầy qua mỗi ngày học, qua mỗi giờ lên lớp hay đứng trước học sinh
là một bài học đạo đức dễ thuộc, dễ nhớ, dễ in đậm vào sự phát triển và hình
thành nhân cách cho trẻ hơn bất cứ một bài học hoặc một triết lý đạo đức nào
khác. Mỗi giáo viên phải thực sự chuẩn mực trong lời ăn tiếng nói, cách ăn mặc
cũng như tác phong cử chỉ trong quan hệ giữa giáo viên với giáo viên, giữa giáo
viên với học sinh, giữa giáo viên với phụ huynh học sinh. Người giáo viên chủ
nhiệm lớp bao giờ cũng là “thần tượng” của học sinh nên tôi rất thận trọng trong
giao tiếp với đồng nghiệp, trong lớp tôi chú ý đến những cử chỉ và lời nói với
học sinh. Tơi ln tâm niệm mình phải là tấm gương sáng cho học sinh noi
Ở trên lớp, trong các tiết học đạo đức, tôi thường xuyên cho học sinh thực
hành các hành vi đạo đức theo chuẩn để hình thành thói quen cho các em.
Trong các tiết chủ nhiệm, tơi ln tạo ra các tình huống có vấn đề (Các vấn
đề đó cần phải sử dụng những hành vi đạo đức đúng mà các em đã học được) để
các em cùng nhau giải quyết, và chọn ra cách ứng xử phù hợp nhằm củng cố
những kiến thức về chuẩn hành vi đạo đức mà các em đã lĩnh hội được thông
qua các bài học và các mối quan hệ xã hội.
Tôi luôn chú trọng việc giáo dục kỹ năng đạo học sinh trong tất cả các môn
học mà các em được học trong các tiết học trên lớp và ngoại khố.
Ví dụ 1: Trong mơn Tự nhiên xã hội có bài “Hoạt động và nghỉ ngơi”- giáo
dục học sinh biết cách đi, đứng, ngồi đúng tư thế, …; chủ đề “gia đình” tơi giáo
dục các em biết quan tâm, giúp đỡ, lễ phép với ông bà cha mẹ, anh chị em…..
Trong các mơn Tốn, Tiếng việt, Nghệ thuật,…tơi giáo dục các em phải có
tính cẩn thận, kiên trì, u thích học tập, giữ gìn vệ sinh trường lớp……
Ngồi ra , tơi cịn phối hợp với TPT đội tổ chức sinh hoạt sao cho học
sinh. Trong buổi sinh hoạt này tơi đã chủ động cho học sinh: đóng vai, múa hát,
đọc thơ, ca dao, tục ngữ ca ngợi về gia đình, trường lớp, thầy cơ, bạn bè……
20
thơng qua đó giúp các em khắc sâu hơn những chuẩn mực đạo đức để tự mình
rèn luyện trở thành người học sinh tốt, chăm ngoan, học giỏi.
3. Xây dựng nề nếp tự quản của học sinh :
Về nề nếp tự quản của học sinh cũng được tôi quan tâm rất nhiều, tôi đã
hướng dẫn các em tự quản trong các giờ truy bài, giờ sinh hoạt dưới cờ, sinh
hoạt tập thể, sinh hoạt sao và các buổi sinh hoạt ngoại khóa. Ngay từ đầu năm,
tơi đã đề ra kế hoạch xây dựng tập thể lớp tự quản:
- Tôi đã lựa chọn một đội ngũ cán bộ lớp có đủ uy tín và có năng lực điều
khiển tập thể lớp. Vì các em là học sinh lớp 1, vừa mới làm quen với môi trường
học tập nên việc lựa chọn đội ngũ cán bộ lớp chủ yếu là do giáo viên chủ nhiệm
bầu ra. Qua tiếp xúc và tìm hiểu, tôi đã bầu ra:
+ 1 lớp trưởng là em: Dương Tú Uyên
+ 1 lớp phó phụ trách học tập là em : Trần Nam Khánh
+ 1 lớp phó phụ trách văn nghệ là em : Vũ Hải Bình
+ 4 tổ trưởng phụ trách các tổ
- Tôi đã tổ chức huấn luyện đội ngũ cán bộ lớp ngay sau khi bầu đội ngũ
này. Trình tự các bước huấn luyện như sau:
+ Tập hợp đội ngũ cán bộ lớp, tổ… nêu rõ mục đich của vai trị, nhiệm vụ
và mối quan cơng tác giữa các cán bộ lớp với nhau.
+ Giao nhiệm vụ cụ thể cho từng loại cán bộ, cán bộ chức năng. Yêu cầu
các em ghi nhớ nhiệm vụ của mình.
+ Lớp trưởng: tổ chức , theo dõi hoạt động tự quản của lớp ( dưới sự chỉ
đạo, hướng dẫn của giáo viên chủ nhiệm).
+ Lớp phó phụ trách học tập: hướng dẫn lớp truy bài, chữa bài cho các bạn.
+ Lớp phó phụ trách văn nghệ: phụ trách văn nghệ của lớp.
21
+ Các tổ trưởng: quản lý tổ viên của mình, nhắc nhở các bạn thực hiện tốt
nội quy của trường, của lớp, kiểm tra sách vở, đồ dùng học tập của các bạn trong
khối.
+ Tổ chức các hoạt động thực tế để học sinh được rèn luyện các kỹ năng tự
quản. Ban đầu tôi thường giúp đỡ các em tiến hành các hoạt động đó. Nhưng
dần dần, tơi giao quyền điều khiển cho đội ngũ cán bộ lớp tổ chức và điều khiển.
Vậy qua các giờ tự quản đó, các em tự ý thức được vai trị làm chủ của
mình, có thể tự điều khiển hoạt động mà khơng cần phụ thuộc vào giáo viên chủ
nhiệm. Qua đó, các em thấy tự tin hơn, mạnh dạn hơn và tính tự chủ độc lập
cũng được nâng cao hơn.
4. Phối kết hợp cùng với lực lượng ngồi nhà trường.
- Tơi đã kết hợp cùng với phụ huynh giáo dục các em có nếp chào hỏi ông
bà, người lớn tuổi, nếp tự học ở nhà, tinh thần tự giác học tập ở nhà và trên
lớp…Bên cạnh đó, tơi đã tổ chức thăm gia đình và bàn bạc với gia đình có biện
pháp giáp dục đồng nhất tạo điều kiện cho các em niềm tin. Tôi đã tin tưởng các
em và giao cho một số công việc phù hợp với bản thân, cho các em tham gia vào
đội ngũ tự quản của lớp. Thông qua các buổi họp phụ huynh, qua sổ liên lạc điện
tử , hàng ngày tôi thông báo với cha mẹ học sinh về tình hình học tập, rèn luyện
đạo đức của các em, để họ nắm được kết hợp cùng nhà trường giáo dục các em
được tốt hơn, đạt được những kết quả cao hơn . Nhưng không phải với phụ
huynh nào chúng ta cũng gặp thuận lợi như vậy. Chúng ta cùng nhìn lại các em
học sinh cá biệt vi phạm về đạo đức. Chúng ta đều nhận thấy ngay một điều là
các em đều có chung một hồn cảnh phức tạp , có em gia đình khá giả, bố lái xe,
mẹ bn bán suốt ngày. Bố thì cuối tuần mới ghé qua nhà một lần. Nếu em vi
phạm thì sẽ bị bố em dùng roi đánh, những trận đòn roi cứ tiếp diễn nếu em còn
mắc lỗi. Do bận làm ăn nên mẹ em không cần biết em cần gì ngồi việc đưa tiền
mỗi khi em xin, em đã dùng tiền đó vào mua quà, mua ảnh, chơi điện tử. Có lần
em đã tâm sự : “ Cơ ơi, nhà con lúc nào cũng vắng người con thường ăn cơm
một mình, ngày thứ bảy, chủ nhật cũng vậy. Cả ngày chỉ chơi điện tử thơi”. Cịn
22
với em Đức, bố đi làm xa, mẹ bận đi làm, em nhà với ơng bà ngoại. Ơng bà rất
chiều cháu, cháu thích điều gì ơng bà cũng cho, lúc nào cũng cho cháu là nhất.
Chính vì vậy đến lớp , khi thấy các bạn có gì mà em thích là em lấy ln, nếu
bạn địi là em có thể chửi, đánh bạn . Nếu có bạn nào trêu em là em gọi ông bà
vào để mắng bạn. Khi gặp trường hợp này , tôi phải gặp gỡ , trao đổi với mẹ em,
ơng bà của em để phân tích , để chỉ ra thấy được những điều không hay nếu như
gia đình q nng chiều con . Từ đó gia đình phối hợp với giáo viên để giáo
dục con.
5. Giáo viên cần có thái độ khen, chê kịp thời
Như ta đã biết ở lứa tuổi này, các em có sự chuyển biến về tâm lý nên các
em hay tự ái, giận dỗi khi bị giáo viên nhắc nhở. Xét về bản chất, các em này
khơng phải là xấu, có thể rèn luyện cải tạo được. Đặc biệt các em đều thích sự
nhẹ nhàng. Sau khi được giáo viên chủ nhiệm khuyên bảo các em tỏ ra hối hận,
xin lỗi giáo viên và khơng có thái độ ương bướng, chọc tức giáo viên nữa. Đặc
biệt người giáo viên không nên quá khắt khe nghiêm ngặt hay quá để ý mặt xấu
mà bỏ qua sự động viên, khuyến khích những mặt mạnh hay việc làm tốt mà các
em có được.
Như các em Nguyễn Quốc Khánh, Nguyễn Nam Khánh của lớp tôi, nhiều
lần tôi đã gọi riêng các em ra và nhắc nhở khuyên bảo. Các em hứa và có sự
chuyển biến rõ rệt. Trong lớp các em chú ý nghe giảng, hăng hái phát biểu xây
dựng bài. Các hoạt động của lớp các em đều tham gia nhiệt tình, sơi nổi. Điều
đáng mừng nhất về sự tiến bộ của em Đặng Trung Hiếu được biểu hiện như sau:
Họ và tên
Ngày
học sinh vi
tháng vi
phạm
phạm
Nội dung kểm
Số
Biện pháp
Mức độ
tra
lần
xử lý
sửa chữa
Kết quả
28/2/2012
Nói tục
1
Nhắc nhở
Tiếp diễn
Hạn chế
1/3/2012
Đi học muộn
1
Kiểm điểm
Tiến bộ
Tiến bộ
6/3/2012
Đánh bạn
1
Kiểm điểm
Tiếp diễn
Hạn chế
9/3/2012
Nói tục
1
Nhắc nhở
Tiến bộ
Tiến bộ
23
Đặng Trung
12/3/2012
Khơng làm bài
1
Nhắc nhở
Tiến bộ
Tiến bộ
15/3/2012
Nói tục
1
Nhắc nhở
Tiến bộ
Tiến bộ
19/3/2012
Không ghi bài
1
Nhắc nhở
Tiến bộ
Tiến bộ
21/3/2012
Không vi phạm 0
Khen
Tiến bộ
Tiến bộ
26/3/2012
Không vi phạm 0
Khen
Tiến bộ
Tiến bộ
30/3/2012
Không vi phạm 0
Khen
Tiến bộ
Tiến bộ
Hiếu
Qua bảng trên cho thấy, em Hiếu thường xuyên vi phạm nội quy của nhà
trường, nói tục , chửi bậy. Khi em được giáo viên nhắc nhở đã có tiến bộ vượt
bậc. Điều đó cho ta thấy các em có xu hướng tiến lên trong học tập và nếu áp
dụng các phương pháp giáo dục thích hợp, các em sẽ có sự chuyển biến rõ nét.
Do vậy là giáo viên chủ nhiệm phải làm sao cho các em hiểu được điều đó và
cách ứng xử sư phạm của một giáo viên là một nghệ thuật giúp cho công tác chủ
nhiệm thành cơng. Qua q trình làm việc tơi đã tìm hiểu và nhận thấy việc áp
dụng các phương pháp giáo dục đó đã đạt hiệu quả cao.
* Tóm lại : Lứa tuổi các em học sinh lớp 1 là lứa tuổi chuyển tiếp từ mẫu
giáo sang học sinh Tiểu học việc giáo dục rất khó và sự lựa chọn các phương
pháp giáo dục sao cho đạt hiệu quả là việc làm khơng đơn giản. Điều đó địi hỏi
nghệ thuật của nhà sư phạm. Các phương pháp thi đua, phương pháp khen
thưởng , trách phạt... lôi cuốn các em tham gia vào các hoạt động xã hội mang
tính chất giáo dục- đó là các phương pháp tích cực cần phải nâng cao hơn để
trong quá trình giáo dục đạo đức ngày một chất lượng ở trường Tiểu học. Người
giáo viên phải biết kết hợp các phương pháp giáo dục một cách nhuần nhuyễn
hợp lý. Như đối với phương pháp giáo dục học sinh chưa có hiệu quả thi phải
chuyển phương pháp khác, khơng nên dập khn một phương pháp nào đó, có
thể là mềm dẻo nhưng có khi phải thật kiên quyết với những em có hành vi
khơng đúng
- Sau đây là bảng thống kê số liệu sau khi đã áp dụng các biện pháp giáo
dục đạo đức trên:
24
Sĩ số
49
Nam
27
Nữ
22
Nhóm 1
SL
31
Nhóm 2
%
63
SL
17
Nhóm 3
%
35
SL
1
%
2
IV. KẾT QUẢ
Qua việc vận dụng các phương pháp giáo dục đạo đức cho học sinh lớp
Một nêu trên , tôi đã thu được hiệu quả cao trong dạy học.
1. Về phía học sinh:
- Học sinh đã có ý thức thực hiện tốt nội quy của nhà trường.
- Nhiều học sinh có tiến bộ rõ rệt về nề nếp cũng như học tập. Số bông hoa
điểm tốt cũng đạt cao hơn so với các lớp khác, khơng cịn hiện tượng học
sinh nói tục , chửi bậy, gây gổ đánh nhau, gây mất đoàn kết lớp học.
25